Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

skkn một sồ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG bồi DƯỠNG GIÁO VIÊN ở tổ bộ môn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.2 KB, 13 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
TRƯỜNG THPT BÌNH SƠN


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“ MỘT SỒ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG BỒI DƯỠNG
GIÁO VIÊN Ở TỔ BỘ MÔN”

Người thực hiện :
HOÀNG THỊ THỦY
Lĩnh vực nghiên cứu :
Quản lý giáo dục
Phương pháp dạy học bộ môn :
Phương pháp giáo dục
Lĩnh vực khác

Có đính kèm :
 Mô hình
 Phần mềm

 Phim ảnh

Năm học: 2012 – 2013






 Hiện vật khác



SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC

I - THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
1. Họ và tên: Hoàng Thị Thủy
2. Ngày tháng năm sinh: 10/11/1980.
3. Nam, nữ: Nữ.
4. Địa chỉ: Tổ 7- khu Bàu Cá - An Phước - Long Thành - Đồng Nai.
5. Điện thoại: 0908 970 875
6. Email:
7. Chức vụ: Phó hiệu trưởng.
8. Đơn vị công tác: Trường THPT Bình Sơn.
II - TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO:
- Học vị (hoặc trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao nhất): Cử nhân.
- Năm nhận bằng: 2004.
- Chuyên ngành Đào tạo: Sư phạm Địa.
III - KINH NGHIỆM KHOA HỌC:
- Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Giảng dạy, quản lý chuyên môn.
- Số năm có kinh nghiệm: 09 năm.
- Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây:
1. Cách sử dụng Át lát trong dạy học địa lý 12
2. Một số giải pháp khi kiểm tra hoạt động sư phạm của giáo viên


SỞ GD&ĐT ĐỒNG NAI
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TRƯỜNG THPT BÌNH SƠN
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

Long Thành, ngày 20 tháng 5 năm 2013

PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Năm học 2012 – 2013
Tên sáng kiến kinh nghiệm : “MỘT SỒ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG BỒI DƯỠNG GIÁO VIÊN Ở TỔ BỘ MÔN ”
Họ và tên tác giả : Hoàng Thị Thủy
Lĩnh vực :
Quản lý giáo dục

Phương pháp giáo dục 

Tổ : Văn phòng
Phương pháp dạy học bộ môn 
Lĩnh vực khác


1. Tính mới :
- Có giải pháp hoàn toàn mới

- Có giải pháp cải tiến, đổi mới từ giải pháp đã có 
2. Hiệu quả :
- Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao

- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng
trong toàn ngành có hiệu quả cao

- Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả cao

- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng tại
đơn vị có hiệu quả cao


3. Khả năng áp dụng :
- Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách :
Tốt 
Khá 
Đạt 
- Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực hiện và
dễ đi vào cuộc sống :
Tốt 
Khá 
Đạt 
- Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt hiệu quả
trong phạm vi rộng :
Tốt 
Khá 
Đạt 
XÁC NHẬN CỦA TỔ CHUYÊN MÔN
(Kí và ghi rõ họ tên)

THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
(Kí, ghi rõ họ tên và đóng dấu)


MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG BỒI DƯỠNG
GIÁO VIÊN Ở CÁC TỔ, NHÓM CHUYÊN MÔN
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
1. Lý do khách quan:
Từ khi thành lập đến nay trong quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng ta luôn
quan tâm, coi trọng lãnh đạo sự nghiệp giáo dục đào tạo và luôn coi “giáo dục là
quốc sách hàng đầu”. Thành tựu của nền giáo dục nước nhà trong mấy chục năm qua
là niềm tự hào của dân tộc ta, là công sức toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Trước yêu cầu mới của đất nước, giáo dục vừa phải gắn chặt với yêu cầu của thực
tiễn đất nước, vừa phù hợp với xu thế tiến hóa của thời đại, xu thế phát triển tiên tiến
thế giới và có trọng trách trong việc tổ chức các hoạt động để đạt được một trong
những mục tiêu cơ bản của cách mạng nước ta là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực
và bồi dưỡng nhân tài.
Trong những năm gần đây giáo dục nước ta đã được nâng lên rõ rệt, chất
lượng của nguồn nhân lực cũng ngày càng đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Thực tế
cho thấy trong nhà trường yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả giáo dục chính
là đội ngũ các thầy cô giáo, mà đội ngũ này lại được biên chế thành các tổ chuyên
môn.
Tổ chuyên môn là một tổ chức trong nhà trường, tập hợp các giáo viên có
cùng chuyên môn giúp họ hành động theo mục tiêu thống nhất. Hoạt động của tổ
chuyên môn là tạo điều kiện cho giáo viên hoàn thành nhiệm vụ của mình trong quá
trình dạy học - giáo dục. Thông qua tổ chuyên môn lãnh đạo nhà trường sẽ nắm
được sâu sát các hoạt động của giáo viên, phát huy cao độ sự thống nhất giữa các
thành viên trong hội đồng sư phạm.
2. Lí do chủ quan:
Trường THPT Bình Sơn hoạt động của các tổ chuyên môn đã được tổ chức từ
khi trường mới được thành lập cho tới nay, hoạt động của các tổ chuyên môn trong
những năm qua đã gặt hái được nhiều thành quả nhất định, chất lượng nguồn nhân
lực ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên một số hoạt động của các tổ còn mang tính
hình thức, hành chính chưa thực sự đi vào chiều sâu.
Một số tổ trưởng chuyên môn còn thụ động, thiếu kinh nghiệm trong việc điều
hành, tổ chức cho nên chưa phát huy hết vai trò, trí tuệ của các thành viên trong tổ.
Như vậy chất lượng giáo viên trong các tổ là điểm mấu chốt để nâng cao chất
lượng chất lượng dạy học. Vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng đội ngũ các nhà
giáo trong các tổ chuyên môn đó chính là lý do tôi chọn đề tài này. Việc bồi dưỡng
giáo viên có rất nhiều hình thức khác nhau từ tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống
cho đến chuyên môn nghiệp vụ... Tuy nhiên ở đề tài này tôi chỉ chỉ giới hạn ở phạm
vi một số giải pháp cơ bản như: tổ chức triển khai các chuyên đề, rèn luyện kỹ năng

sư phạm của giáo viên và tổ chức các tiết dự giờ, thao giảng


II. THỰC TRẠNG BỒI DƯỠNG GIÁO VIÊN CỦA TỔ BỘ MÔN TRƯỚC
KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI.
1. Thuận lợi:
- Là trường công lập, nằm trên địa bàn xã anh hùng nên trường luôn nhận được
sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát của cấp uỷ, chính quyền địa phương và Sở giáo dục đào tạo Đồng Nai trong các hoạt động dạy - học của nhà trường.
- Các văn bản hướng dẫn hoạt động của các tổ chuyên môn được triển khai sớm
đã giúp cho nhà trường có căn cứ pháp lý để xây dựng kế hoạch hoạt động.
- Nhà trường đã được trang bị máy vi tính nối mạng, máy phô tô, máy in… giúp
cho nhà trường trong công tác soạn thảo, phổ biến văn bản, thống kê phục vụ cho
công tác của giáo viên và tổ chuyên môn.
- Trường có đội ngũ giáo viên đủ để phục vụ cho công tác giảng dạy, hầu hết
đạt chuẩn và trên chuẩn. Trong đó, một số giáo viên có chuyên môn và kinh nghiệm
nghề nghiệp khá vững, góp phần lớn vào việc đảm bảo chất lượng học tập của nhà
trường và giúp đỡ cho các giáo viên trẻ mới ra trường. Bên cạnh đó, lực lượng giáo
viên trẻ rất đông, chiếm đa số giáo viên ở trường. Đây là những người năng động,
nhiệt tình, được tiếp xúc với CNTT và phương pháp dạy học mới ngay từ khi còn
học ở trường đại học, sẵn sàng áp dụng những kiến thức được tiếp thu vào công tác.
- So với các trường khác trên địa bàn, chất lượng đầu vào của học sinh nhà
trường là rất thấp nhưng bù lại học sinh ở nông thôn nên phần đông các em rất
ngoan, hiền, lễ phép với thầy cô, đây là một thuận lợi lớn trong công tác giáo dục
học sinh của nhà trường.
2. Khó khăn:
- Trường nằm trên địa bàn kinh tế xã hội còn nhiều khó khăn của huyện Long
Thành nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự nghiệp phát triển chung của nhà trường.
- Đa số giáo viên ở trường đều trẻ, kinh nghiệm công tác chưa nhiều, trong khi
đó những giáo viên có kinh nghiệm dạy học lâu năm, vững chuyên môn lại luôn có
xu hướng muốn chuyển về những nơi gần nhà hoặc những nơi có điều kiện công tác

tốt hơn. Đây là một khó khăn rất lớn đối với công tác quản lý của nhà trường.
- Trường nằm ở vùng sâu nên nhiều giáo viên không muốn gắn bó lâu dài với
trường.
- Đội ngũ giáo viên nhà trường chưa đồng bộ, một số môn thiếu giáo viên (VD:
phụ trách thư viện, thiết bị ), một số môn lại thừa giáo viên (VD: Địa, Sử, Lý) gây
khó khăn cho việc tách, ghép tổ và hoạt động của các tổ chuyên môn.


- Lực lượng giáo viên có năng lực, kinh nghiệm lâu năm còn quá ít, chưa đồng
bộ ở các môn nên việc lựa chọn thủ lĩnh lãnh đạo các tổ gặp rất nhiều khó khăn.
- Cơ sở vật chất của trường được xây dựng kiên cố nhưng vẫn còn thiếu nhiều,
chưa đồng bộ, diện tích hẹp nên chưa đáp ứng được đầy đủ cho các hoạt động dạy,
học của nhà trường.
- Giáo viên trẻ của trường khá đông nhưng hầu hết là giáo viên nữ, lại trong độ
tuổi sinh đẻ và nuôi con nhỏ, bận rộn với công việc gia đình, một số đi thỉnh giảng ở
các trường khác ngoài thị trấn để có thêm thu nhập nên chưa thật sự tâm huyết, gắn
bó, xây dựng tổ chuyên môn.
- Là trường công lập nên kinh phí hạn chế. Vì vậy để có kinh phí cho các hoạt
động chuyên môn như: tổ chức hội thảo, báo cáo chuyên đề, tổ chức các câu lạc
bộ… là không đơn giản.
III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lý luận:
Tổ chuyên môn trong nhà trường THPT là tổ hợp các giáo viên có cùng chuyên
môn về một khoa học nào đó (cũng có thể ghép giáo viên của một số môn thành một
tổ).
Trong tổ chuyên môn, người thay mặt cho hiệu trưởng để triển khai các công việc
ở tổ và chịu trách nhiệm trước hiệu trưởng là tổ trưởng chuyên môn (có thể có một
đến hai tổ phó)
Bồi dưỡng giáo viên là hoạt động học tập, bồi bổ để làm tăng thêm trình độ hiện
có về kiến thức, kỹ năng, thái độ nhằm giúp cán bộ, giáo viên thực hiện đạt kết quả

tốt hơn.
2. Cơ sở thực tiễn:
Tổ chuyên môn trong nhà trường nói chung, ở trường THPT nói riêng có vai trò
và vị trí hết sức quan trọng, thể hiện:
- Giúp hiệu trưởng quản lý kỷ luật lao động, kỷ luật chấp hành quy chế chuyên
môn của giáo viên trong tổ; Tổ trưởng chuyên môn tham mưu cho hiệu trưởng về
hoạt động chuyên môn (và một số hoạt động khác) của tổ.
- Tổ chuyên môn thực hiện giảng dạy - giáo dục theo chương trình của Bộ Giáo
dục và Đào tạo và nhiệm vụ được hiệu trưởng giao đầu năm học thông qua Hội nghị
cán bộ, công chức của nhà trường.
1. Tổ chuyên môn tổ chức các hoạt động nhằm trao đổi về chuyên môn, nghiệp vụ
giảng dạy cho giáo viên trong tổ như: dự giờ, thao giảng, hội giảng giáo viên giỏi,
rút kinh nghiệm tiết dạy, bàn về đổi mới phương pháp giảng dạy, trao đổi về phương
pháp dạy những bài khó, cách giải quyết những tình huống sư phạm… nhằm nâng
chất lượng dạy - học bộ môn. Bên cạnh đó, tổ chuyên môn còn là nơi giải quyết các
vấn đề nảy sinh trong quan hệ giữa các thành viên trong tổ, chia sẻ vui buồn, nơi học
tập kinh nghiệm lẫn nhau thuận lợi nhất.


2.
3. Tổ chuyên môn phối hợp với các bộ phận, đoàn thể trong nhà trường, giáo viên
chủ nhiệm để giáo dục học sinh.
4.
5. Tổ chuyên môn xây dựng chương trình hoạt động của tổ xuyên suốt cả năm học
như thực hiện những nhiệm vụ đã quy định trong điều lệ trường phổ thông; xây
dựng chương trình hoạt động, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập bộ môn của học
sinh; tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi, phụ đạo học sinh yếu kém, tổ chức hoạt động
ngoại khoá cho học sinh...
6.
7. Tổ chức trao đổi sáng kiến kinh nghiệm ở tổ và áp dụng sáng kiến hay vào thực

tiễn, bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn cho giáo viên của tổ.
8.
Kết quả, mức độ hoàn thành nhiệm vụ của nhà trường, nề nếp, kỷ cương, chất
lượng giáo dục của nhà trường phụ thuộc phần lớn vào hoạt động của tổ chuyên
môn.
Số lượng giáo viên trong một tổ chuyên môn phải vừa tầm quản lý của tổ
trưởng, tuỳ theo từng trường, nhưng tốt nhất là từ 6 đến 14 giáo viên/tổ...
Người tổ trưởng là người có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, được giáo viên
trong tổ nhất trí lựa chọn và giới thiệu để hiệu trưởng quyết định cử làm tổ trưởng,
nhằm điều khiển hoạt động của tổ theo mục tiêu phấn đấu của nhà trường.
Tổ trưởng chuyên môn phải biết phát huy dân chủ, tạo sự đoàn kết nhất trí trong
tổ, tạo được không khí thoải mái để các thành viên góp ý cho nhau và cho tổ; giúp tổ
gắn bó chặt chẽ với nhà trường; tổ trưởng là người sẵn sàng góp ý về công tác lãnh
đạo của hiệu trưởng.
3. Cơ sở pháp lý:
Hiện nay việc nâng cao chất lượng bồi dưỡng giáo viên ở các trường học được
quy định ở các văn bản khác nhau, dưới đây là một số văn bản quy định cụ thể:
- Luật Giáo dục năm 2009 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
- Điều lệ trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ
thông có nhiều cấp học năm 2011.
4. Một số giải pháp nâng cao chất lượng bồi dưỡng giáo viên ở tổ bộ môn
4.1. Đặc điểm tình hình nhà trường:
Trường THPT Bình Sơn chính thức đi vào hoạt động từ năm 2003, được tách
ra từ phân hiệu của trường THPT Long Thành. Là một trường thuộc xã vùng sâu,
vùng xa của huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, điều kiện kinh tế xã hội còn rất
nhiều khó khăn.


Hàng năm trường tổ chức xét tuyển học sinh tốt nghiệp THCS trên địa bàn 4
xã vùng sâu của huyện là: Bình Sơn, Bình An, Cẩm Đường và Suối Trầu với số

điểm đầu vào rất thấp, gần như là tuyển hết số đơn nộp vào. Đa số học sinh theo học
ở trường đều là con em các gia đình làm nông nghiệp, điều kiện kinh tế còn rất nhiều
khó khăn, có nhiều em phải đi học xa nhà từ 10-20 cây số. Giao thông không thuận
lợi, mùa nắng thì bụi đường, mùa mưa thì lầy lội. Giáo viên công tác tại trường hầu
hết là giáo viên trẻ, mới ra trường lại ở xa.
Năm học 2012-2013 này trường có 30 lớp với 1198 học sinh, thể hiện:
- Quy mô trường lớp:
STT
1
2
3

(Đơn vị: Hoc sinh)

KHỐI LỚP
10
11
12
TỔNG CỘNG

SỐ LỚP
10
10
10
30

SỐ HỌC SINH
419
395
384

1198

- Về đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên:
STT
1
2

ĐỘI NGŨ
CBQL
N. VIÊN

3
G.VIÊN
TỔNG CỘNG

(Đơn vị: người)

SỐ LƯỢNG

NỮ

TẬP SỰ

DÂN TỘC THIỂU SỐ

3
6
64

2

4

0
0
6

0
0

73

42
48

6

1
1

- Các tổ chuyên môn: Trường có 5 tổ chuyên môn và 1 tổ văn phòng
STT
1
2
3
4
5
6

TỔ
Tổ Toán-Tin

Tổ Hóa-Sinh-C.Nghệ
Tổ Lý-Thể dục-QPAN
Tổ Văn – GDCD
Tổ Sử - Địa – Anh văn
Tổ văn phòng
TỔNG

SỐ LƯỢNG TỔ VIÊN
13
10
14
11
16
9
73

- Tình hình cơ sở vật chất: Trường được xây dựng khá khang trang, sạch đẹp với
diện tích là 1,2 ha, gồm khu hành chính và khu phục vụ dạy - học, cụ thể:
+ Phòng học: có 22 phòng học kiên cố với dãy nhà 1 trệt 3 lầu.
+ Bàn ghế: Bàn ghế học sinh có: 325 bộ (Loại bàn liền ghế 4 chỗ) = 1300 chỗ ngồi


+ Bảng đen trên lớp: Có 25 bảng, loại bảng siêu bền ( ở 22 phòng học, 2 phòng
CNTT, 1 phòng thí nghiệm)
+ Phòng máy vi tính: 1 phòng với 24 máy nối mạng cục bộ
+ Phòng CNTT: 2 phòng được trang bị đầy đủ phục vụ cho việc dạy – học CNTT
+ Phòng thí nghiệm: 3 phòng Lý, Hóa, Sinh
+ Thư viện: 1 phòng, đủ rộng để phục vụ cho việc đọc và mượn sách của học sinh
và giáo viên.
+ Phòng Hội trường: 1 phòng với sức chứa khoảng 400 người.

+ Các phòng khác: 1 phòng y tế, 2 phòng nghỉ cho giáo viên, khu hành chính…vv.
+ Các trang thiết bị khác: Bản đồ, tranh ảnh các loại, ti vi, đầu máy, cassete, âm ly,
micro, tủ lạnh... tạm đủ phục vụ cho việc dạy - học và tổ chức các hoạt động của
trường.
4.2. Một số giải pháp bồi dưỡng giáo viên ở tổ bộ môn
4.2.1. Tổ chức triển khai các chuyên đề:
- Đây là nội dung sinh hoạt thường xuyên và rất cần thiết, các chuyên đề cần tập
trung vào những đề tài như: đổi mới phương pháp giảng dạy, rèn luyện các kỹ năng
bộ môn, dạy các bài khó, ứng dụng CNTT trong dạy học, sử dụng thiết bị dạy học,
làm mới đồ dùng dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá, bồi dưỡng học sinh giỏi, phụ
đạo học sinh yếu, v.v.
- Việc triển khai các chuyên đề cần được thực hiện có kế hoạch, được tổ chức,
được kiểm tra, đánh giá thì mới có chất lượng và hiệu quả tốt. Trong một năm học
cần cơ cấu hợp lý các mảng đề tài, mỗi giáo viên chỉ nên đảm trách một chuyên đề,
phân bổ thời gian phù hợp với điều kiện cụ thể của nhà trường. Sau khi xác định
được các chuyên đề, việc triển khai nên gồm các bước:
Phân công cá nhân chuẩn bị chuyên đề;
Tổ trưởng duyệt bản thảo;
Báo cáo chuyên đề ở tổ, nhóm, các tổ viên góp ý, phản biện;
Cá nhân, nhóm phụ trách hoàn thiện chuyên đề;
Nhân bản cho toàn thể tổ viên áp dụng và lưu hồ sơ để áp dụng nhiều năm.
- Khi trao đổi, thảo luận ở tổ cần làm rõ những vấn đề tế nhị. Chẳng hạn,
chuyên đề về đổi mới phương pháp dạy học cần nhận thức đúng đắn, đầy đủ về dạy


học tích cực. Tránh hiểu sai lầm, thuyết trình là không tích cực, chỉ có tổ chức dạy
học theo nhóm mới là tích cực. Vấn đề là làm sao để học sinh suy nghĩ nhiều hơn,
hành động nhiều hơn, hợp tác nhiều hơn, bày tỏ ý kiến nhiều hơn.
Các chuyên đề về ứng dụng CNTT trong dạy học cần quan tâm đến liều lượng
và hiệu quả: Sử dụng CNTT đến mức độ nào trong bài giảng cụ thể này? Kết hợp

giữa viết bảng và trình chiếu trên màn hình như thế nào để đạt hiệu quả? Điều quan
trọng là, trong mỗi tiết dạy, giáo viên biết lựa chọn phương pháp thích hợp, biết kết
hợp các phương pháp hiện đại với các phương pháp truyền thống tùy thuộc vào từng
bài giảng, không nên lạm dụng phương pháp nào. Giáo viên phải coi trọng các thủ
pháp dẫn dắt học sinh tiếp nhận kiến thức một cách tự nhiên, lôgíc.
4.2.2. Rèn luyện kỹ năng sư phạm của giáo viên
- Nâng cao chất lượng giờ dạy là khát vọng của các giáo viên, tổ chuyên môn
và nhà trường. Điều này được thực hiện qua nhiều biện pháp khác nhau. Kỹ năng sư
phạm của giáo viên có ảnh hưởng lớn đến việc chất lượng giờ dạy. Ở các buổi sinh
hoạt tổ có thể trao đổi, góp ý, giúp nhau sửa chữa những tồi tại, những nhược điểm
như phong cách lên lớp, ngôn ngữ diễn đạt, trình bày bảng của giáo viên, v.v. Hoạt
đông này nhằm hoàn thiện kỹ năng sư phạm của nhiều giáo viên, trong khi góp ý sau
tiết dự giờ, thao giảng thường hướng tới từng cá nhân cụ thể.
- Phong cách lên lớp mà chúng ta mong muốn là chững chạc, tự tin, làm chủ
bài giảng. Chú ý đến giọng nói, cử chỉ đi đứng, động tác tay, ánh mắt, nụ cười, ...
Mọi cái nên vừa phải, trong lớp tránh đi lại quá nhiều, vung tay quá mạnh. Nói
chung, giáo viên cần chú ý đến cả yếu tố phi ngôn ngữ. Tổ chuyên môn nên chọn
giáo viên có tác phong lên lớp tốt làm mẫu để các tổ viên học hỏi và xây dựng cho
mình một phong cách phù hợp.
- Ngôn ngữ (nói và viết) là kênh quan trọng để học sinh lĩnh hội kiến thức.
Những giáo viên dạy tốt, cuốn hút học sinh không chỉ họ có ưu thế về kiến thức và
thủ thuật sư phạm mà họ còn sử dụng lời nói chính xác, với âm lượng vừa phải, rõ
ràng, truyền cảm, có ngữ điệu. Do vậy, trong sinh hoạt tổ chuyên môn, cần làm cho
giáo viên có ý thức rèn luyện kỹ năng sử dụng ngôn ngữ, khi góp ý các giờ dạy cần
chú trọng đến yếu tố này. Làm sao để trên lớp, giáo viên có giọng nói chuẩn, chỉ
dùng từ phổ thông, ít trùng lặp, ít sai sót.
- Ứng dụng CNTT, trình chiếu trong dạy học là cần thiết nhưng không thể thay
thế phấn và bảng. Trình bày bảng cùng với trình chiếu nhờ CNTT là kênh thông tin
chữ viết-hình ảnh quan trọng tới học sinh. Trình bày bảng cẩn thận, đẹp, đúng chính
tả, ngữ pháp, rõ ràng có ảnh hưởng không những đến chữ viết, đến bài làm của học

sinh, mà còn ảnh hưởng tốt hay xấu đến các bệnh về mắt của học sinh. Một số lời
khuyên khi viết bảng là: Chữ viết rõ ràng, đúng chính tả, ngữ pháp, cỡ chữ vừa phải
làm sao để học sinh ở cuối lớp thấy được bình thường; Tên bài, tên tiểu mục nên viết
bằng phấn màu khác để học sinh dễ phân biệt; Không nên viết quá nhiều, chữ quá
dày; Hạn chế viết tắt, xóa bảng nhiều lần.


Trong sinh hoạt chuyên môn, các tổ, nhóm cần lưu ý để giáo viên rèn luyện kỹ
năng trình bày bảng khoa học, chuẩn xác, chữ viết đẹp sẽ góp phần hình thành nhân
cách cho học sinh.
- Ngoài ra, kỹ năng phối hợp linh hoạt các hình thức tổ chức dạy học: cá nhân,
nhóm, lớp; chính khóa và ngoại khóa, tham quan thực tế ...; Tích cực sử dụng thiết
bị, đồ dùng dạy học; Tự làm đồ dùng dạy học; Thống nhất mức độ ứng dụng CNTT
trong từng tiết dạy theo yêu cầu từng bài giảng cũng là các nội dung sinh hoạt tổ,
nhóm nhằm rèn luyện kỹ năng sư phạm của giáo viên.
4.2.3. Tổ chức các tiết dự giờ, thao giảng
- Dự giờ là hoạt động quan trọng đối với việc phát triển chuyên môn của mỗi
giáo viên. Dự giờ sẽ giúp cho giáo viên được dự giờ chủ động, tích cực hơn trong
bài giảng của mình. Dù thế nào đi nữa thì mỗi khi có người đến dự giờ, các giáo viên
đều chuẩn bị bài kĩ hơn, đôi khi còn có sự trao đổi về bài dạy trước khi lên lớp, đây
là một việc làm hết sức có ý nghĩa đối với mỗi giáo viên.
Khi có người đến dự giờ, lớp học cũng diễn ra sôi nổi hơn, ý thức học tập của
học sinh tốt hơn, đây là điều kiện tốt nhất để giáo viên phát huy tính sáng tạo của
học sinh và của chính bản thân mình.
Việc dự giờ còn giúp cho giáo viên đi dự giờ học tập, rút kinh nghiệm từ tiết
dạy của đồng nghiệp, thông qua việc xử lí tình huống của đồng nghiệp, giáo viên sẽ
khắc phục được những thiếu xót trong quá trình giảng dạy... Bởi vậy, ngoài mục
đích đánh giá năng lực của giáo viên thì điều quan trọng là các tổ, nhóm cần tổ chức
tốt việc góp ý, rút kinh nghiệm về phương pháp giảng dạy, về kiến thức, về phong
cách lên lớp, về tổ chức lớp học.

- Các tổ, nhóm chuyên môn cần tăng cường quản lý, định hướng tổ chức dự giờ,
thao giảng coi đây là biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng giờ dạy ...
Tổ chức thao giảng phải có ít nhất 2/3 thành viên của tổ, nhóm tham dự phải có
mục tiêu cụ thể, rút ra được những bài học kinh nghiệm và đặc biệt phải tư vấn và
thúc đẩy giúp giáo viên phát triển chuyên môn, nghiệp vụ.
Dự giờ rồi đánh giá, rút kinh nghiệm giờ dạy là việc làm thường xuyên của tổ
chuyên môn, nếu được tổ chức tốt sẽ xóa bỏ được tình trạng còn có giáo viên chưa
tự giác, tích cực dự giờ đồng nghiệp hoặc tâm lí cho rằng đi dự giờ là kiểm tra tiết
dạy của giáo viên. Cần tránh dự giờ để đối phó nhằm đạt chỉ tiêu số lượng theo quy
định. Nên tăng cường các tiết dạy mẫu và quan tâm dự giờ các tiết ôn tập, trả bài cho
học sinh.
- Khi các tổ, nhóm chuyên môn đánh giá, rút kinh nghiệm các tiết dạy cần phải
thẳng thắn, chân tình với tinh thần giúp nhau cùng tiến bộ, phải đánh giá thực chất,
nêu ra được những điểm mạnh, những hạn chế của người dạy về kiến thức, kỹ năng,
thái độ, về nội dung, phương pháp, phong cách.


Cần phê phán lối dạy đọc chép, dạy chay trong khi có và cần sử dụng đồ dùng
dạy học. Đối với những tiết học mà giáo viên gặp nhiều khó khăn thì cần trao đổi kỹ,
có thể tổ chức cho một giáo viên có kinh nghiệm trong nhóm dạy mẫu tiết đó để
cùng nhau học hỏi.
Các giờ được dự cần được xếp loại và lưu lại ý kiến cũng như kết quả xết loại;
đối với tiết dạy được thanh tra hoặc dùng để xếp loại giáo viên cần lưu cả phiếu
đánh giá giờ dạy.
- Đánh giá giờ dạy phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Chẳng hạn khi phân
tích khía cạnh rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức của học sinh, các giáo viên phải
lưu ý đến đặc điểm môn học. Đối với các môn khoa học xã hội, giáo viên thấy hạn
chế của nhiều học sinh trong viết và trình bày bài; bài viết thường dài dòng, không
rõ ý, chữ viết xấu, viết sai ngữ pháp, trình bày cẩu thả. Do vậy, phải rèn luyện kỹ
năng viết bài, vận dụng kiến thức đã học vào bài viết của mỗi em là rất quan trọng.

Trong dạy học cần chấm dứt tình trạng đọc chép, cần hạn chế việc ghi nhớ máy móc,
ghi nhớ nhiều số liệu, nhiều sự kiện; trong các tiết ôn tập chú ý rèn luyện hành văn;
chấm trả bài cần kỹ hơn, chỉ lỗi cụ thể từng em để giúp các em sửa chữa. Đối với các
môn khoa học tự nhiên thì lại chú trọng đến việc giúp học sinh vận dụng kiến thức
vào giải các bài tập ở các cấp độ khác nhau tùy theo yêu cầu. Các tiết luyện tập, ôn
tập phải phân loại được hệ thống các các bài tập theo dạng phù hợp. Mỗi dạng bài
tập cần chỉ ra định hướng và các bước giải.
IV. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
Để tuyên truyền, vận động làm sao để mọi thành viên trong nhà trường mà cụ
thể là giáo viên trong các tổ, nhóm chuyên môn nhận thức được tầm quan trọng của
việc bồi dưỡng chuyên môn, đây là khâu không thể thiếu trong việc tổ chức các hoạt
động của nhà trường. Tổ chuyên môn có hoạt động nghiêm túc, hiệu quả thì chất
lượng giảng dạy của giáo viên mới được cải thiện và chất lượng giáo dục của nhà
trường mới được nâng lên.
Việc bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo không thể làm ngay
trong một sớm, một chiều mà đây là việc làm lâu dài và khó khăn đỏi hỏi rất cao về
ý thức tự giác học hỏi của mỗi cá nhân giáo viên.
Qua việc tổ chức thực hiện bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo
của các tổ bộ môn trường THPT Bình Sơn chắc chắn còn nhiều điểm hạn chế cần
khắc phục, điều chỉnh để chất lượng giáo dục ngày càng tốt hơn, góp phần xây dựng
nhà trường ngày càng phát triển vững chắc.
Dưới đây là một vài khuyến nghị đối với nhà trường để công tác bồi dưỡng
giáo viên ngày càng đạt hiệu quả cao hơn:


- Hoạt động bồi dưỡng giáo viên phải luôn là việc làm thường xuyên và quan
trọng hàng đầu ở nhà trường nói chung và ở các tổ, nhóm chuyên môn nói riêng.
- Lãnh đạo nhà trường cần phải thường xuyên giám sát, kiểm tra định kỳ hoặc
đột xuất việc tổ chức bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn cho giáo viên của
các tổ bộ môn.

- Cần thực hiện nhiều biện pháp, giải pháp một cách đồng bộ.
- Phải có sự điều chỉnh kế hoạch, phương pháp vận dụng, cơ chế kiểm tra để
việc thực hiện nâng cao chất lượng giáo dục.
- Có sự hỗ trợ về kinh phí kịp thời cho các tổ, nhóm chuyên môn khi tổ chức
các hoạt động.
NGƯỜI THỰC HIỆN

Hoàng Thị Thủy



×