Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

truyền thuyết về voi ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (811.29 KB, 117 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Lê Na

TRUYỀN THUYẾT VỀ VOI Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Lê Na

TRUYỀN THUYẾT VỀ VOI Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số

: 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HỒ QUỐC HÙNG

Thành phố Hồ Chí Minh – 2014



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan công trình khoa học này là của riêng tôi. Các kết quả
đưa ra trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong bất kì công trình
nghiên cứu nào.
Tác giả luận văn

Lê Na


LỜI CẢM ƠN
Để có được những thành quả như ngày hôm nay, tôi xin gửi lời cảm
ơn chân thành nhất đến những người đã giúp đỡ tôi trong suốt thời gian
qua.
Đặc biệt, để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, tôi đã nhận được sự
chỉ bảo tận tình, chu đáo từ phía giảng viên, TS. Hồ Quốc Hùng. Thầy đã
giúp tôi lựa chọn đề tài, định hướng, hướng dẫn cách trình bày, giải quyết
vấn đề.
Bên cạnh đó, tôi xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô khoa Ngữ Văn
trường Đại học Sư Phạm Tp.Hồ Chí Minh, những người đã nhiệt tình giảng
dạy để tôi hoàn thành tốt khóa học và luận văn tốt nghiệp.
Ngoài ra, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến Ban giám hiệu nhà trường,
phòng Sau Đại học đã tạo những điều kiện tốt nhất cho học viên cao học
trong suốt thời gian học tập tại trường.
Tp. Hồ Chí Minh, năm 2014

Lê Na


MỤC LỤC

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
Chương 1. VOI TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CON NGƯỜI ................... 5
1.1. Voi trong văn hóa thế giới .......................................................................... 5
1.2. Voi trong văn hóa Đông Nam Á ............................................................... 12
1.3. Voi trong văn hóa Việt Nam ..................................................................... 16
Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 24
Chương 2. THỐNG KÊ, PHÂN LOẠI TRUYỀN THUYẾT VỀ VOI
Ở VIỆT NAM ................................................................................ 25
2.1. Tình hình tư liệu ........................................................................................ 25
2.1.1. Đánh giá tình hình tư liệu ................................................................... 25
2.1.2. Kết quả thống kê ................................................................................. 26
2.1.3. Vấn đề dị bản ...................................................................................... 28
2.2. Phân loại .................................................................................................... 31
2.2.1. Nhóm truyền thuyết về địa danh gắn liền với Voi.............................. 32
2.2.2. Nhóm truyền thuyết về Voi chiến ....................................................... 36
2.2.3. Nhóm truyền thuyết về Voi trong lao động sản xuất.......................... 41
Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 44
Chương 3. ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO CỐT TRUYỆN TRUYỀN
THUYẾT VỀ VOI Ở VIỆT NAM ............................................... 45
3.1. Cốt truyện các nhóm truyền thuyết ở Việt Nam ....................................... 45
3.1.1. Nhóm truyền thuyết về địa danh gắn liền với Voi.............................. 45
3.1.2. Nhóm truyền thuyết về Voi chiến ....................................................... 48
3.1.3. Nhóm truyền thuyết Voi trong lao động sản xuất .............................. 52


3.2. Các kiểu nhân vật Voi ............................................................................... 55

3.2.1. Kiểu nhân vật Voi trung thành với chủ............................................... 55
3.2.2. Kiểu nhân vật Voi phản chủ ............................................................... 62
3.2.3. Kiểu nhân vật Voi kiêu ngạo .............................................................. 65
3.2.4. Kiểu nhân vật Voi tình nghĩa .............................................................. 66
3.3. Các mô típ tiêu biểu .................................................................................. 68
3.3.1. Mô típ đàn Voi .................................................................................... 70
3.3.2. Mô típ Voi trắng một ngà ................................................................... 71
3.3.3. Mô típ Voi hướng đầu về núi .............................................................. 74
3.3.4. Mô típ Voi khóc .................................................................................. 76
3.3.4. Mô típ Voi hóa đá ............................................................................... 79
Tiểu kết chương 3................................................................................................ 80
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 81
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 83
PHỤ LỤC


1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Từ xa xưa, chúng ta đã nghe nói rất nhiều về Voi. Con Voi là đối tượng
miêu tả trong nhiều nền văn hóa khác nhau trong thần thoại và là biểu tượng đặc
biệt ở châu Á và châu Phi. Kể từ thời kì đồ đá, Voi đã được khắc họa bởi bức
tranh khắc đá cổ trong hang động nghệ thuật. Theo thời gian, chúng được mô tả
trong nghệ thuật dưới những hình thức khác nhau. Voi đã thuần hóa là con vật
nuôi có ích và rất thân thiện với con người. Từ hàng nghìn năm nay Voi đã được
thuần hóa để làm những công việc như: kéo gỗ, kéo cày và để biểu diễn trong
các lễ hội. Người châu Á cũng dùng Voi làm loài vật chiến đấu như: Ấn Độ,
Thái Lan, Lào, Việt Nam…Người Việt từ lâu đã biết sử dụng Voi để phục vụ
cho đời sống, đặc biệt là trong quân sự. Từ người Việt, Chăm, Khơ - me cho đến

các tộc người ở Tây Nguyên đều có nhiều huyền thoại, truyện cổ về loài Voi.
Voi là biểu tượng của sức mạnh, của quyền uy và của sự chiến thắng. Voi có
mặt trên mọi miền của mảnh đất hình chữ S. Đặc biệt, ở vùng đất Tây Nguyên,
chú Voi là hình ảnh quen thuộc gắn bó mật thiết với cuộc sống, lao động và văn
hóa của con người nơi đây. Nó có một vị trí rất quan trọng. Những trang sử hào
hùng của dân tộc với Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Lợi….đều có sự góp sức của
những chú Voi dũng mạnh. Voi tuy hung dữ nhưng lại có rất nhiều lợi ích nên
nó được mọi người yêu mến. Vì vậy, trong dân gian đã lưu truyền rất nhiều câu
chuyện về Voi. Đặc biệt trong thể loại truyền thuyết. Hình ảnh những chú Voi
chiến dũng mãnh, trung thành xuất hiện trong các cuộc khởi nghĩa đã để lại
nhiều ấn tượng trong lòng người đọc. Với đề tài này, chúng tôi muốn khảo sát
những truyền thuyết về Voi ở Việt Nam để từ đó có cái nhìn toàn vẹn và đầy đủ
hơn về loài vật này cũng như vị trí, vai trò của Voi trong đời sống tinh thần của
người Việt.


2

2. Lịch sử vấn đề
Trong cuốn “Hành trình vào thế giới folklore Việt Nam”, tác giả Vũ Ngọc
Khánh đã đề cập đến hình tượng Voi chiến trong các triều đại phong kiến. Từ
những con Voi chiến từ thời Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo đến con Voi
già của vua Hàm Nghi ở thời Cần Vương, rồi những chú Voi được phong hàm
trong quân đội vào thời chống Pháp và chống Mĩ. Tất cả đều oai phong và có
những hành động đẹp. Tác giả cũng đề cập đến việc thuần hóa, huấn luyện và sử
dụng Voi. Tuy nhiên, công trình chỉ trình bày một cách sơ lược chứ chưa đi sâu
vào tìm hiểu hình tượng con Voi. Vì vậy, chúng tôi mạnh dạn đi tìm hiểu và
khám phá những đặc trưng của truyền thuyết về Voi ở Việt Nam để qua đó thấy
được những sự tích, sự gắn bó của Voi với con người Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong kho tàng truyện kể dân gian Việt Nam thì Voi xuất hiện khá nhiều.
Có truyện xoay quanh loài Voi nhưng có truyện Voi chỉ xuất hiện như một tình
tiết. Tuy nhiên, trong đề tài này chúng tôi chỉ tập trung khảo sát những truyền
thuyết về Voi ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi tiến hành khảo sát những truyền thuyết
trong các tuyển tập đã xuất bản thời xưa và nay. Ngoài ra, đề tài còn tham khảo
thêm những tài liệu về đời sống tâm linh có liên quan đến thể loại truyền thuyết
về loài Voi. Để đảm bảo dung lượng của một luận văn thạc sĩ, chúng tôi tập
trung vào hệ thống Voi trong truyền thuyết người Việt (Kinh). Tuy vậy, một số
truyền thuyết của dân tộc ít người có tương tác về mặt văn hóa với người Việt
nếu thấy đề cập đến Voi cũng được chúng tôi khảo sát.


3

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Với đề tài này chúng tôi muốn khảo sát những truyền thuyết về Voi trong
hệ thống truyền thuyết của Việt Nam để thấy rõ được kết cấu, tổ chức cốt truyện
để từ đó có thể hiểu thêm về truyện loài vật dưới góc nhìn thể loại.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp thống kê, miêu tả
- Sử dụng số liệu thống kê làm cơ sở phát hiện sự tồn tại của loài Voi
trong hệ thống truyền thuyết Việt Nam.
- Miêu tả kết cấu, đặc điểm nội dung từng mảng, nhóm của truyền thuyết
về Voi ở Việt Nam.
5.2. Phương pháp loại hình lịch sử
Phương pháp này giúp chúng tôi khảo sát từng văn bản truyền thuyết và
cả hệ thống truyền thuyết dân gian về Voi. Đặt tác phẩm trong bối cảnh lịch sử xã hội để thấy được biểu hiện và vị trí của nó qua các thời đại.

5.3. Phương pháp cấu trúc
Phương pháp này giúp chúng tôi chú trọng phân tích kết cấu tác phẩm
dưới góc độ cốt truyện, kiểu nhân vật Voi và các mô típ tiêu biểu.
5.4. Phương pháp nghiên cứu liên ngành
Phương pháp này được sử dụng để nghiên cứu các tác động của văn hóa,
lịch sử, đặc biệt là ngành dân tộc học vào các thành tố của truyền thuyết để tạo
cơ sở cho việc lí giải những vấn đề đặt ra trong đề tài.
5.5. Phương pháp phân tích
Phương pháp này được sử dụng để mổ xẻ, tìm hiểu rõ về tính cách, biểu
hiện của hành động và vai trò của Voi trong mỗi nhóm tác phẩm.
5.6. Phương pháp tổng hợp
Phương pháp này sẽ giúp chúng tôi hệ thống lại toàn bộ các tư liệu đã tìm
kiếm được một cách lô gic và khoa học để thuận lợi cho việc nghiên cứu.


4

6. Đóng góp mới của luận văn
- Tìm hiểu tính phổ quát của Voi trong thể loại truyền thuyết .
- Hệ thống, phân loại và mô tả kết cấu nhóm truyền thuyết về Voi ở
Việt Nam.
- Tìm hiểu mối quan hệ giữa truyền thuyết về Voi với đời sống tinh thần
người Việt.
7. Bố cục của luận văn
Luận văn gồm 3 phần
Phần mở đầu
Phần nội dung: Gồm có 3 chương
Chương 1. Voi trong đời sống văn hóa con người
Trong chương này, chúng tôi nêu lên những tiền đề cơ bản về xã hội, thời đại
lịch sử để nghiên cứu Voi trong truyền thuyết cũng như nghiên cứu mối quan hệ

giữa Voi với đời sống, văn hóa , tinh thần trên thế giới, ở khu vực Đông Nam Á
và ở Việt Nam.
Chương 2. Thống kê, phân loại truyền thuyết về Voi ở Việt Nam
Chương này có nhiệm vụ thống kê, phân loại Voi trong truyền thuyết Việt
Nam. Để thực hiện chương này, chúng tôi tiến hành khảo sát các nguồn tư liệu
có liên quan và đánh giá tình hình của chúng để có được kết quả thống kê một
cách khách quan. Vấn đề dị bản cũng được chúng tôi đưa ra như một đối chứng
cần thiết cho việc thống kê, phân loại. Từ đó, luận văn sẽ tổng hợp, khái quát,
phân loại, mã hóa những tiểu loại truyền thuyết.
Chương 3. Đặc điểm cấu tạo cốt truyện truyền thuyết về Voi ở Việt Nam
Trong chương này, chúng tôi tiến hành mô tả và phân tích cấu tạo truyền
thuyết về Voi dựa trên các tiêu chí: cốt truyện, kiểu nhân vật và một số mô típ.
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


5

Chương 1. VOI TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CON NGƯỜI
1.1. Voi trong văn hóa thế giới
Từ xa xưa, Voi đã có một vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của con
người. Mỗi một nơi đều có cái nhìn và các đánh giá khác nhau về loài Voi.
Trong “Từ điển văn hóa thế giới” của Jean Chevalier, Alain Gheer brant (Nxb
Đà Nẵng, Trường Viết Văn Nguyễn Du, 2002), giới thuyết về Voi như sau:
Nếu đối với các nước phương Tây, con Voi là hình ảnh sống động của sự
nặng nề và vụng về thì người Châu Á lại nhìn nhận con Voi một cách khác
hẳn. Con Voi là vật cưỡi của các vua chúa và trước hết là của thiên vương
Indra. Như vậy, Voi tượng trưng cho uy quyền đế vương. Voi còn là tên gọi
của thần Civa khi nói về những chức năng tối thượng của thần đó. Tác

động của vương quyền khi ổn định là mang lại hòa bình, thịnh vượng, uy
quyền của Voi(mâtangi) là ban cho những ai cầu khấn nó có được tất cả
những gì họ mong muốn. Tại nhiều khu vực, nhất là tại các khu vực có gió
mùa, sự ban ơn đó là mưa, là phước lành Trời cho.
Voi còn là biểu tượng , không phải sự nặng nề mà là sự ổn định của tính
cách bất di bất dịch. Trong Yoga, Voi thuộc luân xa 1(Chakramuladhara),
tương ứng với nguyên tố đất và với màu đất son. Voi còn đi cùng Đức Bồ
Tát bất biến (Boddhisattva Akshobhya). Trong một số biểu tượng vũ
trụ(mandala) của giáo phái Mật tông, ta thấy Voi chầu ở các cổng hướng
ra bốn phương; ở Ăngkor, ở miền Đông Mebon và nhất là ở Băng Cốc, Voi
cũng được đặt ở những vị trí như vậy. Điều đó biểu thị quyền thống trị của
trung tâm vương quyền đối với mọi phương trên thế gian. Cùng với những
biểu tượng khác, Voi được ở gần thần Vishnu, chúa tể của ba thế giới,
chứng tỏ con vật này có quyền tối thượng trên thế gian.
Voi còn gợi lên hình ảnh thần Ganesha, biểu tượng của tri thức. Phần thân
của thần này còn là tiểu vũ trụ, là sự biểu hiện, nhưng cái đầu Voi của thần


6

đã là đại vũ trụ, là cái không hiển hiện. Theo cách giải thích này thì Voi
chính là sự khởi đầu và sự kết thúc; vừa có thể hiểu là quá trình phát triển
của thế giới hình tượng bắt đầu từ âm tiết “om”(tức là cái không hiển
hiện), và vừa có thể hiểu là sự đắc đạo của người luyện Yoga. Ga-ja, con
Voi, là alpha mà cũng là omega.

Trong các hình thức của đạo Phật cũng rất hay dùng biểu tượng con Voi:
Hoàng hậu Maya thụ thai từ một con Voi, sinh ra Đức Phật. Ở đây, Voi đóng vai
trò của một thiên thần, ta có thể ngỡ ngàng về điều này nếu như ta chưa biết
rằng Voi là công cụ của hành động và của việc ban phước lành của Trời. Đôi

khi, Voi cũng được thể hiện đứng một mình để biểu thị sự “đầu thai” đức Phật.
Khi Voi đứng trên một trụ cột thì đó là hình ảnh của sự giác ngộ, nó đưa trở về
biểu tượng tri thức, hiện thân bằng Ganesha. Cuối cùng, Voi là vật cưỡi của Bồ
Tát Samantabhadra, với một ý nghĩa rất gần, nhằm diễn đạt một cách không kém
mạnh mẽ uy lực của tri thức. Cũng như con bò đực, con rùa con cá sấu và một
số con vật khác ở Ấn Độ và Tây Tạng; Voi còn là con vật cõng thế giới; vũ trụ
nằm trên lưng con Voi với tư cách là con vật cõng vũ trụ; Voi hiện hình thành
cột tượng của rất nhiều đền đài. Voi được coi là con vật vũ trụ vì nó có cấu trúc
của vũ trụ: bốn cây cột chống đỡ một khối cầu. Voi được xem là con vật cõng
thế giới, cả vũ trụ nằm trên lưng con Voi . Voi còn là hiện hình thành cột tượng
của rất nhiều đền đài. Voi được coi là con vật vũ trụ vì nó có cấu trúc của vũ trụ:
bốn cây cột chống đỡ một khối cầu.
Ở Châu Phi, theo tín ngưỡng của bộ tộc Baoule, Voi tượng trưng cho sức
mạnh, sự thịnh vượng, tuổi thọ và đạo lí. Bộ tộc Ekoi lại coi Voi là biểu tượng
của bạo lực và xấu xí.
Ở cấp độ ẩn dụ, nếu chỉ xét thân hình đồ sộ của nó thì Voi là biểu hiện của
uy quyền vua chúa, với bản tính đa nghi và cảnh giác; Voi gợi lên hình ảnh một
ông Vua biết tránh những sự dại dột, bất cẩn và nếu ta tin lời Phine và Elien thì
Voi thể hiện lòng sùng đạo: “Khi trăng thượng tuần mới mọc, theo lời người ta


7

kể cho tôi nghe thì đàn Voi, không rõ là do một trí khôn tự nhiên hay huyền bí
nào liền mang những cành lá mà chúng vừa nhổ nơi chúng tới ăn, chúng giơ cao
những cành lá ấy và ngước mắt lên nhìn trời nhè nhẹ khua như thể nói lên lời
cầu nguyện vị nữ thần phù hộ và ban phước lành cho chúng. Và Voi cũng là
biểu hiện của tiết hạnh nếu sự thực là như Aristote nói, khi con cái mang thai hai
năm, con đực không “gần gũi” con cái và cũng không “phủ” một con cái nào
khác; và người ta còn cho là Voi biết trừng trị tội ngoại tình. Có một bức tranh

khắc thuộc thế kỉ XVII minh họa những chuyện huyễn hoặc này; trên bức tranh,
một con Voi đang đọ sức với một con lợn lòi như là tiết hạnh đấu tranh với nhục
dục.(TERS, 153-155).
Ở Ấn Độ, người ta kể rằng, trong một vòng luân hồi, Phật từng là con Voi
lớn, sống cô đơn trong rừng. Cánh rừng đó cách xa vùng dân cư bởi sa mạc
mênh mông. Có lần, khi đi qua mé rừng, Voi nghe thấy tiếng kêu từ phía sa mạc.
Đi theo hướng tiếng kêu, Voi nhìn thấy mọi người, dáng vẻ mệt mỏi, đói và
khát. Voi-Bồ Tát đã chỉ cho mọi người đi về hướng có hồ nước, ở đó họ có thể
uống, đồng thời thông báo cho họ biết rằng, ở đó có thịt con Voi to, có thể giúp
họ qua cơn đói để đi hết sa mạc. Sau khi nói ra điều đó, tự ngài đi theo con
đường khác và đến bờ vực của hồ, rồi từ đó, lao xuống tảng đá và chết. Khi đến
hồ nước, mọi người tìm thấy ở đó con Voi đã chết. Họ nhận ra đó chính là con
Voi-Bồ Tát, và mọi người đều tỏ lòng biết ơn vị cứu tinh của mình.
Trong văn hóa Ấn Độ giáo thì con Voi là hình tượng phổ biến. Voi là biểu
tượng vật linh trong Ấn Độ giáo vì nó là vật cưỡi của thần Inđra hay còn gọi là
Thần Sấm Sét – Thần Chiến tranh hay Thần Hộ mệnh. Hình tượng Voi trong
kiến trúc Ấn Độ được thể hiện rất phong phú, sinh động với nhiều tư thế khác
nhau, mang ý nghĩa và màu sắc tôn giáo, Voi thường được khắc tạc cùng với
thần Inđra.
Ganesha là một vị thần đáng kính trong Ấn Độ giáo, nhân dạng của thần
kì dị, với đầu Voi mình người. Thần Ganesha là biểu tượng của tài trí, hạnh


8

phúc và thành công. Theo truyền thuyết kể lại rằng: Một lần nọ, nữ thần Parvati
trong khi tắm đã dùng đất có được do kì cọ trên cơ thể của mình tạo ra một cậu
bé. Sau đó bà giao cho cậu bé này nhiệm vụ canh giữ phòng tắm của bà. Khi
thần Shiva - chồng của nữ thần Parvati lúc đi ra ngoài trở về, đã vô cùng ngạc
nhiên khi nhìn thấy một kẻ lạ hoắc không biết ở đâu tới đã ngang nhiên chặn cửa

không cho mình vào. Đùng đùng nổi giận, thần Shiva đã chặt đứt đầu cậu bé.
Khi hay biết sự việc , nữ thần Parvati vô cùng buồn đau. Để an ủi vợ, thần Shiva
bèn phái đội quân của ngài đi lấy đầu của bất cứ con vật nào mà họ gặp nếu con
vật đó đang ngủ mà mặt quay về hướng Bắc. Đội quân của thần đi tìm, thấy một
con Voi đang ngủ thì chặt đầu mang về. Thần Shiva sau đó gắn đầu Voi vào
thân hình cậu bé, hồi sinh lại mạng sống và giao cho cậu nhiệm vụ lãnh đạo đội
quân của mình. Cậu bé này do đó có tên Ganesha(Ganesha có nghĩa là người cai
quản hay chúa tể của một nhóm). Và thần Shiva cũng ban cho cậu bé thêm một
đặc ân, rằng dân chúng sẽ thờ phụng và đọc tên của cậu bé này trước khi thực
hiện một công việc nguy khó. Đó là những gì được mô tả trong Shiva Purana.
Còn trong Brahma Vaivarta Purana thì câu chuyện lại được kể rằng: thần
Shiva khuyên vợ mình là nữ thần Parvati nên chay tịnh một năm để cầu thân
Vishnu ban cho họ một đứa con. Nữ thần Parvati làm theo lời chồng và ước
nguyện của họ đã trở thành hiện thực. Khi cậu bé chào đời, các thần linh ở khắp
nơi đã tụ hội về để chúc mừng và ngắm nhìn cậu bé. Thần Shani, con trai của
thần Surya (Thần Mặt Trời) cũng có mặt nhưng không chịu ngắm nhìn đứa bé
này. Thần Parvati thấy lạ thì hỏi nguyên cớ; thần Shani bèn nói rằng nếu ngài
nhìn vào cậu bé thì đầu cậu bé sẽ lập tức rơi lìa khỏi cổ. Nghe vậy nhưng nữ
thần Parvati vẫn không tin, vẫn nài nỉ thần Shani ngắm nhìn cậu bé một lần, và
kết quả là đầu cậu bé đã rơi lìa khỏi cổ. Trước tình cảnh thảm thương ấy, các vị
thần đều cùng nhau than khóc, riêng thần Vishnu đã vội vàng đi đến sông
Pushpabhadra, mang đầu một con Voi về và gắn lên người cậu bé, làm sống lại
cậu. Về sau Ganesha rất thông minh trí tuệ, trở thành một vị thần quan trọng và


9

được tin là bậc sáng tác nên bộ Mahabharata. Hay một câu chuyện khác lại nói
về vị thần này như sau: Ganesha là con trai của thần Shiva và nữ thần Parvati.
Nữ thần Pravati luôn bị thần Shiva nhìn với con mắt thèm muốn nên nữ thần đã

tìm cách tự bảo vệ mình. Do đó, bà đã tạo ra thần Ganesha khi Siva trên đường
đi săn. Khi Siva đi săn trở về không nhận ra cơ thể nữ thần Parvati vì chúng
được Ganesha che mất. Siva tức tối và chặt đứt đầu Ganesha. Parvati cầu xin
Siva để Ganesha được sống và cho Ganesha một cái đầu mới. Để Paravati không
đau khổ, Siva đã ra lệnh chặt đầu con vật đầu tiên thần nhìn thấy gắn làm đầu
cho Ganesha. Và con vật ấy chính là một con Voi. Hằng năm, ở Ấn Độ người ta
tổ chức lễ hội Ganesh Chaturthi để tưởng nhớ ngày sinh của thần Ganesha, vị
thần được thờ phụng phổ biến trong Ấn giáo, và cũng được xem là một trong
bốn vị thần quan trọng của tôn giáo này. Ba vị thần khác là: Brahma, Vishnu và
Siva. Theo Ấn giáo, đầu Voi của thần Ganesha tượng trưng cho tự ngã(atman),
thực tại tối hậu của con người; còn thân người của Thần tượng trưng cho Maya,
là sự hiện hữu của con người nơi cõi đời trần tục. Đầu Voi của thần cũng tượng
trưng cho trí tuệ, cái vòi tượng trưng cho âm Om, biểu tượng âm thanh của thực
tại vũ trụ. Thần Ganesha cũng được xem là vị thần có khả năng loại trừ những
chướng ngại, là vị Thần của may mắn, tài sản và trí tuệ. Ở phía Nam Ấn Độ,
Ganesha là thần chính. Nhiều ngày trước lễ hội, tượng thần được dựng lên; vào
ngày chính hội, tượng thần và người dự hội được hóa trang sặc sỡ với màu chủ
đạo là màu đỏ. Người tham gia lễ hội vui chơi, ca hát và nhảy múa. Ở Mumbai,
ngày hội này cũng là ngày nghỉ và mọi người chúc nhau gặp nhiều may mắn,
hạnh phúc. Vào những ngày lễ, người Hinđu thường lui tới các nơi thờ tượng
thần Ganesha để dâng thức ăn và nước. Thức ăn thường là những thứ bánh ngọt,
còn nước thì thường là nước dừa. Họ cầu nguyện Thần giúp họ giải trừ những
chướng ngại và rủi ro, và có được những may mắn, thịnh vượng trong đời sống.
Cũng với hình tượng Voi nhưng với tên gọi là Gajasimha, nghệ thuật tạo
hình là đầu Voi , mình sư tử. Đây là loài thú có sức mạnh vô song, kết hợp sức


10

mạnh của sư tử (hóa thân của thần Visnu) và Voi của thần Inđra. Các bức tượng

với hình dáng này xuất hiện rất nhiều trong văn hóa Ấn Độ. Voi trắng sáu ngà
còn là vật cưỡi của Phổ Hiền Bồ Tát (Samantabhadra) tượng trưng cho trí tuệ
chiến thắng sáu giác quan. Vì Voi là con vật khôn nhất trong các loài thú nên
theo truyền thuyết, Phật Thích Ca khi nhập vào trong bụng mẫu hậu
Sirimahamaya qua hình dáng một con bạch tượng, ám chỉ ngài là một bậc hiền
giả giáng sinh.
Trong truyền thuyết, Voi chính là hiện thân của trí tuệ, sự thông minh và
sức mạnh to lớn. Còn trong lịch sử thời cổ đại, văn minh Ấn Độ đề cao giá trị
của loài Voi trong chiến tranh. Họ cho rằng: “Quân đội mà không có tượng binh
thật đáng coi thường, chẳng khác gì rừng không có sư tử, nước không có vua
hay lòng can đảm mà đánh bằng tay không”. Từ Ấn Độ, việc sử dụng Voi trong
quân đội đã lan về phía Tây tới đế chế Ba Tư. Theo sử sách, Voi chiến được sử
dụng vào năm 530TCN, trong một trận chiến diễn ra giữa đế quốc Ba Tư do vua
Amoraios trị vì.
Voi giày cũng là một hình phạt có từ hàng ngàn năm ở các quốc gia Nam
Á và Đông Nam Á, đặc biệt tại Ấn Độ. Voi được sử dụng là Voi châu Á được
huấn luyện thuần thục. Hình phạt này áp dụng cho các tử tội, thường là những
người phạm tội nặng với triều đình hoặc được sử dụng như là một cách thức trả
thù của vua đối với những người ủng hộ phe phái chống lại nhà vua. Nạn nhân
bị hành quyết thường bị Voi dùng chân giẫm lên cơ thể, dùng vòi cuốn đưa lên
cao và quật xuống đất. Người ta có thể điều khiển Voi làm cho nạn nhân chết
nhanh hoặc chết từ từ để hành hạ.
Như vậy, ở Ấn Độ không chỉ có hình ảnh những chú bò gắn liền với đời
sống tín ngưỡng tâm linh của người dân, mà còn có những chú Voi to lớn, khỏe
mạnh gắn liền với những vị thần được ca tụng. Cho đến tận hôm nay thì người
dân Ấn Độ vẫn lưu giữ những nét văn hóa tốt đẹp và mang đậm màu sắc tôn
giáo đó.


11


Người Ai Cập và Carthage cũng mua Voi châu Phi để sử dụng cho mục
đích quân sự.
Ở Trung Quốc, việc sử dụng những con Voi chiến tương đối hiếm so với
những nơi khác. Việc sử dụng Voi của họ diễn ra vào cuối năm 554 khi nhà Tây
Ngụy triển khai hai con Voi chiến mặc giáp sắt từ Lĩnh Nam trận chiến, chúng
được điều khiển bởi những nô lệ Mã Lai.
Hình ảnh những chú Voi chiến oai phong, hùng dũng đã đi vào lịch sử nhân
loại từ thời cổ đại, gắn liền với tên tuổi của những quốc gia lớn, những vị tướng
kiệt xuất.
Trong “Từ điển tục ngữ thế giới” của Gerd Deley cũng có nhiều câu tục
ngữ nói về Voi với những ý nghĩa khác nhau.
Để nói về sự to lớn và sức mạnh của con Voi: “Vết chân của Voi giẫm mất
dấu chân lạc đà; Một con Voi, dẫu có tệ đến mấy cũng đáng giá hơn mười con
ếch” (tục ngữ của Niger); hay là “Với những viên đạn bằng sáp ong, bạn không
thể giết Voi” (tục ngữ Ghana); “Cái vòi của con Voi sẽ lên đến tận mái nhà” (tục
ngữ Cameroon).
Như vậy, chỉ điểm qua một số câu tục ngữ trên, có thể thấy rằng trong văn
hóa của các nước, Voi là loài vật khổng lồ, có sức mạnh phi thường không dễ gì
đánh bại. Đối với họ, Voi giống như một vị thần khổng lồ.
Bên cạnh những câu tục ngữ mang ý nghĩa ca ngợi ở trên, còn có những
câu tục ngữ dùng hình tượng con Voi để từ đó đưa ra những bài học, lời khuyên
đắt giá: “Ngay cả Voi cũng có thể bị trượt chân” (tục ngữTamil); “Khi một con
Voi đang trong cơn bối rối thì ngay cả một con ếch cũng sẽ đá nó” (tục ngữ Ấn
Độ); “Ngay cả một chú Voi to lớn cũng có thể sa chân vì một sợi tóc đàn bà”
(tục ngữ Ghana).
Trong văn hóa đại chúng, Voi còn được miêu tả qua hình tượng chú Voi
biết bay Dumbo, là một bộ phim hoạt hình được sản xuất bởi Disney, dựa vào
câu chuyện cùng tên của Helen Aberson và Harold Perl.



12

Như vậy, trong đời sống văn hóa của con người trên khắp thế giới từ xưa
đến nay, đặc biệt ở vùng Bắc Á. Voi luôn có một vị trí quan trọng. Nó là hiện
thân của sức mạnh, của tri thức và của tấm lòng Bồ Tát đầy từ bi, tình nghĩa.
Nói cách khác, Voi liên quan đến tín ngưỡng và trở thành linh vật của tôn giáo.
Ở đó có sẵn một hệ thống huyền thoại về Voi hay liên quan đến Voi. Tất cả đều
in sâu vào tâm thức, tín ngưỡng của con người. Nhưng bên cạnh đó, ở một số
quốc gia lại coi Voi là biểu tượng của sự xấu xí và chiến tranh nên người ta sợ
nó. Nhưng dù sao, Voi cũng mang nhiều ý nghĩa và đáng để con người tìm hiểu.
1.2. Voi trong văn hóa Đông Nam Á
Xét về mặt vị trí địa lí, Đông Nam Á là khu vực nhiệt đới gió mùa, khí hậu
ẩm; là nơi có nhiều rừng và hồ nước. Có lẽ, vì thế mà từ xưa ở khu vực này đã
có rất nhiều Voi sinh sống. Voi gắn bó, gần gũi với con người từ trong lao động
sản xuất đến chiến đấu. Ở các nước, như: Lào, CamPuChia, Thái Lan,
Myanma… Voi có một vị trí rất cao trong đời sống tinh thần của con người.
Ở Thái Lan, hình tượng con Voi tượng trưng cho đất. Voi rất được coi
trọng, đặc biệt là Voi trắng. Bởi Voi trắng còn tượng trưng cho sự thanh bình và
thịnh vượng của quốc gia nên thường được đem dâng lên vua để tỏ lòng kính
trọng. Với ý nghĩa quan trọng như vậy nên Voi trắng được chăm sóc với một
chế độ rườm rà và đắt đỏ. Tuy nhiên, điều này chẳng là gì so với đặc ân được
vua ban cho chăm sóc Voi trắng vì nó đem lại vinh dự và danh tiếng trong triều.
Tuy nhiên, người ta cũng cho rằng việc chăm sóc Voi trắng là con dao hai lưỡi
vì nó có thể làm tăng địa vị của một quí tộc và cũng có thể làm cạn túi một
người ít quí tộc hơn.
Bên cạnh con Voi quí tộc – Voi trắng – những con Voi khác phải làm việc
để kiếm sống nhưng chúng luôn được coi là loài vật đặc biệt. Trong mỗi gia
đình người Thái đều có trang thờ giống như một ngôi đền thu nhỏ. Chúng trông
giống với cái chuồng chim của Phương Tây nhưng chẳng có chú chim nào cả

gan đến chiếm, vì Phra Phum không cho phép. Một tượng nhỏ, biểu hiện của


13

Phra Phum được chạm khắc bằng gỗ hay bằng đất nung, được đặt vào vách nhìn
ra bên ngoài. Nếu Phra Phum giúp một lời nguyền thành sự thật thì sẽ được nhận
một con Voi hay một nô lệ cũng nhỏ nhắn như vậy.
Những con Voi được chạm khắc xinh xắn mà ở những ngôi đền là lễ vật
dâng lên các thần để nhân dân có thể chầu lên ngọc hoàng vào mỗi sáng thứ
năm; nếu lấy đi một con thì bạn sẽ bị vị thần đó “hạ thổ” ngay trên đầu bạn và
mang đến cho bạn rất nhiều xui xẻo. Đối với những người dân nơi đây thì mảnh
ngà Voi, răng cọp, sừng trâu, nanh heo rừng và mắt mèo là các vật bùa chú.
Chúng thường được đeo quanh cổ hoặc xâu thành vòng đeo để xua đuổi tà ma.
Ở Thái Lan, bức tượng thần Ganesha được tạc với tư thế ngồi bán già trên
một bệ tròn ba tầng, đầu đội mũ hình tháp (stupa ), đôi tai lớn phình rộng với
chiếc vòi uốn cong xuống tận bệ, miệng có hai ngà, cổ và tay chân đều có đeo
vòng trang sức, tay trái cầm một chiếc bát, tay phải cầm một chiếc bình.
Tại Đại hội thể thao châu Á năm 2005 ở Thái Lan có chú Voi xanh tên là
Hey và chú Voi vàng tên Há là linh vật, cả hai đại diện cho sự náo nhiệt, vui
tươi và thư thái, phản ánh đúng bản chất tốt đẹp của thể thao.
Nhắc đến nước Lào xinh đẹp là người ta nghĩ ngay đến tên gọi “Đất nước
Triệu Voi”; điều này cho ta thấy trong đời sống tâm linh, tín ngưỡng của mình,
người Lào rất coi trọng Voi. Huyền thoại cổ xưa giải thích nguồn gốc của người
Lào như sau: Ông tổ đầu tiên của người Lào tên là Khoun Borom được Vua trời
cử xuống cai trị mặt đất. Trên lưng một con Voi trắng, ông phát hiện ra một dây
leo có quả bầu khổng lồ. Khi chọc thủng hai quả bầu này thì đàn ông, đàn bà,
muông thú và hạt giống rơi ra. Với muông thú và cây cối đó, bảy người con trai
của Khoun Borom đã chia đất đai với nhau và lập nên bảy vương quốc. Bên
cạnh đó, Voi là biểu tượng cho nước Lào hùng vĩ. Những con Voi trắng được

gắn với hoàng gia; đồng thời cũng là biểu tượng của vận may và là của những
người bảo vệ đất nước. Trong chiến tranh, những chú Voi đã giúp chở binh lính
và quân lương ra chiến trận. Còn hiện nay, những con Voi khỏe mạnh là người


14

bạn giúp nhân dân Lào kéo gỗ súc từ trên núi xuống sông và đường cái. Vào
ngày Tết cổ truyền ở Luông Prabang, các chú Voi vinh dự được hộ tống các hoa
hậu. Khi các hoa hậu được cưỡi trên lưng Voi đều cảm thấy may mắn và hạnh
phúc. Hình tượng những chú Voi còn có mặt ở các ngôi chùa thuộc kiểu kiến
trúc truyền thống của Lào. Như vậy, đối với người Lào, những chú Voi khỏe
mạnh vừa là hiện thân của hoàng gia quý phái; vừa là người bạn thân thiết trong
chiến đấu và lao động sản xuất.
Voi cũng là linh vật trong kì Seagame 2009 tại Lào: một cặp Voi trắng. Hai
con Voi trắng này mặc trang phục truyền thống của Lào. Con Voi đực được đặt
tên là ChamPa; con Voi cái có tên là ChamPi. Hai con Voi trắng này tượng
trưng cho Lào như tên gọi là vương quốc Lang Xang trong thời cổ đại, trong đó
có nghĩa là “Vương quốc Triệu Voi”. Các linh vật được mô tả như đang vui vẻ,
là một yếu tố quan trọng trong thi đấu thể thao.
Đến với đất nước nghìn chùa- CamPuChia, ta sẽ thấy hình ảnh những chú
Voi xuất hiện nhiều ở các ngôi chùa. Nó như là sức mạnh để giữ gìn và bảo vệ
đất nước này. Nghệ thuật điêu khắc trên đền Ăngkor là cảnh: xây nhà, múa hát,
chọi gà và những viên tướng oai vệ trên lưng Voi, thúc quân ra trận, đánh kẻ
thù. Những con Voi to tướng ba đầu có bốn mặt người nhìn ra bốn phương , là
hình ảnh đại diện cho một dân tộc kiên cường, giàu nghị lực. Người múa, Voi
đàn cũng múa, đàn Voi chiến xông lên giày xéo quân thù. Những hình ảnh hết
sức sinh động thể hiện sự gắn bó giữa con người CamPuChia với loài Voi. Xa
xưa lắm rồi, từ thời Ăngkor mới được xây dựng, giặc ngoại xâm cứ triền miên
gây loạn lạc. Nhà vua sai Voi thần giày đạp giặc xâm lăng. Giặc tan, đàn Voi

quay về canh giữ Ăngkor. Ba thần Voi ở lại trấn thủ tiền đồn. Mãi cho đến khi
dời đô thì Voi chết. Hồ Lớn, Hồ Bé, Hồ Bùn là dấu vết Voi nằm. Ở CamPuChia,
có Đầm Rây hình dáng tương tự con Voi đá khổng lồ trấn giữ phía Đông. Ở
CamPuChia, người ta đã tìm thấy một tượng thần đầu Voi Ganesha bằng đá chế
tác từ thế kỉ 17- 18. Bức tượng này được thờ ở nhiều nước Đông Nam Á, cho ta


15

thấy được những nét tạo hình mang phong cách mĩ thuật truyền thống của tín
ngưỡng Ấn Độ giáo. Theo tín ngưỡng đó, một số loài vật như :cọp, rắn, chim,
voi được thờ chung cùng các vị thần khác, nhưng cũng có một số loài cá biệt
được sung bái và thờ riêng một cách trang trọng như thần đầu Voi Ganesha
(Ganapati), tượng trưng cho “sự hợp nhất giữa tiểu vũ trụ và đại vũ trụ”, được
xem là vị phúc thần đáp ứng nhiều điều may mắn, cát tường cho mọi lời cầu
nguyện. Như vậy, qua hình tượng thần mình người đầu Voi Ganesha, chúng ta
thấy có sự giao lưu và ảnh hưởng văn hóa giữa Ấn Độ và các quốc gia Đông
Nam Á.
Ngoài hình tượng Voi xuất hiện ở chùa chiền, điêu khắc thì trong kho tàng
tục ngữ CamPuChia có câu: “Con Voi bị mắc lầy là con Voi sẽ kéo ngã cái cây
trong bùn”. Câu tục ngữ này nhằm ca ngợi sức mạnh và trí tuệ của con Voi.
Ở Myanma có điệu múa con Voi trong lễ hội múa Voi được tổ chức tại
Kyaukse, gần Mandalay, với những vũ công đội những hình nộm Voi bằng bia.
Myanma được xem là đất Phật nên ở đây có rất nhiều chùa chiền. Ngôi chùa
vàng vĩ đại ShewDagon là một công trình kiến trúc tôn giáo nổi tiếng thế giới,
một di sản văn hóa khổng lồ của nhân loại. Trong tất cả 1.000 đơn thể bao quanh
tháp vàng trung tâm, có 72 ngôi chùa bằng đá có thờ tượng Phật bên trong. Xen
giữa các ngôi chùa là vô số bức tượng và hình khắc sư tử, voi, thần Nát và quỷ
dữ.
Lịch sử đã ghi nhận sự việc quân đội Chiêm Thành đã triển khai đến 602

con Voi chiến trong cuộc chiến tranh chống nhà Tùy ở Trung Hoa.
Đối với các quốc gia Đông Nam Á, những chú Voi thực sự gần gũi, gắn bó
với cuộc sống con người nơi đây. Tuy có liên quan đến tín ngưỡng, nhất là do
chịu ảnh hưởng của Ấn Độ giáo nhưng Voi ở đây chủ yếu là gắn bó với con
người trong chiến tranh và trong cuộc sống hằng ngày. Voi thật sự gần gũi và
thân thiết với con người. Những con Voi đã được thuần hóa giúp đỡ con người
rất nhiều trong cuộc sống hằng ngày. Không những thế, Voi còn cùng họ chống


16

quân thù để giữ gìn, bảo vệ đất nước. Voi như một vị thần mà họ tin tưởng, vị
thần mang lại vinh dự, may mắn.
1.3. Voi trong văn hóa Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia nằm trong khu vực Đông Nam Á, nơi có địa hình
và thời tiết thích hợp cho loài Voi sinh sống. Đặc biệt là ở vùng phía Bắc, Trung
Bộ và Tây Nguyên. Đối với người Việt, có lẽ họ quen với hình tượng con rồng,
con rắn…những con vật xuất hiện rất nhiều trong đời sống tín ngưỡng. Nhưng í
tai nghĩ rằng, Voi cũng là con vật rất được coi trọng trong đời sống tinh thần
người dân Việt Nam. Trong văn hóa dân gian của người Việt, Voi là một biểu
tượng khá phong phú về ý nghĩa. Voi trong văn hóa dân gian Việt Nam cũng
hàm chứa cả ý nghĩa tốt lẫn ý nghĩa xấu. Mỗi khu vực và mỗi giai đoạn mà nó
xuất hiện lại mang đến cho ta những ý nghĩa khác nhau. Nó góp phần làm phong
phú thêm thế giới biểu tượng trong văn hóa của người Việt Nam.
Từ xưa, người Việt ai cũng thuộc câu :
“Muốn coi lên núi mà coi
Coi Bà Triệu nữ cưỡi Voi đánh cồng”.
Đó là hình ảnh chú Voi trong lịch sử oai phong, lẫm liệt cùng với chủ
tướng của mình giày xéo quân thù.
Trong lời ăn tiếng nói hằng ngày, Voi cũng được nhắc đến trong thành ngữ,

tục ngữ với ý nghĩa khen, chê, ngợi ca, phê phán. Cụ thể:
“Rước Voi về giày mả tổ”: Phê phán hành vi biểu trưng cho sự phản bội Tổ
quốc, phản bội đồng bào ruột thịt của mình.
“Tránh Voi chẳng xấu mặt nào”: Là lời khuyên con người trong cách cư
xử, việc nhượng bộ, lùi bước, thậm chí là cúi đầu trước kẻ mạnh nhằm tránh rủi
ro, thiệt hại thì cũng không có gì đáng xấu hổ, mất thể diện .
“Lên Voi xuống chó”: Nói về con đường công danh hay cuộc đời con
người bấp bênh, lúc lên lúc xuống.


17

“Mười Voi không bằng bát nước xáo”: Chỉ những người huênh hoang,
khoác lác nhưng chẳng có thực chất.
“Được Voi đòi tiên”: Chỉ sự tham lam, đòi hỏi quá đáng.
“Voi giày ngựa xé”: Liên tưởng đến một hình phạt tàn khốc.
“Đầu Voi đuôi chuột”: Chỉ những người làm việc không đến nơi đến chốn,
mang tính chất khoa trương”.
“Nhất điểu, nhì ngư, tam xà, tứ tượng”: Ý nghĩa tinh thần và sự quý giá của
các con vật trong đời sống được xếp theo thứ rự trên.
Như vậy, trong lời ăn tiếng nói hằng ngày, chúng ta đã bắt gặp hình ảnh
của con Voi với ý khen, chê khác nhau. Điều đó chứng tỏ rằng, với người Việt
những con Voi to lớn này cũng thật gần gũi. Và với nét tính cách đa dạng của
con vật này, người dân đã đưa ra nhiều câu tục ngữ để gắn với sự khen ngợi hay
châm biếm con người.
Còn trong phong thủy, bên cạnh ý nghĩa may mắn, Voi còn có biểu tượng
tăng cường quyền lực và danh tiếng của người chủ gia đình. Điều này là do
người ta tin rằng Voi là con vật mang lại ngọc ước. Vì sự hiện hữu của Voi
trong nhà tượng trưng cho may mắn khi tất cả khát vọng được hoàn thành. Cách
tốt nhất để trưng bày Voi trong nhà là mua một cặp Voi bằng bột đá hoặc bằng

đá tự nhiên và để chúng bên trong hoặc bên ngoài căn nhà, ở vị trí hai bên cửa
chính. Voi cũng được xem là biểu tượng tuyệt vời của sự may mắn về con cái.
Voi xuất hiện trong tục ngữ, thành ngữ để nhận xét về con người; Voi
mang lại phúc khí và vận may cho mỗi gia đình. Còn đối với những trang sử vẻ
vang của dân tộc, với bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước đầy gian truân, vất
vả thì chúng ta không thể nào không biết đến những chú Voi chiến tình nghĩa,
anh dũng của Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn , của
nữ tướng Bùi Thị Xuân, của Lê Lợi…Con Voi chiến của Trần Hưng Đạo đã bị
sa lầy nơi sông Hóa nhưng vẫn muốn ra trận. Cho đến tận bây giờ, trải qua hàng
trăm trận chiến, nhân dân ta vẫn không quên hình ảnh chú Voi đó. Hằng năm,


18

người dân nơi đây tổ chức lễ hội lớn để tưởng nhớ tới vị tướng tài ba Trần Quốc
Tuấn và “người lính” đặc biệt của ông.
Lễ hội đền A Sào là một lễ hội mang đậm tính truyền thống và tính văn hóa
của dân tộc, có ý nghĩa nhắc nhở con cháu đời sau nhớ tới Đức Hưng Đạo Đại
Vương và những người lính, trong đó có người lính đặc biệt như con voi của vị
anh hùng đã không quản ngại hi sinh để bảo vệ độc lập dân tộc.
Con Voi cũng là loài vật gắn bó với nhiều ngôi chùa ở Việt Nam. Tượng
Voi và phù điêu Voi có mặt hầu hết ở các ngôi chùa của người Khơ me ở Nam
Bộ. Chùa của người Việt từ Bắc, Trung, Nam đều có hình ảnh của những con
Voi. Trong chùa, Voi thường được bố trí chầu ở sân, ở tiền sảnh hay cổng chùa.
Voi đặt ở chính điện để thể hiện sự tôn kính.
Voi là loài thú được nghệ thuật Việt thể hiện đậm nét và lâu dài, được nghệ
thuật tạo hình Việt đặc biệt lưu tâm. Từ thời văn hóa Đông Sơn, cách đây trên
dưới hai nghìn năm, người ta đã tìm thấy những con Voi trong di chỉ Làng Vạc
ở Nghệ An làm đế cho một cây đèn nhiều đĩa, nhiều tầng. Voi còn thể hiện trên
trống đồng Đông Sơn, trên chiếc dao găm đồng. Trên đốc là một tượng Voi ở

huyện Đại Lộc, Quảng Nam. Voi còn xuất hiện dưới dạng đồ họa. Những chiếc
thạp hoa nâu vẽ chiến binh cưỡi Voi và ngựa xông pha trận mạc trong văn hóa
thời Lí – Trần, thời Lê sơ và Lê Trung Hưng, Voi xuất hiện nhiều hơn trên gốm,
đồng, đá.
Trong truyền thuyết đầu tiên của người Việt có nhắc đến: “Voi chín ngà”,
là sính lễ mà vua Hùng bắt buộc khi Sơn Tinh và Thủy Tinh đến cầu hôn Mị
Nương. Sử sách nhắc đến Voi và thuần dưỡng Voi là từ thời Hai Bà Trưng
chống quân Hán và Bà Triệu chống quân Ngô (con Voi trắng một ngà). Voi
được các triều đại phong kiến Việt Nam sử dụng rất nhiều trong quân sự lẫn dân
sự. Đến thời Quang Trung, Voi là một trong những chiến binh cừ khôi nhất,
giúp nhà vua đánh chúa Trịnh, dẹp chúa Nguyễn, đánh ngoại xâm quân Thanh,
quân Xiêm. Voi đã đi vào truyện dân gian, đặc biệt là trong truyền thuyết một


19

cách tự nhiên và gần gũi như thế. Bởi người Việt tin rằng với sức mạnh của nó
có thể giúp đỡ con người lập nên những chiến công hiển hách.
Với đồng bào các tộc dọc theo dãy Trường Sơn, Voi là vật quý hiếm nhất,
là hiện thân của sức mạnh và sự giàu có của mỗi gia đình, mỗi buôn làng. Từ
một giống vật hoang dã, khi được bắt về và thuần dưỡng, Voi trở thành người
bạn thân thiết với con người trong đời sống hằng ngày: vận chuyển, đi lại, làm
rẫy, kéo gỗ, làm thủy lợi…Voi là con vật có thân hình to lớn , nhưng cũng là con
vật thông minh và giàu tình nghĩa nhất trong quần thể động vật hoang dã. Ở đây,
người ta quan niệm rằng, Voi là con vật đứng đầu trong các loại thú rừng. Từ
trước tới nay chỉ có một loài vật tượng trưng cho quyền uy, sức mạnh vật chất
và tinh thần của mỗi dân tộc, mỗi buôn làng hay mọi người, đó là loài Voi. Voi
đã đi vào đời sống và trở thành biểu tượng văn hóa của cao nguyên Đắc Lắc.
Hình tượng con Voi cũng đi vào sử thi, thần thoại như: Chuyện về thần Nguach;
Chuyện bầy Voi bảy ngà; Voi biết bay; Sự tích con Voi; Nàng ngà Voi; Lấy

chồng Voi…Trong tạo hình và kiến trúc dân gian của người dân Tây Nguyên,
con Voi được chạm khắc trên xà nhà, cầu thang, đồ trang sức, công cụ lao động,
trên thổ cẩm và cả trên nhà mồ. Ngà Voi là thứ trang sức quý giá của các cô gái
Tây Nguyên. Hình tượng con Voi cũng đi vào các lễ hội: Tháng 3 âm lịch luôn
được coi là tháng đẹp nhất trong năm ở Tây Nguyên: trời nắng dịu, đất rừng khô
ráo, dọc bên các cánh rừng, khe suối, hoa đủ các màu đua nhau khoe sắc.Và đây
cũng là thời điểm diễn ra lễ hội đua Voi đặc sắc và hùng tráng. Ngày hội truyền
thống dân dã, chứa đựng nhiều màu sắc thể thao thượng võ này phản ánh nếp
sống mạnh mẽ của người dân núi rừng Tây Nguyên.
Xưa kia , theo quan niệm của một số người, lông đuôi Voi không những
giúp tránh được tà ma chướng khí, thú dữ mà còn giúp chủ nhân của nó có khả
năng biết trước những khó khăn, trở ngại trên đường đi để có cách đề phòng.
Ngày xưa, mỗi lần các quan trong triều đình khi đi công cán xa, đến những vùng


×