Tải bản đầy đủ (.pdf) (168 trang)

văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam (1932 – 1945)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 168 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH



Phạm Thị Xuân Lan

VĂN HÓA TÂM LINH
TRONG TRUYỆN NGẮN, TIỂU THUYẾT VIỆT NAM
(1932 – 1945)

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


Phạm Thị Xuân Lan

VĂN HÓA TÂM LINH
TRONG TRUYỆN NGẮN, TIỂU THUYẾT VIỆT NAM
(1932 – 1945)
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số

: 60 22 34

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. LÊ THU YẾN

Thành phố Hồ Chí Minh – 2012


LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện đề tài này, ngoài việc cố gắng của bản thân,
người viết đã nhận được rất nhiều sự động viên giúp đỡ từ thầy cô, bạn bè, cơ
quan công tác và các tổ chức ban ngành của trường ĐHSP TP. HCM.
Trước tiên người viết xin bày tỏ lòng biết ơn của mình với PGS. TS Lê
Thu Yến – Phó chủ nhiệm Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư Phạm Thành Phố
Hồ Chí Minh. PGS. TS Lê Thu Yến đã tận tình giúp đỡ người viết làm sáng tỏ
các vấn đề được triển khai trong đề tài suốt quá trình thực hiện luận văn.
Xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Ban chủ nhiệm Khoa Ngữ văn,
phòng SĐH Trường ĐHSP Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo mọi điều kiện thuận
lợi cho người viết hoàn thành luận văn này. Xin cảm ơn BGH Trường THPT
Nguyễn Văn Trỗi đã tạo điều kiện thuận về thời gian công tác để người viết
hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn các đồng nghiệp và bạn bè đã giúp đỡ và động
viên người viết trong suốt quá trình làm luận văn.

TP. Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2012
Người viết


MỤC LỤC


DẪN NHẬP ............................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài .................................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề ...................................................................................................... 3
3. Mục đích nghiên cứu ........................................................................................... 6
4. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................. 6
5. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................... 7
5.1. Phương pháp lịch sử ...................................................................................... 8
5.2. Phương pháp hệ thống ................................................................................... 8
5.3. Phương pháp so sánh ..................................................................................... 8
5.4. Phương pháp phân tích tổng hợp ................................................................... 8
5.5. Phương pháp liên ngành ................................................................................ 9
6. Đóng góp của luận văn ...................................................................................... 10
7. Bố cục của luận văn ........................................................................................... 10
NỘI DUNG .............................................................................................................. 12
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ................................................................ 12
1.1. Văn hóa và văn hóa tâm linh .......................................................................... 12
1.1.1. Văn hóa..................................................................................................... 12
1.1.2. Tâm linh ................................................................................................... 14
1.1.3. Văn hóa tâm linh ...................................................................................... 18
1.2. Cơ sở hình thành yếu tố tâm linh trong văn hóa Việt Nam ........................... 20
1.2.1. Nền văn hóa gốc nông nghiệp trồng lúa nước......................................... 21
1.2.2. Tư tưởng Nho- Phật- Đạo và các tôn giáo khác ....................................... 24
1.3. Truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1932-1945 .............................. 25
1.3.1. Bối cảnh văn học 1932-1945 .................................................................... 25
1.3.2. Thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết có yếu tố tâm linh trong văn học Việt
Nam 1932-1945 .................................................................................................. 28


1.4. Cơ sở hình thành yếu tố tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt
Nam1932-1945 ...................................................................................................... 30

1.4.1. Kế thừa yếu tố tâm linh trong văn học dân gian Việt Nam ...................... 31
1.4.2. Kế thừa yếu tố tâm linh trong văn học trung đại Việt Nam ..................... 34
1.4.3. Tiếp biến yếu tố tâm linh trong văn học phương Tây .............................. 37
CHƯƠNG 2: NHỮNG BIỂU HIỆN VĂN HÓA TÂM LINH TRONG
TRUYỆN NGẮN, TIỂU THUYẾT VIỆT NAM 1932-1945................................ 40
2.1. Mộng ............................................................................................................... 40
2.2. Cầu cúng, khấn vái ......................................................................................... 48
2.2.1. Cầu đảo .................................................................................................... 48
2.2.2. Thờ cúng .................................................................................................. 55
2.2.3. Khấn vái, thề nguyền ................................................................................ 60
2.2.4. Lập miếu (am, miễu) ................................................................................ 66
2.3. Điềm báo ......................................................................................................... 68
2.4. Phép thuật, bói toán ........................................................................................ 74
2.4.1. Phép thuật, bùa ngải, phù chú .................................................................. 74
2.4.2. Bói toán, tướng thuật ................................................................................ 79
2.5. Linh ứng .......................................................................................................... 82
2.5.1. Quả báo..................................................................................................... 82
2.5.2. Ứng báo .................................................................................................... 86
2.6. Hồn ma, hóa kiếp ............................................................................................ 88
2.6.1. Hồn ma ..................................................................................................... 88
2.6.2. Hóa kiếp ................................................................................................... 96
Chương 3: HIỆU QUẢ THẨM MĨ CỦA YẾU TỐ TÂM LINH TRONG
TRUYỆN NGẮN, TIỂU THUYẾT VIỆT NAM 1932-1945.............................. 103
3.1. Yếu tố tâm linh – phản ánh hiện thực ........................................................... 103
3.1.1. Hiện thực đời sống tâm linh ................................................................... 104
3.1.2. Hiện thực xã hội ..................................................................................... 108
3.2. Yếu tố tâm linh – Ý nghĩa nhân văn ............................................................. 111


3.2.1. Yếu tố tâm linh – Ý nghĩa giáo dục ....................................................... 111

3.2.2. Yếu tố tâm linh – Khát vọng hạnh phúc................................................. 117
3.3. Yếu tố tâm linh – Giá trị nghệ thuật đặc sắc của truyện ngắn, tiểu thuyết Việt
Nam 1932-1945 ................................................................................................... 124
3.3.1. Chi tiết, tình huống ................................................................................. 124
3.3.2. Hệ thống ngôn từ .................................................................................... 128
3.3.3. Hệ thống nhân vật................................................................................... 131
3.3.4. Không gian thiêng .................................................................................. 134
3.3.5. Thời gian thiêng ..................................................................................... 137
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 141
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 144


1

DẪN NHẬP
1. Lí do chọn đề tài
Văn học, nghệ thuật cùng với triết học, chính trị, tôn giáo, đạo đức, phong
tục… là những bộ phận hợp thành của toàn thể cấu trúc văn hoá. Nếu văn hoá thể
hiện quan niệm và cách ứng xử của con người trước thế giới, thì văn học là hoạt
động lưu giữ những thành quả đó một cách sinh động nhất. Văn hoá của một dân
tộc cũng như của toàn thể nhân loại từng trải qua nhiều chặng đường tìm kiếm, chọn
lựa, đấu tranh và sáng tạo để hình thành những giá trị trong xã hội. Văn học vừa thể
hiện con đường tìm kiếm đó, vừa là nơi định hình những giá trị đã hình thành. Cũng
có thể nói văn học là văn hoá lên tiếng bằng ngôn từ nghệ thuật.
Văn học biểu hiện văn hoá, cho nên văn học là tấm gương của văn hoá. Trần
Ngọc Thêm đã nhận xét Tiếng Việt “phản ánh rõ hơn đâu hết linh hồn, tính cách
của con người Việt Nam và những đặc trưng cơ bản của nền văn hóa Việt Nam”
[92; tr 316]. Văn hoá tác động đến văn học không chỉ ở đề tài mà còn ở toàn bộ bầu
khí quyển tinh thần bao bọc hoạt động sáng tạo của nhà văn và hoạt động tiếp nhận
của bạn đọc. Bản thân nhà văn với thế giới nghệ thuật của mình là một sản phẩm

văn hoá. Người đọc, với chân trời chờ đợi hướng về tác phẩm, cũng được rèn luyện
về thị hiếu thẩm mỹ trong một môi trường văn hoá nhất định. Chính không gian văn
hoá này chi phối cách xử lý đề tài, thể hiện chủ đề, xây dựng nhân vật, sử dụng thủ
pháp nghệ thuật… trong quá trình sáng tác; đồng thời cũng chi phối cách phổ biến,
đánh giá, thưởng thức… trong quá trình tiếp nhận. Một nền văn hoá cởi mở, bao
dung mới tạo điều kiện thuận lợi cho văn học phát triển. Vì vậy, có thể nói văn học
là thước đo, là “nhiệt kế” vừa lượng định, vừa kiểm nghiệm chất lượng và trình độ
văn hoá của một xã hội trong một thời điểm lịch sử nhất định.
Trong tinh thần đó, nhiều nhà nghiên cứu đã căn cứ vào những dữ liệu văn học
để tìm hiểu bức tranh văn hoá của một thời đại. Nói cách khác, thực tiễn văn học có
thể cung cấp những cứ liệu đáng tin cậy cho khoa nghiên cứu văn hoá. Đối với mỗi
quốc gia, văn hóa là giá trị cao quí nhất. Bởi văn hóa (do gốc rễ lịch sử bền sâu bao
giờ cũng có tiềm lực trường tồn lớn hơn những thiết chế văn minh). Văn hóa với sự


2

tích lũy những hằng số lịch sử, mang hồn cốt của một dân tộc và có thể trụ vững
theo thời gian đồng thời định hướng sự phát triển của văn minh. Văn hoá chi phối
hoạt động và sự phát triển của văn học, thì ngược lại, văn học cũng tác động đến
văn hóa, hoặc trên toàn thể cấu trúc, hoặc thông qua những bộ phận hợp thành khác
của nó. Những nhà văn tiên phong của dân tộc bao giờ cũng là những nhà văn hoá
lớn. Giữa văn học và văn hoá có mối quan hệ hữu cơ mật thiết như vậy, nên việc
tìm hiểu văn học dưới góc nhìn văn hoá là một hướng đi cần thiết và có triển vọng.
Cùng với những cách tiếp cận văn học bằng xã hội học, mỹ học, thi pháp học…
cách tiếp cận văn học bằng văn hoá học giúp chúng ta lý giải trọn vẹn hơn tác phẩm
nghệ thuật với hệ thống mã văn hoá được bao hàm bên trong nó. Những yếu tố văn
hoá liên quan đến thiên nhiên, địa lý, lịch sử, phong tục, tập quán, ngôn ngữ… có
thể được vận dụng để cắt nghĩa những phương diện nội dung và hình thức của tác
phẩm. Nó cũng có thể góp phần lý giải tâm lý sáng tác, thị hiếu độc giả và con

đường phát triển nói chung của văn học.
Văn học Việt Nam giai đoạn 1932-1945 mang những giá trị từ nguồn văn
hoá truyền thống âm thầm chảy trong mạch ngầm của nó và thấm vào thế giới hình
tượng và ngôn từ của tác phẩm đồng thời có những giá trị văn hoá mới hình thành
vào lúc đương thời không thôi cám dỗ, kêu gọi, thách thức. Trong văn học thời kì
này, qua tài năng nghệ thuật, sự phá cách, chất hiện đại trong phong cách sáng tác
cùng với vốn văn hóa truyền thống sâu rộng của mình, các tác giả đã cho chúng ta
hiểu được niềm tin thiêng liêng, tín ngưỡng truyền thống, phong tục tạp quán, nếp
cảm nếp nghĩ và những quan niệm thể hiện phương thức tư duy của nhân dân –
những điểm cốt lõi tạo nên giá trị văn hóa tinh thần đặc sắc của dân tộc: văn hóa
tâm linh.
Văn học Việt Nam giai đoạn 1932-1945 một mặt kế thừa các giá trị văn hóa tinh
thần của văn học dân gian và văn học trung đại mặt khác đi sâu khám phá tâm hồn
phức tạp của con người trong thời đại mới. Sự phá cách, chất hiện đại trong phong
cách sáng tác của các nhà văn đã làm nên sự đa sắc cho giai đoạn văn học này.
Trong thời đại của chúng ta, vấn đề tâm linh con người được quan tâm chú ý nhiều


3

hơn bởi “tâm linh trong cuộc sống của con người thuộc về văn hóa, và phải được
đối xử một cách văn hóa” [33; tr 328]. Vì vậy chúng tôi chọn đề tài: “Văn hóa tâm
linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam 1932-1945” như một hành trình tìm
hiểu truyền thống văn hóa Việt Nam trong dòng chảy của văn học dân tộc.
2. Lịch sử vấn đề
Tâm linh là vấn đề phức tạp chưa được tìm hiểu thấu đáo. Đã có một thời
người ta đồng nhất tâm linh với mê tín dị đoan và ra sức bài trừ. Những năm gần
đây, trên tinh thần cởi mở để hòa nhập cùng thế giới, vấn đề tâm linh được đề cập
nhiều hơn. Người ta nói nhiều về tâm linh như thế giới tâm linh, đời sống tâm linh,
giải tỏa tâm linh, văn hóa tâm linh... Tâm linh đối với văn học đã có gắn kết nhau

như duyên nợ nên việc đi sâu khám phá tâm linh sẽ là hướng đi đúng quĩ đạo của
văn học, Huỳnh Như Phương cũng có ý cho rằng tìm hiểu tâm linh là hướng đi vào
thế giới nội tâm để khám phá chiều sâu tâm linh nhằm nhận diện hình ảnh con
người đích thực là ý hướng có triển vọng của nền văn học dân chủ. Con người với
đời sống tâm hồn vốn là một kho báu bí ẩn đối với nhà văn. Nói như nhà văn Môôm thì chính đời sống tâm linh đã làm cho bản chất của con người chứa đầy những
yếu tố bất ngờ, bí ẩn.
Văn học chính là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa tinh thần cho mọi thế hệ.
Từ văn học hiểu thêm về văn hóa, đứng ở góc độ văn hóa nhìn sang văn học, văn
hóa được nhận ra một cách tinh tế và văn học có nền tảng vững chắc như cội cây đã
được sâu rễ bền gốc.
Xung quanh đề tài luận văn về Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu
thuyết Việt Nam 1932-1945, trong phạm vi tư liệu sưu tầm được, chúng tôi điểm
qua một số công trình, bài báo khoa học có liên quan đến vấn đề này.
Về văn hóa tâm linh, trong nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa, các tác
giả đều có đề cập những vấn đề liên quan đến văn hóa tâm linh. Tuy nhiên sự đề cập
mới chỉ dừng lại ở việc nêu hiện tượng, nhìn nhận khái quát.
Công trình “Văn hóa tâm linh” (2002) của Nguyễn Đăng Duy giới thiệu
những vấn đề về văn hóa tâm linh người Việt ở miền Bắc trong các lĩnh vực: tín


4

ngưỡng, thần thánh, trời đất, thờ Mẫu, tang ma, thờ cúng tổ tiên, các tôn giáo Phật,
Đạo, Thiên chúa giáo. Tác giả nhìn khái quát về tâm linh trong mọi mặt đời sống.
Trong đó có khía cạnh tâm linh trong văn học nghệ thuật “tâm linh trong sáng tác
văn học nghệ thuật là những hình ảnh, biểu tượng thiêng liêng nào đó mà tác giả
thể hiện được ra trong tác phẩm, làm rung động những trái tim, ngấn lệ những tâm
hồn” [20; tr 38].
Công trình “Phân tâm học và văn hóa tâm linh” của S.Freud, C.Jung,
E.Fromm, R.Assagioli do Đỗ Lai Thúy biên soạn (2004). Công trình này đã đi sâu

vào tìm hiểu con người với ba kích thước cơ bản. Đó là con người với bản chất sinh
học, con người với bản chất xã hội và con người với bản chất tâm linh. Trong công
trình này, S.Freud và C.Jung đã phân tích tâm linh như một lĩnh vực của đời sống
tinh thần. Tâm linh không đồng nhất với tín ngưỡng và tôn giáo. Tâm linh không
nằm ngoài phạm vi nghiên cứu khoa học, mà còn là đối tượng của khoa học. Tâm
linh cùng với khoa học và tôn giáo sẽ đưa con người đến một sự phát triển hài hòa
tất cả các mặt sinh học - xã hội - tâm lí - tâm linh. S.Freud đã lí giải tâm linh con
người từ nguồn gốc của tục Tôtem và C.Jung lí giải về giấc mơ của con người.
Cùng với lí thuyết Phân tâm học và tôn giáo của E.Fromm, lí thuyết Phân tâm học
và Thiền, lí thuyết về sự phát triển của siêu cá nhân đã giúp cho chúng ta có cái
nhìn khoa học về các hiện tượng tâm linh.
Gần với công trình trên là chuyên luận “Tìm hiểu văn hóa tâm linh Nam
Bộ” (2004) của Nguyễn Hữu Hiếu bàn về văn hóa tâm linh của người Việt ở Nam
Bộ qua tín ngưỡng thờ Mẫu và các lễ hội cổ truyền từ sự ảnh hưởng của văn hóa
Chăm.
Với công trình nghiên cứu “Văn hóa tâm linh Thăng Long Hà Nội” của
Văn Quảng, chúng ta được hiểu thêm những biểu hiện phong phú, đa dạng về tâm
thức cũng như hoạt động thờ cúng cụ thể trong đời sống tinh thần, văn hóa tâm linh
của cư dân Thăng Long - Hà Nội. Qua đây, tác giả đã giới thiệu về những công
trình văn hóa vật chất đậm tính tâm linh: phủ, điện, đình, đền, chùa, miếu… cùng


5

với những tín ngưỡng thờ Mẫu, thờ cúng các thần và những tín ngưỡng tâm linh nổi
bật nhất ở mảnh đất kinh kì ngàn năm văn hiến.
Bài viết “Tiếp cận vấn đề tâm linh” của Sơn Nam đã khẳng định tâm linh là
vấn đề “bản sắc văn hóa” [69; tr 282], tác giả đã đi tìm ranh giới giữa tâm linh với
tín ngưỡng và mê tín.
Bài viết “Tinh thần phân tích tâm linh một đặc trưng của chủ nghĩa hiện

thực” của PGS.TS. Phùng Quí Nhâm đã góp thêm một cách nhìn về tâm linh con
người. Ông xem phân tích tâm linh con người cũng là một trong những đặc trưng
quan trọng của chủ nghĩa hiện thực.
Trong bài viết “Văn hóa và thị trường” GS.TS. Nguyễn Văn Hạnh nhận
định rằng “Tâm linh có vị trí hiển nhiên và nổi bật trong đời sống tinh thần của con
người. Có thể coi con người là một sinh vật tâm linh” [33; tr 328].
Trong những công trình bàn về thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam
1932-1945 chúng tôi chú ý đến những công trình của Bùi Việt Thắng bởi trong
công trình nghiên cứu Truyện ngắn - những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại,
ít nhất có ba lần Bùi Việt Thắng nhắc đến vấn đề “truyện ngắn được quan niệm là
một bộ phận của tiểu thuyết” [90; tr 36-71-132]
Bài viết “Tâm linh- bản thể con người” của Nguyễn Kiên trên Tạp chí Tia
sáng góp phần làm rõ cốt lõi của đời sống tâm linh ở trong bản thể của con người.
Luận văn thạc sĩ của Hoàng Thị Minh Phương về “Văn hóa tâm linh trong
văn xuôi trung đại” đã góp phần tìm hiểu những giá trị đặc sắc của các văn hóa tâm
linh trong văn xuôi trung đại.
Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thu Hiền đã tìm hiểu “Yếu tố tâm linh trong
truyện ngắn sau 1975”. Qua công trình này, chúng ta thấy rằng yếu tố tâm linh có
những giá trị như hằng số trong văn học nói riêng và trong đời sống văn hóa Việt
nói chung theo suốt chiều dài của lịch sử dân tộc.
Mặc dù vấn đề tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945
chưa được quan tâm nhiều, nhưng cũng có một vài công trình nghiên cứu liên quan
đến tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945. Đó là luận văn


6

thạc sĩ của Trần Thanh Tùng nghiên cứu về Yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn
Việt Nam giai đoạn 1930-1945. Qua luận văn này, người viết đi vào tìm hiểu yếu tố
kỳ ảo như một thủ pháp nghệ thuật trong văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930-1945.

Như vậy, vấn đề tâm linh trong văn học đã được một số nhà nghiên cứu bàn
đến ở những phạm vi khác nhau. Nhìn chung các nhà nghiên cứu thừa nhận có một
thế giới tâm linh tồn tại trong đời sống con người Việt Nam từ xưa đến nay, đặc biệt
là trong văn học. Tuy nhiên, trong truyện ngắn, tiểu thuyết Viêt Nam 1932-1945
vẫn chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu và qui mô. Từ những ý kiến quí báu
của những người nghiên cứu đi trước, chúng tôi chọn vấn đề văn hóa tâm linh và đi
sâu vào đề tài “Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 19321945” yếu tố quan trọng làm nên giá trị của văn học giai đoạn này.
3. Mục đích nghiên cứu
Tác phẩm văn học tái hiện lại đời sống của con người. Văn học Việt Nam có nhiều
thay đổi và để lại dấu ấn đậm nét nhất ở giai đoạn 1932-1945. Đây là thời kì hoàn
thiện diện mạo hiện đại trên tất cả mọi phương diện của đời sống văn chương nghệ
thuật dân tộc.
Truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945 không chỉ phản ánh hiện thực
phức tạp của đời sống mà còn đi sâu vào thế giới tâm linh của con người. Trong
cách cảm nhận thế giới của người Việt “thiên nhân tương cảm”, “địa linh sinh
nhân kiệt”, “vạn vật hữu linh” nên truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945
cũng để lại dấu ấn tâm linh trong các tác phẩm... Chính vì thế, luận văn đi sâu tìm
hiểu văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945 để cóp
nhặt những hiện tượng mang dấu ấn văn hóa tâm linh- một biểu hiện của truyền
thống văn hóa Việt trong sáng tác của các nhà văn hiện đại. Đồng thời cũng giúp ta
nhận thấy sức hấp dẫn của những truyện ngắn, tiểu thuyết mang yếu tâm linh. Đó
cũng là sự minh chứng cho một dòng văn học về tâm linh vẫn ngầm chảy trong lịch
sử văn học nước nhà.
4. Phạm vi nghiên cứu


7

Trong phạm vi đề tài và tư liệu, chúng tôi chỉ khảo sát những tác phẩm
truyện ngắn và tiểu thuyết có xuất hiện nhiều yếu tố tâm linh của các tác giả tiêu

biểu ở miền Bắc giai đoạn 1932-1945. Cụ thể gồm 16 tác giả và 75 tác phẩm
(truyện ngắn, tiểu thuyết) như sau:
1. Nam Cao

- 2 truyện ngắn

2. Phạm Cao Củng

- 1 truyện ngắn

3. Bùi Hiển

- 2 truyện ngắn

4. Nguyên Hồng

- 2 truyện ngắn; 1 tiểu thuyết

5. Lan Khai

- 8 truyện ngắn; 1 tiểu thuyết

6. Cung Khanh

- 6 truyện ngắn

7. Nhất Linh

- 4 truyện ngắn;1 tiểu thuyết


8. Thế Lữ

- 5 truyện ngắn; 2 tiểu thuyết

9. Hoàng Trọng Miên

- 5 truyện ngắn

10. Đỗ Huy Nhiệm

- 5 truyện ngắn

11. Vũ Trọng Phụng

- 1 truyện ngắn; 2 tiểu thuyết

12. Trần Tiêu

- 5 truyện ngắn; 2 tiểu thuyết

13. Thanh Tịnh

- 4 truyện ngắn

14. Ngô Tất Tố

- 1 tiểu thuyết

15. Nguyễn Tuân


- 11 truyện ngắn; 1 tiểu thuyết

16. TCHYA- Đái Đức Tuấn - 1 truyện ngắn; 2 tiểu thuyết
Trên cơ sở thống kê, phân loại các hiện tượng tâm linh trong các tác phẩm
dựa trên hệ qui chiếu từ văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam (phong tục, tập
quán, tín ngưỡng, quan niệm, nếp cảm nếp nghĩ...), chúng tôi đã bước đầu giải thích
một cách có cơ sở một số hiện tượng tâm linh phổ biến trong đời sống tinh thần của
người dân Việt. Qua đó, chúng ta sẽ thấy được ý nghĩa của yếu tố tâm linh đối với
các truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945.
5. Phương pháp nghiên cứu


8

5.1. Phương pháp lịch sử
Tác phẩm văn học là sản phẩm của một hoàn cảnh lịch sử trong tiến trình
phát triển của lịch sử dân tộc. Vì vậy, hướng đến việc tìm hiểu hoàn cảnh lịch sử xã
hội, môi trường văn hóa tư tưởng chung của thời đại trong mối tương tác của chúng
với tác giả sẽ giúp chúng tôi lí giải yếu tố văn hóa trong văn học một thời đại.
5.2. Phương pháp hệ thống
Chúng tôi coi truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932–1945 là một bộ phận,
một hệ thống. Trong đó những tác phẩm mang yếu tố tâm linh được đặt trong hệ
thống chung của truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam để khảo sát.
Căn cứ vào những số liệu có được từ thao tác thống kê, phân loại từ tần số
xuất hiện các hiện tượng tâm linh, chúng tôi sử dụng phương pháp tổng hợp nhằm
lý giải những yếu tố tâm linh trong từng tác phẩm thuộc phạm vi khảo sát. Từ đó có
cái nhìn toàn diện về văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam giai
đoạn 1932- 1945.
5.3. Phương pháp so sánh
Sử dụng phương pháp so sánh giúp chúng tôi thấy được điểm giống và khác

nhau giữa các yếu tố tâm linh trong từng tác phẩm của các tác giả khác nhau, cũng
như góp phần làm rõ sự giống và khác nhau của những yếu tố tâm linh trong truyện
ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945 so với văn học trung đại Việt Nam và truyện
ngắn Việt Nam sau 1975.
5.4. Phương pháp phân tích tổng hợp
Phương pháp phân tích, tổng hợp cũng được chúng tôi sử dụng trong quá
trình tiếp nhận, nghiên cứu truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam có yếu tố tâm linh
giai đoạn 1932-1945. Phương pháp này giúp chúng tôi xem xét yếu tố tâm linh trên
những cơ sở nhất định đồng thời rút ra những nhận định xác thực về sự tồn tại của
tâm linh trong dòng chảy của văn học.


9

5.5. Phương pháp liên ngành
Phương pháp này cũng được sử dụng trong luận văn của chúng tôi để việc
nghiên cứu hướng đến mục đích giúp người đọc thấy rõ vấn đề tâm linh thuộc về
văn hóa. Hơn thế, văn hóa và văn học luôn có mối quan hệ mật thiết.


10

6. Đóng góp của luận văn
Luận văn tập trung tìm hiểu những biểu hiện của văn hóa tâm linh trong
truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945. Từ đó góp phần lí giải cho một số
vấn đề tâm linh trong văn học thời kì này, đồng thời làm sáng tỏ giá trị của những
tác phẩm truyện ngắn, tiểu thuyết có yếu tố tâm linh.
7. Bố cục của luận văn gồm: (142 trang)
Dẫn luận (10 trang)
Chương 1: Những vấn đề chung (29 trang)

Trong chương 1, chúng tôi giới thiệu khái quát bối cảnh văn hóa - văn học
Việt Nam giai đoạn 1932-1945. Trên nền một xã hội có những biến đổi về kinh tế,
chính trị, văn hóa... văn học cũng có sự vận động, phát triển theo xu hướng phù hợp
với thời đại mới. Đặc biệt là thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết đã có bước hiện đại
hóa đáng kể và có nhiều đóng góp lớn cho nền văn học nước nhà. Trong dòng chảy
chung của văn học, chúng tôi muốn tìm về cội nguồn của văn hóa tâm linh trong
văn học dân tộc. Những vấn đề trên sẽ được làm sáng tỏ qua các mục sau:
1.1.Văn hóa tâm linh
1.2. Cơ sở hình thành yếu tố tâm linh trong văn hóa Việt Nam
1.3.Truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1932-1945
1.4.Cơ sở hình thành yếu tố tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam
1932-1945
Chương 2: Những biểu hiện của văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu
thuyết Việt Nam 1932-1945 (53 trang)
Chúng tôi phân tích các biểu hiện văn hóa tâm linh của người Việt Nam qua các
truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1932-1945. Bước đầu tiếp cận, chúng
tôi cóp nhặt và phân biệt những biểu hiện văn hóa tâm linh qua những hình thức
biểu hiện cụ thể:
2.1. Mộng
2.2 .Cầu cúng, khấn vái
2.3. Điềm báo


11

2.4. Phép thuật, bói toán
2.5. Linh ứng
2.6. Hồn ma, hóa kiếp
Chương 3: Hiệu quả thẩm mĩ của yếu tố tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt
Nam 1932-1945 (39 trang)

Tâm linh là một vấn đề thuộc về văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Vì vậy, khai thác yếu tố tâm linh chính là cách thức để nhà văn đi sâu vào thế giới
tâm linh đầy bí ẩn của con người. Chính vì thế, yếu tố tâm linh đã góp phần tạo nên
những giá trị khó phủ nhận về mặt nội dung và nghệ thuật. Nó là phương thức thể
hiện quan niệm mới về thế giới, cuộc sống và là một thủ pháp để nhà văn đi sâu vào
khám phá nội tâm phức tạp của con người. Từ đó, chúng tôi tìm hiểu hiệu quả nghệ
thuật của yếu tố tâm linh qua các mục sau:
3.1. Yếu tố tâm linh – Phản ánh hiện thực
3.2. Yếu tố tâm linh – Ý nghĩa nhân văn
3.3. Yếu tố tâm linh – Đặc sắc nghệ thuật của truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam
1932-1945
Kết luận (3 trang)
Tài liệu tham khảo (8 trang)


12

NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Văn hóa và văn hóa tâm linh
1.1.1. Văn hóa
Văn hóa (Culture) là một khái niệm rộng, khó có một định nghĩa nào bao
quát đầy đủ nội hàm của nó. Văn hóa bao gồm hết thảy những sinh hoạt của loài
người, từ sinh hoạt vật chất đến sinh hoạt tinh thần và sinh hoạt xã hội. Mọi hoạt
động của con người và kết quả của những hoạt động do con người tác động vào giới
tự nhiên và xã hội một cách có ý thức đều được gọi là văn hóa. Quá trình phát triển
của loài người gắn liền với các hoạt động cải biến hoàn cảnh tự nhiên và xã hội.
Con người sáng tạo ra văn hóa và văn hóa lại tái tạo bản thân con người.
Nhìn một cách khái quát “văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật

chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử” [76; tr 1360].
Hồ Chí Minh cũng xem văn hóa là sáng tạo của con người “vì lẽ sinh tồn cũng như
mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ
viết, đạo đức, pháp luật, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt
hằng ngày về mặc ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và
phát minh đó tức là văn hóa” [109; tr 21].
Văn học là một hình thái đặc biệt của văn hóa, thuộc về hệ ý thức, lĩnh vực
văn hóa tinh thần. Với đối tượng nghiên cứu là một phương diện của văn hóa tinh
thần - văn hóa tâm linh trong văn học, chúng tôi lưu ý đến một số định nghĩa sau:
“Văn hóa theo nghĩa rộng là tập tục, tín ngưỡng, ngôn ngữ, tư tưởng, thị hiếu thẩm
mĩ,... những hiểu biết kĩ thuật cũng như toàn bộ việc tổ chức môi trường của con
người, những công cụ, nhà ở,... và nói chung là toàn bộ công nghiệp có thể truyền
lại được, điều tiết những quan hệ và những ứng xử của một nhóm xã hội với môi
trường sinh thái của nó” [20; tr 24].


13

Cũng có thể hiểu“Văn hóa là một chỉnh thể phức hợp bao gồm tri thức, tín
ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, tập tục và bất kì năng lực thói quen nào
khác mà con người cần có với tư cách là một thành viên của xã hội” [110; tr13].
Nhân dịp phát động thập kỉ thế giới phát triển văn hóa (1977-1988), tổ chức
văn hóa thế giới UNESCO công bố định nghĩa mới về văn hóa: “Văn hóa hôm nay
có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm
quyết định tính cách của một xã hội hay củabao gồm các mặt tình cảm, tri thức, vật
chất, tinh thần của xã hội. Nó không thuần túy bó hẹp trong sáng tác nghệ thuật
một nhóm người trong người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn
chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các
giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng” [110; tr 23-24].
Từ các định nghĩa trên, có thể hiểu văn hóa theo hai nghĩa rộng - hẹp. Nghĩa

rộng, văn hóa bao gồm các giá trị vật chất (văn hóa vật chất) và các giá trị tinh thần
(văn hóa tinh thần) do con người sáng tạo và tích lũy qua hoạt đông thực tiễn trong
quá trình lịch sử. Nghĩa hẹp, văn hóa chỉ liên quan đến đời sống tinh thần của con
người, tức những giá trị tinh thần nhằm thỏa mãn đời sống tinh thần của con người.
Với đối tượng nghiên cứu của luận văn là văn hóa tâm linh, chúng tôi vận
dụng khái niệm văn hóa theo nghĩa hẹp là những giá trị văn hóa trong lĩnh vực tinh
thần- văn hóa tinh thần. Đó là “những di sản văn hóa đem lại nguồn cảm hứng
thẩm mĩ cho con người bằng những hoạt động của các loại hình nghệ thuật. Cụ thể
là văn, thơ, hát... nghề mĩ nghệ thủ công, trò chơi nghệ thuật... Cùng với các loại
hình trên là phong tục, tập quán, lễ nghi, tín ngưỡng, tết, luật tục và những hương
ước, định ước và những tri thức dân gian” [12; tr 19]. Ở đây, có thể coi những
thành tố phong tục tập quán, lễ nghi, tín ngưỡng đều thuộc về văn hóa tâm linh bởi
chúng đều gắn với yếu tố tâm linh - một thành tố quan trọng trong đời sống văn hóa
tinh thần dân tộc. Văn hóa tâm linh luôn tác động đến sự phát triển của văn hóa dân
tộc.
Văn hoá không phải là một sản phẩm tinh thần chết cứng; trái lại, nó cũng có
sự vận động do sự phát triển ngày càng phong phú của đời sống vật chất. Nếu coi


14

văn hoá là một cái gì đó bất biến, thì có nghĩa là chúng ta đang hủy hoại, phá bỏ văn
hoá, phá bỏ chính cuộc sống tinh thần của chúng ta. Bởi, văn hoá cũng cần phải
thích ứng với những thay đổi của điều kiện xã hội để tồn tại. Nếu không thích ứng
kịp với những biến chuyển của thời gian, thì đời sống tinh thần nói chung, văn hoá
nói riêng của con người sẽ khô cứng mà chết dần. Có thể nói, đó chính là sự thể
hiện quy luật đào thải của tự nhiên trong lĩnh vực văn hoá.
1.1.2. Tâm linh
Tâm linh hay văn hóa tâm linh là một phạm trù rất bao la, rộng lớn và đã chi
phối chúng ta từng phút giây trong đời sống của mỗi con người. Vậy tâm linh là gì?

Qua tìm hiểu một số tài liệu, chúng tôi thấy có khá nhiều cách hiểu khác nhau về
tâm linh, do vậy cũng có nhiều khái niệm tâm linh .
Hướng thứ nhất, tâm linh được hiểu là khía cạnh tâm hồn, tinh thần, tình cảm
của con người. Theo Từ điển Tiếng Việt 2000, tâm linh là “tâm hồn, tinh thần” [76;
tr 897]. Trong đó, tâm hồn là “ý nghĩ và tình cảm làm thành đời sống nội tâm, thế
giới bên trong của con người” [76; tr 896] và tinh thần là “tổng thể nói chung
những ý nghĩ tình cảm, những hoạt động thuộc về đời sống nội tâm của con người"
[76; tr 994]. Theo đó, thế giới tâm linh là thế giới tâm hồn, thế giới tinh thần. Nói
đến tâm linh là nói đến đời sống nội tâm của con người trong tương quan với đời
sống vật chất bên ngoài. Tâm linh còn là một phần của tâm lí. Vì tâm lí là “toàn bộ
nói chung sự phản ánh của hiện thực khách quan vào ý thức con người, bao gồm
nhận thức, tình cảm, ý chí... biểu hiện trong hoạt động cử chỉ của mỗi người” [76;
tr 897]. Vậy tâm linh theo đó là một biểu hiện của đời sống tâm lí con người ở khía
cạnh tình cảm.
Hướng thứ hai, tâm linh được hiểu như một khả năng phán đoán, biết trước
sự việc. Trong Pháp Việt từ điển của Lê Khả Kế, tâm linh là “linh tính”. Từ điển
Tiếng Việt (2008) của Hoàng Phê cũng có nét nghĩa tâm linh là “khả năng biết
trước một số biến cố nào đó sẽ xảy ra đối với mình, theo quan niệm duy tâm”
[76;tr897].


15

Cả hai hướng hiểu trên điều có chung một ý niệm về tâm linh gắn với con
người, trong ý thức của con người. Tuy nhiên nếu hiểu tâm linh trong thực tế đời
sống tinh thần của con người. “Tâm’’ là lòng dạ con người. Còn “linh” nghĩa là linh
thiêng, thiêng liêng. Vậy ‘‘Tâm linh’’ theo nét nghĩa này là sự linh thiêng được con
người thường xuyên nghĩ tới, tự nhắc mình ghi nhớ làm theo, tin theo.
Tâm linh là một phần quan trọng trong đời sống bởi “trong đời sống con
người ngoài mặt hiện hữu còn có mặt tâm linh. Về mặt cá nhân đã như vậy, mà mặt

cộng đồng ( gia đình, làng xã, dân tộc) cũng vậy. Nếu mặt hiện hữu của đời sống
con người có thể nhận thức qua những tiêu chuẩn cụ thể, có thể cảm nhận bằng
những giác quan cụ thể thì về mặt tâm linh bao giờ cũng gắng với cái trừu tượng,
rất mông lung, nhưng lại không thể thiếu ở con người. Con người sở dĩ trở thành
con người, một phần căn bản là do nó có đời sống tâm linh. Nghĩa là tuân theo
những giá trị bắt nguồn từ cái thiêng liêng, cái bí ẩn, những giá trị tạo thành đời
sống tâm linh của nó” [68; tr 36].
Tâm linh là thế giới của cái thiêng liêng, cao cả mà con người luôn hướng tới
nên nó có giá trị cố kết cộng đồng, ràng buộc con người bên cạnh những mối quan
hệ hữu hình khác. Vì vậy tâm linh có mặt trong cả đời sống tinh thần, đời sống xã
hội và đời sống tôn giáo “Không chỉ có thượng đế, có Chúa, Trời, Thần, Phật mới
thiêng liêng mà cả Tổ quốc, lòng yêu thương con người, sự thật công lí cũng thiêng
liêng không kém” [20; tr 8]. Hiểu tâm linh một cách toàn diện khi ta xem xét khái
niệm tâm linh của Nguyễn Đăng Duy: “Tâm linh là cái thiêng liêng cao cả trong
cuộc sống đời thường, là niềm tin thiêng liêng trong tín ngưỡng tôn giáo. Cái thiêng
liêng cao cả, niềm tin thiêng liêng ấy được đọng lại ở những biểu tượng, hình ảnh, ý
niệm” [20; tr 11]. Qua khái niệm, ta thấy có ba điểm cốt lõi :
Thứ nhất, Tâm linh là vấn đề thuộc ý thức, gắn liền với ý thức con người.
không có ý thức của con người thì không có tâm linh. Trong ý thức con người, tâm
linh là một dạng của ý thức – ý thức hướng về cái thiêng liêng. Ý thức tâm linh
thường được biểu hiện dưới dạng quan niệm và những hình ảnh, biểu tượng thiêng
liêng.


16

Thứ hai, hạt nhân cơ bản của tâm linh là niềm tin, không có niềm tin chắc
chắn không có tâm linh. Đó là niềm tin, sự ngưỡng vọng vào cái thiêng, gọi là niềm
tin tâm linh. Do vậy niềm tin tâm linh thuộc về bản chất của con người, nó là nhân
tố cơ bản tạo nên đời sống tâm linh của con người, cũng giống như đời sống vật

chất, đời sống xã hội, tinh thần, tư tưởng.
Thứ ba, Tâm linh tồn tại trong đời sống cá nhân, gia đình, cộng đồng làng xã,
Tổ Quốc, trong văn học nghệ thuật, trong tín ngưỡng tôn giáo.
Tâm linh và tín ngưỡng có mối quan hệ gì ? Tín ngưỡng (tin tưởng, ngưỡng
mộ) thường gắn liền với niềm tin tôn giáo. Tín ngưỡng cũng là nét văn hóa, một
lĩnh vực thuộc về niềm tin, một nếp nghĩ được kết tinh bởi ý thức của một cộng
đồng tạo thành một phong tục, tạp quán có ý nghĩa như một nét văn hóa của một
dân tộc, một quốc gia.
Tín ngưỡng không chỉ có trong niềm tin tôn giáo mà còn là niềm tin thuần
túy dân gian. Đó là niềm tin vào lực lượng siêu nhiên, thánh thần trong thế giới
quan của nhân dân. Những lực lượng có sức mạnh phi phàm chi phối cuộc sống con
người. Những lực lượng ấy có thể là nhiên thần, nhân thần đã gây họa hay tác phúc,
can thiệp vào các hoạt động sống của con người.
Tín ngưỡng được hình thành xuất phát từ thực tế cuộc sống, được cộng đồng
tin tưởng và làm theo như một tạp quán đậm dấu ấn của cư dân bản địa. Đó cũng là
một niềm tin thiêng liêng mang tính tâm linh.
Tâm linh và tôn giáo quan hệ như thế nào? Tôn giáo là một dạng đặc biệt của
văn hóa tinh thần, tôn giáo có vị trí vô cùng quan trọng trong đời sống con người.
Theo cách hiểu phổ biến: tôn giáo là một dạng sinh hoạt tâm linh trong đó con
người tin vào sự hiện hữu của các thế lực siêu nhiên, siêu phàm có thể tác động đến
đời sống của con người khi còn sống cũng như khi đã chết. Niềm tin linh hồn của
người chết vẫn tồn tại trong thế giới khác. Từ đó con người tôn thờ các lực lượng
siêu nhiên, những linh hồn của người chết với hi vọng có cuộc sống bình an nơi trần
thế và hưởng phúc vĩnh hằng nơi thế giới khác sau khi chết.


17

Cơ sở của mọi tôn giáo là niềm tin của con người vào cái thiêng đối lập với
cái trần tục hiện hữu mà ta có thể cảm nhận trực tiếp bằng cách sờ mó, quan sát.

Tùy theo mỗi loại tôn giáo mà cái thiêng có thể biểu hiện thông qua hệ thống các
biểu tượng và các biểu tượng ấy chế định quy cách ứng xử của con người với tự
nhiên và con người với con người trong xã hội.
Tâm linh và tôn giáo có điểm tương đồng là niềm tin thiêng liêng. Tuy niềm
tin tôn giáo là biểu hiện của đời sống tâm linh nhưng nó không đồng nhất với tâm
linh. Trong niềm tin tôn giáo, ngoài phần tâm linh còn có phần mê tín dị đoan, thậm
chí có cả sự cuồng tín tôn giáo. Tâm linh là phần cơ bản nhất, là biểu hiện mặt tích
cực của tôn giáo, có giá trị nhất (mặt đạo đức và văn hóa, tính hướng thiện, tính
nhân văn). Mỗi tôn giáo đều hướng về những hình tượng thiêng liêng (Phật trong
Phật giáo, Chúa trong Gia tô giáo...) và đặt đức tin vào giáo lí, tín điều riêng. Các
tôn giáo có chung tâm linh hướng về thế giới khác. Ở đó linh hồn hạnh phúc trọn
vẹn sau khi từ giã cõi đời ( niết bàn, thiên đàng,...). Bên cạnh mặt tích cực, có văn
hóa là hướng con người đến điều thiện, cái đẹp, cái cao cả... tôn giáo có thể bị lợi
dụng vì mục đích riêng của con người khiến nó có thể đi ngược lại cái tốt đẹp, trở
thành phản giá trị, phi văn hóa. Ở khía cạnh nảy có thể nói “Tôn giáo là thuốc phiện
của nhân dân” (K. Marx).
Tâm linh và mê tín dị đoan có giống nhau không ? Mê tín là tin một cách mê
muội bất cứ một điều gì, còn dị đoan là tin theo những việc kì dị, những việc không
thể có được.
Qua Tín ngưỡng Việt Nam của Toan Ánh, ta thấy người có óc mê tín thì bạ
đâu tin đó, tin cả điều hay cả điều dở, tin điều phải mà cũng tin điều trái, không suy
xét, còn người có óc dị đoan thì ưa tin những điều huyền hoặc, càng dị kì lại càng
tin.
Thực chất các tôn giáo, tín ngưỡng đều có tính chất mê tín nhưng đó là niềm
tin không mang tính dị đoan. Tuy nhiên mê tín và dị đoan thường đi liền mà con
người khó phân biệt rạch ròi do niềm tin vào những điều không thật vốn dễ đưa con


18


người vượt qua ranh giới của tâm linh. Niềm tin bị bóp méo, biến dạng dễ trở thành
mê tín dị đoan.
Niềm tin trong mê tín dị đoan dễ dẫn con người đến những hành vi sai lệch,
có hại cho cuộc sống, tạo kẽ hở cho những người cơ hội lợi dụng kiếm lợi bất chính,
thực hiện những việc làm “buôn thần bán thánh” làm mất đi nét đẹp văn hóa, ý
nghĩa thiêng liêng trong cuộc sống con người.
Tín ngưỡng và tôn giáo cũng phát tín hiệu về niềm tin thiêng liêng. Tuy
nhiên, tôn giáo gây dựng niềm tin cho con người dựa trên những triết thuyết, giáo lí,
kinh sách và hệ thống lễ nghi mang tính giáo hóa tín đồ ngoan đạo và luôn hướng
đến một đấng tối cao để cầu mong cho sự giải thoát, cầu mong cho cuộc sống sau
khi chết. Trong khi đó, tín ngưỡng lại là sự tự ý thức về lực lượng siêu nhiên với
niềm tin, sự ngưỡng mộ của cộng đồng với hình thức thông linh và thờ cúng mang
tính dân gian, theo quan niệm dân gian nhằm tỏ lòng biết ơn hoặc cầu mong những
điều tốt đẹp cho cuộc sống trần thế, đi tìm hạnh phúc cho con người ngay khi đang
sống: cầu quốc thái dân an, cầu sức khỏe, cầu làm ăn thịnh vượng, cầu con cái, cầu
duyên...
Từ sự phân biệt trên ta có thể thấy rằng: bên cạnh tôn giáo, tín ngưỡng có
một vị trí độc lập, là thành tố quan trọng của đời sống tâm linh. Đây là cơ sở để
phân biệt các hiện tượng tâm linh là tín ngưỡng tôn giáo (niềm tin của các tín đồ)
hay tín ngưỡng dân gian (niềm tin của các tầng lớp nhân dân).
1.1.3. Văn hóa tâm linh
Văn hóa tâm linh là thuật ngữ xuất hiện nhiều vào khoảng mười lăm năm gần
đây, nhất là sau khi một số nhà nhân học, tâm lí học, khoa học xã hội quốc tế thừa
nhận yếu tố tâm linh, một trong bốn thuộc tính của con người (con người xã hội,
con người sinh học, con người tâm lí, con người tâm linh).
Khi ghép “Tâm linh” vào “Văn hóa”, thì khái niệm “Văn hóa tâm linh” là
hình thái văn hóa của một tộc người gồm: tôn giáo, tín ngưỡng, nghệ thuật dân gian
(folklore) và một phần của sáng tạo khoa học, nghệ thuật... Từ cách hiểu và giới hạn
khái niệm văn hóa và tâm linh, chúng tôi hiểu văn hóa tâm linh là những giá trị văn



19

hóa tinh thần thiêng liêng. Đó là “văn hóa biểu hiện những giá trị thiêng liêng trong
cuộc sống đời thường và biểu hiện niềm tin thiêng liêng trong cuộc sống tín ngưỡng
tôn giáo” [20; tr.26].
Thuộc lĩnh vực văn hóa tinh thần, nhưng văn hóa tâm linh với những đặc thù
riêng không chỉ gồm những giá trị văn hóa vô hình (ý niệm, quan niệm, tập tục, nếp
cảm nếp nghĩ, nghi lễ...) mà cả những giá trị văn hóa hữu hình phát tín hiệu thiêng
liêng (đình, đền, miếu, mộ, chùa, nhà thờ, tượng, bàn thờ...).
Văn hóa tâm linh biểu hiện trong cả cuộc sống đời thường và trong tín
ngưỡng tôn giáo. Có thể thấy trong cuộc sống con người luôn tồn tại đời sống tâm
linh bên cạnh đời sống hiện thực thường ngày với những nhu cầu vật chất (ăn, mặc,
ở, đi lại, học hành, chăm sóc sức khỏe...). Đời sống tâm linh là một phần của đời
sống tinh thần. Ở đó có niềm tin vào “cái thiêng” khiến con người có được sự cân
bằng trong cuộc sống. Với những người không theo tôn giáo, đời sống tâm linh chỉ
xuất hiện khi “hoàn cảnh thiêng”, “không gian thiêng”, “thời gian thiêng”. Đó là
vào những hoàn cảnh con người phải cầu viện vào sự phù hộ của Thánh Thần, Trời,
Phật, Chúa... Đó là thời khắc thiêng liêng như ngày cúng giỗ (kị), đêm giao thừa,
ngày tết, ngày rằm, các lễ hội có phần lễ thiêng liêng... những lúc ấy con người giao
hòa với trời đất, thiên nhiên và những thế lực siêu hình (ông bà tổ tiên, Thánh Thần,
Trời, Phật, Chúa...). Sống trong bầu không khí thiêng liêng mang tính tâm linh ấy
con người thực sự được giải tỏa tâm linh. Họ cảm thấy tinh thần được thư giãn, tâm
hồn được tắm gội thanh lọc, họ cởi bỏ những phiền muộn, lo âu trong cuộc sống, họ
cầu mong hi vọng và hướng đến những điều tốt đẹp cho bản thân, gia đình và xã hội
ngay trong cuộc sống hiện tại. Sống đời sống tâm linh chính là cách để con người
đến gần hơn với thế giới tâm linh - thế giới của những biểu trưng về “đạo trời”, của
những lực lượng siêu nhiên huyền bí với quyền năng vô hạn chi phối cuộc sống trần
thế.
Trong luận văn của mình, chúng tôi bước đầu tìm hiểu văn hóa tâm linh trong

truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam trong một thời đại có sự tiếp thu văn học phương
Tây. Vì thế những biểu hiện của văn hóa tâm linh trong văn học giai đoạn này


×