Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

văn xuôi nghệ thuật của xuân diệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.75 MB, 130 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BÙI THỊ THU THỦY

VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT CỦA XUÂN DIỆU

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

TP. HỒ CHÍ MINH – 2003



MỤC LỤC
MỤC LỤC ......................................................................................................................... 3
DẪN NHẬP ....................................................................................................................... 6
1 - LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ....................................................................................................... 6
2-GIỚI HẠN ĐỀ TÀI .............................................................................................................. 7
3-LỊCH SỬ VẤN ĐỀ. .............................................................................................................. 8
3.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ TRUYỆN NGẮN. ................................ 8
3.3. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ KÝ CỦA XUÂN DIỆU. .................... 13
3.4. Nhận định chung về những công trình nghiên cứu, phê bình. .................................... 16
4 -PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. .................................................................................... 17
5- ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN ......................................................................................... 18
6- CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN .......................................................................................... 18

CHƯƠNG 1: VĂN XUÔI CỦA MỘT NHÀ THƠ ...................................................... 20
1.1.XUÂN DIỆU - NHÀ THƠ VIẾT VĂN XUÔI. ............................................................... 20
1.1.1.Xuân Diệu viết văn xuôi khi nào ? ............................................................................ 20
1.1.2.Nguyên nhân nào khiến Xuân Diệu viết văn xuôi ? .................................................. 24
1.1.2.1.Sáng tác để kiếm sống ? ..................................................................................... 24


1.1.2.2.Sáng tác do chịu ảnh hưởng của văn chương lãng mạn Pháp - văn hoá thời
Phục Hưng: .................................................................................................................... 25
1.2.VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT CỦA XUÂN DIỆU MANG TÂM HỒN LÃNG MẠN CỦA
NHÀ THƠ: ............................................................................................................................. 32
1.2.1.Cách nhìn cuộc sống:................................................................................................. 34
1.2.2.Cách nhìn con người:................................................................................................. 36
1.2.3.Cách sống: ................................................................................................................. 39
3


1.2.4.Bộc lộ cái "tôi" nội tâm của người nghệ sĩ. ............................................................... 44
1.3.VĂN XUÔI CỦA XUÂN DIỆU LÀ VĂN XUÔI CỦA MỘT NGƯỜI NGHỆ SĨ ĐI TÌM
CÁI ĐẸP. ................................................................................................................................ 47
1.3.1.Quan niệm của Xuân Diệu về cái đẹp: ...................................................................... 47
1.3.2.Hành trình đi tìm cái đẹp của Xuân Diệu: ................................................................. 50

CHƯƠNG 2: TRUYỆN NGẮN CỦA XUÂN DIỆU.................................................... 53
2.1.CẢM HỨNG, ĐỀ TÀI VÀ CHỦ ĐỀ: ............................................................................. 53
2.1.1.Cảm hứng: ................................................................................................................. 53
2.1.2.Đề tài và chủ đề: ........................................................................................................ 56
2.2.Cốt truyện, nhân vật và kết cấu: ..................................................................................... 62
2.3.NGÔN NGỮ. .................................................................................................................... 69

CHƯƠNG 3: KÝ CỦA XUÂN DIỆU ........................................................................... 75
3.1.Cảm hứng, đề tài và chủ đề. ............................................................................................ 76
3.1.1.Cảm hứng. ................................................................................................................. 76
3.1.2.Đề tài và chủ đề. ........................................................................................................ 80
3.2.Nhân vật, kết cấu: ............................................................................................................ 91
3.2.1.Nhân vật:.................................................................................................................... 91
3.2.2.Kết cấu: ...................................................................................................................... 94

3.3.Ngôn ngữ. ......................................................................................................................... 96
3.3.1.Giọng điệu. ................................................................................................................ 97
3.3.2.Biện pháp nghệ thuật tu từ:...................................................................................... 101
3.3.2.1.So sánh: ............................................................................................................ 101
3.3.2.2.Đồng nghĩa kép: ............................................................................................... 103
3.3.2.3.Phép lặp (phép điệp): ....................................................................................... 103
4


KẾT LUẬN ................................................................................................................... 107
PHỤ LỤC ...................................................................................................................... 111
THƯ MỤC THAM KHẢO .......................................................................................... 122

5


DẪN NHẬP

1 - LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong các nhà văn Việt Nam hiện đại, Xuân Diệu nổi lên như một điểm sáng văn chương.
Tên tuổi, sự nghiệp, những đóng góp của Xuân Diệu đã in dấu trong tâm trí người Việt Nam.
Vì vậy mà Xuân Diệu luôn được giới nghiên cứu quan tâm tìm hiểu. Hoài Thanh nhận thấy
Xuân Diệu là nhà thơ ''mới nhất trong các nhà thơ mới" và còn coi ông là "Ông hoàng của thơ
tình". Chế Lan Viên tìm thấy sự nổi trội của Xuân Diệu trong lĩnh vực bút ký và gọi ông là
"Ông chúa bút ký". Riêng Lưu Khánh Thơ đã khẳng định ông là người có "đôi mắt xanh" trong
phê bình, tiểu luận .
Tuy vậy, đọc lại những bài viết về Xuân Diệu, ta thấy hầu như các nhà nghiên cứu chỉ
xoay quanh về sáng tác thơ, đặc biệt là thơ tình của Xuân Diệu. Còn vãn xuôi nghệ thuật của
Xuân Diệu, chỉ được nhìn nhận rải rác, chưa hệ thống, chưa trọng điểm... mà chỉ coi như là sự
tô điểm cho ngòi bút tài năng đa dạng của ông. Phải chăng ông chỉ có một tập truyện ngắn,

chưa đủ để thẩm định? Phải chăng nó là một dạng văn xuôi ngọt ngào giàu âm thanh, màu sắc?
Vậy vấn đề đặt ra là: Phải chăng Xuân Diệu chỉ thành công trong lĩnh vực thơ ca mà ít
thành công trong sáng tác văn xuôi nghệ thuật? Phải chăng văn xuôi nghệ thuật của Xuân Diệu
chỉ là một dạng thơ văn xuôi mà thôi? Với suy nghĩ trên, chúng tôi thấy đây là một đề tài đáng
để nghiên cứu. Luận văn này của chúng tôi mong muốn làm rõ những đóng góp của Xuân Diệu
cho văn xuôi nghệ thuật Việt Nam.
Trong quá trình tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy: văn xuôi nghệ thuật của Xuân Diệu giàu
chất thơ, chất trữ tình. Đó là kiểu văn được viết bằng cảm xúc, ý tưởng từ những nỗi niềm...nên
thấm đẫm chất nhân văn, màu sắc văn chương. Dạy văn, học văn là quá trình khám phá, tìm
hiểu, cảm nhận cái đẹp qua những áng văn chương. Đây là công việc khó khăn nhưng vô cùng
hứng thú. cần phải giúp học sinh ngoài việc tiếp thu kiến thức còn phải có kỹ năng cảm thụ vãn
chương. Vì vậy, việc nghiên cứu này giúp chúng tôi xem xét lại, bổ sung những kiến thức còn
thiếu về văn xuôi nghệ thuật của Xuân Diệu trong quá trình giảng dạy trong nhà trường.
6


Xuất phát từ những lí do nêu trên, chúng tôi chọn đề tài Văn xuôi nghệ thuật cửa Xuân
Diệu để nghiên cứu trong luận văn này.

2-GIỚI HẠN ĐỀ TÀI
Sự nghiệp văn chương của Xuân Diệu vừa đồ sộ về khối lượng, vừa phong phú về thể loại
và chia làm hai giai đoạn :
- Trước 1945: Xuân Diệu sáng tác chủ yếu là thơ và văn xuôi (Tập truyện ngắn Phấn
thông vàng và bút ký Trường ca). Nếu với tập "Thơ thơ và Gửi hương cho gió, Xuân Diệu đã
mang đến cho thi ca Việt Nam nhiều cái mới cùng với sự đằm thắm, nồng nàn của chiều sâu
cảm xúc thì trong Phấn thông vàng và Trường ca dường như là nối dài, mở rộng những ý
tưởng nghệ thuật mà Xuân Diệu đã nhiều lần nói tới trong Thơ thơ và Gửi hương cho
gió"(Lưu Khánh Thơ).
- Sau 1945: Xuân Diệu viết nhiều bút ký, ký sự và tiểu luận phê bình, bên cạnh vẫn tiếp
tục sáng tác thơ. Những bài ký của Xuân Diệu giờ đây vẫn là những trang viết của một tâm hồn

con người ham sống, thiết tha với đời... được đổi đời. Có thể thấy "Xuân Diệu trải lòng mình
và gởi gắm biết bao tình ý trong những trang viết cửa mình..."( Lưu Khánh Thơ ). Vì vậy mà
Xuân Diệu vừa được coi là "người thư ký trung thành của thời đại, vừa là người nghệ sĩ". Bởi
lẽ, những trang ký ấy chứa đựng "phần hồn" những phút giây thăng hoa của cảm xúc và một
cái gì đó rất thật, rất sâu, rất Việt Nam.
Qua những tác phẩm văn chương nghệ thuật của Xuân Diệu, chúng tôi nhận thấy: tuy
sáng tác ở hai giai đoạn khác nhau, nhưng những tác phẩm ấy lại có nét giống nhau, thể hiện sở
trường và bút pháp của Xuân Diệu.
Để đạt được mục đích khoa học đã đề ra, trong luận văn này, chúng tôi không đi sâu, tìm
hiểu các sáng tác về thơ và tiểu luận phê bình của Xuân Diệu, mà chỉ dùng các tác phẩm ấy để
soi sáng cho nghiên cứu của luận văn. Như vậy, đối tượng nghiên cứu chính của chúng tôi là
văn xuôi nghệ thuật của Xuân Diệu (truyện ngắn và ký ), ở cả hai giai đoạn trước và sau Cách
mạng Tháng Tám.

7


3-LỊCH SỬ VẤN ĐỀ.

Xuân Diệu bắt đầu viết văn khi còn rất trẻ, khi còn là một cậu học sinh trường trung học.
Nhưng những sáng tác văn xuôi của Xuân Diệu chưa gây được ảnh hưởng lớn như những tác
phẩm thơ ca của ông, mặc dù nhà văn đã cố gắng đi tìm một hình thức thể hiện mới, bên cạnh
thơ của mình. Dù sao thì với tập truyện ngắn đầu tay, Xuân Diệu cũng bắt đầu được giới nghiên
cứu lưu ý đến. Nhưng trước Cách mạng Tháng Tám, sự tìm hiểu ấy cũng mới chỉ ở dạng phác
thảo sơ lược. Sau 1945, số lượng những sáng tác văn xuôi của Xuân Diệu cũng nhiều hơn
trước, và những sáng tác ấy cũng được quan tâm nhiều hơn, nhất là vào những năm sau khi nhà
thơ qua đời.
Trong phạm vi giới hạn của đề tài luận án, sau đây chúng tôi sẽ lần lượt điểm qua một số
công trình nghiên cứu, phê bình có đề cập đến văn xuôi nghệ thuật của Xuân Diệu trước và sau
1945( về truyện ngắn, ký). Tất nhiên do khuôn khổ có hạn của luận án, chúng tôi không thể

xem xét được tất cả, mà chỉ đề cập đến những công trình quan trọng, theo sự nhìn nhận của
chúng tôi. Trên cơ sở đó, chúng tôi sẽ tổng kết, đưa ra một vài nhận định chung về các công
trình nghiên cứu này.
Để hình dung cụ thể có hệ thống những công trình nghiên cứu, phê bình có liên quan đến
luận án, chúng tôi phân ra hai loại ý kiến sau:
3.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ TRUYỆN NGẮN.
Trước Cách mạng Tháng Tám, Hoài Thanh- Hoài Chân trong Thi nhânViệt Nam là
người đầu tiên phát hiện ra phong cách viết văn của Xuân Diệu bên cạnh những sáng tác thơ
của ông "Lời văn Xuân Diệu cũng có vẻ chơi vơi. Xuân Diệu viết văn tựa trẻ con học nói hay
người ngoại quốc võ vẽ tiếng Nam. Câu văn tuồng bỡ ngỡ. Nhưng cái dáng thơ bỡ ngỡ ấy
chính là chỗ Xuân Diệu hơn người. Dòng tư tưởng quá sôi nổi không thể đi theo những đường
có sẵn. Ý văn xô đẩy, khuôn khổ câu vãn phải lung lay."(104,tr.l08).
Chỉ một thời gian sau, Vũ Ngọc Phan với tác phẩm Nhà văn hiện đại (91,tr.20) đã có một
bài viết khá dài nghiên cứu cả về thơ và văn xuôi của Xuân Diệu. Đặc biệt, nhà nghiên cứu
cũng đã đi sâu, tìm hiểu về tập truyện ngắn Phấn thông vàng. Cảm nhận đầu tiên của Vũ Ngọc
8


Phan khi đọc Phấn thông vàng khác với quan niệm của Xuân Diệu "Trong quyển Phấn thông
vàng mà Xuân Diệu gọi là một tập truyện tiều thuyết ngắn, tôi chỉ thấy rặt thơ là thơ. Không
phải thơ ở những câu có vần có điệu, không phải thơ ở những lời đẽo gọt, mà thơ ở lối diễn
tính tình cùng tư tưởng...Nó là những bài thơ trường thiên không vần, không điệu, nó là những
bài thơ tự do để phô diễn hết cả cảm tưởng của tác giả về những người, những vật, tuy chỉ là
những cuộc đời rất nhỏ, nhưng gợi hứng cho thi nhân rất nhiều" (96,ư.25-26).
Để lý giải cho quan điểm của mình, khi nhận xét về tập truyện ngắn Phấn thông vàng,
nhà nghiên cứu tìm thấy cảm hứng sáng tác của Xuân Diệu trong truyện ngắn Phấn thông
vàng "Đó là tất cả cái náo nức, cái rùng rợn, cái thê lương trong tâm hồn một con ngươi đa
cảm, trước những con người, những vật như Cái giây không đứt, Chó mèo hoang, Truyện cái
giường..." (96,tr.25). Chính cảm hứng nghệ thuật ấy khiến cho truyện ngắn của ông “rặt thơ là
thơ”.

Về nghệ thuật viết văn, Vũ Ngọc Phan cũng thấy văn xuôi của Xuân Diệu chưa hay "Cớ
lẽ Xuân Diệu đã chú trọng về ý nghĩa, về tình cảm thái quá, nên không nghĩ đến sự lựa lời. Lời
chẳng qua chỉ là những dấu hiệu để ghi ý nghĩa và tình cảm, vậy cứ gì lời thanh, lời thô, lời
nào phô diễn được hết tình, hết ý, đều có thể dùng được cả...đến cả những chữ rất thô bạo, ông
cũng không từ...Ngoài những câu thô bạo lại có những đoạn réo rắt như khúc bi ca"(96,tr.26).
Ở đây Vũ Ngọc Phan đã có suy nghĩ giống với Hoài Thanh-Hoài Chân về cách viết văn của
Xuân Điệu: chưa hay, chưa chú trọng đến dùng từ và đặt câu. Mặc dù vậy, cả hai nhà nghiên
cứu đều nhận thấy đó là phong cách viết văn khác người của Xuân Diệu.
Có thể thấy, trước 1945, những công trình nghiên cứu, phê bình về truyện ngắn của Xuân
Diệu còn quá ít. Các nhà nghiên cứu cũng còn e dè, thận trọng trong việc đánh giá truyện ngắn
của Xuân Diệu - một thể loại mới xuất hiện trong thời đại mới.
Sau 1945(vào năm 1967), Mai Quốc Liên có bài viết Qua thi hào dân tộc Nguyễn
Du(126, tr.239). Trong bài nghiên cứu này, mặc dù Mai Quốc Liên chỉ chủ yếu nghiên cứu về
mảng văn xuôi phê bình của Xuân Diệu, nhưng ông cũng nhận thấy điều mà hơn hai mươi năm
trước đây, Hoài Thanh đã từng nhận xét "Cũng vì sự dồn ép của nhiệt tình mà câu văn Xuân
Diệu ít khi mực thước. Câu văn của anh bị xô đẩy, dài ngắn không thường; kể đó cũng là một
phong cách trong ngôn ngữ văn xuôi” của Xuân Diệu (126,tr.243).
9


Năm 1970, Phạm Văn Diêu trong Việt Nam Văn học giảng bình, trên cơ sở bình giảng
truyện ngắn toả nhị kiều (96,tr.72), cho rằng "Văn xuôi của Xuân Diệu là cả một lối thơ trá
hình thành tản văn... Văn xuôi Xuân Diệu cũng giống như thơ ông, bát ngát một hồn thơ mơ
màng. Điều ấy, thấy rõ trong sự vận động từ ngữ, trong nhạc câu văn, lại càng thây nhiều hơn
trong hình ảnh câu vấn."(96,tr.73). Nhận xét của Phạm Văn Diêu tuy không mới, nhưng nhà
nghiên cứu cũng đã tìm ra vẻ khác lạ trong truyện ngắn của Xuân Diệu "Văn xuôi Xuân Diệu
cũng giống như thơ ông, bát ngát một hồn thơ mơ mộng"(96,tr.73).
Đến 1979, Hà Minh Đức trong bài nghiên cứu Xuân Diệu- nhà thơ- nhà nghiên cứu và
phê bình văn học(96,tr.33), đã có hướng nghiên cứu khác tìm hiểu về kiểu nhân vật trong
truyện ngắn của Xuân Diệu như Chú lái khờ, Người lệ ngọc...và cho rằng "thực ra họ chỉ là

những biểu tượng mà Xuân Diệu vay mượn để tự thể hiện "mình với ta tuy hai mà một"
(96,tr.33). Nhận xét trên, chưa thật rõ ý nhưng đó cũng là một phát hiện về nghệ thuật xây dựng
nhân vật trữ tình trong văn xuôi của ông.
Vào 5/1982, trong lời giới thiệu Tuyển tập Xuân Diệu (tập l),(111, tr.64), Hoàng Trung
Thông tìm thấy cảm hứng chủ đạo trong truyện ngắn của Xuân Diệu. Đó là cảm hứng hướng về
con người, cuộc đời "Mọi người yêu thiết tha con người, loài người, cuộc sống và sự sống",
nên "Tấm lòng yêu thương rộng lớn của nhà thơ tất yếu phải hướng về quần chúng lao động
chứ không thể hướng về những kẻ kè kè một túi tiền. "(111, tr.65).Đây là một phát hiện mới mà
những bài nghiên cứu trước đây chưa nói tới.
Đặc biệt sau khi Xuân Diệu qua đời, trên văn đàn xuất hiện nhiều bài viết về Xuân Diệu
(về truyện ngắn, ký). Đáng chú ý là bài viết "Vài cảm nghĩ về văn xuôi Xuân Diệu" của
Nguyễn Đăng Mạnh(126,tr.98) vào cuối thu 1986. Khác với những công trình nghiên cứu trước
đây, Nguyễn Đăng Mạnh dành cả bài nghiên cứu để viết về văn xuôi nghệ thuật của Xuân
Diệu. Có thể coi đây là bài viết mang tính chất nghiên cứu đầu tiên, khá đầy đủ về văn xuôi của
Xuân Diệu. Trong một chừng mực nào đây, bài viết đã khám phá được một vài đặc điểm trong
văn xuôi của Xuân Diệu (truyện ngắn và ký), cả về nội dung và nghệ thuật, ở hai giai đoạn
trước và sau 1945.
Trước hết, với truyện ngắn Phấn thông vàng, Nguyễn Đăng Mạnh không cho đó là tập
truyện ngấn (Truyện ý tưởng) như Xuân Diệu quan niệm, mà gọi nó là tập "Tùy bút tâm tình".
10


Có lẽ ông cho rằng Phấn thông vàng không mang đặc tính "tự sự" của truyện. Bởi ở trong đó
"cái tôi cá nhân của nhà văn lấn át hình ảnh của hiện thực"(126,tr. 105).

Ngoài ra, nhà nghiến cứu còn thấy cách nhìn đời, nhìn người của .Xuân Diệu trong truyện
ngắn "Đời trong con mắt của Xuân Diệu hồi ấy thực ra chỉ giới hạn ở cái môi trường chật hẹp
và tù túng của những tầng lớp tư sản, tiểu tư sản, nên càng nhìn đời, càng thấy ngán cho đời.
Toả nhị Kiều đã làm cho ta hít thở trong bầu không khí của cái đời ấy...Trong đó vật vờ ngoi
ngóp những kiếp sống mở mờ nhạt nhạt, cử động lặng lẽ, ngơ ngác như những kẻ không

hồn."(126, tr.101).
Dù vậy, Nguyễn Đăng Mạnh cũng có suy nghĩ giống như Hoàng Trung Thông về ngòi
bút nhân đạo của Xuân Diệu trong văn xuôi, nhà văn đã "Mở rộng tâm hồn về phía những lớp
người cùng khổ...Hình ảnh một bà lão nhà quê nghèo khó"(126,tr.l02). Trên cơ sở đó, nhà
nghiên cứu nhận thấy: bên cạnh khuynh hướng lãng mạn trữ tình, trong Phấn thông vàng xuất
hiện khuynh hướng hiện thực trữ tình "như một dòng phụ lưu trong sáng tác thơ văn của Xuân
Diệu hướng về những khiếp người mờ mờ nhân ảnh...những sinh mệnh nhỏ bé tội nghiệp cần
được thương."(126,tr. 102-103). Và đây cũng chính là sự phát hiện kỹ hơn về nhân vật trong
truyện ngắn của Xuân Diệu.
Năm 1994, Nguyễn Thị Hồng Nam trong bài viết Quan niệm nghệ thuật về con người
trong thơ Xuân Diệu (111, tr.339) đã tìm thấy trong Phấn thông vàng "quan niệm sống, quan
niệm tình yêu mang tính nhân văn cao cả...Phấn thông vàng là hình ảnh điển hình cho khao
khát được hòa nhập với ngoại giới, cho trái tỉm đầy tình cảm được san sẻ, dạng hiến cho mọi
người, cho tất thầy, như những hạt phấn thông vàng vung vãi muôn nơi..."(111,tr.343). Để
chứng minh cho ỹ kiến của mình, nhà nghiên cứu nhận thấy Xuân Diệu có một quan niệm sống
đẹp, một tình yêu cuồng nhiệt với cuộc sống. Ông ghét cay, ghét đắng sự hờ hững, lạnh lùng,
lối sống thụ động, đơn điệu. Trong Tỏa nhị Kiều, ông bực bội với nhân vật Phan, ông xót
thương cho hai cô gái Quỳnh và Giao "Họ như hai hột cơm...họ thua hai cái cây, bởi cây còn
ra hoa, ra trái, chứ đời con gái của họ, họ biết làm gì?"(111, tr.346).

11


Năm 1997, Lê Bảo trong bài Thời đại, con người và văn nghiệp Xuân Diệu (12,tr.5), đã
nghiên cứu về một biểu hiện khác trong nghệ thuật viết truyện ngắn Phấn thông vàng (về cách
viết, cách xây dựng nhân vật). "Người viết đã không tuân thủ những phép tắc, những luật lệ
thông thường. Trước hết, nó hầu như không cổ cốt truyện. Nhân vật trong đó hầu hết là cái tôi
trữ tình. Chất liệu hiện thực cuộc đời không phải là không có, nhưng nó nhuộm màu sắc tâm
trạng. Vì thế có thể gọi nó là một thứ truyện ý tưởng, một thứ chủ nghĩa hiện thực trữ tình, một
cách tự biểu hiện của nhà thơ"(12,tr.23). Đặc biệt, nhà nghiên cứu phân tích khá kỹ cái tôi trữ

tình trong truyện ngắn của Xuân Diệu, đó là cái tôi giao cảm với đời, cái tôi bơ vơ lạc lõng.
Năm 1999, Lưu Khánh Thơ viết bài Xuân Diệu- một tài năng đa dạng (111, tr.11), đã
nhắc đến những vấn đề mà các nhà nghiên cứu trước đó đã đề cập về truyện ngắn Phấn thông
vàng “giống như một tập tùy bút tâm tình; Tác giả lại hướng ngòi bút của mình vào một cảnh
ngộ, những số phận”(111, tr.l4 -15). Nhưng tác giả bài viết đã nhận ra thái độ của Xuân Diệu,
khi ông đứng trước những số phận, cuộc đời “Thể hiện sự hòa cảm xót xa với những người
sống vất vả, tối tăm, bị hắt hủi...nên nhà văn dễ dàng đồng cảm với những kiếp người nhỏ bé
khi bước vào đời”(111, tr.l5).
Riêng Đỗ Lai Thúy có hướng nghiên cứu khác về yếu tố thời gian trong sáng tác của
Xuân Diệu, qua bài viết Xuân Diệu-Nỗi ám ảnh thời gian (126, tr.l86). Nhà nghiên cứu viết
"Chỉ với Xuân Diệu, thời gian mới trở thành một nỗi ám ảnh...Xuân Diệu nhìn đời bằng conmắt- thời- gian" (126, tr.l86). Vì vậy mà "chỉ có Xuân Diệu là cứ ở trong đời, bám riết lấy trần
thể, níu cuộc sống mà chống lại thời gian..." Nhưng mọi vật đều không chống lại được với thời
gian, và chỉ có "Tình yêu có khả năng chiến thắng thời gian, bởi vì tình yêu là sự sống, sự sống
bất tử, sự sống chẳng bao giờ chán nản". Vì vậy, Đỗ Lai Thúy nhận thấy trong Phấn thông
vàng có một thứ tình yêu đẹp "Tình yêu của loài cây xa xôi, viễn vọng như thế, không toan tính
gần gũi như loài người''(126,,tr. 197).
Trong bài viết Cái nhìn nghệ thuật mới về thế giới và con người của Lê Tiến Dũng (126,
tr.l41), nhà nghiên cứu xuất phát từ quan niệm về "Mĩ học của chủ nghĩa lãng mạn nói chung
là phủ nhận thực tại. Phủ nhận hiện tại để hoặc là quay về quá khứ, hoặc hướng đến tương lai,
đem lý tưởng để đối lập với thực tại", nên "Cả Xuân Diệu trong văn xuôi cũng là một Xuân
Diệu da diết với ngày xưa". Truyện Cái giường tả một hoài vọng về quá khứ. Cái giường
12


mong lửa hồng thiêu mình để thành khói mà bay về rừng xưa..”(126, tr.147). Tuy đề cập đến
vấn đề không mới trong văn chương lãng mạn trước 1945, nhưng nhà nghiên cứu cũng tìm thấy
nét đẹp trong sáng tác của Xuân Diệu, ông không nuối tiếc để mà nuối tiếc, mà mong được trở
lại cuộc sống ban đầu như nó đã có. Quan niệm này của Lê Tiến Dũng giống với quan niệm
củaVũ Ngọc Phan "Cái giường của Xuân Diệu là cái giường đang ôm tương tư, đang nhớ
nhung cây bạn và đang khao khát được biến ra khói biếc đề bay về xứ sở, bay về chốn rừng

xanh"(96, tr.27).
Trên đây là một số công trình nghiên cứu, phê bình trước và sau 1945 đề cập đến truyện
ngắn của Xuân Diệu. số lượng các công trình vừa được điểm qua chưa thật đầy đủ, nhưng qua
đó, có thể thấy rõ những vấn đề mà các nhà nghiên cứu quan tâm trong truyện ngắn Phấn
thông vàng. Có thể tóm gọn lại ở những điểm sau: về cảm hứng sáng tác; khuynh hướng sáng
tác; về nhân vật; về cái tôi cá nhân; về kiểu truyện và cách viết truyện ngắn.
3.3. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ KÝ CỦA XUÂN DIỆU.
Ngày 14/7/1985, trên báo Nhân dân đăng bài viết Sự đa dạng của Xuân Diệu của Mã
Giang lân(126, tr.225). Trong bài nghiên cứu này, Mã Giang Lân bên cạnh những nhận xét về
văn xuôi, có nhận thấy :"Các tập bút ký Trường ca (1945), Việt Nam ngàn dặm (1946), Ký sự
thăm nước Hung (1946), Triều lên (1958) cùng với nhiều bài ký khác đã khẳng định ở anh
một "sự mẫn cảm dồi dào"(126,tr.229). Và nhà nghiên cứu cũng chưa đi sâu tìm hiểu một khía
cạnh nào về nội dung, cũng như về nghệ thuật trong các sáng tác ký của Xuân Diệu.
Vào tháng 12/1986, Nam Chi- một Việt kiều ở Pháp cũng viết bài nghiên cứu với tựa đề
Trường hợp Xuân Diệu (126, tr.207). Trong bài viết này Nam Chi cho rằng "Trường hợp
Xuân Diệu là trường hợp điển hình cho sự chuyển mình lớn lao của lịch sử”. Cách mạng Tháng
Tám thành công đã làm chuyển đổi bao vấn đề của xã hội Việt Nam, trong đó có sự chuyển đổi
về tư tưởng con người, và Xuân Diệu là một điển. hình. Nên dù ở đâu, làm việc gì, Xuân Diệu
đều sống rất thật với mình, với người. "Với Việt kiều ở Pháp, Xuân Diệu có chút tình riêng.
Năm 1946, vài tư cách nhà báo, anh tham dự phái đoàn Phạm Văn Đồng sang Pháp... về nước
anh viết ngay Việt Nam nghìn dặm để nói về cuộc tranh đấu của Việt kiều-đặc biệt là các bác
lính thợ, lính chiến- cho nước nhà độc lập?"(126,tr.217).
13


Vào cuối mùa thu 1986, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh có bài viết Vài cảm nghĩ về
văn xuôi Xuân Diệu (126,tr.98). Xuất phát từ những nhận xét chung về văn xuôi nghệ thuật
của Xuân Diệu, nhà nghiên cứu có đề cập đến những tác phẩm ký "Thơ Xuân Diệu hay văn
Xuân Diệu cũng có hàng loạt bài nói về vẻ đẹp hùng mạnh, tràn đầy sức sống của thanh niên,
cái tuổi "tay chân bằng mầm, mắt bằng hồ, lòng bằng lửa, miệng bằng hoa"(126,tr.99). Như

vậy theo Nguyễn Đăng Mạnh, trước 1945, với Trường ca, thể ký của Xuân Diệu đã tạo được
nhiều hình ảnh đẹp. Những hình ảnh ấy lại chính là đối tượng nghệ thuật mà nhà văn quan tâm
như: một Chú lái khờ "người ta gọi chú là khờ...nhưng chú chính thực là thi sĩ"(126, tr.100);
chỉ một Đóa hồng nhung mà Xuân Diệu tưởng "những bông hồng nhung thành những cặp môi
hôn và gọi là những "đóa hôn"(126, tr.l01).
Ngoài ra trong bài viết này, nhà nghiên cứu đã lý giải để tìm nguyên nhân vì sao sau
1945, Xuân Diệu lại hướng ngòi bút của mình về thể loại mới -bút ký, ký sự, tuy bút. Vì sau
1945, "Cánh cửa nhìn đời của Xuân Diệu bỗng được mở toang về phía cuộc sống rộng lớn của
nhân dân...Trước mắt Xuân Diệu, cuộc đời lớn cứ mở ra thêm mãi...Đâu đâu cũng toàn cảnh
tượng lớn, những sự kiện lớn...lối tuy bút trữ tình trước kia không làm nổi công việc ấy, văn
xuôi Xuân Diệu chuyển sang thể bút ký, ký sự. Một dòng bút ký chảy xiết, liên tục từ sau Cách
mạng Tháng Tám trở đi, tạo thành một cuốn phim thời sự- chính trị phong phú...ghi lại một
phần bộ mặt cửa lịch sử cách mạng Việt Nam trong ngót 40 năm"(126, tr.l05). Ý kiến trên đây
của Nguyễn Đăng Mạnh đã thâu tóm khá kỹ những vấn đề về nội dung cũng như về cảm hứng
sáng tác trong các tác phẩm ký của Xuân Diệu.
Bên cạnh đó, nhà nghiên cứu nhận ra sự chuyển hướng về Cái tôi trong sáng tác của Xuân
Diệu "cái tôi ấy trở lại trong bút ký Xuân Diệu với một bản chất khác... ngày xưa chỉ biết
"quấn quít cả mình xuân"(Thanh niên) nay luôn quấn quít bên "mình" cửa Tổ quốc, cửa nhân
dân, của cách mạng"(126, tr.l08). Đó là "Cái tôi công dân, cái tôi chiến sĩ cách mạng trên mặt
trận văn hóa tư tưởng...Cái tôi công dân ây cũng là cái tôi rất vui vẻ, rất trẻ...Ngày xưa, cái tôi
ây đã muốn gắn bó với cuộc sống, với mùa xuân, tuổi trẻ và tình yêu. Nhưng rút cục vẫn thấy
mình cô độc giữa cuộc đời lạnh giá...Vì thế cái tôi Xuân Diệu trong bút ký của ông sau Cách
mạng Tháng Tám còn là cái tôi chính luận... "(126, tr.l06-107).

14


Đặc biệt, Nguyễn Đăng Mạnh nói nhiều về nghệ thuật viết ký của Xuân Diệu "Nhiều kỹ
thuật thơ được vận dụng" chẳng hạn như kỹ thuật cấu tứ, kỹ thuật điệp khúc, kỹ thuật đưa đẩy
văn chương kim cổ, kỹ thuật chuyển đổi giọng điệu...những biện pháp nghệ thuật ấy đã giúp

cho những bài ký thực sự là những bài thơ văn xuôi. Mặc dù vậy, nhà nghiên cứu vẫn chưa
thỏa mãn với suy nghĩ của mình, ông lại thấy sở dĩ Xuân Diệu sáng tác được những tác phẩm
ký hay, xuất sắc thì ngoài những kinh nghiệm viết của riêng mình, còn phụ thuộc vào "những
kỷ niệm riêng, từng trải riêng của người cầm bút có quan hệ nhiều ít thế nào với đất nước, với
quê hương, với những sự kiện lớn của lịch sử và những con người tiêu biểu cho thời đại"(126,
tr.112).
Cũng trong thời gian này, Lê Bảo có viết bài Thời đại, con người và nghiệp văn Xuân
Diệu (12, tr.5). Với bài viết này, nhà nghiên cứu cũng nói về cái tôi trữ tình trong các tác phẩm
ký sau 1945 của Xuân Diệu "Cái tôi trữ tình của Xuân Diệu đã hồi sinh trong biển lớn của
nhân dân"(12, tr.26). Ý kiến này của Lê Bảo đồng một quan điểm với Nguyễn Đăng Mạnh.
Điều đó cũng khẳng định trong ký của Xuân Diệu có một cái tôi mới- cái tôi chiến sĩ.
Để mở đầu cho tác phẩm Xuân Diệu về tác gia và tác phẩm, Lưu Khánh Thơ viết bài
Xuân Diệu - một tài năng đa dạng (111, tr.11). Nhà nghiên cứu nhận xét về tập Trường ca của
Xuân Diệu "Có thể coi tập Trường ca là một kiểu thơ văn xuôi" (111. tr. 13). Đối với những
tác phẩm ký của Xuân Diệu, Lưu Khánh Thơ nhận thấy "Xuân Diệu vừa là người nghệ sĩ, vừa
là một thư ký trung thành cửa thời đại. Bút ký cửa Xuân Diệu đã ghi lại hàng loạt những sự
kiện lớn của đất nước..."(111, tr.l6). Để minh chứng cho ý kiến của mình, nhà nghiên cứu
khẳng định "bí quyết lớn nhất dẫn đến thành công của Xuân Diệu là ở trái tim có sức yêu mãnh
liệt và một tâm hồn luôn rộng mở, gắn bó với cuộc đời, với đất nước... Và Xuân Diệu đã viết
tháng công bút ký về lại quê Nam, Cùng xương thịt với nhân dân..."(111, tr.18).
Tóm lại, trong các bài nghiên cứu, phê bình về ký của Xuân Diệu, chúng tôi thấy: mặc dù
số lượng các bài viết chưa nhiều, không đa dạng như các bài viết về truyện ngắn của Xuân
Diệu, nhưng cũng phần nào giúp chúng tôi thấy được đặc điểm thể ký của Xuân Diệu. Đặc
điểm ấy thể hiện qua nghệ thuật viết ký của Xuân Diệu; vẻ đẹp trong ký của Xuân Diệu; cái tôi
trữ tình của nhà văn.

15


3.4. Nhận định chung về những công trình nghiên cứu, phê bình.

Như chúng tôi đã trình bày, trong các nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình hiện đại Việt Nam ở
thế kỷ XX, Xuân Diệu nổi lên như một "Tài năng đa dạng" (Lưu Khánh Thơ) ; Xuân Diệu như
một "Trường hợp" khá đặc biệt (Nam Chi) ; "Mọi thi sĩ rất giàu lòng yêu dấu" (Vũ Ngọc
Phan). Đặc biệt trong lĩnh vực văn xuôi nghệ thuật, các nhà nghiên cứu đã phần nào thấy được
những đóng góp của Xuân Diệu cho văn xuôi nghệ thuật Việt nam. Đó là thứ văn xuôi rất gần
với thơ và tạo nên "tính trữ tình lãng mạn" như một đặc điểm nổi bật của văn xuôi nghệ thuật.
Bởi văn xuôi Xuân Diệu in đậm mầu sắc chủ quan của một cái tôi trữ tình "Đời đã thu gọn lại
gần như tiêu tán, để nhường chỗ cho tâm hồn tự do xâm chiếm tràn lan không biết đâu là bờ
bến" (Xuân Diệu). Vì vậy mà Nguyễn Đăng Mạnh đã có lý khi định danh cho bút pháp văn
xuôi của Xuân Diệu là "Chủ nghĩa hiện thực trữ tình". Ý kiến này của Nguyễn Đãng Mạnh
trùng với ý kiến của Lưu Khánh Thơ "Xu hướng văn chương lãng mạn nhưng không tách rời
hiện thực, đã tạo cho văn xuôi của ông một bộ mặt đầy đủ và hoàn chỉnh hơn”.
Với những sáng tác ký của Xuân Diệu, "Xuân Diệu vừa là người nghệ sĩ, vừa là một
người thư ký trung thành của thời đại" và tập Trường ca là "mọi kiểu thơ văn xuôi" (Lưu
Khánh Thơ).
Với truyện ngắn Phấn thông vàng, Xuân Diệu gọi là tập "Truyện ý tưởng". Còn Nguyễn
Đăng Mạnh gọi là tập "Tuỳ bút tâm tình". Riêng Vũ Ngọc Phan lại thấy "rặt thơ là thơ" .
Về đặc điểm nghệ thuật văn xuôi Xuân Diệu, Nguyễn Đăng mạnh thấy Xuân Diệu vận
dụng nhiều “kỹ thuật làm thơ” vào sáng tác ký; nhân vật trong văn xuôi có hai kiểu nhân vật
"nhỏ bé, cô đơn, mờ ảo" (trong truyện ngắn)và là những "tập thể quần chúng nhân dân” (trong
ký). Lời văn của Xuân Diệu: trau chuốt, chứa đầy thơ "với một giọng điệu trữ tình đầy nhạc
tính".
Từ các công tành nghiên cứu, phê bình về văn xuôi nghệ thuật của Xuân Diệu nêu trên,
chúng tôi nhận thấy: ngoại trừ các bài nghiên cứu của Nguyễn Đăng Mạnh, Lưu Khánh Thơ,
thì hầu hết các công trình nghiên cứu khác phần lớn còn mang tính chất khái quát, giới thiệu
dưới dạng phác thảo một chân dung văn học. Và chưa có một công trình nào nghiên cứu
chuyên sâu và toàn diện về văn xuôi nghệ thuật của Xuân Diệu. Cho nên theo sự nhìn nhận
16



riêng của chúng tôi, các ý kiến đã được nêu ra chỉ mới soi sáng một phần trong sáng tác văn
xuôi nghệ thuật của Xuân Diệu. Điều này có nghĩa là: nếu coi những sáng tác văn xuôi nghệ
thuật của Xuân Diệu là một bộ phận trong văn chương của nhà thi sĩ này, thì phải đặt nó trong
một chỉnh thể và một hệ thống. Chỉ như vậy, mới có thể nắm bắt được những đặc điểm trong
văn xuôi nghệ thuật của Xuân Diệu (truyện ngắn và ký).

4 -PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Để thực hiện luận văn này, chúng tôi lấy phương pháp luận mác-xít làm cơ sở cho việc
nghiên cứu. Trong quá trinh triển khai đề tài, hai phương pháp chủ yếu được sử dụng là phương
pháp khảo sát văn bản và phương pháp phân tích- tổng hợp. Bởi vì để tìm ra phong cách sáng
tác riêng của Xuân Diệu về văn xuôi, không thể khống đi sâu vào việc khảo sát các văn bản văn
xuôi nghệ thuật của Xuân Diệu. Và chỉ xuất phát từ văn bản, chúng tôi mới có thể nít ra những
nhận xét, những điểm khác biệt trong cách viết văn xuôi nghệ thuật của Xuân Diệu. Trên cơ sở
đó, chúng tôi phân tích- tổng hợp và hệ thống hóa các kết quả phân tích ở từng thể loại (truyện
ngắn, ký); ở từng vấn đề mà các thể loại văn xuôi nghệ thuật của Xuân Diệu đặt ra.
Trong quá trình khảo sát văn bản cũng như phân tích- tổng hợp, chúng tôi đặc biệt chú ý
đến những hiện tượng , những yếu tố lặp đi lặp lại trong từng văn bản, của từng thể loại văn
xuôi nghệ thuật của Xuân Diệu, đồng thời không bỏ qua những yếu tố đơn lẻ, cá biệt. Ngoài ra
chúng tôi còn đặt đối tượng nghiên cứu văn xuôi nghệ thuật ương mối quan hệ giữa thơ và văn
xuôi; giữa các sáng tác văn xuôi với quá trình chuyển biến tư tưởng của nhà văn; giữa các sáng
tác văn xuôi với người đọc đương thời, để qua đó thấy được ý nghĩa, giá trị mà văn xuôi nghệ
thuật của Xuân Diệu mang lại cho con người, cuộc đời.
Song song với hai phương pháp trên, trong một chừng mực nhất định, chúng tôi cũng sử
dụng phương pháp so sánh và phương pháp thống kê. Đây cũng là hai phương pháp được xem
như là hai phương pháp hỗ trợ. Phương pháp so sánh được sử dụng kết hợp ngay trong quá
trình, phân tích, giải quyết những vấn đề mà đề tài đặt ra. Đồng thời phương pháp này còn
được sử dụng khi liên hệ đến một số những nhà văn lãng mạn cùng thời như Thạch Lam,
Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh...Phương pháp thống kê giúp chứng tôi thông kê lại một cách có hệ
thống những sáng tác ký nằm rải rác ương hệ thống văn chương của Xuân Diệu. Ngoài ra
17



phương pháp này còn thống kê các hình thức nghệ thuật biểu đạt nội dung tư tưởng tác phẩm
như từ ngữ, các biện pháp tu từ...để phát hiện ra qui luật, những vấn đề về thi pháp tác giả.
Các phương pháp trên được sử dụng phối hợp với nhau trong quá trinh nghiên cứu.

5- ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Luận văn tập trung nghiên cứu văn xuôi nghệ thuật của Xuân Diệu nhằm:
- Tìm ra phong cách của Xuân Diệu trên cơ sở tìm hiểu đặc điểm văn xuôi nghệ thuật nói
chung và hai thể loại (truyện và ký) nói riêng của Xuân Diệu.
- Khẳng định sự thống nhất chặt chẽ giữa tư tưởng, cảm hứng với bút pháp nghệ thuật
trong các sáng tác văn xuôi nghệ thuật của Xuân Diệu .
Làm được những điều trên, chúng tôi hi vọng đề tài sẽ mang lại những đóng góp nhất
định trong việc nghiên cứu văn xuôi nghệ thuật của Xuân Diệu. Điều này cũng có nghĩa là luận
văn góp thêm một tiếng nói khẳng định tài năng và công lao của Xuân Diệu đối với văn xuôi
Việt Nam hiện đại ở thế kỷ XX.
Việc nghiên cứu vãn xuôi nghệ thuật của Xuân Diệu hy vọng sẽ góp một tiếng nói khiêm
tốn vào việc nghiên cứu và giảng dạy văn xuôi của Xuân Diệu trong trường học.
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi có thể liên hệ đến những sáng tác thơ của Xuân
Diệu nhằm mục đích soi sáng thêm cho nghiên cứu. Chúng tôi đã tiếp thu có chọn lọc những
nhận định, đánh giá có liên quan từ các bài viết, cấc công trình nghiên cứu về văn xuôi nghệ
thuật của Xuân Diệu mà chúng tôi đã sưu tầm được.

6- CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần dẫn nhập, kết luận, thư mục tham khảo, phụ lục và mục lục, luận văn chia làm
3 chương với các tiêu đề sau:
Chương I : Văn xuôi của một nhà thơ .
Chương II: Truyện ngắn của Xuân Diệu .
Chương III: Ký của Xuân Diệu .


18


19


CHƯƠNG 1: VĂN XUÔI CỦA MỘT NHÀ THƠ

1.1.XUÂN DIỆU - NHÀ THƠ VIẾT VĂN XUÔI.
Trong những năm đầu thế kỷ XX, cùng với sự biến đổi của xã hội, trên văn đàn Việt
Nam, ngoài những cây bút cũ -những nhà Nho, lại xuất hiện một thế hệ những người cầm bút
mới- những thanh niên trí thức Tây học. Những nhà văn, nhà thơ này là những người đi tiên
phong, đặt nền móng cho quá trình hiện đại hoa văn học nước nhà- Xuân Diệu là một trong
những người ấy.
Ngay từ thuở còn đi học, Xuân Diệu là một người "yêu thơ vô hạn, rất mê thích văn học...
tôi nhìn miệng ông giáo Quốc văn đọc, say mê uống từng lời du dương êm ái”(25, T 3 , tr. 175176). Xuân Diệu làm thơ và gởi in báo bài thơ đầu tiên Với bàn tay ấy. Để rồi gần một năm
sau, Xuân Diệu được Thế Lữ giới thiệu là "một nhà thi sĩ mới" trên báo Ngày nay.
Kể từ ngày ấy, Xuân Diệu hiện diện với đời, in đậm trong tâm tó mọi người trong ngôi vị
của một nhà thơ- một thi sĩ mới, nhà thơ của tình yêu và lòng khát khao giao cảm với đời. Chất
thơ có sẩn trong huyết quản Xuân Diệu, đã trở thành dòng chảy tưởng chừng như duy nhất.
Nhưng Xuân Diệu không chỉ làm thơ mà còn viết văn- thứ văn xuôi ngọt ngào giàu chất thơ,
mà ở một đôi tác phẩm ta tưởng như là một kiểu thơ không có xuống dòng.
Các nhà nghiên cứu đã tìm thấy thời điểm sáng tác bài thơ đầu tiên của Xuân Diệu và
cũng tìm hiểu khá kỹ về đặc điểm thơ Xuân Diệu. Thế nhưng họ lại chưa tìm thây thời điểm
sáng tác truyện ngắn đầu tiên của Xuân Diệu, cũng như chưa thấy hết được đặc điểm truyện
ngắn của Xuân Diệu. Đó là vấn đề chúng tôi sẽ trình bày ở phần dưới đây.
1.1.1.Xuân Diệu viết văn xuôi khi nào ?
Theo Nguyễn Đăng Mạnh, trong Nhà văn tư tưởng và phong cách(78,tr.20), thì Xuân
Diệu "đã tập viết văn làm thơ từ năm 15 tuổi (1934).., làm rất nhiều, làm đủ loại: thất ngôn lục
bát, từ khúc, bút ký, truyện ngắn... năm 1935 có thơ đăng báo và bắt đầu nổi tiếng"(78, tr.25).

Với tập truyện ngắn Phấn thông vàng được xuất bản năm 1939 trên báo Ngày nay, căn cứ vào
hai mốc thời gian:
20


- Cái giây 23-9-1937.
- Người lệ ngọc 1939.
Ta có thể phỏng đoán Xuân Diệu bắt đầu viết truyện ngắn vào khoảng những năm 19361937 khi học tú tài phần II tại Trung học Khải Định- Huế (lúc ông còn rất trẻ, cỡ mười tám, đôi
mươi mà thôi). Cũng có nghĩa là cùng với thời gian Xuân Diệu làm thơ (1937), viết truyện gởi
in báo Ngày nay. Chỉ có điều văn xuôi không phải là tác phẩm đầu tiên trong hành trình đến
với văn chương của Xuân Diệu. Như Nguyễn Bao có viết: "Phấn thông vàng và Trường ca ra
đời song song với hai tập thơ xuất sắc Thơ thơ và Gửi hương cho gió. Đó là những bài văn
xuôi, thấm đượm chất trữ tình"(25, T 2 , tr.34) và là sự tiếp nối mạch thơ nhưng được diễn tả cụ
thể hơn.
Trong sáng tác nghệ thuật, người nghệ sĩ trong những hoàn cảnh cụ thể đều tìm cho mình
một hình thức sáng tạo riêng, miễn sao xuất phát từ một trái tim để đến với nhiều trái tim.
Chính Xuân Diệu đã tâm sự "cả yêu lẫn thương đều là tiếng nói của con tim... hình như trong
thơ yêu nhiều hơn và trong văn cảm thương lại rỗ hơn"(24, tr.7).
Đọc thơ và văn xuôi của Xuân Diệu, người đọc đều ghi nhận được những giây phút cảm
xúc mãnh liệt của ông. Nếu như trong thơ, cảm xúc ấy là những rung động chợt loé sáng, xuất
thần tuy không nhiều lời, nhưng cũng đủ sức gợi cảm nơi người đọc:
"Cái bay không đợi cái trôi
Từ tôi phút trước sang tôi phút này."
(Đi thuyền)
Thì trong văn xuôi từ "phút trước sang tôi phút này" được thể hiện đầy đủ hơn, hình ảnh
hơn và cũng ấn tượng không kém. "Không, không phải bằng giấy. Ấy một người bằng thịt,
bằng xương...vớỉ một lịch sử chắc chắn khổ sở hết chín phần mười, với chút sống còn sót giữa
lòng, như hòn lửa nhỏ còn lấp dưới tro. "(25, T 2 , tr.26).
Như vậy, dù sáng tác thơ hay văn xuôi, tác phẩm của Xuân Diệu đều là những trang văn
học bộc bạch tâm hồn thi sĩ. Khi mà thơ không đủ chỗ để giãi bày, thì văn xuôi xuất hiện. Vì


21


vậy mà trong thơ và văn xuôi của Xuân Diệu, có nhiều ý tưởng trùng nhau, đứng cạnh bên
nhau và bổ sung cho nhau, chẳng hạn như:
Bài thơ đầu tiên trong tập Thơ thơ, Xuân Diệu viết:
"Là thi sĩ, nghĩa là ru với gió
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây"
(Cảm xúc).
Bài thơ ấy đã thể hiện hình ảnh người nghệ sĩ- thi sĩ đi tìm cái đẹp trong cuộc đời với một
phong thái rất nghệ sĩ -rất Xuân Diệu. Hình ảnh ấy một lần nữa được xuất hiện trong truyện
Phấn thông vàng "Họa sĩ mê mẩn lắm sao! Rừng thông to lớn, thân cây vững trồng, tiếp nhau
không hết. Buổi chiều vàng... họa sĩ nghe trong lòng thơ thơi. Linh hồn chàng nở dãn... Chàng
bắt đầu hoạ"(25, T 2 , tr.l2).
Xuân Diệu viết văn xuôi khi còn rất trẻ. Sự xuất hiện của văn xuôi không chỉ biểu hiện tài
năng nghệ thuật, sự tiếp nối mạch cảm xúc dâng trào trong thơ, mà còn đánh dấu quá trình
chuyển hướng tìm tòi một phương pháp thể hiện mới, một hướng đi, một con đường cho riêng
mình. Xuân Diệu đã không đi theo những hướng đã có (tất nhiên mỗi nhà văn đều có phong
cách sáng tác riêng khi đối diện với hiện thực). Bởi lẽ, theo ông tất cả chỉ là "cái cớ để cởi mở
tấm lòng". Những trang văn xuôi đầu tay của Xuân Diệu là kiểu "Truyện ý tưởng...Truyện ư?
Một ít truyện ở ngoài cũng đủ gợi trăm chuyện trong cõi sống bên trong. Tâm hồn người có
biết bao là chuyện... "(25, T 2 , tr.8).
Nếu thơ Xuân Diệu mang lại ngay cho độc giả những ấn tượng đặc biệt chiếm vị trí hàng
đầu thì ngược lại văn xuôi không được như vậy. Vì sao vậy? Liệu có phải do số lượng tác phẩm
quá ít chưa đủ để thẩm định hay còn vấn đề khác tế nhị hơn? Hãy nghe Hoài Thanh- Hoài Chân
nhận xét về vãn xuôi Xuân Diệu"Lời văn...có vẻ chơi vơi... viết văn tựa như trẻ con học
nói...câu văn...bỡ ngỡ. Nhưng cái dáng thơ bỡ ngỡ ây chính là chỗ Xuân Diệu hơn người"
(104, tr.l08).
Theo chúng tôi, phải viết là "khác người" mới đúng. Khác từ hành văn đến ý tưởng "Ở

dây chỉ có ít đời và rất nhiều tâm hổn, hợp lại thành bao nhiêu nghĩ ngợi, bâng khuâng, không
cốt để giải trí người ta, mà trái lại, để xui trí người thêm bận vẩn vơ, lưởng vưởng"(25,T2,tr.7).
22


Đặt những sáng tác văn xuôi của Xuân Diệu vào hoàn cảnh văn học đang trên đường hiện đại
hoá, ta thấy lối văn chương của Xuân Diệu không phải dễ hiểu đối với quảng đại quần chúngnó rắc rối và có phần "Tây quá". Chẳng hạn như nói về số phận một con người- bà cụ già nông
dân nghèo khổ trong xã hội ta lúc ấy thì giữa Xuân Diệu và Nam Cao đã khác lắm rồi— khác
nhau về sự thể hiện, diễn đạt, mặc dù cùng đứng ở một góc nhìn đời của các tác giả đối với
nhân vật.
Ở Thương vay của Xuân Diệu "mọi bà già: lưng không, chân chậm, mắt bà lão chắc chỉ
mở lỉm dim...tay xách một cái rổ...có lẽ chỉ là rổ không. Còm- Dáng đi run... Bà già hay hiện
hình của sự đau khổ...Cứ tha đôi chân vào mất trong tối. Chắc họ buồn lẩm...Một người bằng
thịt, bằng xương...với một lịch sử chắc chắn khổ sở hết chín phần mười"(25, T2, tr.25).
Trong Một bữa no của Nam Cao "hơn ba tháng bà lão chỉ ăn toàn bánh đúc. Mới đầu,
còn được ngày ba tấm, sau cùng thì một tấm cũng không có nữa. Tiền hết cả. Mỗi sáng bà ra
chợ xin người này một miếng, người kia một miếng...Mây hôm nay bà nhịn đói. Bởi thế lại đem
con ra hờ, bà hờ thê thảm lắm ... "(14,tr.38).
Hai nhân vật cùng chung một số phận, một hoàn cảnh: nghèo. Nhưng thật là khác hẳn
nhau. Nhân vật của Nam Cao là nhân vật- con người cụ thể; cụ thể đến từng chi tiết của cái
nghèo, cái khổ không có một tấc cắm dùi; không có một tài sản đáng giá; không một công việc
để sống tồn tại, phải xin ăn. Thật thương thay cho một kiếp người.
Còn nhân vật của Xuân Diệu lại khác hẳn. Nhà thi sĩ ấy không dựng lại một cái gì đó có
sẩn trong cuộc sống chỉ cần đọc lướt qua là thấy ngay, hiểu liền. Chưa hẳn bà lão trong
Thương vay cũng rơi vào hoàn cảnh cùng quẫn đói khổ như bà cái Tý trong Một bữa no và
ngược lại! Mà ở đây, cái mảng hiện thực ấy được "thăng hoa "qua cảm xúc, qua chiều sâu suy
tưởng. Chỉ nhìn cái bóng của bà cụ thôi mà đã thấy "khổ hết chín phần mười", thấy cả quá khứ
và hiện tại, thấy cả tổ tiên, dòng tộc... Những câu văn giàu ý tưởng của Xuân Diệu buộc người
ta bận lòng là vì lẽ đó. Đúng là phải có cái tình sâu lắng mới tả được những câu văn thần thái
ấy. Chính tâm hồn nhà văn là cầu nối để có thể đi sâu vào trong tâm hồn người khác. Bởi lẽ lời

nói, việc làm thì có thể giúp ta nhìn thấy, nghe được, còn những ý nghĩ thầm kín (vui, buồn,
yêu, ghét) trong lòng người thì chỉ có cách đoán hiểu được thôi. Mặc dù lúc này Xuân Diệu còn
trẻ về tuổi đời, nhưng chiều sâu tư duy thì không còn trẻ nữa. Điều này trong Những bước
23


đường tư tưởng của tôi, Xuân Diệu đã tâm sự: "Những khi tối đen bế tắc, cô đơn đến ghê lạnh,
tôi vẫn thấy một điều mà tôi không thể từ chối được, là chung quanh tôi, vẫn còn có những con
người...tôi chán nghĩ chuyện trời, tôi nghĩ chuyện người, và tự nhiên lòng tôi thây thấm thìa
yêu mến"(25, T 3 , tr.187) và ngay cả trong thơ, nhà nghệ sĩ đã từng ước nguyện:
"Cho tôi đau mà bớt khổ loài người,
Tôi nguyện chết trên cây thánh giá".
Tất nhiên mỗi nhà văn đều có lập trưởng tư tưởng, có vốn sống, tư chất tâm lý khác nhau,
nên cách nhìn, cách nghĩ cũng khác nhau. Ở đây, chúng tôi không có ý khen, chê mà chỉ muốn
trình bày cách cảm, cách thể hiện của nhà văn trước những vấn đề hiện thực đặt ra.
1.1.2.Nguyên nhân nào khiến Xuân Diệu viết văn xuôi ?
Một trong nguyên nhân khiến Xuân Diệu viết văn xuôi như phần trên đã trình bày là để
giãi bày tình cảm, khi mà thơ không đủ sức để chứa đựng những cảm xúc. Vậy còn nguyên
nhân nào nữa? Vì vấn đề kinh tế? Do ảnh hưởng bởi văn chương lãng mạn Pháp? Hay hiện
thực cuộc sống thôi thúc trái tim nhạy cảm của nhà nghệ sĩ ? Đi tìm nguyên nhân vì sao Xuân
Diệu viết văn xuôi, tức là đi tìm cảm hứng sáng tác, nhằm phát hiện ra khuynh hướng thẩm mỹ
trong những sáng tác văn xuôi của Xuân Diệu.
1.1.2.1.Sáng tác để kiếm sống ?
Xuân Diệu cũng đã từng phải thốt lên"Cơm áo không đùa với khách thơ". Nên để được
coi là nghệ sĩ thì phải có tài năng, nhưng để sống được bằng chính nghề mình yêu thích thì phải
có cách. Những người cùng thời với Xuân Diệu đã từng bao phen chật vật với cuộc sống, với
miếng cơm, manh áo, nhà thi sĩ Xuân Diệu cũng vậy. Từ khi được mệnh danh là "thi sĩ"(126,
tr.264), Xuân Diệu cũng đã thử vận mình qua hàng loạt các bài thơ đăng báo, nhưng không ra
sao cả; Ông quay sang sáng tác văn xuôi, nhưng cũng chẳng giải quyết được mấy, đành chuyển
sang nghề khác-làm "tham tán" nhà Đoan ở Mỹ Tho. Xuân Diệu đã từng tâm sự trong Xuân

Diệu tự bạch "khi cái túng thiếu nó thúc bách thì văn viết chưa chín vẫn cứ phải bán...Và anh
Lưu Trọng Lư viết truyện được, chứ tôi không viết truyện được. Tôi sợ cho cái nghề viết văn !
Phải kiếm nghề khác."(126, tr.265).

24


Vì sao Xuân Diệu không làm như một vài người bạn của ông như Thế Lữ viết hàng loạt
những truyện kinh dị, giật gân, ma qủi, giết người, báo thủ. Một truyện báo thù ghê gớm,
Tiếng nói thầm của người chết... Hoặc viết truyện tâm lý xã hội kiểu như của Nhất Linh, Khái
Hưng...? Không, Xuân Diệu không làm được, bởi "Tất cả đều đã nói rơi..."(25, T 3 , tr.l77) cũng
có nghĩa là không còn chỗ len chân cho Xuân Diệu nữa.
Như vậy, việc Xuân Diệu sáng tác văn xuôi để kiếm sống chỉ làm một khía cạnh nhỏ
trong những nguyên nhân vì sao ông sáng tác văn xuôi, vì "làm thơ là một đằng, còn làm ăn đi
một nhẽ khác. Làm ăn ! Kiếm ăn"(126, tr.264).
1.1.2.2.Sáng tác do chịu ảnh hưởng của văn chương lãng mạn Pháp - văn hoá thời Phục
Hưng:
Hoài Thanh đã viết trong Thi nhân Việt Nam "Tinh thần lãng mạn của văn học Pháp đã
gia nhập vào văn học Việt Nam từ trước năm 1932", hầu hết các nhà thơ, nhà văn đều không ít
thì nhiều đều bị văn chương lãng mạn Pháp lôi cuốn, trong đó có Xuân Diệu. Trong bài viết
Tinh thần Phục Hưng trong lý tưởng thẩm mỹ của Xuân Diệu thời trước 1945, Lê Quang
Hưng đã cho thấy "thơ ông (Xuân Diệu) thắm đượm tinh thần Phục Hưng"(51, tr.11). Tinh thần
Phục Hưng ấy thể hiện ở lý tưởng thẩm mỹ của Xuân Diệu trước cái đẹp, trong cuộc đời trong
tình yêu...nên bất kỳ cái gì được Xuân Diệu nói tới, đều tồn tại một cách đầy đủ, theo đúng với
tinh thần của cuộc sống.
Cụ thể là Xuân Diệu chịu ảnh hưởng bởi văn chương của Baudelaire, André Gide, Hugô,
Lamartine...Và trong bài thơ Tình trai, Xuân Diệu đã bày tỏ sự ngưỡng mộ của mình đối với
các thi sĩ lãng mạn ấy:
"Tôi nhớ Rimbaud với Verlaire,
Hai chàng thỉ sĩ choáng hơi men,

Say thơ xa lạ, mê tình bạn,
Khinh rẻ khuôn mòn, bỏ lối quen..."
Xuân Diệu học theo cách nói, cách thể hiện, cách dùng từ...của họ, nên ngay từ khi mới
đặt chân vào làng văn, ông được xếp vào hàng những thi sĩ "Tây quá", "lãng mạn quá". Chúng
25


×