Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Quá trình hình thành và phát triển của công ty Amazon

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (287.1 KB, 35 trang )

CÁC THÀNH VIÊN TRONG NHÓM:
Hoàng Thị Mỹ Doan (slide, chiến lược cạnh tranh, chiến lược chức năng)
Đinh Thị Thanh Huyền (slide, chiến lược cạnh tranh, chiến lược chức năng)
Phạm Thị Thu (chiến lược phát triển)
Phạm Thị Vân (chiến lược phát triển)
1
A. Quá trình hình thành và phát triển của công ty Amazon
1. Giới thiệu một vài nét về công ty
Tên niêm yết trên sàn NASDAQ: AMZN
Năm hình thành 1994
Trụ sở chính Seattle, Washington - USA
Địa điểm kinh doanh Khắp nơi trên thế giới
Người đứng đầu
Jeffrey P.Bezos
(Giám đốc điều hành, chủ tịch hội
đồng quản trị)
Ngành kinh doanh Bán lẻ
Sản phẩm
Amazon.com, A9.com, Alexa
Internet, IMDb, Amazon Kindle,
Amazon Web Services
Doanh thu 19.166 tỉ USD (2008)
Thu nhập từ hoạt động kinh doanh 842 tỉ USD (2008)
Thu nhập sau thuế 645 tỉ USD (2008)
Số lượng công nhân 20500 (2008)
Website Amazon.com
Cách thức kinh doanh Video và trang web
Các ngôn ngữ Trung Quốc, Anh, Pháp, Đức, Nhật
Khởi nghiệp 1995
Amazon.com Inc (mã niêm yết trên sàn NASDAQ: AMZN) là một công
ty thương mại điện tử của Mỹ đặt tại Seattle, bang Washington. Đây là hệ thống


bán lẻ lớn nhất của Mĩ với doanh thu bán hàng qua Interet gần gấp ba lần.
Amazon là công ty kinh doanh đa ngành, đa nghề như sách, dịch vụ mua bán
nhạc, phần mềm tin học, trang trí nội thất, game…Quảng cáo của Amazon đập
vào mắt ta bất cứ khi nào ta click vào Internet. Các chuyên gia gọi Amazon.com
là một trong những công ty có tiềm năng và triển vọng bậc nhất hiện nay. Với
doanh thu hàng tỷ đô la/năm trong vòng 4 năm hình thành và phát triển, rõ ràng
2
siêu thị bán lẻ qua mạng này là một trong những người khổng lồ của thế giới
thương mại điện tử
Jeffrey P.Bezos là người sáng lập ra Amazon vào năm 1994 và bắt đầu
kinh doanh trực tuyến năm 1995. Ban đầu công ty chỉ là một cửa hàng sách
online , sau đó đa dạng thêm các dòng sản phẩm như DVD, CD, MP3, phần
mềm máy tính, trò chơi điện tử, hàng điện tử, đồ ăn, trò chơi, đồ nội thất, nữ
trang, quần áo. Amazon thiết lập các trang web riêng tại Canada, Anh, Đức,
Pháp, Trung Quốc và Nhật. Nó đồng thời xuất một số loại hàng đến một số nước
khác.
Vào 15/1/2009, một nghiên cứu của hãng Verdict Research chỉ ra rằng
Amazon là nhà bán lẻ nhạc và video được ưa chuộng tại Anh và đứng thứ ba
trong ngành bán lẻ.
2. Một vài nét về Jeffrey P.Bezos
Khôn ngoan, quỷ quyệt, Jeffrey P.Bezos cũng chẳng khác những thương
nhân nổi tiếng khác là bao. Hợm hĩnh quá lối, cứ như là Internet sinh ra là chỉ để
cho mình ông ta. Bất cứ ai khi muốn làm một cuộc dạo chơi và mua sắm trên
mạng chẳng chóng thì thấy rốt cuộc cũng phải rút hầu bao chi trả cho dịch vụ
của Amazon mà thôi. Trên Internet có rất nhiều các địa chỉ bán lẻ, bán buôn, thế
nhưng những cửa hàng lớn nhất, tên tuổi nhất, làm ăn tốt nhất đều nằm trong hệ
thống điều hành của Amazon. Và như vậy cũng có nghĩa là chúng thuộc về
chính Jeff Bejoc
Bốn năm về trước, Jeff chỉ là một nhân viên làm thuê cho bác họ. Công
việc này chỉ kéo dài có đúng 8 năm. Và trong 8 năm đó Jeff đã nung nấu một ý

chí là phải làm sao lập ra cho mình một kế hoạch thăng tiến trong nghề nghiệp
mà theo đó cứ hai năm một lần anh ta phải thay đổi được vị trí của mình.
3
Năm 22 tuổi, với 2 mảnh bằng kỹ thuật điện tử và bằng lập trình viên, Jeff
rời gia đình lên New York. Tại đây Jeff được nhận vào làm ở một công ty máy
tính có tên là Fitel. Hiện nay Fitel là công ty con của tập đoàn Furukawa Electric
của Nhật Bản. Nhưng lúc mà Jeff còn làm ở đây với vai trò tập sự thì Fitel chỉ là
một cái tên chưa ai biết đến. Anh ta không đoái hoài đến những điều đó, cái
quan trọng nhất với anh ta là kế hoạch thăng tiến trong nghề nghiệp phải được
diễn ra đúng theo ý muốn đã định sẵn
Năm 1988, Jeff nhảy sang đầu quân cho một công ty tài chính có tên là
Bankers Trust Company.Tại đây, Jeff được giao trọng trách lập ra chương trình
quản lý tài khoản. Jeff đã chứng minh được mình là một lãnh đạo tốt, một
chuyên gia lập trình cừ khôi và chỉ sau 2 năm anh ta đã được đề bạt lên chức vụ
Vice-President của công ty chuyên trách về IT.
Chưa kịp hân hoan làm lễ nhậm chức thì Jeff đã nhận được một lời mời
khác với chức vụ thấp hơn tại một công ty có tên tuổi hơn: DE Shaw & Co - một
công ty bảo hiểm có trụ sở trên phố Uôn. Và tại đây, sau hai năm, Jeff lại được
đề bạt lên chức Vice-President
Năm 1994, sau khi đắn đo suy nghĩ, Jeff cảm thấy rằng ở tại công ty bảo
hiểm này anh đã không còn đất để dụng võ nưa. Chẳng có gì bất bình thường
bởi các chức vice president đối với một thanh niên 30 tuổi như Jeff thì có thể nói
chỉ có Jeff là người đàn ông trẻ tuổi duy nhất trong lịch sử hình thành công ty có
được một chức vụ cao như thế
Hình như kế hoạch "một bước trong hai năm" của Jeff đã trở nên lỗi thời.
Jeff trăn trở suy nghĩ. Chức vụ “vice president” trong một công ty bảo hiểm tên
tuổi đối với nhiều người là niềm mơ ước cháy bỏng. Nhưng Jeff thì không chỉ
muốn dừng lại ở đó.
4
Jeff có thú đọc và nghiên cứu các dự báo về kinh tế vĩ mô. Và một lần anh

đọc được ở đâu đó nói rằng tiềm năng lớn nhất đối với kinh doanh là hệ thống
thương mại điện tử, rằng thương mại điện tử trong vòng mấy năm nữa sẽ phát
triển lên mức mấy nghìn phần trăm/năm, rằng những ai sớm tìm cho mình một
hướng đi vào đó sẽ có cơ hội khi thời cơ đến
Jeff không phải là người quá lãng mạn để thả hồn vào những giấc mơ.
Ông đang nhẩm tính con số tiền bạc thu được và muốn nghe được tiếng sột soạt
đâu đó của đồng đô la. Nếu như hàng triệu triệu người cũng ngồi trước màn hình
máy tính, trước một thế giới rộng mở như thế, tại sao ta không nghĩ đến việc
mời chào họ mua một món hàng gì nhỉ?
Trong ba tháng trời liền, Jeff luôn nghĩ về dự định mở một siệu thị bán
hàng qua mạng. Câu hỏi đầu tiên mà anh nghĩ đến là "Bán mặt hàng gì bây
giờ?", không ngần ngại ông tự trả lời: “Bán gì mà chẳng được”. Đầu tiên ông lên
một danh sách các mặt hàng định kinh doanh gồm hai chục món để rồi sau đó
gạch hết đi chỉ để lại 5 thứ mà ông cho là cần thiết: chương trình máy tính,
videocassettes, compact-dist và sách. Cuối cùng sau khi đắn đo suy tính, Jeff đã
chỉ để lại một thứ là sách. Kiếm khách hàng và mời chào để nhiều người mua
một món với giá 20$ còn đơn giản hơn là chỉ có một khách hàng mua món hàng
với giá 200$ - Jeff nhẩm tính.
Và Jeff đã không chần chừ trước quyết định của mình. Anh hăm hở bắt
tay vào việc. 30 tháng 6 năm 1994 là ngày làm việc cuối cùng của anh tại DE
Shaw & Co. Bỏ lại tất cả phía sau, anh cùng vợ và con chó yêu của mình tiến về
phía tây Seattle, bang Washington. Anh quyết định chọn nơi này để lập nghiệp
bởi cơ chế thuế thoáng hơn nơi khác, vả lại ở đây tập trung khá đông lực lượng
lao động lành nghề.
Jeff đăng ký tên công ty với cái tên Amazon.com, thuê văn phòng vốn là
một gara ô tô với giá rẻ, tuyển dụng 4 nhân viên trong đó có vợ mình và đặt
5
nhiệm vụ đúng 1 năm sau 30/6/1995 công ty sẽ bắt đầu công cuộc kinh doanh
sách qua mạng trên toàn lãnh thổ nước Mỹ.
Jeff đào tạo nhân viên theo hai hướng: một nửa nhân viên sẽ lo đàm phán

với các nhà xuất bản, các công ty bán buôn sách cũng như các chủ kho bãi, số
còn lại lo việc tìm nguồn tiêu thụ bằng các chương trình quảng cáo hoặc xây
dựng phần mềm tiêu thụ hàng trên mạng. Trước cả thời hạn đã định, trên mạng
Internet đã xuất hiện những quảng cáo đầu tiên về một loại hình kinh doanh mới
- kinh doanh sách qua mạng.
Và Jeff đã thành công ngay từ những ngày đầu tiên đó. Ban đầu cả chủ
lẫn nhân viên miệt mài đóng sách gửi qua đường bưu điện, nhưng sức không đủ,
đơn đặt hàng thì tới tấp, anh quyết định mở thêm các điểm giao hàng. Lợi nhuận
thu được thật như trong mơ! Chỉ trong vòng một năm đầu tiên kinh doanh, Jeff
thu về vài triệu Mỹ kim, và anh quyết định dùng số tiền này để phát triển mở
rộng công ty.
Hiện nay Amazon thu được hàng trăm triệu Mỹ kim lợi nhuận mỗi quý.
Và kế hoạch ngày nào Jeff lập ra: cứ hai năm một lần sẽ phải có một thay đổi
nào đó trên đường công danh của mình đối với Jeff giờ đây cũng không là ngoại
lệ. Jeff quyết định trao quyền thống soái của mình cho Joseph Gall - người đã
từng đầu quân cho Black & Decker - một đại gia trong lĩnh lĩnh vực vật liệu xây
dựng tại Mỹ để về nghỉ hưu ở tuổi 35.
3. Lịch sử và mô hình kinh doanh
Amazon thành lập năm 1994, dựa vào mô hình và Bezos đã gọi là “hệ
thống tối thiểu hóa sự hối tiếc” (regret minimization framework), một nỗ lực của
ông ấy để đẩy lùi sự hối tiếc vì đã không tham gia vào công cuộc đổ xô đi tìm
6
vàng (gold rush). Câu chuyện về công ty nói rằng: Bezos đã viết ra kế hoạch
kinh doanh khi ông ấy và vợ đi xe từ New York về Seattle nhưng điều đó có vẻ
không đáng tin lắm.
Công ty khởi đầu là một cửa hàng sách online tên là “Cadabra.com”, cái
tên này bị cấm ngay sau đó vì nghe giống “cadaver” (xác chết). Thời điểm đó
những cửa hàng sách “xây bằng gạch và vữa” lớn nhất và những danh mục đặt
hàng sách qua mail có thể có 200.000 mục một cửa hàng sách online còn có thể
có hơn thế.

Bezos đặt lại tên công ty là “Amazon” dựa theo tên con sông lớn nhất thế
giới. Từ năm 2000, phù hiệu của Amazon là một mũi tên chỉ từ A đến Z, thể
hiện sự hài lòng của khách hàng và mục tiêu của công ty là có mọi loại sản
phẩm trong bảng chữ cái.
Năm 1994, công ty hợp nhất ở bang Washington, bắt đầu dịch vụ vào
tháng 6-1995 và tái hợp nhất ở Delaware năm 1996. Cuốn sách đầu tiên
Amazon.com bán là cuốn “Các khái niệm lưu chất và những tương ứng sáng tạo:
những mô hình cơ chế cơ bản của ý nghĩ” của Douglas Hofstadter. Amazon.com
phát hành cổ phiếu lần đầu vào 15/5/1997, giao dịch trên sàn chứng khoán
NASDAQ, giá IPO là 18 USD/1 cổ phiếu (1.5USD/1 cổ phiếu sau ba lần chia
giá trị cổ phiếu trong những năm cuối thập kỉ 90)
Kế hoạch kinh doanh ban đầu của Amazon rất lạ, công ty không kì vọng
vào lợi nhuận cho 4 đến 5 năm, chiến lược là hiệu quả. Amazon tăng trưởng ổn
định trong cuối những năm 1990 trong khi những công ty Internet khác tăng
trưởng nhanh. Sự tăng trưởng “chậm” của Amazon dấy lên lo ngại của cổ đông
rằng công ty đang không vươn tới được lợi nhuận đủ nhanh. Khi bong bóng
dotcom nổ, nhiều công ty điện tử làm ăn thất bát, Amazon vẫn đứng vững và
cuối cùng nó cho ra lợi nhuận đầu tiên trong quý IV 2001: 5triệu USD, chỉ 1
7
cent/cổ phiếu, doanh thu hơn 1 tỷ USD nhưng một cách tượng trưng lợi nhuận
thì vẫn quan trọng
Công ty duy trì có lợi nhuận, 2003 thu nhập sau thuế là 35.3 triệu USD,
588.50 triệu $ (2004), 359 triệu $ (2005), 190 triệu $ (2006) (bao gồm đã tính cả
662 triệu $ chi cho R & D). Mặc dù vậy lợi nhuận lũy kế vẫn là âm. 9/2007 thâm
hụt lũy kế ở mức 1.58 tỷ $. Doanh thu tăng nhờ vào đa dạng hóa sản phẩm.
Vào 21/11/2005, Amazon tham gia chỉ số S&P 500, thay thế cho AT&T
sau khi AT&T sát nhập với SBC communications. Vào 31/12/2008, Amazon
được vào chỉ số S&P100, thay cho Merrill Lynch sau khi nó được Ngân hàng
trung ương Mỹ tiếp quản.
Vào 1999, tạp chí Time xếp Bezos là “Nhân vật của năm” ghi nhận thành

công của công ty trong việc quảng bá mua hàng trực tuyến.
4. Trụ sở chính
Trụ sở toàn cầu của công ty đặt tại đồi Beacon – Seattle. Công ty có các
văn phòng rải khắp các khu vực khác của Seattle rộng lớn bao gồm Union
Station và trung tâm Columbia
Amazon vừa công bố kế hoạch chuyển trụ sở chính về Nam hồ Union lân
cận Seattle, bắt đầu vào giữa 2010, hoàn tất vào 2011. Sự di chuyển này sẽ tập
hợp tất cả nhân viên tại Seattle vào khuôn viên tòa nhà 11 tầng mới.
5 .Các dòng sản phẩm
Amazon đã mở các nhánh bán lẻ đĩa nhạc, băng Video và đĩa DVD, phần
mềm, điện tử tiêu dùng, đồ nhà bếp, dụng cụ, thiết bị làm cỏ, làm vườn, đồ chơi
trò chơi, đồ trẻ em, quần áo, đồ thể thao, thực phẩm, trang sức, đồng hồ, thiết bị
8
chăm sóc cá nhân và y tế, sản phẩm làm đẹp, nhạc cụ, vải vóc, rau quả, nguyên
liệu công nghiệp và khoa học…
Công ty đã vận hành sàn đấu giá A.com, dịch vụ đấu giá vào 3/1999. Tuy
nhiên nó đã thất bại trong việc bào mòn sự phát triển hàng mạnh của kẻ di tiên
phong trong ngành: eBay. Sàn đấu giá Amazon tiếp sau đó là kinh doanh thị
trường giá cố định gọi là zShop vào 9/1999 và liên doanh Sotheby’s/Amazon
gọi là Sotheby.amazon.com vào tháng 11.
Amazon không còn nhắc đến sàn đấu giá hay zshop trong những trang
chính và trang trợ giúp người bán bây giờ cũng chỉ nhắc đến Marketplace.
Đường link cũ đến zshop bây giờ nối trực tiếp với trang chủ còn link cũ đến sàn
đấu giá đưa người dùng đến một trang về lịch sử các giao dịch. Danh sách sản
phẩm mới không còn nữa cho những dịch vụ này.
Mặc dù zshop đã không tồn tại lâu được như mong muốn nhưng nó vẫn
đặt nền tảng cho thành công lớn của dịch vụ thị trường Amazon tung ra năm
2001, để khách hàng bán sách cũ, CD, DVD, những sản phẩm khác cũng như
sản phẩm mới. Bây giờ đối thủ chính của Amazon Marketplace là dịch vụ
Haff.com của eBay.

Đầu tháng 8/2005, Amazon bắt đầu bán sản phẩm dưới nhãn hiệu riêng:
“Pinzon”. Những ứng dụng thương hiệu mở đầu gợi ra cho công ty ý tưởng tập
trung vào dệt may, dụng cụ nhà bếp và những khóa gia đình khác. Vào tháng 3-
2007, công ty áp dụng mở rộng thương hiệu,để bao quát và đa dạng danh mục
hàng hóa. Để đăng ký thiết kế mới có từ PINZON viết cách điệu và chữ O ở vị
trí kim đồng hồ chỉ một giờ. Danh mục các sản phẩm đăng ký dưới thương hiệu
đã phát triển ra bao gồm cả những loại như: sơn, thảm, giấy dán tường, làm tóc,
vải,footware, dụng cụ làm đẹp, trang sức.
9
Vào 16/5/2007, Amazon công bố dự định triển khai cửa hàng âm nhạc
trực tuyến. Cửa hàng bắt đầu tại Mỹ vào 25/9/2007, kinh doanh việc tải nhạc
MP3 không quản lý quyền kỹ thuật số (DRM). Điều này rất đáng lưu ý bởi vì nó
là dịch vụ bán online dầu tiên, nhạc DRM miễn phí từ cả bốn công ty thu âm.
Vào tháng 8/2007, Amazon công bố Amazon Fresh- dịch vụ thực phẩm
bán các loại thực phẩm tươi sống và ăn sẵn. Đơn hàng của khách có thể được
phân phát hoặc gửi hàng đến tận nhà vào sáng sớm.
Ban đầu sự giao hàng bị hạn chế đến người dân ở Mercer Island, bang
Washington rồi sau đó mở rộng đến một số ZIP codes ở Seattle proper.
Amazon- Fresh vận hành ở một số địa điểm được chọn ở vùng phụ cận của
Bellevue và Kirkland từ hè năm 2007 đến đầu năm 2008.
Năm 2008 Amazon mở rộng thêm lĩnh vực sản xuất phim và gần đây
đang đầu tư cho phim “The stolen Child” hợp tác với hãng 20
th
Century Fox.
6. Website
Tên miền amazon.com thu hút ít nhất 615 triệu lượt người ghé thăm hàng
năm theo nghiên cứu của Compete.com. Con số này gấp hai lần của
Walmart.com
Amazon cho phép người sử dụng đăng tải bài bình luận trên trang web
của mỗi sản phẩm. Cũng là một phần của bình luận sản phẩm, người sử dụng

phải xếp hạng sản phẩm dựa vào thang xếp loại từ một đến năm sao. Năm 2004,
một lỗi phần mềm vô tình đã hiện thị tên dưới bài viết được đăng tải vô danh và
đã làm lộ ra rằng một số tác giả dã viết những bài bình luận đánh bóng những
cuốn sách của chính mình. Amazon đã thiết kế một chức năng cho phép người
sử dụng phản hồi lại nhưng bài bình luận. Amazon cung cấp tùy chọn cho người
bình luận, ví dụ để chỉ ra tên thật của người viết bình luận (dựa trên thông tin
10
trên tài khoản tín dụng) hoặc để chỉ rằng người bình luận là một trong những top
những người bình luận tính về mật độ được tin cậy. Trang web ở Mỹ nói chung
là có lượng bình luận nhiều nhất. Một lời bình đăng trên một trang web không
cần thiết phải hiển thị ở trang weab này hoặc hiển thị ở trang web khác. “Search
Inside the Book” là một tính năng cho phép khách hàng tìm kiếm những từ khóa
trong đoạn văn hoàn chỉnh của nhiều cuốn sách trong Catalog. Tính năng này
bắt đầu với 120000 đề mục (tức 33 triệu trang văn bản) vào 23/10/2003. Hiện
giờ có khoảng 250000 cuốn sách nằm trong chương trình này. Amazon đã hợp
tác với khoảng 130 nhà xuất bản để cho phép người sử dụng thực hiện thao thác
tìm kiếm này.
“Tiền kiếm bên trong cuốn sách” là một chức năng cho phép khách hàng
tìm kiếm những từ khóa từ văn bản đầy đủ của tất cả những cuốn sách có trong
danh mục. Chức năng này bắt đầu với 120000 tựa đề sách (ứng với 33 triệu
trang sách) vào ngày 23/10/2003. Hiện tại đã tăng lên đến 250000 cuốn sách
trong danh mục. Amazon đã hợp tác với khoảng 130 nhà xuất bản để cho phép
người sử dụng có thể dùng công cụ tìm kiếm này.
Để tránh sự vi phạm bản quyền, Amazon.com không hỗ trợ những văn
bản có thể đọc được bằng máy tính hoặc những bức tranh từ các trang đó, không
cho phép việc in ấn và đặt ra các giới hạn về số trang của một cuốn sách mà một
người sử dụng đơn lẻ có thể truy cập. Một tác giả có thể xem sách của anh ta có
được đọc trực tuyến hay không bằng cách gõ một vài chữ cái. Thêm vào đó,
khách hàng có thể mua một số sách trực tuyến qua chương trình “Amazon
upgrade”, mặc dù sự lựa chọn hiện nay còn khá là giới hạn.

Theo như thông tin từ diễn đàn của Amazon.com, Amazon có được 40%
doanh số bán hàng từ các chi nhánh mà họ gọi là cộng tác viên, và bên thứ ba -
người mà liệt kê và bán những sản phẩm trên web Amazon. Các cộng tác viên
nhận được tiền hoa hồng từ việc giới thiệu khách hàng bằng cách đặt đường link
11
của Amazon hoặc những sản phẩm đặc biệt của Amazon vào website của họ.
Nếu có được doanh thu từ việc này, cộng tác viên sẽ được nhận hoa hồng từ
Amazon. Trên toàn thế giới, Amazon có trên 900000 thành viên trong chương
trình những cộng tác viên của nó. Cộng tác viên có thể truy cập danh mục tài
liệu của Amazon một cách trực tiếp trên website của họ bằng việc sử dụng web
của Amazon (AWS). Một sản phẩm mới cho các cộng tác viên – astore – cho
phép các cộng tác viên đặt một tập hợp con những sản phẩm của Amazon vào
bên trong hoặc liên kết chúng với những website khác.
Amazon công bố có hơn 1.3 triệu nhân viên bán hàng qua web của
Amazon trên toàn thế giới vào năm 2007. Bán hàng trên Amazon đã trở thành
phổ biến khi Amazon mở rộng danh mục sách đa dạng hơn và xây dựng các
chức năng khác nhau hỗ trợ bán sách.
Không giống như eBay, những người bán sách trên Amazon không duy trì
một tài khoản thanh toán riêng mà tất cá sự thanh toán và an ninh đều được thực
hiện bởi chính Amazon.
Theo như website compete.com - một web đo lường khán giả trên
Internet, Amazon đã thu hút khoảng 50 triệu người tiêu dùng Mỹ vào website
của nó mỗi tháng.
B. Chiến lược kinh doanh.
I. Tìm hiểu thị trường
1. Tiềm năng phát triển thị trường .
12
Internet ngày càng phát triển mạnh mẽ: năm 1994 thì việc sử dụng Internet
đã tăng đến 2.300% một năm.
Ở Việt Nam theo khảo sát mới nhất của Asia Digital Marketing Yearbook,

hiện số người sử dụng Internet tại VN đứng hạng 17 trong 20 quốc gia và vùng
lãnh thổ đứng đầu thế giới (tính đến tháng 5/2007).
Theo đó, tỉ lệ người sử dụng Internet vào khoảng 17,5% dân số (trên 14 triệu
người). Có đến 72% số người trong độ tuổi 18-30 sử dụng Internet tại VN
thường xuyên tán gẫu (chat) và 81% số người trong độ tuổi 41-50 thường xuyên
đọc tin tức trên Internet.
Dẫn đầu thế giới hiện nay là Mỹ với hơn 211 triệu người, chiếm gần 70% dân
số nước này. Lần lượt xếp thứ 2 và 3 trong thống kê này là Trung Quốc và Nhật
Bản.
Hiện trên thế giới có hơn 1,1 tỉ người sử dụng Internet, 20 quốc gia và vùng
lãnh thổ đứng đầu đã chiếm gần 80% số người sử dụng Internet trên toàn cầu.
Ngày nay, khi thương mại điện tử đã phát triển đến giai đoạn người tiêu
dùng có thể thực hiện cả quá trình mua bán hàng hóa chỉ với vài click
chuột, nhiều người bắt đầu hình thành thói quen mua sắm mới. Nhiều bạn
trẻ cho rằng, việc mua hàng trên mạng vừa nhanh, rẻ, tiện lợi mà cũng là
một cách thư giãn sau những giờ làm việc tại văn phòng. Việc đặt mua hàng
rất dễ dàng, hàng hóa lại được vận chuyển đến tận nơi. Nếu sử dụng các thẻ
thanh toán quốc tế trên các website có hình thức thanh toán trực tuyến, việc
mua các hàng hóa thiết yếu như văn phòng phẩm, nhu yếu phẩm, thực
phẩm đóng gói sẽ rất tiện lợi và đơn giản, giúp chị em phụ nữ không còn
phải đi siêu thị định kỳ để mua về. Máy tính, điện thoại di động, máy ảnh,
thiết bị điện tử…cũng được khách hàng tìm kiếm và mua qua mạng nhiều
do có độ chuẩn hóa về chất lượng. Người mua có thể tham khảo về tính
năng, mẫu mã và giá cả của các sản phẩm mới trên một số trang web. Khi
ưng một sản phẩm, bạn chỉ cần lựa chọn giá cả tốt nhất để đặt mua. Người
sử dụng máy tính và mạng Internet càng nhiều thì thị trường thương mại
điện tử càng có điều kiện phát triển. Các mặt hàng được bán trên mạng rất
phong phú, từ đồ dùng văn phòng, quà tặng, đồ trang sức, thời trang, thẻ
game… như một siêu thị thực thụ, đến các dịch vụ đặt tour du lịch, vé máy
bay. Các website du lịch sử dụng hình thức thanh toán trực tuyến khiến cho

việc tham khảo và chọn tour của khách du lịch trở nên dễ dàng, tiện lợi hơn
13
trước rất nhiều. Việc thanh toán cũng được thực hiện ngay trên trang web.
Điều này sẽ tiết kiệm được thời gian, công sức mà lại tự tham khảo được
nhiều thông tin để lựa chọn.
So với các loại hình mua sắm thông thường khác: nhanh chóng , dễ dàng ,
thuận tiện...Với một chiếc máy vi tính kết nối internet và một chiếc thẻ tín
dụng, bạn có thể ngồi nhà và shopping khắp năm châu.
Với mục đích tiết kiệm thời gian và mang lại sự tiện lợi, dịch vụ mua sắm
qua mạng kết hợp với thẻ tín dụng đã ra đời. Giờ đây, bạn có thể ngồi nhà và
thoải mái mua sắm hàng trăm mặt hàng của các nhà cung cấp khác nhau. Tuy
nhiên, không ít người vẫn chưa quen mua sắm qua mạng vì ngại rủi ro và thủ tục
phức tạp.
2. So sánh giữa Amazon và Ebay.
Có thể khẳng định rằng eBay và Amazon là hai “ông vua” của thị trường bán
lẻ trực tuyến. Và tất nhiên, cả hai cũng rất chuyên nghiệp và lớn mạnh. Để giúp
các công ty hiểu được lợi thế đặc biệt của hai “ông lớn” này, chúng tôi đã lựa
chọn 7 điểm để so sánh. Những kết luận này được dựa trên sự phân tích của
chuyên gia tư vấn về thương mại điện tử Steve Lindhorst, trường đại học quốc
gia eBay và tác giả của cuốn sách điện tử bán chạy nhất “Selling on ‘The River’
- The eBay Seller’s Guide to Amazon.com”
• Giá cả
Không giống như Amazon, eBay tính theo một danh sách phí dù là khoản
nào đi chăng nữa, cũng như là PayPal có thể áp dụng được. Nhưng số tiền
hoa hồng của nó cũng thấp hơn nhiều so với Amazon (8% đối với những
sản phẩm dưới 25 đô la so với 15%). Lindhorst nói: “Trong khi Amazon
duy trì mức phí cao hơn thì danh sách của họ kéo dài hơn và về cơ bản
phụ thuộc vào sự tác động giữa người bán và người mua.”
Hình thức bán
14

×