Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Thực trạng tranh chấp lãi suất trong hợp đồng tín dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (355.4 KB, 24 trang )

10/2013
Gvhd: Th.s Lê Thị Ngân Hà
Mssv: 1055050253
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT QUỐC TẾ

Thực trạng tranh chấp lãi suất


Bài tiểu luận:

“Thực trạng tranh chấp lãi suất
trong hợp đồng tín dụng”

Giảng viên hướng dẫn: Th.s LÊ THỊ NGÂN HÀ

Sinh viên thực hiện

:

Lớp

:

QT13.3K35

MSSV

:

1055050253



2


Nhận xét của giảng viên
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
3


Mục lục
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRANH CHẤP LÃI SUẤT TRONG HỢP
ĐỒNG TÍN DUNG...........................................................................................................1
1.1 Khái quát về hợp đồng tín dụng.........................................................................1


.............................................................................................................................
1.1.1 Khái niệm....................................................................................................1
1.1.2 Đặc điểm.....................................................................................................1
1.2 Lãi suất................................................................................................................2
I.2.1 Khái niệm...................................................................................................2
1.2.1.1 Lợi tức tín dụng.................................................................................2
1.2.1.2 Lãi suất tín dụng ...............................................................................2
1.2.2 Phân loại lãi suất .....................................................................................3
1.2.3 Đặc trưng của lãi suất trong hợp đồng tín dụng .....................................4
1.2.4 Vai trò của lãi suất....................................................................................5
1.2.5 Pháp luật về lãi suất và cơ chế điều chỉnh lãi suất trong lĩnh vực tín dụng
ngân hàng..................................................................................................5
1.2.5.1 Quy định về lãi suất trong hoạt động tín dụng..................................5
1.2.5.2 Quy định về lãi suất trong hợp đồng của TCTD...............................6
1.3 Tranh chấp về lãi suất trong hợp đồng tín dụng................................................8
1.3.1 Khái niệm..................................................................................................8
1.3.2 Đặc điểm về tranh chấp lãi suất cho vay...................................................8
1.3.3 Nguyên nhân của tranh chấp về lãi suất....................................................9
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG VỀ TRANH CHẤP LÃI SUẤT TRONG HĐTD-GIẢI
PHÁP KHẮC PHỤC........................................................................................................10
2.1 Những vấn đề thực tiễn về tranh chấp lãi suất trong HĐTD ............................10
2.1.1 Khách hàng yêu cầu giảm lãi suất hoặc miễn lãi....................................10
2.1.2 TCTD yêu cầu nâng lãi suất cho vay.......................................................10
2.1.3 Lãi suất trong hạn và cách tính lãi trong hạn..........................................11
2.1.4 Lãi suất quá hạn và cách tín nợ quá hạn..................................................12

2.2 Giải pháp khắc phục...........................................................................................13
2.2.1 Quy định thống nhất về lãi suất cho vay của TCTD.................................13
2.2.2 Thống nhất quy định về lãi suất đối với khoản nợ quá hạn......................14
4



2.2.3 Quy định thống nhất về chế tài phạt trả chậm...........................................14
2.2.4 Quy định cụ thể trường hợp áp dụng lãi suất ấn định của NHNN............15
2.2.5 Áp dụng luật cạnh tranh về nội dung lãi suất trong hoạt động NH...........15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................i

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS
5

Bộ luật dân sự


6

HĐTD

Hợp đồng tín dụng

NHNN

Ngân hàng nhà nước

TCTD

Tổ chức tín dụng


-


-

CHƯƠNG I: LÍ LUẬN CHUNG VỀ TRANH CHẤP LÃI SUẤT TRONG HỢP
ĐỒNG TÍN DỤNG
1.1
KHÁI QUÁT VỀ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
1.1.1 Khái niệm
Quan hệ tín dụng vay mượn giữa TCTD và các chủ thể khác trong nền kinh tế là quan
hệ kinh tế nhằm chuyển giao và sử dụng tạm thời các nguồn vốn tiền tệ nhất định giữa
TCTD và bên đi vay theo nguyên tắc hoàn trả cả vốn và lãi vay. Để tham gia một quan
hệ này, các bên phải kí với nhau một văn bản nhằm xác lập quyền và nghĩa vụ giữa các
bên. Văn bản này được gọi là hợp đồng tín dụng.
Từ khái niệm hợp đồng dân sự theo Điều 388 BLDS 2005 có thể hiểu: “HĐTD là sự
thỏa thuận bằng văn bản giữa một bên là TCTD với một bên là các tổ chức, các nhân có
đủ điều kiện do luật định nhằm xác lập các quyền và nghĩa vụ nhất định của các bên,
theo đó TCTD thỏa thuận sẽ chuyển giao một số tiền cho bên vay sử dụng trong một
thời hạn nhất định, với điều kiện hoàn trả cả gốc và lãi, dựa trên sự tín nhiệm”.
1.1.2 Đặc điểm
HĐTD mang những đặc điểm chung của hợp đồng dân sự nhưng vẫn có những nét khác
biệt:
Về hình thức HĐTD luôn phải được lập thành văn bản. Với hình thức này, các bên có
thể thực hiện hợp đồng trong sự bảo đảm an toàn pháp lí và khi có tranh chấp xảy ra,
HĐTD sẽ là căn cứ xác thực nhất để các cơ quan tài phán giải quyết tranh chấp. Thông
thường, các HĐTD là hợp đồng theo mẫu, được chủ thể cho vay là các TCTD soạn thảo
phù hợp với quy chế của TCTD, bên đi vay thường phải chấp nhận các điều khoản có
trong hợp đồng mà không thể yêu cầu sửa đổi theo hướng có lợi hơn cho mình. Bên vay
thể hiện sự tự do ý chí của mình thông qua việc đồng ý giao kết hợp đồng (nghĩa là chấp
nhận toàn bộ những điều khoản trong hợp đồng). Pháp luật cũng có cơ chế để bảo vệ
khách hàng thông qua khoản 2, 3 Điều 407 BLDS 2005: Trường hợp HĐTD có những

điều khoản không rõ ràng thì bên đưa ra hợp đồng theo mẫu phải chịu bất lợi khi giải
thich hợp đồng hoặc nếu điều khoản gây bất lợi cho khách hàng thì điều khoản này sẽ
trở nên không có hiệu lực (trừ khi có thỏa thuận khác). Đây là bằng chứng cụ thể cho
việc thực hiện hợp đồng và giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng.
Đối tượng của HĐTD là tiền tệ thể hiện ở những khoản vốn cho vay. Vốn tiền tệ ở đây
có thể tiền Việt Nam, ngoại tệ hoặc vàng ; tồn tại dưới dạng tiền mặt, bút tệ hay vật hiện
hữu. Đối tượng của HĐTD bao giờ cũng là một số tiền xác định, được các bên thỏa
thuận và ghi rõ trong hợp đồng. Nếu trong quan hệ tín dụng giữa TCTD và người đi vay
mà có đối tượng là tài sản thì đây là quan hệ cho thuê tài chính, thực hiện thông qua hợp
đồng thuê mua tài chính chứ không phải là hợp đồng cho vay

7


Bên cho vay luôn là TCTD, còn chủ thể đi vay là các tổ chức, cá nhân thỏa mãn những
điều kiện pháp luật quy định. Như vậy, HĐTD ngân hàng mới có hiệu lực pháp luật,
đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia vào giao dịch tín dụng.
- HĐTD luôn chứa đựng nguy cơ rủi ro rất lớn cho quyền lợi của bên cho vay. Tính rủi ro
này bắt nguồn từ đặc thù của đối tượng nghiệp vụ cho vay là tiền tệ-một loại hàng hóa
có tính nhạy cảm và rủi ro cao. Việc thu hồi vốn của tổ chức tín dụng thường phải phụ
thuộc vào khả năng kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng.
- Trong HĐTD, nghĩa vụ chuyển giao quyền của bên cho vay bao giờ cũng phải thực hiện
trước, làm cơ sở cho việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của bên vay.
- HĐTD phải tuân thủ chặt chẽ các nội dung bắt buộc, năng lực chủ thể của các bên tham
gia quan hệ tín dụng, mục đích sử dụng vốn vay, giới hạn vốn vay. TCTD không được
cho vay vốn nhằm đáp ứng các nhu cầu không được pháp luật cho phép, không cho vay
đối với các trường hợp bị cấm, bị hạn chế (Điều 126, 127 Luật các TCTD 2010).
HĐTD có vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo quyền và nghĩa vụ giữa các bên,
những điều khoản chặt chẽ sẽ góp phần hạn chế các tranh chấp phát sinh và thúc đẩy sự
phát triển hoạt động kinh doanh của cả TCTD và người đi vay. Lãi suất cho vay là một

trong những điều khoản quan trọng nhất của HĐTD, yếu tố làm cho HĐTD có đầy đủ ý
nghĩa của nó.
1.2 LÃI SUẤT
1.2.1 Khái niệm
1.2.1.1 Lợi tức tín dụng
Lợi tức tín dụng là phần giá trị tăng thêm mà người đi vay phải trả cho người vay sau
khi đã sử dụng số tiền vay trong một thời gian nhất định hay nói cách khác lợi tức tín
dụng là thu nhập mà người cho vay nhận được ở người đi vay do việc sử dụng tiền vay
của người này. Phần lợi nhuận dành cho người cho vay này được gọi là lợi tức. Thực
chất lợi tức là giá cả của lượng hàng hoá (tức lượng tiền tệ ) cho vay. Lợi tức tín dụng
phụ thuộc vào 3 nhân tố: giá trị tín dụng, thời hạn tín dụng và lãi suất tín dụng.
1.2.1.2 Lãi suất tín dụng
Về khía cạnh kinh tế: lãi suất tín dụng là tỷ lệ phần trăm giữa tổng số lợi tức thu được
trong một thời gian với tổng số vốn bỏ ra cho vay trong cùng một thời gian đó. ta có
định nghĩa khái quát về lãi suất tín dụng như sau: Lãi suất tín dụng là tỷ lệ so sánh giữa
số lợi tức thu được với số vốn cho vay phát ra trong một thời kỳ nhất định . Lãi suất tín
dụng thực chất là giá cả của tín dụng, giá cả của quyền sử dụng vốn.
Lãi suất tín dụng tăng hay giảm bị ảnh hưởng bởi các nhân tố sau đây: cung cầu về vốn
tín dụng, chính sách tiền tệ của Chính phủ và tình hình lạm phát trong nước.
Theo Điều 2 Quy định phương pháp tính và hoạch toán thu, trả lãi của NHNNVN và
các TCTD ban hành kèm theo Quyết định số 652/2001/QĐ_NHNN của Thống đốc
NHNN: Lãi suất được hiểu là khoản tiền bên vay, huy động vốn hoặc bên thuê trả cho
-

8


bên cho vay, đầu tư chứng khoán, gửi tiền hoặc bên cho thuê về việc sử dụng vốn vay,
vốn huy động hoặc tài sản cho thuê. Lãi được tính toán căn cứ vào số vốn, thời gian sử
dụng vốn và lãi suất.

Lãi trong HĐTD có thể được tính theo công thức lãi đơn hay lãi kép. Cần phân biệt lãi
suất danh nghĩa và lãi suất thực, trong đó lãi suất danh nghĩa là lãi suất công bố để áp
dụng trong các quan hệ tài chính tín dụng. Còn lãi suất thực là lãi suất danh nghĩa đã
loại trừ tỷ lệ lạm phát .
1.2.2 Phân loại lãi suất
- Căn cứ vào sự ổn định của lãi suất:
• Lãi suất cố định là lãi suất được ấn định một mức cụ thể trên HĐTD, không chịu tác
động của những biến động lãi suất trên thị trường, không thay đổi trong suốt thời
gian vay vốn tại TCTD.
• Lãi suất thả nổi là lãi suất được điều chỉnh theo từng thời kì. Mức điều chỉnh lãi
suất sẽ theo thỏa thuận giữa khách hàng và TCTD, được quy định rõ trong HĐTD.
- Phân loại theo nguồn sử dụng:

Lãi suất huy động là loại lãi suất quy định tỉ lệ lãi phải trả cho các hình thức nhận
tiền gửi của khách hàng .
• Lãi suất cho vay là loại lãi suất quy định tỷ lệ lãi mà người đi vay phải trả cho
người cho vay. Lãi suất cho vay chỉ hình thành được phát sinh trong các hợp đồng
vay tài sản và lãi suất cho vay không chỉ xác đinh dựa trên số vay gốc và thời hạn
vay mà còn dựa trên khả năng tài chính và uy tín khách hàng
- Phân loại theo giá trị thực:
• Lãi suất danh nghĩa là loại lãi suất được xác định cho mỗi kỳ hạn gửi hoặc vay, thể
hiện trên quy ước giấy tờ được thoả thuận trước..
• Lãi suất thực là loại lãi suất xác định giá trị thực của các khoản lãi được trả hoặc thu
được. Lãi suất thực =lãi suất danh nghĩa + tỷ lệ lạm phát
- Phân loại theo phương pháp tính lãi:
• Lãi suất đơn: là tỷ lệ theo năm, tháng, ngày của số tiền lãi so với số tiền vay ban đầu
không gộp lãi vào tiền vay ban đầu để tính lãi thời hạn kế tiếp.
• Lãi suất kép: là tỷ lệ theo năm, tháng, ngày của số tiền lãi so với số tiền vay, số tiền
vay này tăng lên do có gộp lãi qua từng thời kỳ cho vay (lãi mẹ đẻ lãi con).
- Căn cứ vào thời hạn áp dụng: Hai mức lãi suất này đóng vai trò quan trọng khi cơ quan

chức năng giải quyết khi có tranh chấp xảy ra:
• Lãi suất trong hạn là lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng dùng làm căn cứ để tính lãi
mà khách hàng vay phải trả cho TCTD tính trên số tiền đã vay tương ứng với thời
hạn mà các bên đã thỏa thuận.
• Lãi suất quá hạn là chi phí phát sinh khi tồn tại khoản nợ quá hạn. Tại Khoản 2 Điều
13 Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng ban hành kèm theo QĐ số
1627/2001 thì “ nợ quá hạn là những khoản nợ mà khi đến thời hạn trả nợ gốc hoặc
9


-

-

-

lãi khách hàng không trả nợ đúng hạn và không được điều chỉnh hoặc gia hạn kì hạn
nợ gốc hoặc lãi” Lãi suất thường cao hơn lãi suất trong hạn do áp dụng đối với
người vay vi phạm nghĩa vụ về thời hạn trả nợ.
Ngoài ra, NHNN còn quy định lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết
khấu
• Lãi suất cơ bản: là lãi suất giữ vị trí quan trọng, chi phối các loại lãi suất khác. Lãi
suất cơ bản do Ngân hàng Trung ương công bố trên cơ sở tình hình thực tế và mục
tiêu của chính sách tiền tệ. Trước kia, lãi suất cơ bản được dung làm cơ sở cho các
tổ chức tín dụng xác định lãi suất kinh doanh theo nguyên tắc không được vượt quá
150% lãi suất cơ bản. Nhưng hiện nay, Ngân hàng có thể được tùy ý thỏa thuận lãi
suất với khách hàng, lãi suất cơ bản chỉ mang ý nghĩa xác định cho vay nặng lãi.
• Lãi suất tái chiết khấu: là lãi suất được dung khi Ngân hàng Trung ương tái chiết
khấu giấy tờ có giá cho các Ngân hàng thương mại; lãi suất tái chiết khấu có tác
động rất mạnh đến lãi suất cho vay của Ngân hàng thương mại.Nếu lãi suất tái chiết

khấu tăng cao, các ngân hàng thương mại cũng sẽ tăng lãi suất cho vay để giảm
khối lượng tín dụng và ngược lại.
• Lãi suất tái cấp vốn là lãi suất được dùng khi NHNN cung ứng vốn ngắn hạn cho
TCTD thông qua việc cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá; chiết khấu
giấy tờ có giá hay cho vay lại thông qua hồ sơ tín dụng.
1.2.3 Đặc trưng của lãi suất trong hợp đồng tín dụng
Lãi suất là yếu tố hình thành nên quan hệ tín dụng. Chủ thể được cấp tín dụng trong
quan hệ này mong muốn đạt được lợi ích từ việc chuyển giao cho người vay quyền sử
dụng nguồn vốn của mình. Lợi ích này là khoản giá trị lớn hơn giá trị vốn ban đầu mà
chủ thể cho vay đã cho vay. Phần chênh lệch giá trị này là lợi tức tín dụng hay còn gọi
là lợi nhuận, được xác định thông qua lãi suất. Do đó, lãi suất chính là động lực thúc
đẩy các bên đưa nguồn tiền vào lưu thông thông qua việc thiết lập các quan hệ tín dụng.
Lãi suất là phần giá cả được trả cho việc sử dụng vốn của các chủ thể khác: quan hệ tín
dụng là quan hệ vay mượn trên nguyên tắc có thời hạn, có hoàn trả cả gốc và lãi nên sau
khi hết thời hạn cho vay, khách hàng phải hoàn trả lại cho TCTD đủ khoản tiền được
vay và khoản chênh lệch lớn hơn là lãi được xác định trên cơ sở mức lãi suất do các bên
thỏa thuận từ trước theo đúng quy định của pháp luật. Đồng thời, TCTD cũng phải hoàn
trả cho các chủ thể cho TCTD vay đủ gốc và lãi của khoản tiền vay mà TCTD đã huy
động được nhằm phục vụ cho hoạt dộng kinh doanh của mình.
Lãi suất được tính dựa trên số vay gốc, thời hạn tín dụng và mục đích sử dụng vốn: Bản
chất của lãi suất là một tỷ lệ % nhất định mà bên vay phải trả cho bên cho vay dựa vào
số tiền vay gốc trong 1 thời hạn nhất định. Nên số vốn vay, thời hạn vay đều ảnh hưởng
đến lãi suất. Thời hạn vay cũng ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng. Với thời hạn vay ngắn,
10


-

-


rủi ro với vốn vay ít hơn so với các khoản vay dài. Ngoài ra, mục đích sử dụng vốn
cũng là nhân tố ảnh hưởng không nhỏ đến lãi suất: nếu khoản tiền vay được sử dụng
vào mục đích đầu tư sản xuất kinh doanh thì khả năng thu hồi vốn sẽ đảm bảo nên lãi
suất đầu tư kinh doanh sẽ thấp hơn các lãi suất áp dụng cho các khoản vay khác.
1.2.4 Vai trò của lãi suất
Lãi suất có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế-xã hội nói chung và lĩnh vực tài
chính tiền tệ nói riêng. Vai trò này thể hiện qua các điểm sau đây:
Xét ở tầm vĩ mô: Lãi suất tín dụng là công cụ thực hiện chính sách tiền tệ, được sử dụng
để kiểm soát, tác động vào nền kinh tế, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội
của đất nước: Điều chỉnh lượng cung ứng tiền, từ đó tác động đến sự tăng giảm sản
lượng để thực hiện điều tiết nền kinh tế (ổn định lạm phát, công ăn việc làm và phát
triển sản xuất). Khi nền kinh tế rơi vào suy thoái, NHNN có thể hạ lãi suất nhằm tăng
cung tiền và kích cầu để thúc đẩy kinh tế phát triển. Ngược lại, khi nền kinh tế rơi vào
lạm phát cao, NHNN sẽ nâng lãi suất lên nhằm hạn chế và rút bớt cung tiền góp phần
giảm tỉ lệ lạm phát.Tác động tới tổng cung và tổng cầu thông qua tác động tới hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp, đến tiêu dùng và tiết kiệm của dân cư. Lãi suất thấp sẽ
khuyến khích các cá nhân, tổ chứa vay vốn phát triển sản xuất, kinh doanh. Ngược lại,
lãi suất cao sẽ làm thu hẹp hoạt động đầu tư của các tổ chức này. Lãi suất cũng là công
cụ tốt để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào các ngành nghề đang được ưu tiên
trong chiến lược phát triển kinh tế của đất nước trong thời kì đó.
Xét ở tầm vi mô: Làm công cụ điều hòa cung cầu ngoại tệ, góp phần cân bằng cán cân
thanh toán quốc tế. Lãi suất tín dụng tác động tới hoạt động sản xuất kinh doanh của
từng doanh nghiệp và đời sống của dân cư, là đòn bẩy để kích thích các đơn vị và cá
nhân sử dụng vốn một cách tiết kiệm và có hiệu quả.
1.2.5. Pháp luật về lãi suất và cơ chế điều chỉnh lãi suất trong lĩnh vực tín dụng
ngân hàng.
1.2.5.1 Quy định pháp luật về lãi suất trong hoạt động tín dụng
Lãi suất tín dụng ngân hàng được sử dụng như một công cụ chủ yếu để cạnh tranh trong
hoạt động của các ngân hàng bởi người vay vốn thường sẽ tìm đến những nơi nào có
mức lãi suất cho vay thấp.

Theo QĐ 546/2002/QĐ-NHNN lãi suất được thực hiện trong hoạt động tín dụng ngân
hàng hoàn toàn do dựa trên cơ sở tự thỏa thuận giữa các bên trên cơ sở cung cầu của thị
trường. Theo quy định BLDS 2005 được ban hành quy định về lãi suất cho vay trên thị
trường nói chung bao gồm cả hợp đồng vay TS và HĐTD:”lãi suất vay do các bên thỏa
thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do NHNNVN công bố đối
với loại cho vay tương ứng”. Lãi suất tín dụng thỏa thuận sẽ bị khống chế theo lãi suất
cơ bản. Quy định tại Điều 476 BLDS 2005 không phù hợp với chủ trương tự do hóa lãi
11


-

-

suất mà NHNN đang phấn đấu thực hiện và sẽ vi phạm cơ chế lãi suất thỏa thuận mà
chính phủ chỉ đạo các NH từ năm 2002 đến nay. Giải pháp được lựa chọn là NHNN sẽ
cân nhắc đưa mức lãi suất cơ bản lên gần hơn với mức lãi suất cho vay trên thị trường
tín dụng ngân hàng thời điểm hiện tại, đảm bảo hài hòa lợi ích giữa người gửi
tiền_TCTD và người vay vốn. Trên cơ sở đó, Điều 1 Thông tư 12/2010 đã cho phép
TCTD thực hiện cho vay bằng đồng Việt Nam theo lãi suất thỏa thuận với khách hàng.
NHNN cũng đã ban hành Quyết định 16/2008, NHNN sẽ công bố lãi suất cơ bản định kì
hàng tháng, trong trường hợp cần thiết thì NHNN công bố điều chỉnh kịp thời lãi suất
cơ bản. Tuy nhiên, hiện nay ngành Ngân hàng vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể những
trường hợp nào thì áp dụng cơ chế lãi suất thoả thuận hoặc theo ấn định của NHNN,
cũng như mức phí áp dụng khi cấp tín dụng để các TCTD và các tổ chức, cá nhân chủ
động khi giao kết hợp đồng tín dụng.
1.2.5.2 Quy định về lãi suất trong hợp đồng tín dụng của TCTD
Theo quy định của BLDS 2005: “Lãi suất do các bên thỏa thuận nhưng không được
vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do NHNN công bố đối với loại cho vay tương ứng”.
Điều 473 BLDS 1995 quy định” lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không được

vượt quá 50% của mức lãi suất cao nhất do NHNN quy định đối với loại cho vay tương
ứng”. “mức lãi suất cao nhất” ở đây là lãi suất trần do NHNN quy định.
BLDS 2005 đã nâng giá trị tỷ lệ xác định mức tối đa của lãi suất thỏa thuận từ 50% lên
150%, đồng thời cũng có sự thay đổi về đối tượng so sánh từ lãi suất trần sang lãi suất
cơ bản nhằm duy trì tính ưu việt của cơ chế thỏa thuận lãi suất giữa các bên nhưng nâng
tỷ lệ giới hạn thỏa thuận cao hơn.
Theo quy định của tín dụng ngân hàng:
• Về lãi suất huy động: Điều 7 Luật TCTD 2010 quy định: “các tổ chức tín dụng có
quyền tự chủ kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình”.
Theo đó, các TCTD có quyền tự chủ trong hoạt động tín dụng nói chung và trong vấn
đề về lãi suất nói riêng. Lãi suất huy động sẽ được ấn định trên cơ sở tham khảo lãi
suất cơ bản của NHNN. Tuy nhiên theo Khoản 1 Điều 1 Quyết định 16/2008 quy
định:”Các TCTD ấn định lãi suất kinh doanh bằng đồng VN đối với khách hàng
không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do NHNNVN công bố để áp dụng trong
từng thời kì. Theo quy định vào năm 2008, lãi suất huy động bị khống chế làm cho
nguồn vốn huy động của các TCTD cũng hạn chế, ngân hàng không còn khả năng
cho vay hoặc việc giải ngân cũng được cân nhắc. Do vậy, lãi suất huy động cần được
điều chỉnh theo hướng tự do lãi suất, cụ thể tại Khoản 1Điều 91 Luật
TCTD2010:”TCTD được quyền ấn định và phải niêm yết công khai mức phí cung
ứng dịch vụ, lãi suất huy động vốn trong HĐ kinh doanh của TCTD “. Quy định này
12


đã phát huy tính tự chủ của TCTD, lãi suất huy động vốn kinh doanh sẽ có diễn biến
theo cung cầu thị trường, phù hợp với chiến lược kinh doanh.
• Về lãi suất trong cấp tín dụng: Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng quy
định tại Khoản 1 Điều 11 (Ban hành theo QĐ 1627/2001): “Mức lãi suất cho vay do
TCTD và khách hàng thỏa thuận phù hợp với quy định của NHNNVN”. Quy định
này tạo điều kiện thỏa mãn được nhu cầu cần thiết mà vẫn tôn trọng sự tự do của các
bên trong HĐTD.

Cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng ngân hàng được áp dụng vào năm
2010 thông qua thông tư số 07/2010 quy định cho vay bằng đồng Việt Nam theo lãi suất
thỏa thuận của TCTD đối với khách hàng. Văn bản này điều chỉnh lãi suất cho vay theo
phương thức thỏa thuận áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn. Khi NHNN
ban hành thông tư số 12/2010, việc tự do hóa lãi suất huy động và cấp tín dụng được
thực hiện và thể hiện quyền tự chủ kinh doanh được thực thi triệt để. Tại K2Đ91 Luật
TCTD 2010 cũng quy định: TCTD và khách hàng có quyền thỏa thuận lãi suất cấp tín
dụng. Pháp luật đã dành cho các bên trong quan hệ cấp tín dụng thể hiện ý chí và sự
bình đẳng, cho phép cân bằng quyền lợi của các bên trong hợp đồng. Tại Khoản 1 Điều
12 Luật NHNNVN 2010:”NHNN công bố lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cơ bản và các
loại lãi suất khác để thực hiện chính sách tiền tệ, chống cho vay nặng lãi”. NHNN vẫn
sử dụng công cụ lãi suất để thực hiện chính sách tiền tệ; tuy nhiên NHNN công bố các
loại lãi suất đó là để chống cho vay nặng lãi. Tuy nhiên, Khoản 3 Điều 91 Luật
TCTD2010 cũng đề ra trường hợp dự liệu là: Trong trường hợp cần thiết, để đảm bảo an
toàn của hệ thống tổ chức tín dụng, NHNN có quyền quy định cơ chế xác định phí, lãi
suất trong HĐ kinh doanh của TCTD. Khi đó lãi suất thỏa thuận giữa TCTD và KH bị
hạn chế và phải tuân theo quy định lãi suất của NHNN.
Quy định pháp luật ngân hàng về lãi suất nợ quá hạn: Các khoản nợ quá hạn làm cho
các TCTD không thu hồi được vốn và lãi đúng thời hạn theo hợp đồng; làm chậm tốc độ
chu chuyển vốn của TCTD làm giảm hiệu quả sử dụng vốn. Theo Khoản 2 Điều 11
trong quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng (ban hành theo QĐ 1627/2001) thì
việc chậm trả đối với nợ quá hạn do các bên thỏa thuận trong HĐTD trên cơ sở phù hợp
với pháp luật hiện hành: “Mức lãi suất áp dụng đối với khoản nợ gốc quá hạn do TCTD
ấn định và thỏa thuận với KH trong HĐTD nhưng không vượt quá 150% lãi suất cho
vay áp dụng trong thời hạn cho vay đã được kí kết hoặc điều chỉnh trong HĐTD”. Quy
định về lãi suất trong HĐTD của TCTD còn nhiều hạn chế tuy nhiên đã tạo được sự
chuyến biến theo cơ chế lãi suất thỏa thuận, hiệu quả điều chỉnh của pháp luật trong HĐ
của TCTD được nâng cao. Tuy nhiên, chính cơ chế lãi suất thỏa thuận này đã tạo nên

13



cuộc cạnh tranh lãi suất không lành mành trong hệ thống ngân hàng nhằm lôi kéo khách
hàng của nhau, làm biến dạng lãi suất huy động trên thị trường.
1.3 TRANH CHẤP VỀ LÃI SUẤT TRONG HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
1.3.1 Khái niệm
Tranh chấp hợp đồng tín dụng là biểu hiện sự mâu thuẫn về quyền và nghĩa vụ hoặc lợi
ích phát sinh từ hợp đồng tín dụng của bên cho vay là các TCTD và khách hàng vay
trong qua trình thực hiện hợp đồng tín dụng. Một HĐTD chỉ được coi là có tranh chấp
khi sự xung đột về quyền lợi giữa các bên đã được thể hiện ra bên ngoài thông qua
những bằng chứng cụ thể và xác định được. Vì thế không phải cứ khi nào vi phạm hợp
đồng thì có tranh chấp mà đôi khi vi phạm hợp đồng diễn ra trước và tranh chấp hợp
đồng sẽ diễn ra sau đó hay có khi có sự vi phạm HĐTD nhưng không có tranh chấp xảy
ra bởi các bên không bày tỏ ra bên ngoài sự xung đột lợi ích giữa họ bằng các hành vi
phản kháng cụ thể có giá trị chứng cứ.
1.3.2 Đặc điểm của tranh chấp về lãi suất cho vay
Tranh chấp về lãi suất có những đặc điểm chung của tranh chấp phát sinh trong hoạt
động tín dụng:
Thứ nhất, tranh chấp phát sinh từ HĐTD thường có giá trị lớn
Thứ hai, tranh chấp thường được giải quyết theo phương thức thương lượng, hòa giải
giữa các bên tranh chấp hơn là giải quyết bằng con đường tòa án. Hai bên phải trực tiếp
hoặc cử đại diện tham gia trong khi hoạt động sản xuất, kinh doanh thì không thể dừng
lại và khả năng thắng kiện cũng không phải là tuyệt đối. Do đó, phương thức thương
lượng, hòa giải vẫn được lựa chọn nhiều hơn vì các bên có thể chủ động trong việc giải
quyết và tiết kiệm chi phí.
Thứ ba, phần lớn các tranh chấp thường có nguyên đơn là chủ thể cho vay và bị đơn là
bên đi vay. Trong quan hệ tín dụng, trách nhiệm về vốn của bên cho vay đến khi giải
ngân xong là rất ít, ngược lại, trách nhiệm của bên đi vay thực sự phát sinh sau khi nhận
tiền giải ngân. Tình trạng bên vay không trả nợ gốc và lãi đúng hạn là điều rất dễ xảy ra,
trong trường hợp này tranh chấp phát sinh với TCTD là chủ thể bị xâm phạm lợi ích

hợp pháp nên TCTD thường là nguyên đơn trong vụ việc.
Tuy nhiên, tranh chấp về lãi suất cũng có những nét đặc thù sau:
Thứ nhất, tranh chấp về lãi suất trong HĐTD thường có nguyên nhân khách quan, xuất
phát từ các yếu tố tác động đến lãi suất cho vay của các TCTD như sự biến động của thị
trường, chính sách điều tiết kinh tế của nhà nước. Mặt khác, tranh chấp cũng có thể xảy
ra do lãi suất trong HĐTD ở thời điểm trước khi có sự thay đổi về chính sách trở nên
không còn phù hợp với quy định của pháp luật sau khi NHNN có những điều chỉnh về
lãi suất cho vay.
14


Thứ hai, tranh chấp về lãi suất thông thường phát sinh khi HĐTD đã được thực hiện và
một trong hai bên có sự vi phạm nghĩa vụ. Thông thường bên vay vi phạm nghĩa vụ trả
nợ, bên cho vay khởi kiện ra tòa, sau đó trong quá trình hòa giải các bên có thỏa thuận
về việc điều chỉnh lãi suất nhưng không thành công. Cũng có những tranh chấp do một
trong hai bên có yêu cầu điều chỉnh lãi suất nhưng không đạt được sự đồng thuận từ
phía bên kia.
1.3.3 Nguyên nhân của tranh chấp về lãi suất
Thứ nhất, khách hàng vay vốn làm đơn yêu cầu TCTD giảm hoặc miễn lãi và TCTD đã
đồng ý kèm theo điều kiện trả nợ trong một thời hạn nhất định, nhưng sau đó bên vay
không thực hiện trả nợ đúng hạn dẫn đến tranh chấp.
Thứ hai, phía cho vay yêu cầu nâng lãi suất so với thỏa thuận ban đầu tại HĐTD vốn
thỏa thuận lãi suất cố định nhưng bên vay không đồng ý
Thứ ba, tranh chấp về mức lãi suất trong hạn và cách tính lãi trong hạn. Trong giai đoạn
từ tháng 6/2002 đến tháng 5/2008, NHNN áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận, sau đó từ
ngày 19/5/2008 đến tháng 2/2010 chuyển sang áp dụng cơ chế trần lãi suất cho vay
bằng “150% của lãi suất cơ bản do NHNN công bố đối với loại cho vay tương ứng”.
Đối với những HĐTD kí kết trước ngày 19/5/2008, có nhiều HĐTD quy định mức lãi
suất mà khách hàng phải trả cho TCTD cao hơn so với mức trần lãi suất sau khi Quyết
định số 16/2008/QĐ-NHNN ra đời. Khi tranh chấp từ các HĐTD này phát sinh, vấn đề

cần phải giải quyết là xác định mức lãi suất cho vay.
Thứ tư, tranh chấp lãi suất nợ quá hạn và cách tính lãi đối với khoản nợ quá hạn. Pháp
luật hiện hành có hai quy định cùng điều chỉnh về cách tính lãi suất nợ quá hạn trong
HĐTD. Hai cách tính này không thống nhất với nhau khiến các bên dễ nảy sinh xung
đột về quyền lợi, đồng thời cũng khiến tòa án gặp khó khăn khi giải quyết.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ TRANH CHẤP LÃI SUẤT TRONG HĐTDGIẢI PHÁP KHĂC PHỤC
2.1 NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN VỀ TRANH CHẤP LÃI SUẤT TRONG
HĐTD
Số lượng các vụ việc tranh chấp lãi suất được Tòa án thụ lý chiếm con số lớn trong các
tranh chấp liên quan đến HĐTD của TCTD. Nhìn chung, các dạng tranh chấp về lãi suất
chủ yếu xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng là: phía khách hàng vay vi phạm
nghĩa vụ trả nợ, khách hàng không thực hiện thanh toán và các TCTD khởi kiện ra Tòa
án yêu cầu khách hàng phải thực hiện nghĩa vụ; TCTD hoặc người đi vay yêu cầu điều
chỉnh lãi suất khi HĐTD quy định lãi suất cố định và thời hạn vay vẫn còn; tranh chấp
15


về mức lãi suất trong hợp đồng và cách tính lãi trong hạn, tranh chấp về nợ quá hạn và
cách tính lãi đối với khoản nợ quá hạn, tranh chấp về mức lãi suất cho vay tối đa.
2.1.1 Khách hàng yêu cầu giảm lãi suất hoặc miễn lãi
Trong quá trình thực hiện HĐTD, có nhiều trường hợp do một số lý do khách quan như
tai nạn hoặc thị trường biến động dẫn đến hoạt động kinh doanh bị ảnh hưởng nên KH
vay vốn không có khả năng trả nợ cho TCTD. Trong trường hợp này, thông thường KH
làm đơn xin giảm hoặc miễn một phần lãi suất, TCTD có thể sẽ chấp nhận kèm theo yêu
cầu. Cũng có trường hợp phía đi vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đúng hạn, khi
TCTD yêu cầu nhiều lần vẫn không thanh toán, TCTD khởi kiện ra tòa và trong quá
trình hòa giải hai bên có thỏa thuận nếu khách hàng thanh toán ngay khoản nợ gốc thì
TCTD sẽ giảm lãi suất đồng nghĩa với việc giảm một phần tiền lãi mà khách hàng phải
trả hoặc miễn một phần lãi.

Ngân hàng P. khởi kiện ông M. vì đã không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi
cho khoản vay 150.000.000 đồng theo HĐTD số 102/TDG/08 TGB ngày 12/02/2008.
Theo biên bản hòa giải, hai bên đã thỏa thuận ngân hàng P. sẽ giảm lãi suất, giảm một
phần tiền phạt chậm trả cho ông M. và rút đơn khởi kiện với điều kiện ông M. phải
thanh toán 150.000.000 đồng tiền nợ gốc làm hai kì ngay sau đó. Tại phiên tòa sơ thẩm,
ngân hàng P cho rằng ông M. chưa thực hiện đầy đủ việc thanh toán tiền nợ gốc nên
ngân hàng vẫn áp dụng lãi suất cũ. Ông M. lại cho rằng ông đã thực hiện được một kì
trả nợ gốc là 75.000.000 đồng như thỏa thuận tại phiên hòa giải nên yêu cầu ngân hàng
P. giảm một phần lãi suất tương ứng với phần ông đã trả được. Tòa cấp sơ thẩm đã xem
xét và chấp thuận yêu cầu của ngân hàng vì ông M. chưa thực hiện đầy đủ điều kiện
theo thỏa thuận nên nghĩa vụ giảm lãi suất và giảm tiền phạt chậm trả của ngân hàng P.
không phát sinh.
2.1.2 TCTD yêu cầu nâng lãi suất cho vay
Thông thường trong hợp đồng vay ngắn hạn, lãi suất cho vay là lãi suất cố định trong
suốt thời gian vay. Khi thị trường có những biến động khiến TCTD phải nâng lãi suất
huy động để thu hút nguồn vốn trong dân cư, việc cho vay với lãi suất thấp hơn so với
lãi suất huy động hiện tại sẽ khiến TCTD mất đi một phần lợi nhuận. Vì vậy, không ít
TCTD đã yêu cầu khách hàng chấp nhận tăng lãi suất cho vay mới tiếp tục giải ngân.
Trước tình hình đó, NHNN đã có Công văn 5004/NHNN-CSTT ngày 04/6/2008 quy
định đối với các HĐTD kí kết trước ngày 19/5/2008, các bên tiếp tục thực hiện những
nội dung trong hợp đồng đã kí kết, như một rào cản ngăn chặn các TCTD dùng sức
mạnh tài chính buộc bên vay phải “chia sẻ” khó khăn bằng việc chịu mức lãi suất cao
(dù hai bên thỏa thuận lãi suất cố định), trong khi đó TCTD lại không tăng lãi suất huy
động với hợp đồng gửi tiền tiết kiệm của khách hàng đã kí kết từ trước.
16


Theo hợp đồng tín dụng được ký vào ngày 2-11-2007, Ngân hàng X đồng ý cho ông
Kham vay gần 400 triệu đồng, thời hạn giải ngân tối đa đến hết ngày 31-12-2008. Lãi
suất cho vay là 0,88%/tháng và mức lãi suất này là cố định trong thời gian 12 tháng kể từ

ngày hợp đồng có hiệu lực.
Ngân hàng đã làm thủ tục xuất tiền cho ông Kham (còn gọi là giải ngân) làm hai đợt với
tổng số tiền hơn 150 triệu đồng. Đến 12-6, khi ông Kham đề nghị giải ngân hơn 200 triệu
đồng còn lại thì ngân hàng lại cho biết mức lãi suất mới là 1,75%. Ông Kham thắc mắc
thì được trả lời: “Mặt bằng lãi suất huy động tăng cao, lãi suất cho vay bình quân đang áp
dụng là 1,75%/tháng. Nếu cần giải ngân gấp thì khách hàng phải chịu mức này”.
Ngày 18-6, để kịp đóng học phí cho con, ông Kham đành chấp nhận điều kiện trên của
ngân hàng. Tính ra, ngoài việc phải chịu mức lãi suất cao hơn so với hợp đồng, ông
Kham còn bị thiệt hơn 15 triệu đồng do tỷ giá VND/USD tăng so với ngày 12-6. Luật sư
Nguyễn Văn Hậu (Đoàn luật sư TP.HCM) nhận xét: Việc ngân hàng đơn phương nâng
mức lãi suất có thể được xem là vi phạm hợp đồng. Lý do “chưa thu xếp được nguồn vốn
giá thấp” chỉ là cái cớ thoái thác. Khoản tiền hơn 200 triệu đồng trong lần giải ngân cuối
cùng là một phần giá trị của hợp đồng tín dụng đã ký, không thể tách rời nên lẽ ra ngân
hàng cần áp dụng mức lãi suất như đã cam kết”. Tuy nhiên, do ông Kham đã ký vào khế
ước nhận nợ, thể hiện sự đồng ý về lãi suất mới nên bây giờ không có cơ sở để khởi kiện.
2.1.3
Lãi suất trong hạn và cách tính lãi trong hạn
Mỗi lần NHNN thay đổi chính sách lãi suất cho vay, những HĐTD đang có hiệu lực
cũng chịu ảnh hưởng không nhỏ, nhất là khi có tranh chấp xảy ra. Bản án sơ thẩm số
06/2009/KDTM-ST ngày 28/9/2009 xử lý vụ kiện giữa NHTMCP Việt Nam Thương
Tín và bà Phan Ngọc H với số tiền vay là 250 triệu đồng, thời hạn cho vay là 12 tháng
từ ngày 27/11/2007 đến 27/11/2008. Lãi suất vay được tính từ ngày 27/11/2007 đến
04/7/2008 là 1,05%/tháng, từ ngày 04/7/2008 trở đi là 1,75%/tháng. Lãi suất quá hạn
bằng 150% lãi suất cho vay.
Từ tháng 6/2002 đến ngày 19/5/2008 NHNN áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận, từ ngày
19/5/2008 trở về sau mới áp dụng mức trần lãi suất bằng 150% lãi suất cơ bản; vụ việc
ở trên HĐTD kí ngày 26/11/2007 là trước ngày 19/5/2008, thỏa thuận lãi suất
1,05%/tháng kéo dài đến ngày 04/7/2008. Như vậy, trong khoảng thời gian từ ngày
19/5/2008 đến 04/7/2008 lãi suất cho vay mới cao hơn 150% lãi suất cơ bản là
1,03%/tháng, nhưng tòa sơ thẩm lại xử tính lãi suất cho vay trong hạn là 1,03%/tháng

cho cả thời gian trước ngày 19/5/2008, bên nguyên đơn không kháng cáo phần này nên
tòa phúc thẩm không xem xét đến tuy nhiên đây là một sai sót của Tòa án. Những tranh
chấp mà có thời gian thực hiện hợp đồng diễn ra trong khoảng thời gian có sự thay đổi

17


của quy định pháp luật, cơ quan giải quyết cần xem xét về hiệu lực của văn bản áp dụng
trong từng giai đoạn để đảm bảo quyền và lợi ích của các bên đương sự.
Ngoài mức lãi suất trong hạn, cách thức tính lãi cũng là một trong những vấn đề gây
phát sinh tranh chấp, việc tính lãi sai có thể dẫn đến lãi suất trung bình mà khách hàng
phải chịu cao hơn nhiều lần so với lãi suất thực tế. Cụ thể, có những hợp đồng, tiền lãi
được tính trên số tiền khách hàng rút kể từ ngày rút tiền nhưng thực tế ngân hàng lại
tính lãi theo từng tháng trên số dư cuối kì của tháng trước (gồm nợ gốc, lãi tháng trước
và các khoản phí phải trả của tháng trước). Đây là cách tính lãi cộng dồn nên từ số nợ
gốc ban đầu, lãi suất áp dụng theo cách tính này cao hơn rất nhiều so với quy định pháp
luật về cách tính lãi suất theo thỏa thuận giữa TCTD đối với khách hàng
Việc tính lãi cộng dồn là hoàn toàn sai so với quy định của pháp luật, xâm phạm đến lợi
ích của người đi vay. Việc không xem xét lãi suất trên từng thời điểm so với quy định
của pháp luật mà lại chia bình quân lãi suất trong toàn thời gian thực hiện cũng là không
đúng với quy định của pháp luật.
2.1.4 Lãi suất nợ quá hạn và cách tính lãi đối với nợ quá hạn
Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn dư nợ gốc và lãi đều đã quá hạn thanh
toán theo cam kết trong HĐTD. Tại Khoản 2 Điều 13 Quy chế cho vay của TCTD đối với
khách hàng ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN thì nợ quá hạn là
những khoản nợ mà khi đến thời hạn trả nợ gốc hoặc lãi khách hàng không trả nợ đúng
hạn và không được điều chỉnh kì hạn nợ gốc hoặc lãi, không được gia hạn nợ gốc hoặc
lãi.
Thời điểm chuyển sang nợ quá hạn là ngày tiếp theo ngay sau ngày đến kì hạn trả nợ
ghi trong HĐ, mức lãi suất này phải phù hợp với quy định của pháp luật. Nếu khách

hàng chậm trả cả gốc và lãi, TCTD sẽ thực hiện tính lãi chậm trả cho cả hai khoản nợ
gốc và lãi. Số tiền lãi chậm trả bao gồm tiền lãi chậm trả gốc cộng với tiền lãi chậm trả
nợ lãi. Khi giải quyết tranh chấp trong HĐTD, Tòa án sẽ buộc bên vay phải hoàn trả cho
TCTD nợ gốc và lãi trong hạn cộng với nợ lãi quá hạn kể từ ngày khoản nợ đó bị
chuyển sang nợ quá hạn cho đến khi bản án được thi hành xong.
Điều 4 Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy
chế cho vay ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN. Theo đó, thời
điểm chuyển nợ quá hạn được xác định như sau: “Đối với khoản nợ vay không trả đúng
hạn, được TCTD đánh giá là không có khả năng trả nợ đúng hạn và không chấp thuận
cho cơ cấu lại thời hạn trả nợ thì số dư nợ gốc của HĐTD đó là nợ quá hạn và TCTD
thực hiện các biện pháp để thu hồi nợ, việc phạt chậm trả đối với nợ quá hạn và nợ lãi
vốn vay do hai bên thoả thuận trên cơ sở quy định của pháp luật.” Với quy định như vậy
về nợ quá hạn, hiện nay có hai căn cứ pháp lí để tính lãi suất nợ quá hạn. Cách thứ nhất
18


sẽ áp dụng theo quy định tại Khoản 5 Điều 474 BLDS 2005 thì lãi suất nợ quá hạn được
tính không vượt quá 150% lãi suất cơ bản. Còn cách thứ hai là căn cứ vào Khoản 2 Điều
11 QĐ1627/2001 lãi suất quá hạn không vượt quá 150% lãi suất trong hạn. Khi áp dụng
quy định về lãi suất nợ quá hạn của BLDS, người bị thiệt hại sẽ là TCTD vì lãi suất cho
vay trong hạn luôn cao hơn so với lãi suất cư bản của NHNN quy định.
Bên cạnh đó, tranh chấp còn có thể phát sinh từ sự bất đồng quan điểm giữa hai bên
đương sự về thời điểm bắt đầu tính lãi quá hạn. Điển hình cho vấn đề này là vụ án giữa
VietinBank và công ty TNHH thương mại Đại Hỷ. Công ty này kháng rằng trong số tiền
lãi 633.268.927 đồng mà công ty đã trả đến tháng 6/2007 ngân hàng có tính lãi suất quá
hạn không đúng. Theo HĐTD kí ngày 02/4/2004 thời hạn vay là 60 tháng (04/02/2004
đến 04/02/2009) do đó phải tính lãi trong hạn đối với số dư nợ từ tháng 02/2004 đến
02/2009, nhưng từ tháng 02/2004 đến tháng 6/2007, ngân hàng đã tính nhiều khoản lãi
theo lãi suất quá hạn. Tòa phúc thẩm TANDTC tại TPHCM xét xử phúc thẩm.
VietinBank cho rằng tất cả các khoản tính lãi nguyên đơn đã tính theo chính xác cam kết

trong HĐTD. Tòa phúc thẩm bác kháng cáo của công ty Đại Hỷ, giữ nguyên bản án sơ
thẩm.
Theo Khoản 2 Điều 13 Quy chế cho vay ban hành kèm theo Quyết định số
1627/2001/QĐ-NHNN đã được sửa đổi, bổ sung bởi Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN
thì việc phạt chậm trả đối với khoản nợ quá hạn và nợ lãi vốn vay do hai bên thỏa thuận
trên cơ sở quy định của pháp luật. Pháp luật đã quy định rất rõ ràng về chế tài phạt chậm
trả, nghĩa là trao cho các TCTD quyền được đảm bảo về quyền lợi khi khách hàng chậm
thực hiện nghĩa vụ. cách gọi “phạt chậm trả” đã diễn tả được bản chất sự vi phạm nghĩa
vụ của khách hàng là cơ sở để TCTD phạt khách hàng bằng một tỷ lệ cao hơn so với lãi
suất trong hạn.
2.2
Giải pháp khắc phục
2.2.1 Quy định thống nhất về lãi suất cho vay của TCTD:
Theo Điều 1 Thông tư 12/2010 thì quy định: “TCTD cho vay bằng đồng Việt Nam theo
lãi suất thỏa thuận đối với khách hàng”. Theo quy định tại Điều 476 BLDS 2005 được
ban hành quy định về lãi suất cho vay trên thị trường: “lãi suất vay do các bên thỏa thuận
nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do NHNNVN công bố đối với loại
cho vay tương ứng”. NHNN cần phải quy định rõ ràng mức lãi suất cho vay của TCTD
tránh sự nhập nhằng trong cách giải quyết của Tòa án. Quy định này cần phải được sửa
đổi cho phù hợp với hoạt động cho vay trong thực tiễn, đặc biệt là nền kinh tế thị trường
tự do thỏa thuận lãi suất. Việc sửa đổi nên theo hướng đưa lãi suất cơ bản gần hơn với
mức lãi suất cho vay bình quân trên thị trường tín dụng ngân hàng như theo Thông tư
12/2010.
19


2.2.2 Thống nhất quy định về lãi suất đối với khoản nợ quá hạn
Hiện nay, việc tính lãi suất nợ quá hạn còn nhiều vấn đề chưa rõ ràng. Cách thứ nhất sẽ
áp dụng theo quy định tại Khoản 5 Điều 474 BLDS 2005 thì lãi suất nợ quá hạn được
tính không vượt quá 150% lãi suất cơ bản. Còn cách thứ hai là căn cứ vào Khoản 2 Điều

11 QĐ1627/2001 lãi suất quá hạn không vượt quá 150% lãi suất trong hạn.
Hiện nay các TCTD và người đi vay được phép thỏa thuận lãi suất cho vay, tình trạng lãi
suất trong hạn cao hơn 150% lãi suất cơ bản rất dễ xảy ra. Nếu sử dụng mức trần 150%
lãi suất cơ bản theo BLDS 2005 để xác định lãi suất quá hạn thì sẽ xảy ra trường hợp lãi
suất quá hạn thấp hơn lãi suất trong hạn. Đây là một điều hoàn toàn bất hợp lí vì xuất
phát từ ý nghĩa là một cách chế tài đối với việc chậm thực hiện nghĩa vụ trả nợ của khách
hàng vay vốn nên lãi suất đối với khoản nợ quá hạn phải luôn cao hơn lãi suất trong hạn.
Đối với các HĐTD kí kết và thực hiện trước khi NHNN áp dụng cơ chế lãi suất cho vay
thỏa thuận, cơ sở pháp lí mà đa số các tòa án áp dụng để xác định lãi suất nợ quá hạn là
Khoản 1 Điều 476 BLDS 2005 trên thực tế các TCTD là người bị thiệt thòi. Với những
HĐTD kí kết và thực hiện sau khi NHNN áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận lại có thể
xảy ra tình huống lãi suất trong hạn vượt quá 150% lãi suất cơ bản như đã phân tích ở
trên thì việc áp dụng BLDS 2005 lại trở nên không phù hợp. Do đó nên quy định rõ lãi
suất đối với khoản nợ quá hạn không vượt quá 150% lãi suất trong hạn trong HĐTD.
2.2.3 Quy định thống nhất về chế tài phạt chậm trả
BLDS 2005 và Luật thương mại 2005 đưa ra hai cơ sở để làm căn cứ tính tiền phạt chậm
trả khác nhau. Tại Khoản 2 Điều 305 BLDS quy định: “Trong trường hợp bên có nghĩa
vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất cơ bản do
Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán,
trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.”
Trong khi đó Điều 306 Luật thương mại 2005 lại quy định: “Trường hợp bên vi phạm
hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí
hợp lí khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm
trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương
ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định
khác.”
Chỉ nên quy định một cách phạt chậm trả dựa trên cơ sở lãi suất cơ bản của NHNN công
bố, bởi lẽ nếu căn cứ vào lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường như quy định của
Luật thương mại 2005 thì các bên lại phải trải qua giai đoạn xác định lãi suất nợ quá hạn
trung bình, sẽ tốn thời gian, cơ quan tài phán cũng gặp khó khăn hơn khi giải quyết vụ

việc nếu có tranh chấp xảy ra.
2.2.4 Quy định cụ thể trường hợp áp dụng lãi suất ấn định của NHNN
20


Hiện nay ngành Ngân hàng vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể những trường hợp nào thì áp
dụng cơ chế lãi suất thoả thuận hoặc theo ấn định của NHNN, cũng như mức phí áp dụng
khi cấp tín dụng để các TCTD và các tổ chức, cá nhân chủ động khi giao kết hợp đồng tín
dụng. Quy định này sẽ làm hạn chế sự tự do thỏa thuận giữa TCTD và khách hàng, cản
trở sự phát triển của nền kinh tế thị trường tuy nhiên lại rất cần thiết trong điều kiện
khủng hoảng kinh tế hay nhằm làm giảm bớt sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các
ngân hàng.
2.1.5 Áp dụng luật cạnh tranh về nội dung lãi suất trong hoạt động ngân hàng
Ngân hàng là ngành rất nhạy cảm vì có đối tượng cho vay là tiền tệ do đó cần được điều
chỉnh cụ thể. Theo quy định tại Điều 9 Luật Các tổ chức tín dụng 2010 đã quy định về
hợp tác và cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng, theo đó nghiêm cấm hành vi hạn chế
cạnh tranh hoặc hành vi cạnh tranh không lành mạnh và giao cho Chính phủ quy định cụ
thể các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng và hình thức xử lí
các hành vi này.
Với quy định về lãi suất cho vay thỏa thuận như hiện nay, các TCTD hoàn toàn có thể
hợp tác với nhau để đẩy mức lãi suất cho vay lên cao, gây bất lợi cho khách hàng. Ở một
khía cạnh khác, một số TCTD có thể hợp tác thỏa thuận mức lãi suất cho vay thấp hơn
nhằm cạnh tranh với các TCTD khác. Cho dù thỏa thuận ấn định lãi suất cho vay nhằm
cạnh tranh với khách hàng hay cạnh tranh với các TCTD khác thì hành vi đó cũng vi
phạm pháp luật cạnh tranh.
Do đó cần có những quy định cụ thể hơn về cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh ngân
hàng.

21



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A.
1.
2.
3.
4.

Văn bản quy phạm pháp luật
Bộ luật Dân sự 2005
Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ngày 16/6/2010
Luật Các tổ chức tín dụng ngày 16/6/2010
Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc NHNN về

việc ban hành Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng
5. Quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN ngày 30/5/2002 của Thống đốc NHNN về
việc thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động tín dụng thương mại
bằng Đồng Việt Nam của TCTD đối với khách hàng
6. Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN ngày 16/5/2008 của Thống đốc NHNN về cơ
chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam
7. Thông tư số 12/2010/TT-NHNN ngày 14/4/2010 của NHNN hướng dẫn TCTD
cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận
B. Sách tham khảo, công trình khoa học, các trang web tham khảo
1. PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn (2010), Quản trị ngân hàng thương mại hiện đại,
NXB Phương Đông.
2. PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn (2010), Tiền tệ Ngân hàng, NXB Đại học Quốc gia
TP.Hồ Chí Minh.
3. />4. Khi ngân hàng ép buộc người vay điều chỉnh lãi suất (2008), Báo điện tử Đài
Tiếng nói Việt Nam, xem thêm tại />5. />6. />7. />
thanh-toan.html






×