Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

TRANH CHẤP VỀ LÃI SUẤT TRONG HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (404.06 KB, 61 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HCM
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
---o0o---
PHẠM LÊ NINH
TRANH CHẤP VỀ LÃI SUẤT TRONG
HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG – THỰC TRẠNG
VÀ GIẢI PHÁP
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Chuyên ngành Luật Thương Mại
TP HCM - 2010
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HCM
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
---o0o---
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
TRANH CHẤP VỀ LÃI SUẤT TRONG
HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG – THỰC TRẠNG
VÀ GIẢI PHÁP
Sinh viên thực hiện: PHẠM LÊ NINH
Khóa: 31 MSSV: 3120128
Giáo viên hướng dẫn: ThS. PHAN PHƯƠNG NAM
TP HỒ CHÍ MINH, NĂM 2010
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong khóa luận
này là trung thực. Các thông tin tham khảo đều
được dẫn nguồn cụ thể.
Tác giả khóa luận
PHẠM LÊ NINH
i
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


BLDS Bộ luật Dân sự
BLTTDS Bộ luật Tố tụng dân sự
HĐTD Hợp đồng tín dụng
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần
TAND Tòa án nhân dân
TANDTC Tòa án nhân dân tối cao
TCTD Tổ chức tín dụng
TPHCM Thành phố Hồ Chí Minh
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN.........................................................................................................i
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT.......................................................................................ii
MỤC LỤC..................................................................................................................iii
MỞ ĐẦU......................................................................................................................1
CHƯƠNG 1 LÍ LUẬN CHUNG VỀ TRANH CHẤP LÃI SUẤT TRONG HỢP
ĐỒNG TÍN DỤNG.......................................................................................................6
CHƯƠNG 2 NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN VỀ TRANH CHẤP LÃI SUẤT
TRONG HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC..........................26
KẾT LUẬN................................................................................................................52
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................v
PHỤ LỤC.................................................................................................................viii
iii
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Qua 20 năm thực hiện hệ thống ngân hàng hai cấp, Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam đã thể hiện được vai trò quan trọng của mình trong quá trình đưa nền kinh tế
đất nước từng bước hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới, thông qua chức
năng quản lí nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Đặc biệt trong cuộc

khủng hoảng tài chính toàn cầu từ giữa năm 2008, NHNN đã thực hiện việc thay
đổi cơ chế điều hành lãi suất như một trong những biện pháp hiệu quả nhằm ổn
định tình hình thị trường tiền tệ trong nước. Ở mức độ vi mô, sự thay đổi cơ chế
điều hành lãi suất này cũng có tác động không nhỏ đến quan hệ tín dụng giữa
TCTD và các cá nhân, tổ chức. Số lượng tranh chấp HĐTD tăng lên rõ rệt kể từ sau
cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Tranh chấp xuất phát từ nhiều nguyên nhân, tuy
nhiên đa số là người đi vay lâm vào tình cảnh khó khăn, không trả nợ cho TCTD.
Khi những vụ việc như vậy được đưa ra xét xử, một vấn đề nảy sinh là số lượng
HĐTD vi phạm pháp luật về mức lãi suất cho vay hoàn toàn không nhỏ. Sự thay đổi
về cơ chế điều hành lãi suất của NHNN gián tiếp khiến nhiều TCTD lâm vào tình
cảnh vi phạm pháp luật về lãi suất cho vay hoặc cố tình “lách luật” vì mục tiêu lợi
nhuận.
Tranh chấp HĐTD ảnh hưởng đến lợi ích của các bên tham gia quan hệ tín
dụng nói riêng và xã hội nói chung. Giải quyết các tranh chấp này đúng quy định
pháp luật và đảm bảo quyền lợi của các bên là một việc rất cần thiết. Trên thực tế,
vẫn còn nhiều bất cập trong quá trình giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền. Một
trong những nguyên nhân là sự không thống nhất và đầy đủ quy định của pháp luật.
Hạn chế phát sinh và giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD là việc làm cần thiết
và có ý nghĩa nhằm đảm bảo quyền lợi cho các bên tham gia quan hệ tín dụng, góp
phần đẩy mạnh sự phát triển của nền kinh tế.
Vấn đề cấp thiết được đặt ra là cần có sự nghiên cứu tương đối đầy đủ về các
tranh chấp HĐTD mà nội dung là lãi suất cho vay, từ đó đề ra những hướng giải
quyết thích hợp. Thêm vào đó, quá trình khảo sát tình hình nghiên cứu cho thấy
chưa có công trình nào tập trung vào các tranh chấp lãi suất trong HĐTD, vì vậy tôi
đã chọn đề tài: “Tranh chấp về lãi suất trong hợp đồng tín dụng – Thực trạng và
giải pháp” làm đề tài nghiên cứu cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
1
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Mục đích nghiên cứu của khóa luận này là:
Thứ nhất, hệ thống và chỉ ra những tính chất cơ bản, nguyên nhân, nội dung

và thực trạng giải quyết tranh chấp lãi suất trong HĐTD
Thứ hai, đề xuất những kiến nghị nhằm khắc phục những bất cập trong quy
định của pháp luật cũng như hạn chế và giải quyết các tranh chấp về lãi suất trong
HĐTD.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Khóa luận chỉ tập trung nghiên cứu các tranh chấp về lãi suất cho vay trong
HĐTD giữa TCTD và khách hàng vay vốn. Trong đó những tranh chấp có một
phần nguyên nhân do sự thay đổi cơ chế điều hành lãi suất của NHNN sẽ được chú
trọng hơn, đặc biệt trong giai đoạn từ năm 2008 – 2009 đến nay, khi lãi suất cho
vay có những biến động mạnh mẽ trên thị trường và NHNN đã có sự linh động
trong công tác điều hành lãi suất. Khóa luận được nghiên cứu ở mức độ cử nhân
nên chưa được sâu rộng đến mọi khía cạnh trong các tranh chấp về lãi suất. Tác giả
chỉ đi sâu nghiên cứu ở những vấn đề nổi cộm và đề xuất một số kiến nghị nhằm
giải quyết các tranh chấp này.
Công trình nghiên cứu này thể hiện một cách hệ thống nguyên nhân, nội dung
và cách giải quyết các tranh chấp về lãi suất trong HĐTD giữa TCTD và người đi
vay trong ba nội dung phổ biến. Các nội dung được đề cập là: thứ nhất, trong
HĐTD thỏa thuận lãi suất cố định và thời hạn vay chưa kết thúc mà một trong hai
bên yêu cầu điều chỉnh lãi suất cho vay khiến tranh chấp nảy sinh; thứ hai, các bên
giao kết HĐTD và cả cơ quan chức năng khi xét xử có sự bất đồng quan điểm trong
việc xác định mức lãi suất trong hạn và cách tính lãi suất trong hạn; thứ ba, những
tranh chấp trong việc xác định lãi suất nợ quá hạn và cách tính lãi đối với khoản nợ
quá hạn. Trên cơ sở thực tiễn về tranh chấp lãi suất, tác giả đề xuất những giải pháp
mang tính pháp lý nhằm hạn chế và khắc phục các tranh chấp này.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Khóa luận được nghiên cứu trên cơ sở các phương pháp của logic học, vận
dụng phép duy vật biện chứng và phép duy vật lịch sử chủ nghĩa Mác – Lênin, kế
thừa thành quả nghiên cứu trước đó, kết hợp với tình hình thực tiễn nhằm đưa ra
những kiến nghị và giải pháp phù hợp.
2

5. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Qua quá trình khảo sát về tình hình nghiên cứu, tác giả ghi nhận được tranh
chấp HĐTD không phải là vấn đề mới mẻ trong hoạt động nghiên cứu chuyên môn.
Từ năm 2002 tại trường Đại học Luật TPHCM đã có khóa luận tốt nghiệp với đề tài
“Pháp luật giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàng” của tác giả
Nguyễn Cao Cường. Năm 2003 có “Pháp luật giải quyết tranh chấp phát sinh từ
HĐTD ngân hàng - thực trạng và giải pháp” của Nguyễn Kiều Anh Thư, hai công
trình này được viết vào thời điểm trước năm 2004 khi Luật Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam và Luật Các tổ chức tín dụng năm 1997 chưa có sự sửa đổi, bổ sung. Gần
đây nhất là luận văn cử nhân của tác giả Nguyễn Thị Kim Thoa, “Tranh chấp
HĐTD ngân hàng – nguyên nhân và giải pháp qua thực tiễn giải quyết tại tòa án”
năm 2008. Ngoài ra, tại trường Đại học Luật Hà Nội cũng có một số luận văn cử
nhân như “Giải quyết tranh chấp HĐTD tại tòa án ở Việt Nam” của Lê Thúy Hằng
năm 2003 hay “Giải quyết tranh chấp HĐTD tại tòa án – Những vấn đề lí luận và
thực tiễn” của Nguyễn Thị Thu Hằng năm 2008. Tuy nhiên, các công trình này chỉ
dừng lại ở mức độ nghiên cứu về giải quyết những tranh chấp phát sinh từ HĐTD
nói chung. Đáng chú ý trong đó có công trình năm 2008 của tác giả Nguyễn Thị
Kim Thoa nghiên cứu khá rộng về các giải quyết tranh chấp HĐTD, gồm tranh
chấp về nghĩa vụ hoàn trả lãi và vốn, mục đích sử dụng vốn, tài sản bảo đảm thực
hiện hợp đồng, gia hạn nợ và chuyển nợ quá hạn, chuyển nhượng hợp đồng và mua
bán nợ, tranh chấp về lãi suất cho vay. Chính vì nghiên cứu rộng như vậy nên chưa
đi sâu mọi khía cạnh của tranh chấp về lãi suất cho vay trong HĐTD.
Cụ thể hơn về yếu tố lãi suất cũng có không ít công trình, đơn cử như khóa
luận tốt nghiệp năm 2009 của tác giả Nguyễn Ban Mai “Pháp luật điều chỉnh lãi
suất trong hoạt động ngân hàng”, Đại học Luật Hà Nội. Đối tượng nghiên cứu của
công trình này là pháp luật điều chỉnh lãi suất chứ không phải tranh chấp về lãi suất
trong HĐTD. Tại Đại học Luật TPHCM có hai công trình liên quan là luận văn cao
học của tác giả Lương Thị Hoàng Phương “Vai trò của pháp luật trong việc giải
quyết nợ quá hạn tại NHTM của Việt Nam” năm 2009. Trong luận văn này, tác giả
tập trung giải quyết vấn đề về nợ quá hạn, trong đó có đề cập đến việc sử dụng

công cụ lãi suất đối với khoản nợ quá hạn và đưa ra một vài tranh chấp tiêu biểu
cho vấn đề này. Nghiên cứu sâu về tranh chấp lãi suất cho vay trong HĐTD cho đến
nay chỉ có luận văn cao học của tác giả La Hồng “Giải quyết tranh chấp về lãi suất
cho vay trong HĐTD của TCTD tại tòa án” năm 2007, Đại học Luật TPHCM. Tuy
nhiên, trong luận văn này tác giả tập trung nghiên cứu những quy định của pháp
3
luật về lãi suất trong HĐTD đối với quan hệ kinh doanh thương mại, so sánh với lãi
suất trong hợp đồng vay dân sự qua các thời kì, từ đó nêu rõ những mâu thuẫn trong
quy định của pháp luật về lãi suất cho vay và sự áp dụng không nhất quán trong
công tác xét xử tại tòa án và đưa ra những nhận định về việc giải quyết tranh chấp
về lãi suất trong HĐTD.
Tại Đại học Ngân hàng TPHCM, cũng có nhiều công trình nghiên cứu về lãi
suất trong hoạt động ngân hàng. Có thể phác họa thành hai hướng nghiên cứu
chính. Thứ nhất, quản trị rủi ro lãi suất tại một số NHTM nhưng phạm vi nghiên
cứu chỉ ở một số NHTMCP cụ thể nơi các tác giả thực tập, đặc biệt trong thời điểm
2008-2009 có nhiều biến động về lãi suất và cơ chế điều hành lãi suất của NHNN
nên sự quan tâm ở mức độ cử nhân tăng nhiều hơn so với các năm trước đó. Hướng
nghiên cứu này nổi bật với hai công trình cùng trong năm 2003 là luận văn thạc sĩ
của Thạnh Hoàng Đăng Khoa “Tự do hóa lãi suất và những biện pháp hạn chế rủi
ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh của NHTM” và luận án tiến sĩ kinh tế của
tác giả Nguyễn Thị Loan, “Giải pháp hoàn thiện quản trị lãi suất tại NHTM Việt
Nam”. Hướng nghiên cứu thứ hai là chính sách về lãi suất của nhà nước, tiêu biểu
có luận án phó tiến sĩ khoa học kinh tế “Phương pháp xác định lãi suất ngân hàng
trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” của tác giả Hoàng Thị Loan năm 1996 và
hai khóa luận tốt nghiệp năm 2009 “Tự do hóa lãi suất và tác động đối với nền
kinh tế Việt Nam” của Nguyễn Minh Tuấn và “Giải pháp nâng cao hiệu quả điều
hành lãi suất của NHNN Việt Nam” của Võ Thị Thùy Trang. Một cách tổng thể các
công trình này được nghiên cứu ở những mốc thời gian khác nhau nhưng nhìn
chung đều chú trọng giải quyết vấn đề dưới góc độ kinh tế chứ không phải góc độ
pháp luật.

Bên cạnh đó, có rất nhiều bài viết trên các tạp chí như Tạp chí ngân hàng, Tạp
chí tài chính… cũng nghiên cứu về lãi suất. Đặc biệt trong thời gian từ năm 2008
đến nay, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế, thị trường tài chính Việt
Nam cũng có nhiều biến động nên NHNN đã có chính sách về lãi suất gây ra những
phản ứng khác nhau trong giới chuyên môn. Những bài viết này chủ yếu xem xét lãi
suất dưới góc độ kinh tế và vai trò của lãi suất trong nền kinh tế thị trường hoặc
đánh giá dưới góc độ lập pháp và hành pháp về cơ chế điều hành lãi suất của
NHNN. Có thể nói, chưa có bài viết nào trên các tạp chí chuyên ngành đề cập đến
nội dung tranh chấp lãi suất trong HĐTD. Riêng chỉ có một sự kiện đáng chú ý vào
ngày 18/5/2010, tại Hà Nội, Hiệp hội ngân hàng Việt Nam đã tổ chức hội thảo
“Một số bài học cơ bản rút ra từ bản án về tranh chấp HĐTD liên quan đến hoạt
4
động ngân hàng”. Nội dung của hội thảo không tập trung vào vấn đề đánh giá về
hoạt động điều tra, khởi tố và xét xử của cơ quan điều tra và cơ quan tư pháp cũng
như các chi tiết của luật, mà chỉ tập trung vào những vấn đề liên quan đến ngân
hàng và khách hàng của ngân hàng. Qua đó, nội dung hội thảo này góp phần nâng
cao chất lượng hoạt động chuyên môn, giúp các TCTD hoạt động an toàn, hiệu quả
và bền vững.
Như vậy, cho đến nay gần như không có một công trình nghiên cứu nào
nghiên cứu sâu vào vấn đề tranh chấp HĐTD mà nội dung tranh chấp là lãi suất cho
vay. Các hướng nghiên cứu liên quan đều tập trung vào tranh chấp HĐTD nói
chung, giải quyết tranh chấp và vấn đề lãi suất dưới góc độ kinh tế. Từ đó có thể
thấy rằng khóa luận “Tranh chấp về lãi suất trong hợp đồng tín dụng – Thực
trạng và giải pháp” là công trình đầu tiên tập trung nghiên cứu về tranh chấp lãi
suất trong HĐTD.
6. KẾT CẤU CỦA KHÓA LUẬN
Khóa luận được trình bày với bố cục như sau:
MỞ ĐẦU
Chương 1: Lí luận chung về tranh chấp lãi suất trong hợp đồng tín dụng
Chương 2: Những vấn đề thực tiễn về tranh chấp lãi suất trong hợp đồng tín

dụng và giải pháp khắc phục
KẾT LUẬN
5
CHƯƠNG 1 LÍ LUẬN CHUNG VỀ TRANH CHẤP LÃI
SUẤT TRONG HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Trước khi tìm hiểu về thực trạng các tranh chấp lãi suất phát sinh từ HĐTD,
chương này sẽ trình bày lí luận chung về tranh chấp lãi suất trong HĐTD. Theo đó,
HĐTD giữa các TCTD và người đi vay sẽ được trình bày trong phần 1.1 một cách
rất khái quát. Phần 1.2 là những nội dung cơ bản của lãi suất. Phần 1.3 trình bày sơ
lược về cơ chế điều hành lãi suất của NHNN. Tranh chấp về lãi suất cho vay trong
HĐTD được trình bày ở phần 1.4. Những lí luận cơ bản này sẽ là nền tảng để tìm
hiểu về thực trạng tranh chấp lãi suất trong HĐTD và đề xuất những giải pháp khắc
phục ở chương 2.
1.1 Khái quát về hợp đồng tín dụng
1.1.1 Khái niệm
HĐTD theo Điều 51 Luật Các tổ chức tín dụng 1997 (sửa đổi, bổ sung năm
2004) được quy định như sau: Việc cho vay phải được lập thành HĐTD. HĐTD
phải có nội dung về điều kiện vay, mục đích sử dụng tiền vay, hình thức vay, số
tiền vay, lãi suất, thời hạn vay, hình thức bảo đảm, giá trị tài sản bảo đảm, phương
thức trả nợ và những cam kết khác được các bên thỏa thuận.
Như vậy pháp luật chuyên ngành chỉ đưa ra quy định về những nội dung cơ
bản HĐTD phải có mà không đưa ra định nghĩa cụ thể về HĐTD. Quan hệ tín dụng
bản chất là một quan hệ dân sự nên HĐTD cũng là một dạng cụ thể của hợp đồng
dân sự. Từ khái niệm hợp đồng dân sự được quy định theo Điều 388 BLDS 2005,
hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm
dứt quyền, nghĩa vụ dân sự, có thể hiểu“HĐTD là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa
TCTD (bên cho vay) với tổ chức, cá nhân có đủ những điều kiện luật định (bên
vay), theo đó TCTD chuyển giao một số tiền tệ cho bên vay sử dụng trong một thời
hạn nhất định, với điều kiện có hoàn trả cả gốc và lãi.”
1

Theo cách hiểu hiện nay, khi nói đến HĐTD nghĩa là nói đến HĐTD ngân
hàng, do đó trong khóa luận này để có sự thống nhất, khóa luận chỉ sử dụng thuật
1
Đại học Luật TPHCM (2010), “Giáo trình Luật ngân hàng”, NXB Đại học Quốc gia TPHCM,
tr.235.
6
ngữ HĐTD. Trong phạm vi nghiên cứu của công trình này, HĐTD được đề cập từ
đây về sau là HĐTD giữa TCTD và khách hàng vay vốn.
1.1.2 Đặc điểm
HĐTD mang những đặc điểm chung của hợp đồng dân sự song vụ nhưng vẫn
có những nét khác biệt cụ thể như sau:
Thứ nhất, về hình thức, HĐTD luôn được lập thành văn bản, hầu hết là hợp
đồng theo mẫu. Việc tồn tại HĐTD bằng lời nói là không khả thi bởi tầm quan
trọng của việc giao kết, thực hiện và giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD. Với
HĐTD bằng văn bản, các bên có thể thực hiện hợp đồng trong sự đảm bảo an toàn
pháp lí và khi có tranh chấp xảy ra, HĐTD sẽ là căn cứ xác thực nhất để các cơ
quan tài phán giải quyết tranh chấp. Đa phần các HĐTD là hợp đồng theo mẫu, chủ
thể cho vay là TCTD soạn thảo dựa trên quy định của pháp luật và phù hợp với quy
chế cho vay của TCTD. Bên vay thường phải chấp nhận những điều khoản trong
hợp đồng mà không phải ai cũng có thể yêu cầu sửa đổi điều khoản theo hướng có
lợi hơn cho mình. Sự tự do ý chí được thể hiện thông qua việc khách hàng đồng ý
giao kết hợp đồng nghĩa là chấp nhận những điều khoản trong đó, ngược lại thì
không giao kết. Thực tế cho thấy việc thỏa thuận sửa một số điều khoản trong
HĐTD theo mẫu chỉ xảy ra với những tổ chức, cá nhân có uy tín, khoản vay lớn và
TCTD có thể thu được lợi nhuận lớn từ hợp đồng. Mặt khác, theo Khoản 2, Khoản
3 Điều 407 BLDS 2005, pháp luật cũng có cơ chế để bảo vệ khách hàng trong
trường hợp hợp đồng theo mẫu có những điều khoản không rõ ràng thì bên đưa ra
hợp đồng theo mẫu phải chịu bất lợi khi giải thích điều khoản đó hoặc điều khoản
gây bất lợi cho khách hàng thì điều khoản này không có hiệu lực khi không có thỏa
thuận khác. Tên gọi của HĐTD có thể là: Hợp đồng tín dụng; Hợp đồng vay; Khế

ước vay vốn. Hoặc phụ thuộc vào thời hạn vay, mục đích vay, hợp đồng có thể có
thêm các cụm từ: “ngắn hạn”, “trung hạn”, “dài hạn”, “đồng Việt Nam”, “ngoại tệ”,
“tiêu dùng”, “đầu tư”…
Thứ hai, HĐTD có đối tượng là những khoản vốn được thể hiện dưới hình
thức tiền tệ. Vốn tiền tệ trong HĐTD có thể là tiền đồng Việt Nam, vàng hoặc ngoại
tệ; tồn tại dưới dạng tiền mặt, vật hiện hữu hoặc bút tệ. Với vai trò phương tiện
thanh toán – vai trò quan trọng nhất của tiền – vốn tiền tệ có thể đáp ứng mọi nhu
cầu của bên vay một cách dễ dàng nhất, kể cả về số lượng vốn vay và mục đích
vay. Nhờ đó hoạt động cho vay đã trở thành hoạt động sinh lời chủ yếu của các
TCTD và trở thành một hình thức tín dụng phổ biến trong nền kinh tế thị trường.
7
Nếu trong quan hệ tín dụng giữa TCTD và chủ để đi vay mà đối tượng là tài sản thì
đây là quan hệ cho thuê tài chính
2
, thông qua hợp đồng thuê mua tài chính chứ
không phải là hoạt động cho vay. Về nguyên tắc đối tượng của HĐTD bao giờ cũng
là một số tiền xác định, được các bên thỏa thuận và ghi rõ trong hợp đồng.
• Thứ ba, bên cho vay trong HĐTD luôn là TCTD. Theo quy định của pháp
luật hiện hành, TCTD bao gồm ngân hàng và TCTD phi ngân hàng. Bên cho vay có
thể là một hoặc nhiều TCTD (trường hợp cho vay hợp vốn) thỏa mãn điều kiện luật
định (được thành lập và hoạt động theo Luật Các tổ chức tín dụng và các văn bản
liên quang; có chức năng hoạt động, kinh doanh tín dụng)
• Thứ tư, HĐTD phải được tuân thủ chặt chẽ về các nội dung bắt buộc, năng
lực chủ thể của các bên tham gia quan hệ tín dụng, mục đích sử dụng vốn vay, giới
hạn vốn vay. TCTD không được cho vay vốn nhằm đáp ứng các nhu cầu bị cấm
theo quy định của pháp luật, không được cho vay đối với các trường hợp bị cấm, bị
hạn chế
3
.
Với vai trò đảm bảo quyền và nghĩa vụ cho các bên tham gia vào quan hệ tín

dụng, HĐTD trở nên rất quan trọng. Đặc biệt các bên phải chú ý đến nội dung của
hợp đồng, hợp đồng với những điều khoản chặt chẽ sẽ ràng buộc các bên thực hiện
đúng trách nhiệm của mình, từ đó cũng góp phần giảm bớt các tranh chấp phát sinh
và thúc đẩy sự phát triển trong hoạt động kinh doanh của cả TCTD và chủ thể đi
vay. Một trong những điều khoản không thể thiếu của HĐTD là lãi suất cho vay.
Khi các bên có sự đồng thuận ý chí và nghiêm túc thực hiện nghĩa vụ về lãi và lãi
suất thì HĐTD mới có đầy đủ ý nghĩa.
1.2 Lãi suất
1.2.1 Khái niệm
Được đề cập trong nhiều tài liệu với những khía cạnh khác nhau, nhưng nhìn
chung khái niệm lãi suất tương đối thống nhất và không có quá nhiều khác biệt.
Nhà kinh tế Marshall (1890) trong tác phẩm “Principles of Economis” (Những
2
Xem Khoản 2 Điều 61 Luật Các tổ chức tín dụng 1997 (sửa đổi, bổ sung năm 2004) và Điều 1,
Khoản 1 Điều 17 Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 02/5/2001 về tổ chức và hoạt động của công ty cho
thuê tài chính.
3
Xem Điều 77, 78 Luật Các tổ chức tín dụng 1997 (sửa đổi, bổ sung năm 2004)
8
nguyên lí kinh tế học) đã viết: “Lãi suất chỉ giá phải trả cho việc sử dụng vốn trên
một thị trường bất kì,…”
4
.
Dưới góc độ kinh tế, có thể hiểu: Lãi suất tín dụng còn gọi là tỉ suất lợi tức, là
tỉ lệ phần trăm giữa tổng số lợi tức thu được trong một thời gian (ngày, tuần, tháng,
quý năm…) với tổng số vốn bỏ ra cho vay trong cùng thời gian đó
5
.
Theo Từ điển Luật học: Lãi suất là tỉ lệ phần trăm tính trên vốn đầu tư để xác
định lãi của người đầu tư

6
.
Theo Điều 2 Quy định phương pháp tính và hoạch toán thu, trả lãi của NHNN
Việt Nam và các TCTD ban hành kèm theo Quyết định số 652/2001/QĐ-NHNN
ngày 17/5/2001 của Thống đốc NHNN: Lãi suất được hiểu là khoản tiền bên vay,
huy động vốn hoăc bên thuê trả cho bên cho vay, đầu tư chứng khoán, gửi tiền
hoặc bên cho thuê về việc sử dụng vốn vay, vốn huy động hoặc tài sản cho thuê. Lãi
được tính toán căn cứ vào số vốn, thời gian sử dụng vốn và lãi suất.
Như vậy, lãi là khoản giá trị chênh lệch mà bên cho vay được hưởng, là khoản
dôi ra so với giá trị được chuyển giao lúc đầu. Lãi trong quan hệ tín dụng chính là
giá cả của khoản vay. Lãi trong HĐTD được tính bằng công thức lãi đơn (là số tiền
lãi chỉ tính trên số tiền gốc mà không tính trên số tiền lãi do số tiền gốc sinh ra) như
sau: SI = P
O
x (i) x (n). Trong đó SI là lãi đơn, P
O
là số tiền gốc, i là lãi suất kì hạn
và n là số kì hạn tính lãi.
Bênh cạnh lãi đơn còn có cách tính lãi kép (là số tiền lãi không chỉ tính trên số
tiền gốc mà còn tính trên số tiền lãi do số tiền gốc sinh ra) nhưng cách tính này
không được pháp luật cho phép áp dụng trong hoạt động ngân hàng.
Từ đó cho thấy “lãi” và “lãi suất” là hai khái niệm khác nhau. Việc phân biệt
và sử dụng đúng đắn hai thuật ngữ này có ý nghĩa quan trọng trong quá trình nghiên
cứu và áp dụng quy định pháp luật.
1.2.2 Phân loại lãi suất
Lãi suất được chia thành nhiều loại dựa trên những tiêu chí khác nhau:
4
PGS.TS Lê Văn Tư (2004), Tiền tệ, ngân hàng, thị trường tài chính, NXB Tài chính, Hà Nội,
tr.407
5

Trong tác phẩm Tư bản, tập thứ 3, phần 1 của Các Mác có đề cập: “Có thể định nghĩa tỉ suất lợi
tức là một số tiền tính theo tỉ lệ mà người cho vay vui lòng nhận và người đi vay trả về việc sử dụng một số
tư bản tiền tệ nhất định trong một năm hay trong bất cứ một khoảng thời gian nào khác dài hơn hoặc ngắn
hơn”
6
Bộ Tư pháp, Viện Khoa học pháp lí (2006), Từ điển Luật học, NXB Từ điển Bách Khoa và NXB
Tư pháp, Hà Nội, tr.452-453
9
• Căn cứ vào giá trị thực của lãi suất: lãi suất danh nghĩa, lãi suất thực.
• Căn cứ vào phương thức đo lường: lãi suất đơn, lãi suất kép, lãi suất hiệu
quả và lãi suất hoàn vốn.
Dưới góc độ luật học, lãi suất ngân hàng được tập trung nghiên cứu ở các nội
dung sau:
• Căn cứ vào loại hình tín dụng, lãi suất bao gồm lãi suất huy động và lãi suất
cho vay.
• Căn cứ vào thời hạn áp dụng, lãi suất bao gồm lãi suất trong hạn và lãi suất
quá hạn.
• Căn cứ vào độ ổn định của lãi suất, lãi suất bao gồm lãi suất cố định và lãi
suất thả nổi.
1.2.2.1 Căn cứ vào loại hình tín dụng
Lãi suất huy động là lãi suất mà các TCTD đưa ra khi huy động tiền gửi và
quy định tỉ lệ phải trả cho các hình thức nhận tiền gửi của khách hàng.
Lãi suất cho vay là lãi suất mà TCTD đưa ra để thu từ người vay tiền. “Lãi
suất cho vay phải bao gồm tất cả các chi phí huy động vốn, đủ bù đắp các chi phí
quản lí và thực hiện khoản cho vay, trang trải được các loại rủi ro, lãi suất cho vay
phải chứa đựng phần lợi nhuận hợp lí”
7
. Mặt khác, lãi suất cho vay còn chịu sự chi
phối của kì hạn vay, kì hạn càng dài lãi suất càng cao
8

. Như vậy, lãi suất cho vay là
lãi suất tính trên số vốn mà bên vay phải trả kèm theo gốc tiền vay.
Lãi suất cho vay ở Việt Nam chủ yếu có ba loại là lãi suất cho vay của NHNN
đối với các TCTD, lãi suất của các TCTD với nhau và lãi suất của TCTD với khách
hàng. Trong phạm vi nghiên cứu của khóa luận này, khi nói đến lãi suất cho vay
trong HĐTD nghĩa là nói đến lãi suất của TCTD với khách hàng đi vay.
Hoạt động cho vay của TCTD được thể hiện dưới nhiều hình thức như cho
vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn căn cứ vào thời hạn tín dụng tương ứng với từng
loại lãi suất cụ thể. Cho vay ngắn hạn (ứng với lãi suất ngắn hạn) là cho vay với
thời hạn dưới 12 tháng thường để bù bắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh
nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Cho vay trung hạn (ứng với
lãi suất trung hạn) là cho vay với thời hạn từ 12 tháng đến 60 tháng (một số nước là
7
PGS.TS Lê Văn Tư (2004), Tiền tệ, ngân hàng, thị trường tài chính, NXB Tài chính, Hà Nội,
tr.441
8
Kì hạn vay càng dài thì rủi ro càng cao và thanh khoản khó khăn hơn, do vậy các ngân hàng luôn
có xu hướng nâng lãi suất lên để bù đắp những khó khăn có thể xảy ra, trong đó có cả việc bảo hiểm tín
dụng.
10
84 tháng), phục vụ cho nhu cầu mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới máy
móc thiết bị, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn
nhanh. Cho vay dài hạn (ứng với lãi suất dài hạn) là cho vay với thời hạn trên 60
tháng cho mục đích xây dựng nhà ở, phương tiện vận tải quy mô lớn, xây dựng các
công trình, nhà máy…
Lãi suất cho vay có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, lãi suất cho vay được phát sinh trong các hợp đồng vay tài sản.
Trong hợp đồng vay tài sản, đặc biệt là HĐTD, thỏa thuận về lãi suất là một điều
khoản tất yếu, đó là cơ sở để tính phần giá trị tăng thêm mà TCTD được nhận từ
khoản cho vay, cũng chính là một phần thu nhập của TCTD.

Thứ hai, lãi suất cho vay không được phát sinh một cách độc lập, nó chỉ hình
thành do thoả thuận của các bên sau khi đã thoả thuận được số tiền vay. Bản chất
của lãi suất là tỉ lệ phần trăm giữa tổng số lợi tức thu được trong một thời gian với
tổng số vốn bỏ ra cho vay trong cùng thời gian đó, như vậy chỉ tồn tại tỉ lệ phần
trăm này khi tồn tại số tiền gốc mà các bên thỏa thuận.
Thứ ba, lãi suất không chỉ được xác định dựa trên số vay gốc và thời hạn vay
mà còn dựa trên khả năng tài chính và uy tín của khách hàng. Khách hàng vay được
áp dụng lãi suất thực tế tại thời điểm đó, tương ứng với số nợ gốc nhiều hay ít, thời
hạn vay dài hay ngắn mà các bên có thể thoả thuận mức lãi suất cho phù hợp.
Thông thường thời gian vay càng dài lãi suất càng cao, nếu khách hàng có khả năng
tài chính mạnh, uy tín cao hoặc thuộc diện cho vay ưu đãi thì sẽ được ưu đãi lãi suất
thấp hơn lãi suất cho vay hiện tại.
1.2.2.2 Căn cứ vào thời hạn áp dụng
Dù cho vay ở hình thức nào thì TCTD cũng đều đưa ra mức lãi suất trong hạn
và lãi suất quá hạn. Hai mức lãi suất này không chỉ có ý nghĩa đối với việc xác định
nghĩa vụ trả lãi của khách hàng vay mà còn đóng vai trò quan trọng khi cơ quan
chức năng giải quyết khi có tranh chấp xảy ra.
Lãi suất trong hạn không được quy định cụ thể về khái niệm trong văn bản
pháp luật, nhưng có thể hiểu là lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng dùng làm căn cứ
để tính giá trị lãi mà khách hàng vay phải trả cho TCTD tính trên số tiền đã vay
tương ứng với thời hạn mà các bên đã thoả thuận.
11
Lãi suất quá hạn chỉ phát sinh khi tồn tại khoản nợ quá hạn. Do đó, trước khi
tìm hiểu về lãi suất quá hạn, có hai vấn đề cần quan tâm là nợ quá hạn và thời điểm
chuyển khoản nợ từ trong hạn sang quá hạn.
Theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc
NHNN về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lí rủi ro trong hoạt
động ngân hàng của TCTD
9
, nợ quá hạn được xác định là khoản nợ mà một phần

hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn. Mặt khác, tại Khoản 2 Điều 13 Quy
chế cho vay của TCTD đối với khách hàng ban hành kèm theo Quyết định số
1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001
10
thì nợ quá hạn là những khoản nợ mà khi
đến thời hạn trả nợ gốc hoặc lãi khách hàng không trả nợ đúng hạn và không được
điều chỉnh kì hạn nợ gốc hoặc lãi, không được gia hạn nợ gốc hoặc lãi.
Trước đây, tại Khoản 2 Điều 13 của Quy chế cho vay ban hành kèm theo
Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN quy định “khi đến thời hạn trả nợ gốc hoặc
lãi (cuối ngày đến hạn trả nợ) mà khách hàng không đủ hoặc trả nợ không đúng hạn
thì NHTM chuyển toàn bộ số dư nợ của khoản vay sang nợ quá hạn”
11
. Tuy nhiên,
quy định này đã bị bãi bỏ bởi Điều 4 Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN ngày
03/02/2005 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế cho vay ban hành
kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN. Theo đó, thời điểm chuyển nợ quá
hạn được xác định như sau: “Đối với khoản nợ vay không trả đúng hạn, được
TCTD đánh giá là không có khả năng trả nợ đúng hạn và không chấp thuận cho cơ
cấu lại thời hạn trả nợ thì số dư nợ gốc của HĐTD đó là nợ quá hạn và TCTD thực
hiện các biện pháp để thu hồi nợ, việc phạt chậm trả đối với nợ quá hạn và nợ lãi
vốn vay do hai bên thoả thuận trên cơ sở quy định của pháp luật.”
Với quy định như vậy về nợ quá hạn, hiện nay có hai căn cứ pháp lí để tính lãi
suất nợ quá hạn.
Theo Khoản 5 Điều 474 BLDS 2005: “Trong trường hợp vay có lãi mà khi
đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi trên nợ
gốc và lãi nợ quá hạn theo lãi suất cơ bản do NHNN công bố tương ứng với thời
hạn vay tại thời điểm trả nợ.”
9
Sửa đổi, bổ sung bởi Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN ngày 25/4/2007
10

Sau đây gọi tắt là Quy chế cho vay ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN
11
Xem Công văn số 950/NHNN-CSTT ngày 03/9/2002 hướng dẫn việc chuyển nợ quá hạn đối với
trường hợp chậm trả nợ gốc, lãi vốn vay (hết hiệu lực ngày 07/3/2005).
12
Khoản 2 Điều 11 Quy chế cho vay ban hành kèm theo Quyết định số
1627/2001/QĐ-NHNN: “Mức lãi suất áp dụng đối với khoản nợ gốc quá hạn do
TCTD ấn định và thoả thuận với khách hàng trong HĐTD nhưng không vượt quá
150% lãi suất cho vay áp dụng trong thời hạn cho vay đã được kí kết hoặc điều
chỉnh trong HĐTD.”
Nhìn chung, lãi suất quá hạn thường cao hơn lãi suất trong hạn do được áp
dụng đối với người vay vi phạm nghĩa vụ về thời hạn trả nợ. Sau thời hạn mà bên
vay không trả hoặc trả không hết số tiền vay thì bên cho vay có quyền tính lãi dựa
trên lãi suất quá hạn theo như thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Thêm
vào đó, việc trả lãi trước hoặc sau thời hạn vẫn có thể coi là đúng hạn và phải tính
bằng lãi suất trong hạn. Đó là các trường hợp do sự kiện bất ngờ hay sự kiện bất
khả kháng mà bên vay không thể thực hiện nghĩa vụ trả nợ của mình đúng hạn hoặc
được bên cho vay chấp nhận không phải trả lãi quá hạn khi quá thời hạn vay.
Như vậy có thể thấy rằng hiện nay cùng tồn tại hai quy định khác nhau về lãi
suất đối với khoản nợ quá hạn, và việc áp dụng quy định nào còn phải được xem
xét về giá trị pháp lí của văn bản. Thực tế các bên tham gia quan hệ tín dụng và cơ
quan có thẩm quyền áp dụng văn bản nào sẽ được phân tích cụ thể tại phần 2.1.3.
1.2.2.3 Căn cứ vào sự ổn định của lãi suất
Khi thỏa thuận lãi suất trong hạn, các bên có thể thỏa thuận lãi suất cố định
hoặc lãi suất thả nổi.
Lãi suất cố định là lãi suất được ấn định một mức cụ thể trên HĐTD, không
chịu tác động của những biến động lãi suất thị trường. Lãi suất này không thay đổi
trong suốt thời gian vay vốn tại TCTD, thông thường áp dụng trong cho vay ngắn
hạn.
Lãi suất thả nổi là lãi suất được điều chỉnh theo từng thời kì, biến đổi theo

thời gian. Mức điều chỉnh và kì điều chỉnh lãi suất sẽ theo thỏa thuận giữa khách
hàng và TCTD và được quy định rõ trong HĐTD. Thông thường lãi suất thả nổi
được áp dụng trong cho vay trung và dài hạn.
1.2.3 Vai trò của lãi suất
Một trong những vai trò mang tính vĩ mô của lãi suất là vai trò kiểm soát.
Theo đó, lãi suất có vai trò trung tâm trong chính sách tiền tệ của chính phủ, được
sử dụng như một công cụ quan trọng để tác động vào nền kinh tế, kiểm soát lượng
cung ứng tiền tệ. Khi mức cung ứng tiền tăng lên, nếu đem số tiền tạm thời thừa ra
13
cho vay, đầu tư thì lãi suất sẽ hạ xuống. Như vậy khi nền kinh tế rơi vào tình trạng
suy thoái và trì trệ, NHNN có thể hạ lãi suất nhằm tăng cung tiền và kích cầu để
thúc đẩy kinh tế phát triển vượt qua tình trạng suy thoái. Khi lãi suất giảm, giá
thành đầu tư giảm theo, các doanh nghiệp lại tăng đầu tư, nhu cầu đầu tư và tiêu
dùng tăng lên, lãi suất lại tăng lên. Do đó, khi nền kinh tế rơi vào tình trạng lạm
phát cao có ảnh hưởng không tốt, NHNN có thể nâng lãi suất lên nhằm hạn chế và
rút bớt cung tiền góp phần giảm tỉ lệ lạm phát.
Ngoài ra, lãi suất còn ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các chủ thể
kinh doanh, điển hình là các doanh nghiệp, bởi lẽ lãi suất phải trả cho khoản vay là
khoản chi phí của nhà kinh doanh. Do vậy lãi suất thấp sẽ khuyến khích các cá
nhân, tổ chức vay vốn đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh. Ngược lại, lãi suất
cho vay cao sẽ thu hẹp hoạt động đầu tư của các đối tượng này. Mặt khác, lãi suất
là công cụ buộc các cá nhân, tổ chức phải sử dụng hiệu quả khi mà những ưu đãi lãi
suất về điều kiện vay vốn và thanh toán là cách thức để nhà nước khuyến khích các
doanh nghiệp đầu tư vào các ngành nghề, sản phẩm cần ưu tiên trong chiến lược
phát triển kinh tế.
1.3 Cơ chế điều hành lãi suất trong hoạt động cho vay của NHNN
1.3.1 Thời kì thực thi cơ chế quản lí nền kinh tế theo phương thức quản lí kế
hoạch hóa tập trung (từ năm 1982 đến năm 1988)
Trong thời kì này, lãi suất cho vay được ấn định mức cụ thể. Đặt nền tảng cho
quy định này là Nghị định số 165/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ngày 23/9/1982

ban hành biểu lãi suất tiền gửi và cho vay của NHNN và hợp tác xã tín dụng. Theo
đó, Nghị định xác định hai chủ thể cho vay là ngân hàng và hợp tác xã tín dụng.
Đối với ngân hàng quy định gồm cho vay vốn lưu động và cho vay vốn cố định.
Đối với hợp tác xã tín dụng chia mức cho vay thành mức ngắn hạn và mức còn lại.
Thực tế vào thời kì đó, lãi suất huy động quá thấp so với tỉ lệ lạm phát và lãi suất
cho vay thấp hơn lãi suất huy động (lãi suất thực âm). Vì lãi suất huy động quá
thấp, người dân và cả các doanh nghiệp quốc doanh tích trữ hàng hóa chờ tăng giá,
thậm chí vay ngân hàng để tích trữ hàng hóa, dư nợ tăng nhanh, ngân hàng không
thu hút được tiền từ lưu thông dẫn tới thiếu vốn nghiêm trọng
12
.
12
Nguyễn Thị Loan (2003), Giải pháp hoàn thiện quản trị lãi suất tại NHTM Việt Nam, Đại học
Ngân hàng TPHCM, tr.63
14
1.3.2 Thời kì nền kinh tế bắt đầu chuyển sang nền kinh tế thị trường phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lí của Nhà nước (từ năm
1988 đến nay)
1.3.2.1 Cơ chế thực thi chính sách lãi suất cố định (1989 - 5/1992)
Quyết định số 39/1989/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ngày 10/4/1989 về
chính sách lãi suất tiền gửi và cho vay quy định nguyên tắc của việc xác định lãi
suất là bảo toàn được vốn và có lãi, được áp dụng ở các doanh nghiệp của các thành
phần kinh tế. Thực tế vận hành trong một thời gian, cơ chế lãi suất thời kì này đã
bắt đầu phát huy tác dụng, là bước chuyển của cơ chế lãi suất thực âm sang cơ chế
lãi suất thực dương. Cả lãi suất huy động và lãi suất cho vay được nâng lên cao hơn
tốc độ trượt giá, ngân hàng thu hút lượng tiền mặt khá lớn do đó lạm phát giảm
mạnh.
1.3.2.2 Cơ chế điều hành trần lãi suất cho vay (6/1992 – 8/2000)
Từ 6/1992 đến 01/01/1996, các mức lãi suất tiền gửi và cho vay của thời kì
trước được thay thế bằng khung lãi suất (lãi suất cho vay tối đa và lãi suất tiền gửi

tối thiểu), xóa bỏ sự phân biệt về lãi suất đối với các doanh nghiệp và các thành
phần kinh tế. Trong phạm vi khung lãi suất của NHNN, các TCTD được phép ấn
định các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể phù hợp với hoạt động kinh doanh
đặc thù và cung cầu vốn từng thời điểm. Tuy nhiên, mức lãi suất cho vay trung hạn
lại thấp hơn mức lãi suất cho vay ngắn hạn và mức lãi suất mà NHNN ban hành còn
cao, chưa gắn với diễn biến thị trường.
Với Quyết định số 381/QĐ-NH1 của NHNN về việc điều chỉnh lãi suất tiền
gửi và tiền vay đối với tổ chức kinh tế và dân cư ngày 28/12/1995, việc khống chế
mức lãi suất sàn về tiền gửi chính thức bị bãi bỏ mà chỉ còn trần lãi suất cho vay
ngắn hạn và trung hạn. Các TCTD dựa vào mức lãi suất trần cho vay và chênh lệch
bình quân 0,35%/tháng để ấn định lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay trên thị
trường. NHNN ban hành lãi suất trần cho vay có phân biệt: thời hạn vay vốn, khu
vực thành thị và nông thôn, đối tượng cho vay
13
, ngoài ra còn quy định lãi suất cho
vay theo chính sách
14
. Từng bước mức lãi suất ngắn hạn được hạ xuống thấp hơn
mức lãi suất trung hạn và dài hạn.
13
4 mức năm 1996: cho vay ngắn hạn vùng đô thị, cho vay trung dài hạn cao hơn cho vay ngắn hạn,
cho vay ở nông thôn cao hơn vùng đô thị và cho vay ở Quỹ tín dụng cơ sở. Đến tháng 1/1998, điều chỉnh
còn 3 mức: cho vay của các TCTD ở đô thị, cho vay của các TCTD ở nông thôn và cho vay của Quỹ tín
dụng nhân dân.
14
Lãi suất cho vay giảm 15% và 30% so với lãi suất thông thường cho các đối tượng chính sách và
lãi suất cho vay khắc phục hậu quả thiên tai thấp hơn lãi suất vay thông thường.
15
Năm 1997 – 1998, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ của
các nước trong khu vực, NHNN “nới lỏng” chính sách lãi suất, trần lãi suất được

nâng lên. Các NHTM tăng lãi suất tiền gửi nhằm huy động vốn và đẩy mạnh hoạt
động cho vay nên mức chênh lệch 0,35%/tháng mà NHNN khống chế không còn
phù hợp, đến quý I năm 1998 mức khống chế này đã bị xóa bỏ.
1.3.2.3 Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ dao động trong từng thời kì
(5/8/2000 – 1/6/2002)
Theo Quyết định số 241/2000/QĐ-NHNN1 của NHNN về việc thay đổi cơ
chế điều hành lãi suất cho vay của TCTD đối với khách hàng ngày 02/8/2000,
NHNN chính thức công bố định kì lãi suất cơ bản và biên độ dao động. NHTM sẽ
tự mình đưa ra các mức lãi suất cho phù hợp với tình hình hoạt động sản xuất, kinh
doanh. Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ, về cơ bản các TCTD được ấn định lãi
suất cho vay trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu vốn trong nước của
từng loại ngoại tệ.
1.3.2.4 Cơ chế lãi suất thỏa thuận (6/2002 – 5/2008)
Quyết định số 718/2001/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN về việc thay đổi
cơ chế điều hành lãi suất cho vay bằng Đô la Mỹ của các TCTD đối với khách hàng
được ban hành ngày 29/5/2001. Tiếp theo là Quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN
ngày 30/5/2002 về việc thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động tín
dụng thương mại bằng đồng Việt Nam của TCTD đối với khách hàng, theo đó lãi
suất cho vay được hoàn toàn thả nổi theo nguyên tắc tự do thỏa thuận giữa bên đi
vay và NHTM.
Từ đầu tháng 2/2008 lãi suất huy động trên thị trường đã biến động mạnh do
các NHTM liên tục tăng lãi suất huy động VNĐ lên mức 13 – 14%/năm và đã đẩy
lãi suất cho vay lên đến mức trên 1,5%/tháng vào tháng 3/2008. NHNN có Công
điện số 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008 về việc chốt trần lãi suất huy động VNĐ ở
mức 12%/năm. Ngày 24/3/2008, Hiệp hội các ngân hàng có họp và có sự đồng
thuận về lãi suất, các NHTM mới có sự điều chỉnh lãi suất với mức thấp hơn. Đến
đầu tháng 4/2008 lãi suất huy động và lãi suất cho vay đã giảm. Như vậy, sự can
thiệp này của NHNN hoàn toàn mang tính hành chính nhưng lại có tác dụng kịp
thời nhằm ngăn chặn việc sử dụng cơ chế thỏa thuận để đẩy lãi suất lên quá cao.
1.3.2.5 Cơ chế trần lãi suất cho vay (5/2008 – 2/2010)

Nhằm ổn định thị trường, theo Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN của Thống
đốc NHNN ngày 16/5/2008 về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt
16
Nam, các NHTM ấn định lãi suất cho vay tối đa bằng 150% lãi suất cơ bản do
NHNN công bố trong từng thời kì. Từ tháng 5 đến tháng 9/2008, NHNN điều hành
chính sách tiền tệ “thắt chặt” để chống lạm phát, các mức lãi suất chủ đạo được
điều chỉnh tăng. Từ tháng 10/2008 trở đi, NHNN chuyển hướng điều hành chính
sách tiền tệ sang “nới lỏng” nhằm mục tiêu hàng đầu là ngăn chặn suy giảm kinh tế,
điều chỉnh giảm các mức lãi suất chủ đạo. Khi đứng trên phương diện lập pháp, có
thể nói, Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN là cách để NHNN “sửa sai” khi đã bỏ
qua quy định tại Khoản 1 Điều 476 BLDS 2005 quy định “Lãi suất vay do các bên
thoả thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do NHNN công
bố đối với loại cho vay tương ứng”
15
.
1.3.2.6 Cơ chế lãi suất thỏa thuận (2/2010 đến nay)
Thông tư số 07/2010/TT-NHNN quy định về cho vay bằng đồng Việt Nam
theo lãi suất thỏa thuận của TCTD đối với khách hàng được ban hành ngày
26/02/2010, theo đó, quy định TCTD cho vay bằng đồng Việt Nam theo lãi suất
thỏa thuận đối với khách hàng phù hợp với quy định của pháp luật trên cơ sở cung
– cầu vốn thị trường, mức độ tín nhiệm của khách hàng vay.
Ngày 14/4/2010, NHNN ban hành Thông tư số 12/2010/TT-NHNN hướng
dẫn TCTD cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng theo lãi suất thỏa
thuận (sau đây gọi tắt là Thông tư số 12/2010/TT-NHNN). Điều 1 Thông tư này
quy định: “TCTD thực hiện cho vay bằng đồng Việt Nam theo lãi suất thỏa thuận
đối với khách hàng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của dự án, phương án sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ, đầu tư phát triển và đời sống có hiệu quả”. Như vậy, đối với
các dự án, phương án không "có hiệu quả" hoặc không tính được hiệu quả thì vẫn
phải thực hiện chế độ trần lãi suất cho vay quy định tại Điều 476 BLDS 2005.
Thêm vào đó, Thông tư số 12/2010/TT-NHNN chưa giải thích tiêu chí cho việc

đánh giá một dự án, phương án sản xuất, kinh doanh là có hay không có hiệu quả.
Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 được thông qua ngày 16/6/2010 và có
hiệu lực từ ngày 01/01/2011 quy định TCTD và khách hàng có quyền thỏa thuận về
lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD theo quy định của
pháp luật
16
. Tuy nhiên, trong trường hợp hoạt động ngân hàng có diễn biến bất
15
Trước đó, cơ chế lãi suất tự do thỏa thuận có hiệu lực từ ngày 01/6/2002 nhưng tại Khoản 1 Điều
473 BLDS 1995 cũng quy định “Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 50% của
lãi suất cao nhất do NHNN quy định đối với loại cho vay tương ứng”. Tại thời điểm ban hành Quyết định
số 546/2002/QĐ-NHNN, NHNN cho rằng các TCTD nên áp dụng cơ chế riêng và quy định của BLDS chỉ
điều chỉnh quan hệ vay tài sản nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của Luật Các tổ chức tín dụng.
16
Xem Điều 91 Luật Các tổ chức tín dụng 2010
17
thường, để bảo đảm an toàn của hệ thống TCTD, NHNN có quyền quy định cơ chế
xác định phí, lãi suất trong hoạt động kinh doanh của TCTD. Từ đó cho thấy pháp
luật trao cho các TCTD và khách hàng vay vốn quyền thỏa thuận lãi suất trong
HĐTD nhưng NHNN vẫn đóng vai trò kiểm soát trong hoạt động tín dụng.
1.3.3 Tác động của lãi suất cho vay dưới sự điều hành của NHNN đến các
TCTD và người đi vay
Cơ chế điều hành lãi suất cho vay của NHNN luôn đóng vai trò quan trọng
trong quan hệ tín dụng ngân hàng, đường lối đúng đắn và giải pháp kịp thời sẽ tạo
điều kiện cho TCTD và khách hàng vay vốn một cách thuận lợi và an tâm. Những
tác động tích cực mà cơ chế điều hành lãi suất của NHNN đem lại cho TCTD và
người đi vay là: ổn định tình hình thị trường tài chính trong nước và nguy cơ mất
khả năng thanh toán của các NHTM trong những tháng đầu năm 2008, nhất là đối
với NHTM cổ phần quy mô nhỏ chuyển đổi mô hình từ nông thôn lên; củng cố lòng
tin của các nhà đầu tư, doanh nghiệp và người dân đối với hệ thống ngân hàng;

khắc phục được tình trạng cạnh tranh không lành mạnh trong huy động vốn giữa
các NHTM bằng cách đẩy lãi suất lên cao.
Bên cạnh những tác động tích cực vẫn còn nhiều tác động tiêu cực, đặc biệt
trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế 2008 – 2009.
Việc điều hành lãi suất tăng hay giảm một cách đột ngột cũng đã gây khó
khăn đối với các TCTD quy mô nhỏ. Khi lãi suất xuống quá nhanh, các TCTD nhỏ
dễ dàng rơi vào tình trạng lỗ do giá vốn mà họ huy động trước đây là khá cao, trong
khi khả năng cắt giảm chi phí hoạt động là rất khó khăn. Hoặc khi lãi suất tăng
nhanh, với việc cạnh tranh lãi suất huy động với các TCTD khác, một số TCTD
phải tăng lãi suất cho vay, từ đó có thể dẫn đến tình trạng điều chỉnh lãi suất cho
vay với những hợp đồng trung, dài hạn trước đó và gây ra bất đồng ý chí về lãi suất
và tranh chấp phát sinh.
Giảm lãi suất quá nhanh bằng chính sách kích cầu có thể tạo ra tình trạng lợi
dụng để đảo nợ trong điều kiện thực hiện gói hỗ trợ lãi suất vào thời điểm 2009
17
.
Khi thực hiện chính sách đảo nợ, khoản nợ mới được dùng để trả nợ cũ thì không
thể tạo ra thu nhập để trả nợ cho chính nó. Hơn nữa, nếu đảo nợ được thực hiện quá
dễ dàng và không được kiểm soát tốt thì người vay sẽ chẳng phải ý thức đến việc
17
Hiện tượng một doanh nghiệp đang có dư nợ cũ tại ngân hàng với lãi suất cao và trong điều kiện
kinh tế khó khăn khiến khoản nợ trên có nguy cơ trở thành nợ xấu, với chính sách cho vay đảo nợ, doanh
nghiệp chỉ cần vay khoản nợ mới để trả khoản nợ cũ và khiến doanh nghiệp dễ được đánh giá rằng đã trả
được tốt khoản nợ vay, còn ngân hàng thì không những thu hồi được vốn vay mà nợ xấu cũng không có.
18
phải sử dụng vốn vay hiệu quả và trả nợ theo cam kết. Bởi vì khi nợ vay đến hạn họ
chỉ cần vay khoản tiền mới để trả khoản nợ cũ, rồi khoản nợ mới lại đến hạn và
người ta lại tiếp tục vay nợ mới để trả nợ cũ, cứ xoay vòng như vậy cho đến mãi
mãi
18

.
Đối với các chủ thể kinh doanh, đặc biệt là các doanh nghiệp, lãi suất cho vay
là một trong những yếu tố cấu thành nên chi phí đầu vào của quá trình sản xuất,
kinh doanh. Do đó, mọi sự biến động về lãi suất cho vay trên thị trường cũng đều
tác động trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Có thể nói “xu hướng tăng lãi
suất ngân hàng sẽ luôn đi liền với xu hướng cắt giảm, thu hẹp quy mô và phạm vi
của các hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nền kinh tế”
19
. Trong khoảng thời
gian đầu năm 2008, trước tình hình khó khăn chung, lãi suất cao, tăng liên tục khiến
nhiều doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất, thậm chí với doanh nghiệp phải ngừng
hoạt động, giải thể hoặc phá sản. Các doanh nghiệp không đủ khả năng thanh toán
nợ vay tại TCTD dẫn đến tranh chấp phát sinh là điều không thể tránh khỏi.
Trong hoàn cảnh nền kinh tế biến động, cơ chế điều hành lãi suất cho vay của
NHNN là phù hợp, song lại gián tiếp tác động đến các tranh chấp trong lĩnh vực
kinh doanh thương mại, mà điển hình là tranh chấp HĐTD với bị đơn hầu hết là các
chủ thể vay vốn ngân hàng. Vì thế, tìm hiểu bản chất và giải quyết đúng đắn những
tranh chấp này là một việc rất cần thiết.
1.4 Tranh chấp về lãi suất trong hợp đồng tín dụng
1.4.1 Khái niệm
Tranh chấp phát sinh từ HĐTD được hiểu là tình trạng pháp lí của quan hệ
HĐTD, trong đó các bên thể hiện sự xung đột hay bất đồng ý chí với nhau về những
quyền và nghĩa vụ hoặc lợi ích phát sinh từ HĐTD. Một HĐTD chỉ được coi là có
tranh chấp khi sự xung đột, bất đồng về phương diện quyền lợi giữa các bên đã
được thể hiện ra bên ngoài (mặt khách quan) thông qua những bằng chứng cụ thể và
xác định được. Theo đó, tranh chấp về lãi suất trong HĐTD là những tranh chấp cụ
thể, mà nguyên nhân trực tiếp hoặc gián tiếp dẫn đến tranh chấp là sự bất đồng ý
chí về thỏa thuận lãi suất cho vay trong HĐTD.
18
Đỗ Thiên Anh Tuấn (2009), Đảo nợ - rủi ro đạo đức và hàm ý chính sách, Thời báo Kinh tế Sài

Gòn, xem thêm tại />19
TS. Đỗ Thị Thúy (2009), Tác động của lãi suất cho vay tới hoạt động sản xuất, Ngân hàng Công
thương Việt Nam, xem thêm tại http://www. vietinbank.vn/web/home/vn/research/09/090410.html
19
1.4.2 Đặc điểm của tranh chấp về lãi suất cho vay
Tranh chấp về lãi suất cho vay là một dạng tranh chấp cụ thể phát sinh từ
HĐTD, vì thế nó mang những đặc trưng cơ bản của tranh chấp HĐTD.
Thứ nhất, tranh chấp phát sinh từ HĐTD thường có giá trị lớn. Có những
tranh chấp phát sinh giữa TCTD với các tổ chức vay vốn phục vụ cho mục đích sản
xuất, kinh doanh với dự án lớn trung và dài hạn, vì thế giá trị hợp đồng có khi lên
đến hàng chục, hàng trăm tỉ đồng.
Thứ hai, tranh chấp thường được giải quyết theo phương thức thương lượng,
hòa giải giữa các bên tranh chấp hơn là giải quyết bằng con đường tòa án. Pháp luật
quy định tôn trọng quyền định đoạt của các bên trong quan hệ dân sự, vì thế các bên
có quyền chọn lựa phương thức giải quyết tranh chấp thuận lợi hơn. Số lượng vụ
việc được giải quyết thông qua tòa án là không nhiều, vì giá trị tranh chấp lớn kéo
theo án phí lớn và thời gian tố tụng kéo dài. Hai bên phải trực tiếp hoặc cử đại diện
tham gia trong khi hoạt động sản xuất, kinh doanh thì không thể dừng lại và khả
năng thắng kiện cũng không phải là tuyệt đối. Do đó, phương thức thương lượng,
hòa giải vẫn được lựa chọn nhiều hơn vì các bên có thể chủ động trong việc giải
quyết và tiết kiệm chi phí.
Thứ ba, phần lớn các tranh chấp thường có nguyên đơn là chủ thể cho vay và
bị đơn là bên đi vay. Trong quan hệ tín dụng, thông thường quá trình giải ngân diễn
ra trước rồi đến quá trình thanh toán nợ. Trách nhiệm về vốn của bên cho vay đến
khi giải ngân xong là rất ít, ngược lại, trách nhiệm của bên đi vay thực sự phát sinh
sau khi nhận tiền giải ngân. Tình trạng bên vay không trả nợ gốc và lãi đúng hạn là
điều rất dễ xảy ra, trong trường hợp này tranh chấp phát sinh với TCTD là chủ thể
bị xâm phạm lợi ích hợp pháp nên TCTD thường là nguyên đơn trong vụ việc. Đơn
cử tại tỉnh Bắc Ninh, 6 tháng đầu năm 2009, TAND tỉnh thụ lí xét xử 35 vụ án kinh
doanh, thương mại, gấp 4,35 lần lượng án cả năm 2008. Có nhiều dạng tranh chấp

thương mại, kinh tế như: tranh chấp tiền bảo hiểm, tranh chấp vốn, hợp đồng mua
bán vật tư… Các tranh chấp HĐTD chiếm đa số (31/35 vụ). Bị đơn của các vụ kiện
tranh chấp HĐTD phần lớn là các doanh nghiệp nhỏ, cơ sở sản xuất, kinh doanh, hộ
kinh doanh cá thể ở khu vực làng nghề do làm ăn thua lỗ, lâm vào tình trạng khó
khăn, không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn
20
.
Tuy nhiên, tranh chấp về lãi suất cũng có những nét đặc thù sau:
20
Vân Giang (2009), Tranh chấp HĐTD gia tăng - Có nguyên nhân từ suy thoái kinh tế, Báo Điện
tử Bắc Ninh – Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh, xem thêm tại . vn/?
page=news_ detail&category_id=12602&id=63834&portal=baobacninh
20

×