Tải bản đầy đủ (.pdf) (141 trang)

quá trình đô thị hóa ở thành phố long xuyên (tỉnh an giang) giai đoạn 1986 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 141 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Huỳnh Thị Thấm

QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA
Ở THÀNH PHỐ LONG XUYÊN
(TỈNH AN GIANG) GIAI ĐOẠN 1986 - 2010

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Thành phố Hồ Chí Minh – 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Huỳnh Thị Thấm

QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA
Ở THÀNH PHỐ LONG XUYÊN
(TỈNH AN GIANG) GIAI ĐOẠN 1986 - 2010
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số:
60 22 54

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. LÊ VĂN ĐẠT

Thành phố Hồ Chí Minh – 2012




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu sử dụng trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng. Những đánh giá, nhận định
trong luận văn do cá nhân tôi nghiên cứu trên những tư liệu xác định.

Tác giả

HUỲNH THỊ THẤM


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CN – TTCN

: công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp

CN – XD

: công nghiệp – xây dựng

DV

: dịch vụ

GTSX

: giá trị sản xuất

KCN


: khu công nghiệp

NLTS

: nông lâm thủy sản

Nxb

: nhà xuất bản

Ph

: phường

TM

: thương mại

TP

: thành phố

UBND

: ủy ban nhân dân

XHCN

: xã hội chủ nghĩa


ĐBSCL

: đồng bằng sông Cửu Long


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Bảng 1.1 : Phân loại đô thị ở Việt Nam theo Nghị định số 72/2001/NĐ – CP
Bảng 2.1 : Tổng diện tích đất giao thông nội thị và danh mục các tuyến
đường giao thông chính đã trãi nhựa
Bảng 2.2 : Số liệu cấp điện trên địa bàn TP Long Xuyên (khu vực nội thành)
Bảng 2.3 : Thống kê hiện trạng điện chiếu sáng trên địa bàn TP Long Xuyên
Bảng 2.4 : Sô liệu cấp nước trên địa bàn thành phố Long Xuyên (khu vực
nội thành)
Bảng 2.5 : Tổng số hộ dân được cấp nước sạch trên địa bàn TP. Long Xuyên
(khu vực nội thành)
Bảng 2.6 : Hệ thống thoát nước nội thành TP.Long Xuyên năm 2010
Bảng 2.7 : Cơ cấu GDP của TP Long Xuyên qua các năm 2004 – 2007
Bảng 2.8 : Diện tích các loại cây trồng hàng năm ở Long Xuyên từ 1985 – 2010
Bảng 2.9 : Sản lượng các loại cây trồng ở Long Xuyên từ 1985 – 2010
Bảng 2.10 : Tình hình chăn nuôi ở TP.Long Xuyên qua các năm từ 2000 – 2010
Bảng 2.11 : Tình hình thủy sản của Long Xuyên từ 2000 – 2010
Bảng 3.1 : Tình hình dân số thành phố Long Xuyên từ 1985-2010
Bảng 3.2 : Hiện trạng dân số và diện tích các phường xã ở thành phố Long Xuyên
theo tổng điều tra 2010
Bảng 3.3 : Số dân thành thị và nông thôn từ 1985-2010
Bảng 3.4 : Giải quyết việc làm cho người lao động ở thành phố Long Xuyên.
Bảng 3.5 : Tỉ lệ lao động trong cơ cấu kinh tế thành phố Long Xuyên 2006-2009
Bảng 3.6 : Danh sách nhà ở trên địa bàn TP. Long Xuyên 2010
Bảng 3.7 : Một số chỉ tiêu về đời sống dân cư ở TP. Long Xuyên

Bảng 3.8 : Tình hình giáo dục của thành phố Long Xuyên từ 1990-2010
Bảng 3.9 : Tình hình giáo dục tiểu học 2009-2010
Bảng 3.10 : Cơ sở thể dục thể thao do TP Long Xuyên quản lí
Bảng 2.8 : Biểu đồ cơ cấu kinh tế TP Long Xuyên


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Mục lục
Lời cam đoan
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng, biểu đồ
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ ĐÔ THỊ HÓA VÀ KHÁI QUÁT QUÁ
TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA Ở THÀNH PHỐ LONG XUYÊN
TRƯỚC NĂM 1986 ............................................................................. 10
1.1. Đô thị và đô thị hóa .............................................................................. 10
1.1.1. Đô thị .............................................................................................. 10
1.1.2. Đô thị hóa ....................................................................................... 16
1.2. Khái quát quá trình đô thị hóa ở Thành phố Long Xuyên trước năm 1986.. 20
1.2.1. Tổng quan về thành phố Long Xuyên ............................................ 20
1.2.2. Khái quát quá trình đô thị hóa ở Thành phố Long Xuyên trước năm
1986. ......................................................................................................... 25
Chương 2: NHỮNG CHUYỂN BIẾN VỀ CẢNH QUAN MÔI TRƯỜNG,
CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KINH TẾ TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ
THỊ HÓA Ở THÀNH PHỐ LONG XUYÊN (1986 - 2010).... 35
2.1 Đường lối đổi mới của Đảng ................................................................. 35
2.2. Cảnh quan và môi trường ..................................................................... 37
2.2.1. Cảnh quan ....................................................................................... 37
2.2.2. Môi trường...................................................................................... 40

2.3 Chuyển biến về cơ sở hạ tầng ................................................................ 42
2.3.1 Giao thông vận tải ........................................................................... 42
2.2.2 Hệ thống cấp điện ............................................................................ 50


2.2.3. Hệ thống cấp nước và vệ sinh mơi trường ..................................... 53
2.2.4. Cơng viên cây xanh và thơng tin liên lạc ....................................... 55
2.3. Chuyển biến về cơ cấu kinh tế trong q trình đơ thị hóa .................... 56
2.3.1. Lónh vực thương mại - dòch vụ - du lòch: ...................................... 58
2.3.2. Lónh vực sản xuất công nghiệp-TTCN ........................................ 60
2.3.3. Về nông nghiệp ............................................................................. 60
Chương 3: CHUYỂN BIẾN VỀ DÂN CƯ VÀ ĐỜI SỐNG DÂN CƯ Ở
THÀNH PHỐ LONG XUN TRONG Q TRÌNH ĐƠ
THỊ HĨA (1986 - 2010)....................................................................... 73
3.1. Chủ trương đổi mới về xã hội của Đảng .............................................. 73
3.2. Sự phát triển dân số và lao động........................................................... 75
3.2.1. Sự phát triển dân số ........................................................................ 75
3.2.2. Sự chuyển dịch cơ cấu lao động..................................................... 79
3.3. Sự chuyển biến trong đời sống vật chất................................................ 83
3.3.1. Nhà ở và mức sống ......................................................................... 83
3.3.2. Giáo dục – y tế ............................................................................... 87
3.4. Sự chuyển biến trong đời sống văn hóa tinh thần ................................ 94
3.4.1. Các hoạt động văn hóa - văn nghệ - thể dục thể thao .................... 94
3.4.2. Chuyển biến trong lối sống dân cư .............................................. 101
KẾT LUẬN ................................................................................................... 110
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 120
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, Việt Nam có tốc độ phát triển kinh tế
nhanh, đạt được những thành tựu to lớn về mọi mặt. Kèm theo đó là quá trình
đô thị hóa, một hiện tượng kinh tế – xã hội phức tạp, chuyển biến các xã hội
nông nghiệp – nông dân – nông thôn sang các xã hội đô thị – công nghiệp –
thị dân. Ở Việt Nam, do sự phát triển chậm chạp của công nghiệp và thương
nghiệp trong lịch sử nên hầu hết các đô thị mang chức năng tổng hợp, vừa là
trung tâm chính trị, vừa là trung tâm kinh tế, đồng thời giữ vai trò trung tâm
văn hóa. Hiện nay, quá trình đô thị hóa gắn liền với sự phát triển của công
nghiệp hóa, mà biểu hiện của nó là sự hình thành các khu công nghiệp, khu
chế xuất, các khu kinh tế mở có quy mô, chất lượng phát triển khác nhau.
An Giang – một tỉnh đồng bằng phía Tây Nam của Tổ Quốc – mảnh đất
giàu truyền thống lịch sử – văn hóa, có tiềm năng phát triển kinh tế – xã hội.
Nhiều thế kỷ trôi qua, vùng đất và con người An Giang đã góp công to lớn
vào những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam không chỉ trong chiến đấu
chống giặc ngoại xâm mà còn cả trong lao động sản xuất.
Sau ngày đất nước được hoàn toàn giải phóng (30/04/1975), nhân dân
An Giang với đức tính cần cù, chịu thương chịu khó và tinh thần cách mạng
kiên cường đã nhanh chóng bắt tay vào công cuộc khắc phục hậu quả chiến
tranh, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Qua 10 năm khôi phục và phát triển kinh tế
– xã hội (1975 – 1985), bằng sự nổ lực của Đảng bộ, chính quyền và nhân
dân, tỉnh An Giang đã thu được những thắng lợi cơ bản, đời sống vật chất –
tinh thần của nhân dân được cải thiện đáng kể so với trước giải phóng.


Hòa cùng công cuộc đổi mới của đất nước từ năm 1986, An Giang
đang tiến nhanh, tiến mạnh trên con đường hiện đại hóa nhằm nâng cao chất
lượng đời sống của người dân.
Long Xuyên là một thành phố duy nhất của tỉnh An Giang, nên đóng
vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của tỉnh. Thành phố đã nhận được

sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, thu hút được nhiều dự án đầu tư từ trong và
ngoài nước, hệ thống cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất – kỹ thuật tương đối phát
triển.
Song song với những thuận lợi có được từ vị trí và tiềm năng phát triển,
quá trình đô thị hóa diễn ra ở Long Xuyên còn gặp nhiều khó khăn: bất cập
trong quản lý, tính không đồng bộ trong quy hoạch, những hệ lụy mà đô thị
hóa đem lại như môi trường tự nhiên bị thoái hóa, môi trường văn hóa bị ảnh
hưởng và các vấn đề xã hội khác.
Để thực hiện quá trình đô thị hóa thành phố Long Xuyên theo đúng tinh
thần quy hoạch và tránh những hạn chế, sai lầm có thể mắc phải, cần có cái
nhìn cụ thể và khái quát, xem quá trình đô thị hóa ấy diễn ra như thế nào,
những nhân tố khách quan và chủ quan tác động, chi phối. Trên cơ sở đó có
những bài học kinh nghiệm phục vụ cho sự nghiệp chung công nghiệp hóa,
hiện đại hóa của tỉnh và cả nước, đặc biệt trong giai đoạn mở cửa, hội nhập
với quốc tế. Điều này có ý nghĩa thời sự, mang tính thực tiễn cao; đồng thời
khắc họa sâu thêm kiến thức khoa học đối với người viết, đảm bảo tính toàn
diện trong nghiên cứu lịch sử không chỉ dừng lại ở lịch sử quân sự – chính trị
mà còn là tất cả những gì xảy ra liên quan đến con người và xã hội loài người.
Là một người dân của tỉnh An Giang, một giáo viên giảng dạy ở trường
trung học phổ thông, tìm hiểu về quá trình đô thị hóa ở thành phố Long
Xuyên cũng chính là tìm hiểu về lịch sử phát triển của vùng đất này trong quá
trình hình thành kể từ ngày đổi mới. Đó sẽ là những nội dung được truyền đến


học sinh trong các giờ dạy lịch sử địa phương, giáo dục cho các em lòng tự
hào và tinh thần trách nhiệm đối với địa phương.
Xuất phát từ những lí do trên, tôi mạnh dạng nghiên cứu đề tài “Quá
trình đô thị hóa ở thành phố Long Xuyên (tỉnh An Giang) giai đoạn 1986 –
2010” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu

Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là tìm hiểu sự chuyển biến trên tất
cả lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa ở thành phố Long Xuyên trong quá trình
đô thị hóa từ năm 1986 đến nay. Nghiên cứu còn làm rõ những tác động của
quá trình đô thị hóa đối với sự phát triển chung của thành phố, rút ra một số
đặc điểm và bài học kinh nghiệm trong quá trình đô thị hóa; từ đó đề ra một
số định hướng để làm nền tảng cho sự phát triển bền vững trong tương lai.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đô thị hóa là vấn đề đã được nghiên cứu từ rất lâu trên thế giới và trãi
qua ba giai đoạn phát triển: giai đoạn tiền công nghiệp, giai đoạn công nghiệp
hình thành và phát triển, giai đoạn hậu công nghiệp. Ở Việt Nam, các đô thị
cũng được hình thành sớm. Cuốn “Đô thị cổ Việt Nam” của Viện sử học, Hà
Nội, 1989 đã miêu tả, giới thiệu 13 đô thị cổ ra đời và phát triển trong khoảng
thời gian từ thế kỷ III đến thế kỷ XIX. Trong đó có những đô thị đã bị mai
một hoàn toàn nhưng cũng có những đô thị tồn tại và liên tục phát triển cho
đến nay, trở thành đô thị hiện đại, tiêu biểu như Thăng Long – Hà Nội. Tuy
nhiên vấn đề quy hoạch đô thị chưa thấy được đề cập đến.
Năm 1995, ấn phẩm “Đô thị Việt Nam” gồm hai tập của tác giả Đàm
Trung Phường ra đời đánh dấu bước phát triển trong việc nghiên cứu đô thị
hóa. Theo giáo sư “cho đến giữa thập niên 90 vẫn chưa có ai viết sách và tiếp
cận một cách có hệ thống, toàn diện về vấn đề quy hoạch phát triển đô thị
Việt Nam”.


Tác phẩm nghiên cứu của giáo sư đã đánh giá thực trạng mạng lưới đô
thị Việt Nam hiện nay, nghiên cứu – định hướng phát triển đô thị trong bối
cảnh đô thị hóa thế giới và bước đầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Đồng thời tác giả còn trình bày mở rộng những khái niệm về đô thị học trong
mối quan hệ với những tiến bộ của khoa học mới, đem đến những thông tin có
tính chất tham khảo về vấn đề đô thị. Có thể xem đây là công trình quan trọng
để tiếp cận các vấn đề lí luận về đô thị nói chung cũng như về đô thị hóa nói

riêng. Tuy nhiên, cuốn “Đô thị Việt Nam” chưa có điều kiện đi sâu vào từng
đô thị.
Cuốn sách khác có nội dung liên quan là “Đô thị hóa tại Việt Nam và
Đông Nam Á” của Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á do Nxb thành phố
Hồ Chí Minh ấn hành vào năm 1996. Cuốn sách đã đề cập một cách cụ thể
nhiều khía cạnh khác nhau của hiện tượng đô thị hóa trong bối cảnh lịch sử
ngày nay, như xu thế và các vấn đề đặt ra trong quá trình đô thị hóa, đồng thời
dựng lại dựng lại tiến trình đô thị hóa trong lịch sử.
Năm 1998, Nxb Chính trị Quốc gia xuất bản cuốn “Đô thị hóa và chính
sách phát triển đô thị trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam” của
tác giả Trần Ngọc Hiên, Trần Văn Chử. Ngoài nội dung đề cập đến những vấn
đề mang tính lý thuyết chung về đô thị hóa trong giai đoạn hiện nay: đô thị
hóa lấy tăng trưởng kinh tế, lấy con người làm trung tâm; cuốn sách còn tập
trung phân tích, đánh giá thực trạng đô thị Việt Nam, phát hiện các vấn đề nảy
sinh và làm rõ vai trò quan trọng của các chính sách tác động đến sự phát
triển đô thị ở nước ta.
Ngoài ra còn hàng loạt công trình nghiên cứu viết về các vấn đề khác
nhau của đô thị hóa như: “Dân số và nhà ở đô thị Việt Nam hiện nay” của
Phạm Văn Trình (Nxb TP. Hồ Chí Minh, 1996), “Biến đổi văn hóa đô thị Việt
Nam hiện nay” của Nguyễn Thanh Tuấn (Nxb Văn hóa Thông tin, 2006),


“Đời sống văn hóa đô thị và khu công nghiệp Việt Nam” (Nxb Văn hóa
Thông tin, 2005) của tác giả Đình Quang, “Vấn đề nhà ở đô thị trong nền kinh
tế thị trường của thế giới thứ ba” (Nxb Khoa học Xã hội, 1996), tác giả là
Trịnh Duy Luân và Michael Leaf,…
Như vậy nhìn chung các sách viết về đô thị hóa ở Việt Nam tương đối
nhiều, đặc biệt trong giai đoạn từ sau năm 1975. Song các công trình này hầu
hết dừng lại ở những vấn đề mang tính lý luận hoặc nghiên cứu về các đô thị
lớn: TP. Hồ Chí Minh. TP. Hà Nội và một số đô thị khác.

Dưới chính quyền Sài Gòn, Ban nghiên cứu Tòa Hành chính An Giang
cho biên soạn các quyển địa phương chí như: Địa phương chí tỉnh Long
Xuyên 1956, Địa phương chí tỉnh Châu Đốc 1956, Địa phương chí An Giang
1959, Địa phương chí An Giang 1961, Địa phương chí An Giang 1963, Địa
phương chí tỉnh An Giang 1967, Địa phương chí tỉnh Châu Đốc 1968, Địa
phương chí tỉnh An Giang 1973,… đã đề cập một cách tổng quát về lịch sử,
điều kiện tự nhiên, hành chính, kinh tế, văn hóa, xã hội, danh lam thắng cảnh
của tỉnh.
Từ sau năm 1975, có nhiều công trình nghiên cứu về đồng bằng sông
Cửu Long và An Giang, với những vấn đề sâu hơn.
Tác phẩm Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ do Huỳnh Lứa chủ biên,
đã góp phần tìm hiểu sâu hơn về quá trình khai phá vùng đất Nam Bộ, trong
đó có An Giang. Tác giả đã khái quát quá trình di chuyển dân cư, khai hoang
lập đồn điền, tổ chức sản xuất nông nghiệp, những biến đổi về mặt xã hội.
Quyển Những trang về An Giang của Trần Thanh Phương xuất bản
năm 1984. Đây là quyển sách địa chí, đã đề cập đến thiên nhiên, con người,
kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế An Giang trong các thế kỷ XVIII – XX.


Trong Lịch sử An Giang của Sơn Nam được xuất bản vào năm 1988,
tác giả đã đề cập đến những biến đổi về mọi mặt của vùng đất An Giang từ
khi hòa hợp vào lãnh thổ nước ta đến thời Pháp thuộc.
Tác phẩm Về dân tộc ở vùng đồng bằng sông Cửu Long xuất bản năm
1991 đã đề cập khá chi tiết về sinh hoạt kinh tế của các dân tộc Khmer, Chăm,
Hoa đang sinh sống ở Đồng bằng sông Cửu Long nói chung, vùng đất An
Giang nói riêng.
Ngoài ra, các bài viết trong các kỷ yếu hội thảo khoa học như Nam Bộ
và Nam Trung Bộ những vấn đề lịch sử thế kỷ XVII – XIX do Trường Đại
học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh tổ chức, Lịch sử phát triển kinh Vĩnh
Tế, Lịch sử hình thành vùng đất An Giang do Ủy ban nhân dân tỉnh An

Giang, Ban Tuyên giáo tỉnh ủy An Giang và Sở Khoa học Công nghệ Môi
trường tỉnh An Giang đã phối hợp với Viện Khoa học Xã hội tại thành phố
Hồ Chí Minh tổ chức,…
Quyển Những bước đột phá của An Giang trên chặng đường đổi mới
kinh tế của Đỗ Hoài Nam và Đặng Phong chủ biên xuất bản năm 2006. Đây là
sách viết về bối cảnh lịch sử An Giang trước giải phóng, những ngày sau giải
phóng, An Giang cùng cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội và thực hiện những
mũi đột phá trên nhiều lĩnh vực khác nhau.
Cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, trình
bày có hệ thống riêng về quá trình đô thị hóa ở Long Xuyên tỉnh An Giang từ
1986 đến nay.
Trong quá trình viết đề tài, chúng tôi sẽ cố gắng tham khảo tất cả những
công trình nghiên cứu của những người đi trước, qua đó có thể kế thừa những
kết quả đạt được, đồng thời bổ sung những khiếm khuyết mà các tác giả chưa
đề cập đến hoặc do lịch sử biến đổi và thời gian vượt qua.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, nhiệm vụ của đề tài


Như tên đề tài chỉ rõ, đối tượng nghiên cứu của luận văn là quá trình đô
thị hóa diễn ra ở thành phố Long Xuyên tỉnh An Giang. Cụ thể đề tài sẽ đi sâu
nghiên cứu quá trình đô thị hóa đã diễn ra như thế nào, những yếu tố nào tác
động đến quá trình ấy và những bài học được rút ra trong quá trình đô thị hóa.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là trong không gian xác định: thành phố
Long Xuyên của tỉnh An Giang, trong thời gian cụ thể từ 1986 đến nay. Vì
đây là giai đoạn lịch sử có nhiều biến đổi quan trọng và sâu sắc đối với thành
phố Long Xuyên của tỉnh An Giang nói riêng và cả nước nói chung.
Để hoàn thành đề tài, nhiệm vụ đặt ra cần phải thực hiện là:
- Nghiên cứu lí luận về các khái niệm đô thị, đô thị hóa và lịch sử của
quá trình thành phố Long Xuyên làm cơ sở lí luận cho đề tài.
- Tìm hiểu, điều tra về quá trình phát triển của đô thị Long Xuyên trên

các nội dung kinh tế - xã hội - văn hóa cũng như các vấn đề phát sinh trong
quá trình ấy.
- Rút ra những đặc điểm, bài học kinh nghiệm của thành phố Long
Xuyên trong thời gian này khi tiến hành đô thị hóa, đưa ra những giải pháp có
tính chất tham khảo cho sự phát triển của thành phố.
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
Quá trình thực hiện đề tài là quá trình xử lí tài liệu khác nhau từ các
nguồn tư liệu:
- Các văn bản quy phạm pháp luật, nghị quyết của Chính phủ, Thủ
tướng, UBND tỉnh An Giang, các văn bản đại hội Đảng bộ tỉnh An Giang.
- Đặc biệt là các số liệu thống kê, báo cáo năm của các cơ quan chức
năng có liên quan đến vấn đề đô thị hóa, các văn kiện Đại hội Đảng bộ thành
phố Long Xuyên. Đây là cơ sở chính để chúng tôi thực hiện đề tài.


- Tài liệu khác là các sách viết về vùng đất An Giang cũng như Long
Xuyên hiện nay sẽ giúp chúng tôi dựng lại lịch sử phát triển của vùng đất
Long Xuyên – An Giang đến trước 1986.
- Tài liệu tiếp theo tạo cơ sở lí luận cho đề tài chính là các chuyên khảo,
công trình nghiên cứu, bài viết, các tham luận khoa học của các tác giả, các
nhà nghiên cứu về đô thị và đô thị hóa.
- Bên cạnh đó, chúng tôi sẽ thực hiện khảo sát, điền dã để thu thập thêm
tư liệu thực tế cho đề tài và còn các trang Web liên quan đến nội dung đề tài.
Trong quá trình thực hiện đề tài, phương pháp được sử dụng chủ yếu để
nghiên cứu là phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Tuy nhiên, vì đô thị
hóa là một quá trình diễn ra phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau
nên trong khuôn khổ của luận văn, chúng tôi còn sử dụng phương pháp điều
tra thực tế, phương pháp so sánh sử học, phương pháp nghiên cứu liên ngành:
thống kê, so sánh, tổng hợp… Việc vận dụng nhiều phương pháp nghiên cứu
khác nhau sẽ giúp cho đề tài nghiên cứu có kết quả xác thực hơn.

6. Những đóng góp của đề tài
Thông qua việc thực hiện đề tài, chúng tôi tái hiện lại một cách khách
quan, trung thực quá trình đô thị hóa thành phố Long Xuyên – tỉnh An Giang
trong khoảng 26 năm thực hiện đổi mới (từ 1986 – đến 2010), đồng thời làm
sáng tỏ quá trình chuyển biến của từng thành tố thuộc vấn đề đô thị hóa, đó là
sự chuyển biến của địa phương và cộng đồng tại chỗ trong lĩnh vực nghề
nghiệp, văn hóa, lối sống…trên các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội.
Luận văn bước đầu phân tích, đánh giá những yếu tố chủ quan và khách
quan tác động đến quá trình đô thị hóa của thành phố Long Xuyên, rút ra một
số bài học kinh nghiệm mang tính chất định hướng, trên cơ sở đó có những đề
xuất, kiến nghị về quá trình đô thị hóa thành phố trong tương lai.


Dựng lại bức tranh đô thị hóa thành phố Long Xuyên trong thời gian
đổi mới, luận văn đã tiếp cận và hệ thống hóa nhiều tư liệu khác nhau, góp
phần nghiên cứu về lịch sử thành phố Long Xuyên nói riêng và tỉnh An Giang
nói chung, đồng thời phục vụ công tác giảng dạy lịch sử địa phương ở trường
phổ thông.
7. Bố cục luận văn
Luận văn ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, Nội dung gồm có ba
chương:
Chương 1: Tổng quan về đô thị hóa và khái quát quá trình đô thị hóa ở
thành phố Long Xuyên trước 1986.
Chương 2: Những chuyển biến về cảnh quan môi trường, cơ sở hạ tầng
và kinh tế trong quá trình đô thị hóa ở thành phố Long Xuyên (1986 - 2010).
Chương 3: Chuyển biến về dân cư và đời sống dân cư ở thành phố
Long Xuyên trong quá trình đô thị hóa (1986 – 2010).


Chương 1

TỔNG QUAN VỀ ĐÔ THỊ HÓA VÀ KHÁI QUÁT QUÁ
TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA Ở THÀNH PHỐ
LONG XUYÊN TRƯỚC NĂM 1986
1.1. Đô thị và đô thị hóa
1.1.1. Đô thị
Đô thị là một trong những dấu hiệu lâu đời nhất của nền văn minh nhân
loại, bắt đầu có khoảng 4000 năm đến 6000 năm trước đây hoặc lâu hơn nữa.
Khi đó, đô thị chỉ là nơi tập trung khá đông người hoạt động nông nghiệp.
Trãi qua thời gian, những đô thị được hình thành sau hàng loạt biến động về
dân cư, thủ công nghiệp, công nghiệp và thương mại. Ngày nay, những thay
đổi về khoa học kỹ thuật và kinh tế làm biến đổi sâu sắc cấu trúc, chức năng,
kiến trúc và quy mô dân số đô thị cũng như tỉ lệ dân cư đô thị.
Nói một cách ngắn gọn và dễ hiểu, đô thị là nơi tập trung dân cư đông
với mật độ dân số cao, lấy hoạt động kinh tế phi nông nghiệp làm ngành kinh
tế chính và có điều kiện sinh hoạt theo hướng tiến bộ, văn minh hơn so với
những vùng xung quanh.
Điều này đã được phản ánh tương đối trọn vẹn trong cách định nghĩa về
đô thị của Bách khoa toàn thư Hoa Kỳ, rằng đô thị (city) như một cách sử
dụng thông thường chỉ một tập hợp dân cư có quy mô đáng kể, chỉ một nơi
mà điều kiện sống trái ngược với đời sống nông thôn và đời sống hoang dã.
Nó là một hiện thực chung của xã hội văn minh.
Ở Việt Nam, xuất phát từ lịch sử hình thành đô thị, nhiều nhà nghiên
cứu đã nêu ra khái niệm đô thị. Giáo sư Cao Xuân Phổ đã phát biểu: “Trong
tiếng Việt, có nhiều từ để chỉ khái niệm đô thị, thành phố, thị trấn, thị xã,…


Các từ đó điều có hai thành tố: đô, thành, trấn, xã hàm nghĩa chức năng hành
chính; thị, phố có nghĩa là chợ. Thời trước, chức năng hành chính lấn át chức
năng kinh tế bộ phận đảm nhận và cai quản đô thị là do nhà nước đảm nhiệm.
Đô thị phương tây có ít tính chính trị hơn và thiên về chức năng kinh tế”[63;

103].
Tuy nhiên đây không phải là đặc điểm duy nhất của đô thị Việt Nam
thời hiện đại. bên cạnh yếu tố “đô”, “thành” còn có những yếu tố khác đóng
vai trò quan trọng như: giao thông, điện nước, giáo dục, văn hóa, y tế… chính
vì vậy theo các tác giả của công trình nguyên cứu khoa học Quy hoạch xây
dựng phát triển đô thị, “ đô thị là điểm dân cư tập trung với mức độ cao, chủ
yếu là lao động phi nông nghiệp, có hạ tầng cơ thích hợp, là trung tâm chuyên
ngành tổng hợp, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước,
của một nền lãnh thổ, của một miền lãnh thổ, của một tỉnh, một huyện hoặc
một vùng tỉnh, huyện”[4; 14].
Cách định nghĩa này cũng tương đồng với quan điểm của Nhà nước
được thể hiện trong nghị định 132/HĐBT ngày 5/5/1990 về việc phân loại đô
thị và việc phân cấp quản lý đô thị. Theo đó, đô thị là điểm dân cư có yếu tố
cơ bản:
1. Là trung tâm tổng hợp hay trung tâm chuyên ngành có vai trò thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng lãnh thổ nhất định.
2. Quy mô dân số nhỏ nhất là 4000 người (vùng núi có thể thấp hơn).
3. Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp từ 60% trở lên trong tổng số lao
động; là nơi sản xuất sản xuất và dịch vụ thương mại hàng hóa phát triển.
4. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật xác định theo từng loại đô thị phù hợp với đặc
điểm từng vùng.
5. Mật độ dân cư được xác định theo từng loại đô thị phù hợp với đặc
điểm từng vùng.


Cũng theo nghị định này, ở Việt Nam có 5 loại đô thị:
- Đô thị loại I: là đô thị rất lớn; trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa – xã
hội, khoa học kỹ thuật, du lịch, giao thông, công nghiệp, giao dịch quốc tế có
vai trò thúc đẩy sự phát triển cả nước; có dân số từ 1 triệu người trở lên với tỷ
suất hàng hóa cao, tỷ lệ lao động phi nông nghiệp từ 90% trở lên trong tổng số

lao động; có cơ sơ hạ tầng kỹ thuật và mạng lưới công trình công cộng được
xây dựng đồng bộ; có mật độ dân cư bình quân 15.000 người/km2 trở lên.
- Đô thị loại II: là đô thị lớn; có trung tâm kinh tế, văn hóa - xã hội, sản
xuất công nghiệp, du lịch – dịch vụ, giao thông, du lịch quốc tế, có vai trò
thúc đẩy sự phát triển của một vùng lãnh thổ; có số dân từ 35 vạn người đến 1
triệu người; sản xuất hàng hóa phát triền, tỷ lệ lao động phi nông nghiệp từ
90% trở lên trong tổng số lao động; mật độ dân cư bình quân là 12.000
người/km2 trở lên.
- Đô thị loại III: là đô thị trung bình lớn; trung tâm chính trị, kinh tế,
văn hóa – xã hội, là nơi sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tập trung,
du lịch – dịch vụ; có vai trò thúc đẩy sự phát triển một tỉnh, hoặc từng lĩnh
vực đối với vùng lãnh thổ; dân số từ 10 vạn người đến 35 vạn người (vùng
núi có thể thấp hơn); sản xuất hàng hóa tương đối phát triển, tỷ lệ lao động
phi nông nghiệp từ 80% trở lên trong tổng số lao động; cơ sở hạ tầng kỹ thuật
và mạng lưới công trình công cộng được xây dựng từng mặt; mật độ dân cư
bình quân 10.000 người/km2 trở lên (vùng núi có thể thấp hơn)
- Đô thị loại IV: là đô thị trung bình nhỏ; trungn tâm tổng hợp chính trị,
kinh tế, văn hóa – xã hội hoặc trung tâm chuyên ngành sản xuất công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp, có vai trò thúc đẩy sự phát triển của một
tỉnh hay một vùng trong tỉnh; dân cư từ 3 vạn người đến 10 vạn người (vùng
núi có thể thấp hơn); là nơi sản xuất hàng hóa, tỉ lệ lao động phi nông nghiệp
từ 70% trở lên trong tổng số lao động; đã và đang đầu tư xây dựng cơ sở hạ


tầng kỹ thuật và các công trình công cộng từng phần; mật độ dân cư 8000
người/km2 trở lên (vùng núi có thể thấp hơn).
- Đô thị loại V: là đô thị nhỏ, trung tâm tổng hợp kinh tế - xã hội, hoặc
trung tâm chuyên ngành sản xuất tiểu thủ công nghiệp,… có vai trò thúc đẩy
sự phát triển của một huyện, một vùng trong tỉnh hoặc một vùng trong huyện;
dân số từ 1000 người đến 3 vạn người (vùng núi có thể thấp hơn); tỉ lệ lao

động phi nông nghiệp từ 60% trở lên trong tổng số lao động; bước đầu xây
dựng một số công trình và hạ tầng kỹ thuật; mật độ dân cư bình quân 6000
người/km2 (vùng núi có thể thấp hơn).
Đối với đô thị loại I và loại II do trung ương quản lí.
Đối với đô thị loại III và loại IV do tỉnh quản lí.
Đối với đô thị loại V do huyện quản lí.
Như vậy, theo nghị định này thì thành phố Long Xuyên là đô thị loại III
do tỉnh quản lý.
Tuy nhiên cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, đô thị ở Việt
Nam phát triển nhanh chóng về chất lượng và số lượng, đặc biệt là quy mô
của các đô thị.
Nghị định 132/HĐBT tỏ ra không còn phù hợp, vì vậy ngày 5/10/2001
nghị định số 72/2001/NĐ – CP được ban hành thay thế cho nghị định 132 về
việc phân loại đô thị và cấp quản lý đô thị. Theo quy định pháp lý về đô thị,
đô thị nước ta là các điểm dân cư tập trung có đủ hai điều kiện sau:
- Đô thị là thành phố, thị xã, thị trấn được các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền quyết định thành lập.
- Về trình độ phát triển: 1- là trung tâm tổng hợp hay trung tâm chuyên
ngành có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng lãnh thổ nhất
định, nhỏ nhất cũng phải là tiểu vùng trong huyện; 2- Quy mô tối thiểu của
nội thành, nội thị là 4.000 người; 3- Tỉ lệ lao động phi nông nghiệp từ 65%


trở lên trong tổng số lao động của nội thành, nội thị; 4- Có cơ sơ hạ tầng kỹ
thuật và các công trình công cộng phục vụ dân cư đô thị đạt 70% mức quy
định đối với từng loại đô thị; 5- Mật độ dân cư được xác định theo từng loại
đô thị phù hợp với đặc điểm từng vùng, tối thiểu là 2000 người/km2.
Theo đó, đô thị Việt Nam được chia làm 6 loại:
- Đô thị loại đặc biệt là loại đô thị rất lớn, có vai trò thúc đẩy sự phát triển
của cả nước, dân số trên 1,5 triệu người, mật độ dân số trung bình trên 15.000

người/km2, tỷ lệ lao động phi nông nghiệp/tổng số lao động là trên 90%.
- Đô thị loại I: là những đô thị lớn có chức năng là trung tâm chính trị,
kinh tế, văn hóa, khoa học – kỹ thuật, du lịch – dịch vụ,… giữ vai trò thúc đẩy
sự phát triển kịnh tế - xã hội của cả nước hoặc một vùng lãnh thổ liên tỉnh;
quy mô dân số từ 50 vạn người trở lên, mật độ dân số từ 12.000 người/km2 trở
lên với tỉ lệ lao động phi nông nghiệp lớn hơn hơn hoặc bằng 85%.
- Đô thị loại II: là những đô thị trung bình lớn, phải đảm bảo các chức
năng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa,… trong vùng tỉnh, vùng liên tỉnh
hoặc cả nước, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của một vùng
lãnh thổ liên tỉnh hoặc một số lĩnh vực của cả nước, tỉ lệ lao động phi nông
nghiệp/tổng số lao động trên 80%, dân số lớn hơn hoặc bằng 250.000 người,
mật độ dân số tử 10.000 người/km2 trở lên.
- Đô thị loại III: là đô thị loại trung bình, giữ vai trò thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội của một tỉnh hoặc một số lĩnh vực đối với vùng liên tỉnh;
tỉ lệ lao động phi nông nghiệp/tổng số lao động trên 75%, dân số trên 100.000
người, mật độ dân số từ 8000 người/km2 trở lên.
- Đô thị loại IV: là đô thị loại trung bình nhỏ, giữ vai trò thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội của một tỉnh hoặc vùng trong tỉnh; tỉ lệ lao động phi
nông nghiệp/tổng số lao động trên 70%, dân số trên 50.000 người, mật độ dân
số trung bình trên 6000 người/km2 trở lên.


- Đô thị loại V: là đô thị loại nhỏ, với chức nănglà trung tâm tổng hợp
hoặc chuyên ngành về chính trị,kinh tế, văn hóa và dịch vụ, có vai trò thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của một huyện hoặc cụm xã; tỉ lệ lao động
phi nông nghiệp/tổng số lao động trên 65%, dân số trên 4.000 người, mật độ
dân số trung bình trên 2000 người/km2.
Theo dõi thêm bảng phân loại tổng hợp đô thị trên cơ sở của nhiều tiêu
chí sau:
Bảng 1.1. Phân loại đô thị ở Việt Nam theo Nghị định số

72/2001/NĐ – CP
Loại đô thị Vai
trò Dân
số
trung tâm (người)
(chủ yếu)
Đặc biệt
Quốc gia
>1.500.000
I

Quốc gia >500.000
và liên tỉnh

II

Quốc gia >250.000
(một
số
lĩnh vực)
liên tỉnh
Liên tỉnh >100.000
(một
số
lĩnh vực),
tỉnh
Tỉnh, liên >50.000
huyện

III


IV

V

Huyện,
>4.000
tiểu vùng
(cụm xã)

Lao động Hạ tầng cơ
phi nông sở
nghiệp (%)
>90
Đồng bộ,
hoàn chỉnh
>85
Nhiều mặt
đồng bộ,
hoàn chỉnh
>80
Nhiều mặt
tiến
tới
đồng bộ,
hoàn chỉnh
>75
Từng mặt
đồng
bộ

hoàn chỉnh
>70

>65

Mật độ dân
số
(người/km2)
>15.000
>12.000

>10.000

>8.000

Từng mặt >6.000
tiến
tới
đồng bộ,
hoàn chỉnh
Đã hoặc >2.000
đang xây
dựng, chưa
đồng bộ và
hoàn chỉnh
Nguồn: [46;142]


Ngoài ra, Nghị định còn đưa ra những tiêu chuẩn phân loại đô thị áp
dụng cho các trường hợp đặc biệt như ở vùng núi, vùng cao, vùng sâu, vùng

xa… và quy định việc phân loại cách quản lý đô thị gồm:
- Thành phố trực thuộc Trung ương phải là đô thị loại đặc biệt hoặc đô
thị loại I.
- Thành phố và thị xã thuộc tỉnh phải là đô thị loại II hoặc đô thị loại
III, IV.
- Thị trấn thuộc huyện phải là đô thị loại IV hoặc đô thị loại V.
Tóm lại, ngày nay đô thị được hiểu là một khu dân cư tập trung có
những đặc điểm:
- Về cấp quản lý, đô thị là thành phố, thị xã, thị trấn được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ra quyết định thành lập.
- Về trình độ phát triển, đô thị phải đạt được những tiêu chuẩn như là
trung tâm tổng hợp hoặc trung tâm chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội của cả nước hoặc một vùng lãnh thổ như vùng liên tỉnh,
vùng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc vùng trong tỉnh, trong thành
phố trực thuộc trung ương, vùng huyện hoặc tiểu vùng trong huyện…
Ngoài ra, đô thị phải là nơi có dân số tập trung cao và hoạt động sống
chủ yếu của cư dân trong khu vực ấy là những hoạt động phi nông
nghiệp…[80;19].
1.1.2. Đô thị hóa
Đô thị hóa được hiểu là một quá trình vận động kinh tế - xã hôi – văn
hóa phức tạp, là quá trình nâng cao vai trò của thành phố đối với sự phát triển
của xã hội. Quá trình này bao gồm sự thay đổi trong những lĩnh vực như cơ
cấu kinh tế, quy mô và sự phân bố dân cư, kết cấu nghề nghiệp, cơ sở hạ tầng,
lối sống, văn hóa,…


Khái niệm đô thị hóa được nhiều nhà khoa học nghiên cứu và đưa ra
định nghĩa tùy theo quan điểm và góc độ tiếp cận.
Trong Từ điển tiếng Việt, để định nghĩa về khái niệm đô thị hóa và
nhấn mạnh hơn vai trò của thành thị đối với sự phát triển xã hội, các tác giả

viết: “ đô thị hóa là quá trình tập trung dân cư ngày càng đông vào các đô thị
và lam nâng cao vai trò của thành thị đối với sự phát triển của xã hội” [87;13]
Từ góc độ dân số, đô thị hóa “ …theo nghĩa hẹp là sự phát triển hệ
thống thành phố nhất là các thành phố lớn, tăng tỉ trọng dân số đô thị trong
nước, trong khu vực và thế giới…”
Định nghĩa ngắn gọn hơn “ đô thị hóa là sự phát triển tỉ trọng dân số
các khu vực đô thị” [68;120]. Đây là cách xem xét vấn đề dựa trên chủ yếu sự
thay đổi số lượng dân cư theo hướng tập trung ngày một cao hơn tại một địa
điểm, từ đó đánh giá mức độ đô thị hóa của một thành phố.
Theo các nhà địa lý, đô thị hóa đồng nghĩa với sự gia tăng không gian,
mật độ dân cư, thương mại, dịch vụ hoặc các hoạt động khác mang tính chất
phi nông nghiệp tại một khu vực. Quá trình đô thị hóa được thể hiện ở các nội
dung:
- Sự mở rộng tự nhiên của dân cư hiện có. Sự thay đổi này thường
không phải là tác nhân chính đối với sự phát triển của đô thị vì mức độ tăng
dân số tự nhiên của thành phố không cao hơn so với nông thôn.
- Sự chuyển dịch dân cư từ vùng nông thôn ra thành thị, nói rộng hơn là
sự nhập cư từ các vùng đến đô thị. Đây là nguyên nhân chính dẫn tới sự gia
tăng dân số đột biến trên một vùng hay lãnh thổ.
- Sự chuyển dịch đất đai từ mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ và đất thổ cư.
Đứng trên lập trường của những nhà quản lý và kinh tế, đô thị hóa “là
quá trinh cấu trúc lại chức năng của khu vực nông thôn, là quá trình gia tăng


phát triển công nghiệp và dịch vụ. Và vì vậy đô thị hóa thường được hiểu như
là quá trình song song với sự phát triển công nghiệp và cuộc cách mạng công
nghệ, gia tăng các hoạt động phi nông nghiệp hội tụ trên một không gian nhất
định” [80;15].
Dưới góc độ xã hội, bản chất của đô thị hóa là sự khám phá ra các hình

thức sinh hoạt mới của con người bên cạnh sự phá vỡ các quan hệ truyền
thống được hình thành trong dân cư nông nghiệp. Đó là quá trình biến đổi các
mối quan hệ theo kết cấu gia đình – họ hàng – xóm giềng – làng xã xã hội
sang gia đình – đường phố - xã hội; biến đổi môi trường thiên nhiên sinh thái
theo mối giao hòa nhà vườn – lũy tre làng – đồng lúa sang môi trường thiên
nhiên sinh thái theo kết cấu nhà (trung cư) – đường phố - công sở. Chính vì
vậy John Macionis nêu lên trong cuốn sách giáo khoa xã hội học (1998) rằng
“đô thị hóa không chỉ thay đổi sự phân bố dân cư trong xã mà còn chuyển thể
(transform) nhiều kiểu mẫu (patterns) của đời sống xã hôi” [54;70].
Ngoài ra, đô thị hóa còn là sự phổ biến và lan truyền những khuôn mẫu
hành vi, ứng xử vốn đặc trưng của người dân đô thị tới các vùng nông thôn.
Nói cách khác, đó chính là sự lan truyền của lối sống đô thị, văn hóa đô thị.
Tác giả Tôn Nữ Quỳnh Trân trong Văn hóa làng xã trước sự thách thức của
đô thị tại thành phố Hồ Chí Minh nhận định: “Xét trên phương diện cách
sống, đô thị hóa là một sự thay đổi lối sống và đồng thời thay đổi khung cảnh
sống. Xét trên quan điểm sinh thái nhân văn thì đô thị hóa là một hóa trình
chuyển động làm thay đổi lối sống và cảnh quan của một hệ thống quần cư từ
hệ sinh thái nông thôn sang hệ sinh thái kinh tế xã hội đô thị. Xét trên bình
diện văn hóa thì đô thị hóa là quá trình chuyển đổi văn hóa làng xã thành văn
hóa đô thị…” [78;13].
Có thể thấy rằng đô thị hóa là một phạm trù rộng lớn, đề cập một cách
sâu sắc, toàn diện đến quá trình chuyển đổi mạnh mẽ các lĩnh vực trong đời


×