Tải bản đầy đủ (.pdf) (164 trang)

quan niệm thơ, hình tượng và ngôn từ nghệ thuật qua di cảo thơ của chế lan viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (745.13 KB, 164 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Đào Thị Kim Ngân

QUAN NIỆM THƠ, HÌNH TƯỢNG
VÀ NGÔN TỪ NGHỆ THUẬT
QUA DI CẢO THƠ CỦA CHẾ LAN VIÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Đào Thị Kim Ngân

QUAN NIỆM THƠ, HÌNH TƯỢNG
VÀ NGÔN TỪ NGHỆ THUẬT
QUA DI CẢO THƠ CỦA CHẾ LAN VIÊN
Chuyên ngành Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. PHÙNG QUÝ NHÂM

Thành phố Hồ Chí Minh - 2012




LỜI CÁM ƠN

Sau hơn hai năm theo học lớp Cao học Văn học Việt Nam khóa 20, được
sự hướng dẫn tận tình của PGS. TS. Phùng Quý Nhâm, tôi đã hoàn thành luận
văn thạc sĩ. Tôi xin gửi đến thầy lời tri ân chân thành và sâu sắc nhất.
Ngoài ra, tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô khoa Ngữ Văn, trường
Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn đã
tận tâm giảng dạy trong quá trình tôi theo học tại trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn nhà văn Vũ Thị Thường, vợ của nhà thơ Chế
Lan Viên đã cung cấp cho tôi những kiến thức bổ ích, giúp tôi hiểu thêm về nhà
thơ.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các cán bộ thư viện trường Đại học Sư
phạm TP. Hồ Chí Minh đã hỗ trợ tôi trong quá trình tìm kiếm tư liệu nghiên
cứu.
Tôi vô cùng cảm ơn sự quan tâm và ủng hộ của gia đình và bè bạn - là
nguồn động lực tinh thần rất lớn giúp tôi hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung trong luận văn này chưa được công bố
trong luận văn nào. Nếu có tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Người viết
Đào Thị Kim Ngân


MỤC LỤC
TRANG BÌA .......................................................................................................................... 1

LỜI CÁM ƠN ........................................................................................................................ 2
LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................................. 3
MỤC LỤC ............................................................................................................................. 4
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................. 7
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................ 6
2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................................. 7
3. Mục đích nghiên cứu .................................................................................................... 12
4. Phạm vi nghiên cứu ...................................................................................................... 12
5. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................................. 12
6. Những đóng góp của luận văn ...................................................................................... 13
7. Cấu trúc của luận văn.................................................................................................... 13
CHƯƠNG 1.QUAN NIỆM THƠ QUA DI CẢO THƠ CỦA CHẾ LAN VIÊN ................. 15
1.1 Quan niệm về thơ ca ................................................................................................. 15
1.1.1 Thơ phải “ăn mặn vào miếng đời phàm tục” và “cần nhân thế” ....................... 15
1.1.2 Thơ là sự sáng tạo hồn bằng chữ ........................................................................ 27
1.1.3 Thơ là sức nặng của tư duy và tình cảm ............................................................. 33
1.2 Quan niệm về nhà thơ ............................................................................................... 36
1.2.1 Nếu làm thơ phải có hồn thi sĩ ............................................................................ 36
1.2.2 Nhà thơ viết câu thơ theo số phận của mình, chẳng bắt chước được ai.............. 40
1.2.3 Là nhà thơ, anh sống nơi này phải nghĩ đến nơi kia ........................................... 44
1.3. Quan niệm về mối quan hệ giữa thơ, nhà thơ và người đọc ...................................... 48
1.3.1. Nhà thơ – người đọc: Từ niềm khắc khoải tri âm đến sự đồng hành trong sáng
tạo

............................................................................................................................ 48

1.3.2. Người đọc, vị quan tòa quyết định số phận của thơ ca ....................................... 52
CHƯƠNG 2. HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT QUA DI CẢO THƠ
CỦA CHẾ LAN VIÊN ........................................................................................................ 55
2.1. Hình tượng thiên nhiên ............................................................................................. 55

2.1.1.Thiên nhiên kì vĩ, huyền ảo ................................................................................. 55
2.1.2. Thiên nhiên bình dị, cao khiết ............................................................................ 59


2.2. Hình tượng Tổ quốc .................................................................................................. 67
2.2.1. Tổ quốc rộng lớn, vận động từ quá khứ đến hiện tại .......................................... 67
2.2.2. Tổ quốc trong mối quan hệ với nhân dân ........................................................... 79
2.2.3. Tổ quốc trở về với vùng quê thanh bình ............................................................. 86
2.3. Hình tượng chủ thể trữ tình....................................................................................... 87
2.3.1. Con người chiêm nghiệm .................................................................................... 87
2.2.2. Con người với nhân sinh quan tích cực .............................................................. 97
CHƯƠNG 3.NGÔN TỪ NGHỆ THUẬT QUA DI CẢO THƠ CỦA CHẾ LAN VIÊN .. 100
3.1. Ngôn từ nghệ thuật .................................................................................................. 100
3.1.1. Phong phú trên nhiều lĩnh vực ......................................................................... 100
3.1.2. Sự đa năng của ngôn từ nghệ thuật .................................................................. 102
3.1.3. Ngôn từ đậm sắc thái tu từ ............................................................................... 105
3.1.4. Ngôn từ giàu chất triết lí .................................................................................. 118
3.2. Không gian nghệ thuật ............................................................................................. 128
3.2.1. Không gian tưởng tượng: hoài vãng, hư vô và dự cảm .................................. 128
3.2.2. Không gian sử thi .............................................................................................. 134
3.3.3.Không gian tâm trạng ........................................................................................ 139
3.3. Thời gian nghệ thuật ................................................................................................ 143
3.3.1.Thời gian quá vãng hư cấu ................................................................................. 143
3.3.2.Thời gian lịch sử ................................................................................................ 146
3.3.3.Thời gian đời tư, chiêm nghiệm ......................................................................... 149
KẾT LUẬN..................................................................................................................... 155
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 159


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Chế Lan Viên là một trong những nhà thơ lớn trong nền văn học hiện đại Việt
Nam thế kỉ XX như dự đoán của nhà phê bình Hoài Thanh từ hơn nửa thế kỉ trước:
Con người này quả là người của trời đất, của bốn phương, không thể lấy kích tấc
thường mà hòng đo được. [39, 224] Sinh thời, Chế Lan Viên là nhà thơ có vị trí
chắc chắn trong lịch sử văn học. Khi mất đi, ông xứng đáng được tôn vinh là nhà
thơ của dân tộc.
Với hành trình sáng tạo kéo dài hơn nửa thế kỉ, được đánh dấu bằng từng mốc
lịch sử đặc biệt: Trước và sau Cách mạng tháng Tám, trong thời chiến và trong thời
bình, Chế Lan Viên đã để lại trên thi đàn không ít thành tựu rực rỡ với nhiều giá trị
thể hiện tâm hồn nhạy cảm và trí tuệ minh triết. Cuộc hành trình sáng tạo bền bỉ,
không ngừng nghỉ bằng tài năng và tâm huyết của Chế Lan Viên được bắt đầu bằng
tập thơ đầu tay Điêu tàn. Tập thơ được sáng tác khi tác giả mới 17 tuổi nhưng đã
tạo được tiếng vang nhất định. Nó xuất hiện giữa đồng bằng văn học Việt Nam
giữa thế kỉ XX như một niềm kinh dị, chắc chắn, lẻ loi và bí mật [39, 225] với thế
giới siêu thực, giàu chất suy tưởng thấm đượm nỗi đau uất hận, nỗi đau trước cảnh
điêu tàn, hoang phế của Chiêm quốc hay của chính dân tộc mình. Với tập thơ đầu
tay, Chế Lan Viên đã khiến bao người ngạc nhiên và trở thành một trong số những
nhà thơ nổi tiếng nhất của phong trào Thơ mới. Thành công ban đầu của Điêu tàn
là bước khởi đầu vững chắc, tạo động lực để Chế lan Viên tiếp tục cho ra đời
những tập thơ tiếp theo tạo được nhiều tiếng vang như: Ánh sáng và phù sa, Hoa
ngày thường – Chim báo bão, Hoa trên đá… . Những tập thơ sau này tiếp tục
khẳng định chỗ đứng của Chế Lan Viên trên thi đàn với tài năng đang độ chín, sức
sáng tạo đang ở thời kì sung mãn nhất. Người ta tìm thấy một Chế Viên đã từ giã
thung lũng đau thương để đi đến cánh đồng vui, một nhà thơ đứng ngang tầm chiến
lũy của trận địa đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc, được coi là một trong
những cây đại thụ tỏa bóng trong khu rừng lớn của văn học Cách mạng Việt Nam


thế kỉ XX và là một cây bút luôn trăn trở về cuộc đời, về con người với những suy

tư, chiêm nghiệm.
Chế Lan Viên là một hồn thơ phong phú, đa dạng với sức sáng tạo bền bỉ.
Như một kiếp tằm, rút ruột nhả cho đời những sợi tơ óng ánh để rồi lặng im hóa
kiếp, đến những ngày cuối đời, vật lộn trên giường bệnh, nhà thơ vẫn chạy đua với
thời gian để tiếp tục sáng tạo, tiếp tục cống hiến cho đời những vần thơ giá trị. Sau
khi nhà thơ qua đời, một lần nữa người đọc phải sửng sốt trước ba tập Di cảo thơ
mà vì nhiều lí do khác nhau mà ông chưa có dịp công bố.
Ba tập Di cảo thơ với số lượng đồ sộ 581 bài thơ, đã hoàn chỉnh hoặc còn ở
dạng phác thảo, được nhà thơ viết trong nhiều năm khi còn khỏe mạnh cho đến lúc
lâm trọng bệnh, từ giã cõi đời. Như vậy, ba tập thơ là ba tập di chúc, ba tập tâm
huyết của nhà thơ trước lúc ra đi, chứng tỏ một tài thơ trác tuyệt với bút lực dồi
dào. Người đọc tìm thấy trong ba tập Di cảo thơ dấu vết của Điêu tàn, thế giới của
Ánh sáng và phù sa, Hoa trên đá...,tiếp nối phong cách tài hoa, trí tuệ, giàu tính
triết luận ở những tập thơ trước đó song cũng bắt gặp những vận động, thay đổi về
quan niệm, hình tượng, cảm xúc, tư tưởng...Đến với Di cảo thơ, ta lại tiếp tục thấy
một cá tính sáng tạo độc đáo với những quan niệm sâu sắc về thơ ca, với những
hình tượng, ngôn từ nghệ thuật thể hiện cái nhìn suy tư, chiêm nghiêm, đa chiều về
con người, cuộc sống trong dòng chảy thời gian. Tìm hiểu về quan niệm thơ, hình
tượng và ngôn từ nghệ thuật trong Di cảo thơ của Chế Lan Viên góp phần tạo
nên cái nhìn toàn diện hơn về hệ thống quan niệm, thế giới nghệ thuật của một cây
bút được mệnh danh là “thần đồng” thi sĩ.
2. Lịch sử vấn đề
Chế Lan Viên sáng tác phong phú với nhiều thể loại, trong đó thơ giữ một vị
trí then chốt. Ngay từ khi mới xuất hiện, Chế Lan Viên và thơ của thi sĩ đã làm
người yêu thơ phải ngạc nhiên, trầm trồ thán phục và trở thành đề tài hấp dẫn nhiều
ngòi bút phê bình, nghiên cứu.


Sau khi nhà thơ mất, ba tập Di cảo thơ ra đời đã tạo được sự quan tâm, chú
ý của các ngòi bút phê bình, nghiên cứu. Một số công trình nổi bật nghiên cứu về

Di cảo thơ như:
Đoàn Trọng Huy với Đọc những trang để lại, thêm hiểu một hồn thơ Di cảo
(Văn nghệ, số 11, 13-3-1993) đã phân loại, thống kê ba mảng chính trong Di cảo
thơ: mảng tình yêu, mảng thơ về thơ và mảng thơ triết lý và khẳng định phong cách
thơ Chế Lan Viên biểu hiện tính triết luận. Đối với mảng suy nghĩ về thơ, Đoàn
Trọng Huy đã khẳng định sự đóng góp to lớn của Chế Lan Viên: Trong các nhà thơ
Việt Nam hiện đại, anh là người đã từng viết nhiều nhất, bằng thơ và cả văn xuôi,
về quan niệm thơ, về nghề thơ trong đó có những vấn đề cốt yếu nhất.[18, 359].
Những vấn đề cốt yếu ấy là cái tâm của nhà thơ, thơ ca được nâng lên thành đạo
với tất cả sự thiêng liêng [18, 359] và thơ trở thành đối tượng nằm trong hệ thống
tư duy triết luận [18, 360].
Trong một bài nghiên cứu khác Khuynh hướng vận động thơ Chế Lan Viên
từ sau 1975 (Tạp chí văn hóa, số 6/1993), Đoàn Trọng Huy đã chỉ ra sự vận động,
thay đổi trong Di cảo thơ so với những tập thơ trước về đề tài, cái tôi trữ tình và
ngôn ngữ. Về đề tài, tác giả nhận xét: Chế Lan Viên đã từ khai thác lịch sử - dân
tộc đi về hướng thế sự - đạo đức, từ sự chú ý “khía cạnh anh hùng” chuyển sang
“khía cạnh đời thường” [19, 101]. Về cái tôi trữ tình, tác giả cũng nhận thấy sự đổi
khác: Đó là sự đòi hỏi khẳng định cá tính cùng với cá tính sáng tạo, là nhu cầu giãi
bày về muôn mặt đời thường, về tình yêu trần thế […]. Trong quá trình hoàn thiện
nhân cách, nó đi tìm lại mình – tìm một bản lĩnh riêng, một gương mặt tâm hồn
riêng, dựa vào chính mình, vào sự trải nghiệm cá nhân, vào nhân cách bản thân.
[19, 103-104]. Còn về giọng thơ, tác giả cũng chỉ ra sự chuyển biến từ mạnh mẽ
đến trầm tĩnh, sâu lắng mang tính thời sự.
Bên cạnh đó, Trần Thanh Đạm với Những vần thơ triết lý của Chế Lan Viên
qua những trang Di cảo ( Văn nghệ, số 36, 4 – 9 – 1993 ) nghiên cứu biểu hiện
triết lý trong Di cảo thơ qua giọng thơ và triết lý về thơ của Chế Lan Viên. Đối với
những bài thơ triết lý về thơ, tác giả đã khẳng định: Đây có lẽ là phần đặc sắc nhất


trong thơ triết lý của anh [9, 348]. Trần Thanh Đạm cho rằng: Chế Lan Viên không

đồng nhất nghệ thuật với đời sống, không hề chủ trương “phản ánh hiện thực” một
cách thô thiển, dung tục. [9, 349] Ngoài ra, tác giả còn nhận thấy Chế Lan Viên có
những bài thơ đặc sắc về sự sáng tạo nghệ thuật, có những bài thơ ghi lại nỗi thao
thức, day dứt sáng tạo của nhà thơ trong giai đoạn cuối đời [9, 350 - 351].
Nguyễn Bá Thành với Đọc hai tập Di cảo thơ (Tạp chí Văn nghệ quân đội, 4
- 1994) quan tâm đến hình ảnh, giọng thơ và nhận ra sự thay đổi về giọng thơ, hình
ảnh thơ, âm điệu thơ, phương pháp tư duy. Nguyễn Thái Sơn qua Chế Lan Viên và
Di cảo thơ (Văn nghệ, 4-3-1995) chú ý và phát hiện ra những tình cảm, nỗi niềm,
những giá trị nhân văn và nghệ thuật.
Di cảo thơ Chế Lan Viên của Võ Tấn Cường (Tạp chí Cửa Việt, 9 -1995)
khẳng định ba tập thơ là di chúc thơ về cuộc đời và nghệ thuật.
Di cảo thơ Chế Lan Viên hành trình tìm lại chính mình của Nguyễn Quốc
Khánh (Tạp chí Văn học, 1999) và Chế Lan Viên trong Di cảo của Vũ Quần
Phương (Tài hoa trẻ, tháng 8 -1999) chú ý “cái tôi” của nhà thơ luôn trăn trở về
thơ, nghề thơ, cuộc sống, con người…
Những cách tân về cấu trúc câu thơ của Nguyễn Lâm Điền (Chế Lan Viên
giữa chúng ta, tháng 5 - 1999) nghiên cứu về nghệ thuật mở rộng câu thơ trong thơ
Chế Lan Viên từ Ánh sáng và phù sa cho đến những bài hoàn chỉnh trong Di cảo
thơ có một bước phát triển ở mức cao hơn. Ở đó, loại câu thơ 5, 6, 7 tiếng và nhiều
hơn đạt được thành công đáng kể. Trong bài viết, tác giả cũng cho thấy Chế Lan
Viên tìm đến những câu thơ dài, ngắn để diễn tả trọn vẹn ý tình của nhà thơ đối với
cuộc sống, mặc dù có những câu thơ ngắn nhưng lại có khả năng sải cánh cả tâm
hồn.
Hồng Diệu với bài viết Thơ về thơ của Chế Lan Viên (Chế Lan Viên giữa
chúng ta, 1999) nghiên cứu về quan niệm thơ của Chế Lan Viên trong Di cảo thơ
gồm: quan niệm về vị trí, trách nhiệm của nhà thơ, về mối quan hệ giữa thơ với con
người, thơ với hiện thực, về thơ với người đọc, về nghệ thuật làm thơ.


Tài năng và tính cách độc đáo Huy Phương (Chế Lan Viên giữa chúng ta,

1999) đã đưa ra nhận xét khá khái quát về đời thơ của Chế Lan Viên: Nghĩ về anh
với đời thơ của anh, tôi cứ muốn dùng hình ảnh cây cầu bắc ngang dòng sông lớn
của thời đại mà mốc cầu bên này là Điêu tàn […] và mốc cầu bên kia là Di cảo
thơ, một bộ tâm sử bằng thơ hiếm thấy trong bất cứ nền thi ca xứ sở nào [34, 187].
Trong bài viết, tác giả nghiên cứu Di cảo thơ dưới góc độ nội dung. Di cảo thơ là
sự độc thoại, tự xem xét mình một cách nghiệt ngã và chân thành của Chế Lan
Viên, là nỗi đau của nhân thế, những băn khoăn, day dứt với vận mệnh con người
của nhà thơ.
Bài nghiên cứu Trí tuệ, tài năng, tâm hồn của Lê Đình Kỵ (Chế Lan Viên
giữa chúng ta, 2000) viết về sự thay đổi giọng điệu của Chế Lan Viên trong Di cảo
thơ so với những tập thơ trước. Tác giả nhận thấy Chế Lan Viên trong Di cảo thơ
chú ý đến nỗi đau của đời người sau những âm vang hùng tráng của chiến tranh,
chú ý đến bi kịch của sáng tạo, quan tâm đến mọi vấn đề của cuộc sống, thi ca với
một trí tuệ, tâm hồn mẫn tiệp: Chế Lan Viên đã đào xới, lật xuôi lật ngược đủ thứ
vấn đề lớn nhỏ của đời sống, của tâm hồn, của thơ ca.[26, 35]
Đến bài viết Quan hệ thơ và phê bình trong trước tác của Chế Lan Viên của
Lê Quang Trang (Chế Lan Viên giữa chúng ta, 2000) đã chỉ ra mối quan hệ mật
thiết giữa chất thơ và chất phê bình. Sự lựa chọn đề tài, chủ đề để biểu lộ, suy nghĩ,
ý tưởng triết lý từ tác phẩm đầu tay Điêu tàn đến những tập Di cảo thơ sau này đều
có sự chi phối của lý trí, ý thức hay nói như Chế Lan Viên là với óc phê bình giúp
đỡ.
Triết luận về thân phận con người trong Di cảo thơ của Trần Hoài Anh
(2003) chú ý tính triết lý trong Di cảo thơ biểu hiện qua “cái tôi” của nhà thơ. Đến
Di cảo thơ: Một cái nhìn mới về hiện thực, một quan niệm của Trần Hoài Anh
(2006) phát hiện cái mới mẻ, độc đáo trong quan niệm thơ hướng về hiện thực ở Di
cảo thơ so với những tập thơ trước.
Ngoài những bài viết trên, tập chuyên luận Thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan
Viên của Hồ Thế Hà (2005) nghiên cứu khá toàn diện, sâu sắc về đặc trưng nghệ



thuật thơ Chế Lan Viên. Trong tập chuyên luận, tác giả chỉ ra sự thay đổi về nghệ
thuật trong Di cảo thơ so với những tập thơ trước như: không gian nghệ thuật, thời
gian nghệ thuật. Không gian nghệ thuật ở Di cảo thơ là không gian đời tư, triết lý:
Từ không gian rộng, ông lui về tâm tình, tự vấn, tự thoại trong vùng không gian
hẹp để phát giác nhiều quan hệ mới. [14, 133]. Thời gian nghệ thuật trong ba tập
thơ này là thời gian đời tư, chiêm nghiệm giúp nhà thơ phát hiện thêm những chân
lý mới của đời sống: Di cảo thơ chính là hành trình tìm lại thời gian và phát hiện
mới về thời gian của Chế Lan Viên.[14, 161]. Bên cạnh đó, Hồ Thế Hà cũng chú ý
đến phương thức biểu hiện trong thơ, đặc biệt là các biện pháp tu từ đặc sắc. Tác
giả nhấn mạnh: Vẻ đẹp duy lý của thơ Chế Lan Viên tạp trung đậm đặc ở biện pháp
so sánh và biện pháp đối lập [14, 173]. Đi vào nghiên cứu biện pháp đối lập, tác
giả chú ý đến biện pháp đối lập trong Di cảo thơ và rút ra những giá trị của biện
pháp này: Đó là đối lập từ gần – đến xa, trên – dưới, tạo ra sự đối lập không gian,
biểu hiện chiều kích của cuộc sống và lịch sử; đối lập xưa – nay, hiện tại – quá khứ
- tương lai […] Tất cả những đối lập đó được điều khiển bởi một tư duy duy lí sắc
sảo. [14, 177]. Nghiên cứu biện pháp so sánh, tác giả chú ý các kiểu so sánh: A là
B, A như B, A thành B và khẳng định: Giá trị của những sao sánh và cấu trúc trong
thơ Chế Lan Viên là đã tạo được nhiều tầng nghĩa, nhiều kết hợp và nhiều giọng
điệu, hình ảnh mới lạ.[14, 189].
Những bài nghiên cứu đã đánh giá, tìm hiểu quan niệm thơ, cái tôi trữ tình
cùng phong cách thơ triết luận của Chế Lan Viên qua Di cảo thơ. Từ đó khẳng định
tài năng, đóng góp nhiều giá trị cùng sự trường tồn của Chế Lan Viên trong nền
văn học dân tộc. Những bài viết trên chỉ dừng lại ở tính chất gợi mở, chưa thực sự
đi sâu, hệ thống về quan niệm thơ, hình tượng cũng như ngôn từ nghệ thuật. Nhưng
những giá trị của những bài nghiên cứu trên, là cơ sở để người viết tiếp thu, phát
huy những thành quả để phát triển đề tài.


3. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu những quan niệm mới mẻ sâu sắc của Chế Lan Viên về thơ ca qua Di

cảo thơ.
- Khẳng định những khám phá, đóng góp mới, đặc sắc của Chế Lan Viên về hình
tượng, ngôn ngữ nghệ thuật qua ba tập Di cảo thơ.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Ba tập Di cảo thơ:
+ Chế Lan Viên 1992. Di cảo thơ (tập 1). NXB Thuận Hóa. Huế.
+ Chế Lan Viên 1993. Di cảo thơ (tập 2). NXB Thuận Hóa. Huế.
+ Chế Lan Viên 1996. Di cảo thơ (tập 3). NXB Thuận Hóa. Huế.
- Do mục đích của đề tài, người viết tập trung vào quan niệm thơ, hình tượng và
ngôn từ nghệ thuật.
- Ngoài ra, người viết so sánh quan niệm thơ, hình tượng và ngôn từ nghệ thuật
trong ba tập Di cảo thơ với những tập thơ Điêu tàn, Ánh sáng và phù sa, Hoa
ngày thường – Chim báo bão, Đối thoại mới, Hái theo mùa…
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
Người viết sử dụng phương pháp này để phân tích một số bài thơ, dẫn chứng
đặc sắc, nổi bật để làm sáng tỏ những luận điểm của luận văn. Từ đó thấy rõ những
đóng góp mới mẻ của Chế Lan Viên trong quan niệm thơ, hình tượng, ngôn từ,
không gian và thời gian nghệ thuật qua Di cảo thơ.
- Phương pháp so sánh
+ So sánh lịch đại: so sánh Di cảo thơ với những tập thơ trước như; Điêu
tàn, Ánh sáng và phù sa, Hoa ngày thường – Chim báo bão, Hoa trên đá… để
thấy điểm tương đồng và khác biệt. Từ đó thấy được tính ổn định cũng như sáng
tạo của Chế Lan Viên trên hành trình nghệ thuật của ông.


+ So sánh đồng đại: so sánh Di cảo thơ của Chế Lan Viên với thơ của một
số nhà thơ như Tố Hữu, Yến Lan…để thấy được nét khác biệt, sáng tạo, những
đóng góp riêng của Chế Lan Viên.
- Phương pháp thống kê, phân loại:

Với phương pháp này, người viết có thể để đưa ra những số liệu cụ thể,
chính xác về các biện pháp nghệ thuật mà Chế Lan Viên sử dụng trong Di cảo thơ.
Từ đó thấy được sự nổi bật trong đặc điểm, sự sáng tạo của Chế Lan Viên về ngôn
ngữ thơ.
- Phương pháp xã hội học:
Người viết chú ý đến hoàn cảnh lịch sử, hoàn cảnh sống của Chế Lan Viên
trong khi sáng tác những bài thơ vào lúc cuối đời để thấy được sự tác động của lịch
sử xã hội, đời sống tác động đến quan niệm thơ cũng như hình tượng, ngôn từ,
không gian và thời gian nghệ thuật trong Di cảo thơ.
6. Những đóng góp của luận văn
- Hệ thống quan niệm thơ của Chế Lan Viên cùng hình tượng, ngôn từ, không gian
và thời gian nghệ thuật mà nhà thơ sử dụng trong Di cảo thơ.
- Khẳng định phong cách nghệ thuật cũng như những đóng góp độc đáo của Chế
Lan Viên về quan niệm thơ, hình tượng, ngôn từ, không gian và thời gian nghệ
thuật qua Di cảo thơ.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài mở đầu và kết luận thì luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Quan niệm thơ trong Di cảo thơ của Chế Lan Viên
Trong chương này, tìm hiểu quan niệm độc đáo của Chế Lan Viên về thơ ca
và nhà thơ.
Chương 2: Hình tượng nghệ thuật qua Di cảo thơ của Chế Lan Viên
Trong chương 2, luận văn trình bày những hình tượng nổi bật trong Di cảo
thơ: hình tượng thiên nhiên, hình tượng Tổ quốc và hình tượng con người
Chương 3: Ngôn từ nghệ thuật qua Di cảo thơ của Chế Lan Viên


Trong chương 3, luận văn tìm hiểu, khám phá những điểm nổi bật về ngôn
từ, không gian và thời gian nghệ thuật ở phương diện: giàu tính triết luận, kết hợp
đa dạng các biện pháp tu từ…



CHƯƠNG 1
QUAN NIỆM THƠ QUA DI CẢO THƠ CỦA CHẾ LAN VIÊN
1.1. Quan niệm về thơ ca
Chế Lan Viên là nhà thơ tiêu biểu cho phong cách thơ giàu trí tuệ, giàu tính
triết luận với tư duy sắc sảo. Trong cuộc đời cống hiến cho nghệ thuật của mình,
nhà thơ không chỉ đơn thuần sáng tác thơ mà biến thơ thành những quan niệm,
thành những lý luận độc đáo, sâu sắc về thơ. Những quan niệm nghệ thuật đúc kết
từ hành trình lao động nghệ thuật không mệt mỏi của Chế Lan Viên được tập hợp
trong nhiều tập thơ, phê bình, tiểu luận. Lê Đình Kỵ cho rằng những bài thơ viết về
thơ của Chế Lan Viên là thơ lí luận và hình như ở thơ Việt Nam hiện đại, Chế Lan
Viên là người mở đầu cho lối thơ này [25, 39]. Thật vậy, quan niệm về thơ ca của
Chế Lan Viên được hình thành sau những trăn trở, nghĩ suy, khao khát khám phá
thấu đáo công việc sáng tạo nghệ thuật của nhà thơ đã trở thành một bộ phận quan
trọng trong các tập thơ của ông, bắt đầu từ lời tựa trong tập Điêu tàn cho đến
những bài thơ viết về thơ trong các tập thơ thời cách mạng và đặc biệt là trong Di
cảo thơ, ba tập thơ được viết lúc cuối đời.
Qua tìm hiểu, người viết nhận thấy quan niệm thơ của Chế Lan Viên trong
ba tập Di cảo thơ có sự kế thừa cũng như đổi thay so với quan niệm thơ thể hiện ở
những tập thơ trước đó, được biểu hiện nổi bật ở một số phương diện sau:

1.1.1. Thơ phải “ăn mặn vào miếng đời phàm tục” và “cần nhân thế”
Con đường thơ của Chế Lan Viên trải qua nhiều giai đoạn từ trước cách
mạng cho đến lúc cuối đời. Di cảo thơ là tập hợp phần lớn những bài thơ được viết
sau 1975. Hoàn cảnh xã hội của đất nước sau 1975 chuyển sang giai đoạn mới đã
tác động mạnh mẽ đến cái nhìn hiện thực cũng như quan niệm thơ của Chế Lan
Viên. Hiện thực cuộc sống bây giờ không phải là những tháng năm hào hùng, vinh
quang của một thời đại vẻ vang mà là những đắng cay của con người khi đối diện
với muôn mặt của cuộc sống đời thường. Vấn đề đặt ra lúc này không phải là vận



mệnh dân tộc mà là số phận của từng cá nhân. Điều đó tạo xu hướng vận động của
văn học giai đoạn này hướng đến cảm hứng thế sự và đời tư, thay thế cảm hứng
lịch sử và dân tộc trước đó. Và đây trở thành tiền đề làm nên cái nhìn mới mẻ về
hiện thực của Chế Lan Viên trong Di cảo thơ.
Trong quan niệm về thơ ở Di cảo thơ, Chế Lan Viên đề cao vai trò phản ánh
hiện thực của thơ ca. Hiện thực của Chế Lan Viên trong ba tập thơ này xoay quanh
trục cảm hứng về bản thể thơ và bản thể của con người. Nhà thơ đã từng trăn trở,
băn khoăn và hoài nghi về những giá trị, nhiệm vụ, bản chất của thơ mình ở những
chặng đường trước kia:
Thơ chỉ sống một phần cho mình còn ba phần cho nhiệm vụ
Nghĩ mà thương
(Sử)
Nhìn lại một chặng đường thơ đã qua với những tập thơ Gửi các anh, Ánh
sáng và phù sa, Hoa ngày thường – Chim báo bão, … Chế Lan Viên nhận thấy sứ
mệnh của thơ là song hành với lịch sử biến động của dân tộc, phục vụ cho kháng
chiến, cho cách mạng, tham gia giải quyết những vấn đề liên quan đến vận mệnh
đất nước. Lúc này số phận của từng cá nhân không phải là vấn đề bức thiết đặt lên
hàng đầu mà số phận của dân tộc mới là vấn đề cần giải quyết. Vì thế thơ ca phải
làm nhiệm vụ có ý nghĩa và thiết thực là đáp ứng yêu cầu bức thiết của thời đại.
Thơ và quan niệm thơ của Chế Lan Viên không nằm ngoài xu hướng đó. Chế Lan
Viên đã khái quát thiên chức xã hội của thơ:
Thơ cần có ích
Hãy bắt đầu từ nơi ấy mà đi.
(Nghĩ về thơ)
Với Chế Lan Viên, quan niệm Thơ cần có ích lúc đó không chỉ dừng ở mặt
tư duy, ở nhận thức, ở lý luận mà đã biến thành tình cảm, là thái độ sống, là hoài
bão của nhà thơ trong những ngày tháng đau thương mà anh dũng:
Anh chỉ mong câu thơ anh sống khỏi một đêm,
có ích quá một ngày



Đúng cái đêm bà mẹ chết con cần một câu thơ cho đỡ khổ
Đúng cái ngày
người chiến sĩ trên chiến hào ôm xác bạn ngã vào tay.
(Thơ bình phương - Đời lập phương)
Có thể nói quan niệm Thơ cần có ích của Chế Lan Viên cũng nằm trong
dòng cảm xúc chủ lưu của thơ ca cách mạng và kháng chiến. Đó cũng là một trong
những yêu cầu mà thời đại đặt ra cho thơ, và là một phẩm chất, một chuẩn thẩm mỹ
của thơ chi phối quá trình sáng tạo của nhà thơ. Để chỉ rõ hơn sự có ích của thơ,
Chế Lan Viên cho rằng thơ không phải chỉ đưa ru mà còn thức tỉnh, phải đập bàn
quát tháo lo toan, nghĩa là thơ phải trở nên mạnh mẽ, dữ dội, phải có chất “thép” và
tham gia giải quyết những vấn đề liên quan đến vận mệnh đất nước, dân tộc. Trong
hoàn cảnh đất nước chiến tranh, quan niệm ấy thật có ý nghĩa và thiết thực, đáp ứng
được yêu cầu bức thiết của dân tộc và thời đại. Vì vậy, thơ có ích còn là loại thơ
phải đem đến cho con người sự hồi sinh, sự bừng ngộ, và hơn thế nữa thơ phải biến
thành một thứ lửa truyền qua muôn đời: Câu thơ ư, là cách chuyển lửa qua muôn
đời (Nghĩ về nghề, nghĩ về thơ, nghĩ...).
Nhiệm vụ của thơ cũng thay đổi khi thời đại đổi thay. Những tháng năm lắm
hào hùng nhưng cũng không ít đau thương qua đi nhường chỗ cho thời kì “đổi mới”
quá độ của đất nước mà mỗi cá nhân phải đối diện với muôn vàn đắng cay, vất vả
của cuộc sống đời thường đầy biến động của nền kinh tế thị trường. Các nhu cầu về
xã hội, về cá nhân dần dần thay thế cho nhu cầu chính trị, cộng đồng và trở thành
trung tâm của tiếng nói trữ tình. Nằm trong dòng chảy của đời sống xã hội nói
chung và đời sống văn học nói riêng, quan niệm về thơ của Chế Lan Viên đã có sự
thay đổi và chuyển hướng theo xu thế gần với đời tư, thế sự, nhân sinh. Nhà thơ đã
tìm ra hướng đi mới cho thơ mình để phù hợp với thời đại và sự vận động trong
quan niệm về thơ của mình đã được chính nhà thơ khẳng định:
Giọng cao bao nhiêu năm, giờ anh hát giọng trầm
Tiếng hát lẫn với im lìm của đất

Vườn lặng yên mà thơm mùi mít mật


Còn hơn anh rồ giọng hát vang ngân
(Giọng trầm)
Trong thời đại cả dân tộc nêu cao tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết
sinh” và đất nước giành được những thắng lợi vẻ vang thì giọng cao hào sảng mang
hồn chiến trận, phải đập bàn quát tháo lo toan của thơ là điều cần thiết. Nhưng khi
chiến tranh đi qua, những chiến tích chỉ còn là quá khứ thì giọng trầm của thơ lúc
này lại cần thiết cho việc đi sâu vào bản thể thơ, bản thể con người, quan tâm đến
những số phận bé nhỏ đời thường đang đối diện với những đổi thay trong thời đại
mới. Nhân sinh, thế sự đem đến hơi thở, hồn thơ và trở thành chủ đề chính trong
sáng tác của Chế Lan Viên. Hàng loạt những bài thơ được viết ra như Từ thế chi
ca, Lộn trái, Thời gian nước xiết, Hồi ký bên trang viết….là những suy niệm mới
của nhà thơ về vấn đề sống, chết, sáng tạo, sự hữu hạn, cõi vĩnh hằng trong cuộc
đời và trong mỗi người.
Lấy đời tư, thế sự làm chất liệu, nguồn cảm hứng cũng như đối tượng phục
vụ của thơ ca, Chế Lan Viên quan niệm:
Đâu dám dựng thơ như tháp nhiều tầng
Tôi lại thích bài thơ nằm giữa cỏ
(Tháp cao tăng)
Thơ nằm giữa cỏ là thơ đến với đời thường, những cuộc đời, những số phận,
những vấn đề tưởng chừng quá quen thuộc, nhỏ bé, thậm chí bị khuất lấp ít được
quan tâm thì giờ lại đem đến sức sống cho thơ của Chế Lan Viên. Quan niệm này
gần tương đồng với quan niệm trong Ánh sáng và phù sa: Chẳng có thơ đâu giữa
lòng đóng khép (Tiếng hát con tàu)
Ở Ánh sáng và phù sa, Chế Lan Viên bộc lộ quan điểm thơ phản ánh hiện
thực. Hiện thực hiện lên trong tập thơ là hiện thực lớn lao của dân tộc, Tổ quốc
đang thay da đổi thịt. Còn trong Di cảo thơ, quan niệm thơ phản ánh hiện thực đi
vào chiều sâu của thế sự, đời tư. Để thể hiện được sự đa diện, đa chiều của vấn đề

thế sự, nhân sinh, thơ không chỉ phản ánh hiện thực ở bề mặt của nó mà phải đi vào
bề sâu, bề xa, phải ăn mặn vào miếng đời phàm tục (Thơ thế kỷ 20). Trước đây,


Chế Lan Viên đã quan niệm đời cho thơ chất mặn: Hãy biết ơn vị muối của đời cho
thơ chất mặn (Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng). Chất mặn của đời theo nhà
thơ cảm nhận là cái vị rất thực của đời, là cảm hứng của thơ ca. Giờ đây cũng thế,
thơ ca tìm được vị mặn của cuộc đời để tạo nên vị mặn cho nó, phải bước vào cuộc
sống còn nhiều những lo toan, cay đắng, khốn khó trong những ngày đầu “đổi mới”
để nêu bật được vấn đề xã hội, cá nhân con người đang quan tâm một cách chân
thành, sâu sắc, toàn diện. Không chỉ vậy, thơ cần phải lăn lộn với cuộc đời dạn dày
ăn gió nằm sương, lội tuyết, lội bùn, xông vào lửa bỏng (Thơ ) thì mới thể hiện đời
sống của cá nhân và bể đời rộng lớn một cách phong phú, đa chiều, đa diện ở mặt
phải lẫn mặt trái. Vì vậy mà nhà thơ khẳng định Thơ là cộng đời anh cùng vô vàn
cái không phải nó (Chống lại thơ Đường).
Bên cạnh đó, quan niệm mới về thơ gắn liền với cảm hứng đời tư, thế sự
cũng được Chế Lan Viên khái quát trong Di cảo thơ. Đó là quan niệm thơ cần nhân
thế (Thơ hiện đại), tức là thơ quan tâm đến thân phận của con người. Lúc này, thơ
trong quan niệm của Chế Lan Viên không còn là sự đưa ru hay thức tỉnh, đập bàn
quát tháo lo toan mà thơ phải hướng tới với những nỗi đau của con người, phải lau
nước mắt, phải là nước mắt/ dưới xa kia (Tìm đường). Thơ phải quan tâm, trăn trở
tìm sự hòa hợp giữa mối quan hệ “ta” và “mình”, giữa niềm vui và nỗi buồn, hạnh
phúc và khổ đau, được và mất, vinh quang và cay đắng của kiếp nhân sinh:
Câu thơ có nghĩa đơn mà hồn phải kép
Viết cái ấm của ta mà không quên cái rét của mình
(Hai xứ)
Với một hồn thơ không yên ổn, đầy những dằn vặt, trăn trở như Chế Lan
Viên thì thơ trong quan niệm của ông phải bao trùm cõi tinh thần của con người,
không được phép chỉ hướng tới niềm vui, hạnh phúc, vinh quang… mà quên đi khổ
đau, bất hạnh, đắng cay…. Nhưng thơ không chỉ dừng lại ở việc phản ánh cõi tinh

thần sâu thẳm, phức tạp của con người mà trên hết thơ phải là Thuốc có khả năng
chữa lành những vết thương trong cõi tinh thần của con người: Có vào nỗi đau mới
có ích cho người. Đó mới chính là những vần thơ có giá trị:


Có vào nỗi đau mới có ích cho người
Nếu tả tiếng cười ư? Phải trả cái giá ta cười.
(Thuốc)
Thơ chính là tổng hòa những cung bậc cảm xúc và đánh thức cảm xúc, tâm
hồn của con người: Nhiệm vụ của thơ, à ra thế/ Thêm vị muối cho đời, thêm hạt lệ
cho thơ/ Thêm tiếng cười cho kẻ sống trơ trơ (Đói).
Thơ cần nhân thế trong quan niệm của Chế Lan Viên không phải đến Di cảo
thơ mới xuất hiện mà đã có quá trình lên men từ trước. Từ tập thơ Hoa trên đá,
Chế Lan Viên có những dấu hiệu chuẩn bị, khởi đầu cho sự hình thành quan niệm
thơ được khái quát, chiêm nghiệm trong Di cảo thơ sau này. Nhà thơ đã ý thức sâu
sắc trách nhiệm công dân của người nghệ sĩ ở mình, mối quan hệ gắn bó giữa bản
thân mình và nhân loại:
Nửa đời thơ anh mới chợt hiểu rằng
Lâu nay có nửa phần nhân lọai sống giữa màu huyết trắng
Cái phần nhân loại trong anh cay đắng
Thấy mình xa nhân loại ở bên ngoài
(Thơ bình phương đời lập phương)
Quan niệm thơ cần nhân thế (Thơ hiện đại) trở thành cảm hứng bao trùm
phần đời và phần thơ còn lại của Chế Lan Viên. Thơ không thể nằm ngoài cuộc
sống và phải chảy giữa biển lớn nhân sinh. Chính quan niệm này đã giúp con
thuyền thơ của Chế Lan Viên neo đậu với bến đỗ cuộc đời, không bị trôi dạt vào
thế giới hư vô của Điêu tàn và vận động tiếp nối, đổi mới so với quan niệm trong
những tập thơ cách mạng.
Trong lời tựa của tập Điêu tàn, tập thơ đầu tay của mình, Chế Lan Viên đã
quan niệm về thơ Làm thơ là làm sự phi thường [47, 23], là thoát khỏi Hiện Tại, xối

trộn Dĩ Vãng, ôm trùm Tương Lai [47, 23] Đối với Chế Lan Viên, ba ý niệm về quá
khứ, hiện tại và tương lai tan biến, hòa trộn vào nhau. Đó chính là sự đảo lộn quy
luật tạo hóa, vượt qua cõi thực để chạm đến thế giới của hư vô. Chính vì vậy, sự
phi thường mà Chế Lan Viên quan niệm được thể hiện trong thế giới của Điêu tàn


chính là thế giới của Hư vô, không gian Tháp Chàm hoang phế do nhà thơ hư cấu
nên. Vì thế, không có gì lạ khi những cụm từ hư vô lại xuất hiện nhiều, phong phú
trong tập thơ như: cõi hư vô, giữa hư vô, trong cùng thẳm hư vô, chốn hư không,
cõi trời mơ… Chính thế giới hư không, ảo ảnh này đã thể hiện cái nhìn khác lạ về
hiện thực của Chế Lan Viên. Để phản ánh thế giới đó, Chế Lan Viên quan niệm
phương thức phản ánh là những hình ảnh tượng trưng, siêu thực với những cảm
giác tột cùng gào vỡ sọ, thét đứt hầu, khóc trào nước mắt, cười tràn cả tủy là tủy.
Khi giải thoát những cảm giác tột đỉnh ấy trong thơ tưởng chừng ngòi bút Chế Lan
Viên trượt hoàn toàn khỏi cõi thực để bước sang lãnh địa của thế giới ảo diệu,
huyễn tưởng để tạo nên một tháp Chàm chắc chắn lẻ loi và bí mật, một niềm kinh
dị ở chốn nước non lặng lẽ này [39, 225]. Nhưng không phải vì vậy mà cho rằng
quan niệm thơ và phương thức phản ánh lại thoát ly hiện thực. Như R. Assagioli
từng nói: cái gì có thể tạo ra những hiệu ứng trong một hiện thực khác thì chính nó
cũng phải được coi như một hiện thực, vì không có một sự biện minh triết học nào
có thể coi thế giới vô hình hay thần bí là phi hiện thực cả [73, 392]. Trên cơ sở này,
ta thấy quan niệm thơ của Chế Lan Viên không phải là phi hiện thực mà quan niệm
hướng sự phản ánh của thơ đến một phương diện khác của hiện thực. Đó chính là
hiện thực tâm linh. Đó là thế giới riêng của sáng tạo nghệ thuật. Qua thế giới ấy,
Chế Lan Viên đã tỏ rõ quan niệm làm thơ là làm sự phi thường. Sự phi thường là
hướng thơ ca đến thế giới của cõi tâm linh sâu thẳm nhất trong thế giới tinh thần
của con người. Cõi tâm linh ấy được thi nhân gọi bằng cõi Ta rộng lớn đầy u uẩn:
Ôi bát ngát mênh mang như âm giới,
Đây cõi Ta rộng rãi đến vô biên !
(Cõi Ta, Điêu tàn)

Cái cõi Ta giữa lòng thi nhân hay chính là cái Tôi đang bị bủa vây bởi nỗi
đau thương, u buồn, sầu thảm đã thành hình, thành khối, thành một phần sự sống:
Quả tim ta là một khối U Buồn
Mạch máu ta là những mối Đau Thương
(Đừng quên lãng)


Nhà thơ ngụp lặn trong nỗi đau của chính mình mà không tìm ra lối thoát:
Đau đớn thay cho đến cả linh hồn/ Cứ bay tìm Chán Nản với U Buồn (Ta) và muốn
tìm quên lãng trong chính nỗi đau ấy:
Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh
Một vì sao trơ trọi cuối trời xa
Để nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh
Những ưu phiền, đau khổ với buồn lo
(Những sợi tơ lòng)
Cõi Ta của nhà thơ nhuốm màu đau thương, phiền muộn bởi cõi Ta ấy
không ngừng khóc than, rên rỉ nỗi sầu vong quốc của dân Chiêm:
Đây chiến địa nơi đôi bên giao trận
Muôn cô hồn tử sĩ hét gầm vang
Máu Chàm cuộn tháng ngày niềm oán hận
Xương Chàm luôn rào rạt nỗi căm hờn
(Trên đường về)
Nỗi đau đớn, bi hận của nhà thơ trước hình ảnh Chiêm quốc hoang phế, điêu
tàn, đổ nát cũng chính nỗi đau của một người dân nô lệ muốn thoát khỏi những
khủng hoảng thực tại khi chứng kiến hiện thực của đất nước. Xã hội đất nước ta
trong giai đoạn 1930 - 1945 có khác gì hình ảnh Chiêm thành hoang phế, cũng bị
bao bao trùm bởi không khí ngột ngạt, tù túng, bế tắc. Chế Lan Viên đã chọn cách
trôi dạt vào cõi ta với hình ảnh hồn Chiêm quốc mờ ảo, nhạt nhòa, xa xôi cùng
những bãi tha ma, tiếng khóc than của hồn ma, tiếng kêu rên của xương máu sống
dậy ở hầu hết các trang thơ như chính tác giả từng tuyên bố: Trong thơ ta dân

Chàm luôn sống mãi/ Trong thơ ta xương máu khóc không thôi (Điêu tàn). Cách
chọn lựa ấy là một sự phản ứng lại thực tại xã hội đương thời. Nhưng Chế Lan
Viên không phản ánh hiện thực ấy một cách trực tiếp, đơn giản mà đã hư ảo hóa
hiện thực, không phải phản ánh hiện thực bên ngoài mà phản ánh hiện thực bên
trong, để hiện thực xuất hiện trong thơ với một dáng vẻ khác – huyền bí, khác lạ và
độc đáo. Vẻ huyền bí của thế giới điêu tàn hay hiện thực tâm trạng của nhà thơ


được phản ánh mang tính hư cấu, siêu hình bởi vì trước một cuộc đời bế tắc, khủng
hoảng nhà thơ còn biết bám víu vào đâu ngoài lãnh địa điêu linh, hoang tàn để gián
tiếp nói lên hiện thực buồn tẻ mà mình luôn trăn trở, khắc khoải, gần như tuyệt
vọng. Chính vì lẽ đó, khi nghiên cứu quan niệm thơ trong Điêu tàn không ít ý kiến
cho rằng thơ Chế Lan Viên hướng đến sự thoát ly, giải thoát nhằm quên đi thực tại
hay nói cách khác là tìm đến một nơi phi hiện thực một tinh cầu giá lạnh, một vì
sao trơ trọi cuối trời xa (Những sợi tơ lòng ) để cho tâm hồn trú ngụ. Những tư
tưởng, hình ảnh siêu hình, siêu thực trong Điêu tàn giúp nhà thơ giải phóng khỏi
những khủng hoảng thực tại. Chính những chiếc sọ người, xương khô, đốm lửa ma
trơi, đầu lâu, bãi tha ma, đáy mồ sâu, hồn, máu… là nguồn cảm xúc thơ, nguồn
cảm xúc mạnh mẽ, khác thường của tác giả. Chính nguồn cảm xúc khác thường này
đã đem đến những bất ngờ, thú vị cho người đọc. Quả thật, tập thơ Điêu tàn đã
minh chứng cho quan niệm làm thơ là làm sự phi thường của Chế Lan Viên.
Cách mạng tháng Tám thành công không chỉ đưa đất nước ta đi vào một kỉ
nguyên mới mà còn làm đời thơ, quan niệm thơ của Chế Lan Viên bước sang trang
mới. Thời đại Điêu tàn trong thơ đã nhường chỗ cho thời đại Ánh sáng và phù sa.
Cũng như, quan niệm thơ trong lời tựa của tập Điêu tàn có sự tiếp nối và đổi thay
lớn lao trong những tập thơ được sáng tác trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp
và chống Mĩ vĩ đại của dân tộc. Nếu như sự phi thường trong Điêu tàn là hư ảo hóa
hiện thực, phản ánh hiện thực bên trong: hiện thực tâm linh thì những tập thơ nối
tiếp như Gửi các anh, Ánh sáng và phù sa, Hoa ngày thường – Chim báo bão,
Đối thoại mới,… lại gắn bó sâu sắc với hiện thực bên ngoài rộng lớn: hiện thực

cuộc kháng chiến chống Pháp, Mĩ, xây dựng đất nước của dân tộc. Cách mạng
không chỉ đem lại sự hồi sinh cho đất nước mà còn giúp Chế Lan Viên thay đổi hồn
thơ. Nỗi đau mất nước trước kia giờ trở thành lòng yêu nước, yêu chế độ mới. Nỗi
buồn tránh đời tìm vào cõi hư vô đã trở thành lòng yêu đời, yêu cuộc sống. Sau
những trăn trở, băn khoăn và day dứt nhiều lúc tưởng chừng như không thể nào
vượt qua được con đường đau khổ của chính mình, Chế Lan Viên đã tự “lột xác
mình”, tự “biến cải mình”', tuy: Đi xa, về hoá chậm, / Biết bao là nhiêu khê


(Ngoảnh lại mười lăm năm) nhưng cuối cùng ông cũng đã từ thung lũng đau
thương bước ra cánh đồng vui, để đến được nơi mình cần đến, về được nơi mình
cần về. Đó là sự trở về với cái ta chung của dân tộc, của nhân dân. Điều đó được
thể hiện bằng một cái nhìn mới về cuộc đời. Đây chính là sự vật vã trong việc từ bỏ
con người siêu hình thuở Điêu tàn để hoà nhập với con người xã hội, con người
công dân trong cuộc sống mới, mà Chế Lan Viên đã tự nhận ra ý nghĩa cao cả của
nó: Xưa ở sông Ngô ta đánh mất vàng / Đánh mất tâm hồn ta. Nhưng hiện tại / Như
sông Tương đã trả vàng ta lại / Khắp đôi bờ tư tưởng chói hào quang (Vàng của
lòng tin). Chàng thi sĩ mang trên mình bao nỗi chua cay của một thời thơ ấy đã
bước ra khỏi cái tháp ngà hư vô của thế giới Điêu tàn để trở về với cuộc đời thực.
Chính ánh sáng của Đảng, phù sa của cuộc đời đã giúp nhà thơ đấu tranh với mình
trên cánh đồng lầy của nỗi đau riêng để đến với niềm vui chung. Chế Lan Viên đã
đi từ chân trời một người đến chân trời tất cả. [1, 21]. Và đây chính là cơ sở tạo
nên một cái nhìn mới của Chế Lan Viên về mối quan hệ giữa cuộc đời với thơ. Chế
Lan Viên không còn quan niệm thơ là cái gì cao siêu, bí ẩn, phi thường, đứng trên
cuộc đời, đứng ngoài cuộc đời mà thơ phải bám lấy cuộc sống, phải tìm thấy chất
thơ, hồn thơ trong chất đời, hồn đời.Với Chế Lan Viên bây giờ, hiện thực cuộc
sống luôn là nguồn cảm hứng vô tận của thơ ca:
Mỗi ngày gặp một người - họ là một mảnh của thiên tài nhân loại.
Máu và mồ hôi của người đúc nên bao hình ảnh ngữ ngôn.
Vạt áo của triệu nhà thơ không bọc hết bạc vàng mà đời rơi vãi.

Tất cả mỗi người dù lạ hay quen đều viết cho thơ anh một chữ.
Hãy nhặt những chữ của đời mà góp nên trang.
(Nghĩ về thơ)
Với quan niệm trang thơ được dệt nên từ những trang đời, trong hành trình
sáng tạo của mình kể từ sau cách mạng tháng Tám, Chế Lan Viên luôn bám vào
cuộc sống để làm thơ. Ông luôn có ý thức đúng đắn về sự cần thiết của đời sống đối
với thơ. Ông quan niệm rằng: Thơ là cuộc sống vì có đời sống mới có thơ nhưng
thơ không sao chép cuộc sống mà tìm hiểu và đặt những vấn đề với cuộc sống. [1,


×