Tải bản đầy đủ (.pdf) (137 trang)

hiện tượng epiphany trong tập truyện ngắn “người dublin” của james joyce

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 137 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Lê Thị Tú Trinh

HIỆN TƯỢNG EPIPHANY TRONG TẬP
TRUYỆN NGẮN “NGƯỜI DUBLIN” CỦA
JAMES JOYCE

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - 2011


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Lê Thị Tú Trinh

HIỆN TƯỢNG EPIPHANY TRONG TẬP
TRUYỆN NGẮN “NGƯỜI DUBLIN” CỦA
JAMES JOYCE
Chuyên ngành: Văn học nước ngoài
Mã số:
60 22 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. ĐÀO NGỌC CHƯƠNG


Thành phố Hồ Chí Minh - 2011


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi.
Các số liệu khảo sát, kết quả trong luận văn này là trung thực và chưa từng công
bố ở các công trình khác.
Người viết luận văn

Lê Thị Tú Trinh
Lớp Cao học Văn học nước ngoài K19


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc với PSG.TS Đào Ngọc Chương _ người thầy
hướng dẫn đã tận tình giúp đỡ và động viên tôi trong quá trình thực hiện luận văn.
Xin cảm ơn các thầy cô tổ Văn học nước ngoài, các thầy cô khoa Ngữ văn,
phòng Sau Đại học trường ĐHSP Tp. HCM, gia đình và bạn bè đã góp ý, giúp đỡ tôi
trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Tp. Hồ Chí Minh ngày 25 tháng 11 năm 2011
Người viết

Lê Thị Tú Trinh
Lớp Cao học Văn học nước ngoài K19


MỤC LỤC
Trang bìa phụ
Lời cam đoan
Lời cảm ơn

Mục lục
Mở đầu ............................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ HIỆN TƯỢNG EPIPHANY VÀ “NGƯỜI
DUBLIN” CỦA JAMES JOYCE
1.1. Epiphany- từ tôn giáo đến nghệ thuật............................................................. 15
1.2. Về tập truyện ngắn “Người Dublin” ............................................................... 31
1.2.1. “Người Dublin” – tập truyện bộc lộ tâm hồn người nghệ sĩ James Joyce
...................................................................................................................... 31
1.2.2. “Người Dublin” và thể loại truyện ngắn hiện đại ............................. 34
1.2.3 Vị trí của “Người Dublin” trong sự nghiệp sáng tác của James Joyce ...... 37
Tiểu kết chương 1....................................................................................................... 40
CHƯƠNG 2: EPIPHANY VÀ THẾ GIỚI NHÂN VẬT CỦA “NGƯỜI
DUBLIN”
2.1. Đặc trưng của những nhân vật liên quan đến hiện tượng epiphany trong “Người
Dublin” ............................................................................................................... 43
2.1.1. Nhân vật bị giam cầm trong nhà tù cuộc sống................................... 43
2.1.2. Những nhân vật với khát vọng vượt thoát khỏi nhà tù cuộc sống........... 53
2.2 Hiện tượng epiphany của các nhân vật trong “Người Dublin” .................. 58
2.2.1 Thời gian của hiện tượng epiphany .................................................... 58
2.2.2 Không gian của những khoảnh khắc Epiphany .................................. 63
2.2.3. Điểm rơi epiphany của nhân vật ........................................................ 70
Tiểu kết chương 2....................................................................................................... 78
CHƯƠNG 3: ĐỘC GIẢ “NGƯỜI DUBLIN” VÀ HIỆN TƯỢNG PIPHANY
3.1 Vài nét về mỹ học tiếp nhận .............................................................................. 81
3.2 Lối viết khơi gợi epiphany cho độc giả “Người Dublin” ............................ 85


3.2.1 Độc giả và điểm rơi epiphany của nhân vật........................................ 85
3.2.2. “Người Dublin” với cách kiến tạo các epiphany hướng về độc giả ..... 88
Tiểu kết chương 3..................................................................................................... 116

KẾT LUẬN

.......................................................................................................... 118

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 120
PHỤ LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1 Văn học thế giới từ cuối thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX đã chứng kiến một
bước ngoặc quan trọng để lại tên tuổi những nhà cách tân vĩ đại như James Joyce
(1882-1941), Marcel Proust (1871-1922), Franz Kafka(1883- 1924), Virginia Woolf
(1882-1941)...Một trong những tên tuổi ấy, nhà văn Ai-len, James Joyce nổi lên như
một hiện tượng, một cây bút tiên phong của văn học chủ nghĩa hiện đại. Nghiên cứu
các sáng tác của James Joyce là một trong những bước tiếp cận nền văn học hiện đại
thế giới, kéo gần lại khoảng cách giữa nền văn học dân tộc và nhân loại.
1.2 Con đường sáng tạo của James Joyce đi từ những thể nghiệm ban đầu tới
những bước đột phá càng về sau càng đa dạng, phức tạp, càng đòi hỏi người tiếp nhận
sự kiên nhẫn và đam mê cao độ. Joyce thể hiện tài năng của mình trên nhiều lĩnh vực:
truyện ngắn, thơ, kịch và tiểu thuyết. Tuy các nhà nghiên cứu trên thế giới đánh giá
rất cao những cách tân của James Joyce ở thể loại tiểu thuyết nhưng không vì thế mà
truyện ngắn của ông bị xem nhẹ. “Người Dublin” được xem là tập truyện ngắn góp
phần tạo nên diện mạo truyện ngắn hiện đại. Nếu nghiên cứu dưới góc nhìn liên văn
bản thì những đề tài truyện ngắn còn trở lại và phát triển hơn trong các kiệt tác tiểu
thuyết của Joyce sau này. Điều này gợi ý người viết bắt đầu đi vào thế giới nghệ thuật
của James Joyce từ “Người Dublin”, tập truyện ngắn duy nhất của ông.
1.3 Khi sáng tác “Người Dublin” Joyce muốn tạo ra một chuỗi epiphany nhằm
thức tỉnh tinh thần dân tộc ông cho nên epiphany chính là hiện tượng chi phối tư
tưởng và nghệ thuật của nhà văn trong toàn tập truyện. Epiphany còn là chìa khóa của

toàn bộ thế giới nghệ thuật James Joyce hơn nữa cũng là hiện tượng chi phối sáng tác
của nhiều nhà văn khác như là một lối viết, một mục đích sáng tác của các nhà văn
hiện đại chủ nghĩa. Hiện tượng Epiphany trong “Người Dublin” là vấn đề nhiều gợi
mở cho người muốn tìm hiểu về những cách tân của James Joyce ở lĩnh vực truyện
ngắn. Epiphany sẽ hé lộ cho chúng ta cái tôi sáng tạo của nhà văn, những bí ẩn tâm
hồn của người Dublin nói riêng và con người hiện đại nói chung. Người viết sẽ dùng
khái niệm epiphany như chìa khóa bước vào thế giới nghệ thuật “Người Dublin” hi


vọng tiếp cận được với một cách tân truyện ngắn hiện đại nhằm phục vụ cho việc tìm
hiểu, giới thiệu một bậc thầy văn chương thế giới trong bối cảnh nền văn học phương
Tây hiện đại đang ngày càng hấp dẫn độc giả và giới nghiên cứu Việt Nam.
2. Lịch sử vấn đề
2.1 Chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này dựa trên phát biểu của chính
James Joyce về tập truyện ngắn của mình. Trong một bức thư gửi cho một người bạn
vào tháng 8 năm 1904, ông đã gọi tập truyện của mình là “một chuỗi epiphany”, cách
gọi như thế còn được lặp lại lần nữa trong bức thư gửi cho anh trai ông sau đó. Và
cũng chính Joyce thông qua diễn ngôn của Stephan Dedalus, nhân vật trung tâm trong
“Stephen Hero”, tập bản thảo đầu tay mang tính tự thuật của nhà văn đã giải thích:
“Epiphany là một biểu hiện tinh thần bất ngờ trong những lời nói thông tục, trong cử
chỉ hoặc một giai đoạn đáng nhớ của tâm trí” [70]. Theo đó thì ý tưởng về việc sáng
tác một chuỗi epiphany về đời sống Dublin đến với ông khi ông (trong vai Stephen
Dedalus) đi bộ qua một con phố tồi tàn của Dublin và tình cờ nghe được những lời
đứt quãng của cuộc trò chuyện giữa một người đàn ông và một người phụ nữ trẻ.
Cuộc nói chuyện với những lời nói tầm thường, nhát gừng, gãy ra như những mảnh
vụn ấy lại bất ngờ tiết lộ bản chất của đối tượng, khiến ông cảm nhận được nó như là
tình trạng tê liệt của thành phố này. Ông nảy ra ý tưởng mình sẽ là người nghệ sĩ ghi
chép lại những thời điểm của những nhận thức đột ngột như thế trong một tập truyện
nghiêm túc mà ông gọi là “một chuỗi epiphany”. Nhà nghiên cứu Hofbauer Randy
cho rằng James Joyce sử dụng hiện tượng epiphany để tiếp thêm sức mạnh cho người

anh hùng Stephen (hay là chính chàng thanh niên James Joyce) để anh ta đến gần hơn
với ước mơ trở thành một nghệ sĩ. Theo Hofbauer, epiphany có thể giúp người nghệ
sĩ thấy được linh hồn , bản chất của đối tượng dù nó chỉ ẩn hiện sau lớp vỏ bề ngoài .
Từ những tiết lộ của nhà văn mà các công trình nghiên cứu “Người Dublin”
thường rất chú trọng đến hiện tượng epiphany.
Hiện tượng epiphany trong tập truyện ngắn của James Joyce thể hiện ý đồ nghệ
thuật của tác giả đồng thời chính nó chi phối cách kể chuyện của ông, do đó các công
trình nghiên cứu “Người Dublin” xem xét hiện tượng epiphany đã chi phối bút pháp


kể chuyện của James Joyce như thế nào để từ đó tạo ra những thời khắc bừng ngộ của
các nhân vật trong truyện và lôi kéo sự tham gia của độc giả vào việc hoàn thiện chủ
đề tư tưởng của tác phẩm.
Mark Bendle trong bài viết “Tê liệt và epiphany trong Người Dublin” (Paralysis
and epiphany in Dubliners ) xem epiphany như là một hiện tượng góp phần quan
trọng thể hiện chủ đề của tập truyện – tình trạng tê liệt của các cư dân Dublin qua
những khoảnh khắc epiphany của các nhân vật. Tác giả bài viết đi phân tích thời điểm
epiphany của một số nhân vật trong “Người Dublin” và rút ra nhận xét rằng tại những
thời khắc ấy họ nhận ra tình cảnh bế tắc của mình nhưng thường là họ không kiên
quyết vượt thoát ra khỏi tình trạng ấy, thất vọng nhưng không giải quyết được bế tắc
và cam chịu một cách tê liệt hoặc là trút giận vào con cái chẳng hạn như Little
Chandle trong “Một đám mây nhỏ” hoặc Farington trong “Những bản sao”.
Francesca Valente trong công trình “Người Dublin của Joyce như là những
epiphany” (Joyce’s Dubliners as Epiphanies)[75] đã nghiên cứu sâu sắc hiện tượng
epiphany trong tập truyện ngắn này của Joyce. Ông cho rằng không chỉ “Người
Dublin” mà toàn bộ các sáng tác của Joyce là một loạt các epiphany. Francesca chú ý
đến thủ pháp kết cấu các truyện ngắn để tạo thời điểm cho các epiphany xuất hiện.
Đó là thời điểm mà các giác quan của nhân vật có sự tương tác với nhau như là mắt
nhìn thấy và tai cùng lắng nghe. Các chuỗi epiphany của nhân vật góp phần thể hiện
chủ đề của tập truyện là tình trạng tù túng, tê liệt mà các cư dân thành phố đang phải

chịu đựng. Qua đó có thể thấy được thấp thoáng cái tôi James Joyce cũng bị mắc kẹt
đâu đó giữa những ràng buộc gia đình, tôn giáo hay chính trị của xã hội Ailen. Theo
nhà nghiên cứu này, epiphany của nhân vật cũng là epiphany của người nghệ sĩ
James Joyce. Công trình này chưa chú ý đến vai trò của người đọc nhưng nó quan
tâm đến dụng ý của nhà văn trong việc “viết một chương trong lịch sử đạo đức của
dân tộc mình”.
Trong khi đó thì Garry Martin Leonard lại cho rằng “ Cuốn Người Dublin là
một chương quan trọng trong sự phát triển ngòi bút của người nghệ sĩ Joyce hơn là
một chương trong lịch sử xã hôi Dublin” [71]. Bởi vì theo Garry, epiphany đã trở


thành một kĩ thuật giúp tác giả “Người Dublin” thiết lập một liên kết thẩm mỹ giữa
tác giả, văn bản và người đọc. Có thể nói công trình nghiên cứu “ Đọc lại Dubliner:
Dưới cái nhìn của Lacan” (Reading Dubliners again: a Lacanian perspectiev) [71]
của Garry Martin Leonard đã xem xét hiện tượng epiphany trong “Người Dublin”
của James Joyce dưới những phương pháp luận nghiên cứu văn học rất hiện đại. Ông
đánh giá cao khái niệm ephiphany và cho rằng không chỉ của riêng Joyce, epiphany
còn phát triển thành một phương thức sáng tác của văn học hiện đại và đương đại.
Thêm một điều thú vị nữa là Garry còn chú ý đến hiện tượng tương đồng của hiện
tượng epiphany trong văn học hiện đại phương Tây với quan niệm sáng tác “ý tại
ngôn ngoại” của văn học phương Đông. Từ đó ông đề cao vai trò của epiphany trong
việc kêu gọi người đọc tham gia bằng trí tưởng tượng, bằng trải nghiệm của mình
trong việc tiếp nhận “Người Dublin”. Garry tán đồng quan niệm của Beja khi cho
rằng epiphany của Jamemes Joyce thường hướng đến người đọc hơn là nhân vật.
Những ý kiến của Garry Martin Leonard thực sự là những gợi ý rất thú vị để chúng
tôi tìm hiểu epiphany trong “Người Dublin” của James Joyce dưới quan niệm của mỹ
học tiếp nhận.
Cũng đồng quan điểm về vai trò của người đọc, Wallace Gray trong một bài giới
thiệu tập truyện “Người Dublin” đã đưa ra nhận định “ Ý định khởi đầu của nhà văn
không được diễn tả như một thông báo cuối cùng. Chính người đọc sẽ quyết định xem

mỗi câu chuyện sẽ phát ra một ý mỉa mai hay đồng cảm” [78] .Chính vì thế mà James
Joyce sử dụng lối viết giản lược (style of scrupulous meanness) và tập truyện ngắn
này của ông được cho là điểm khởi đầu của chủ nghĩa hiện đại, chống lại lối viết của
thế kỉ XIX. Wallace tiếp cận “Người Dublin” trên cả hai bình diện: một là phản ánh
đời sống đầy thất bại của các cư dân Dublin từ trẻ thơ, phụ nữ, những người đàn ông
trưởng thành; hai là qua các biểu tượng và motip phản ánh bản chất con người nói
chung vào khoảng giao thời hai thế kỉ. Nhà nghiên cứu rất chú ý đến phong cách viết
của James Joyce nhất là tính chất song đôi vừa hiện thực vừa tượng trưng; các độc
thoại tự sự và những câu văn lặp lại những hình ảnh theo khuôn mẫu; lối văn xuôi tự
nhiễm lây phong cách của nhân vật, chẳng hạn khi miêu tả cử chỉ và ngôn ngữ của


Lyly (Cõi chết) ông dùng lối văn của ngững người đầy tớ gái, sau đó khi miêu tả vũ
hội ông chuyển sang dùng ngôn ngữ của tầng lớp trung lưu, cứ như là khi miêu tả đến
nhân vật nào ông sẽ để cho nhân vật đó cầm tay mình mà viết. Wallace đánh giá đó
chính là lối viết của một nhà văn hiện đại. Thêm một nét độc đáo trong cách viết của
Joyce được Wallace nhấn mạnh nữa là lối văn chuyển hoán ở câu thứ hai (
chiasmus). Cũng như các nhà nghiên cứu khác khi tìm hiểu “Người Dublin” của
James Joyce, Wallace không thể bỏ qua hiện tượng epiphany trong các truyện ngắn.
Nhà ngiên cứu so sánh và phát hiện ra điểm tương đồng giữa quan niệm về người
nghệ sĩ có khả năng epiphany của James Joyce với “ Phương pháp soi sáng chi tiết”
của Ezra Pound. Joyce cho rằng người nghệ sĩ có khả năng phát hiện ra những biểu
hiện tinh thần bất ngờ dù chỉ qua những khoảnh khắc vụn vặt, tầm thường của cuộc
sống; Ezra Pound cũng cho rằng nhà thơ chỉ cần lựa chọn một chi tiết không quan
trọng trong một bối cảnh hoặc một giai đoạn lịch sử là đã có thể soi sáng bản chất xã
hội đó.
Tập “Người Dublin” do nhà xuất bản David Campbell, London in năm 1991 có
phần giới thiệu rất sâu sắc của nhà nghiên cứu Jonh Kelly. Trước hết, Jonh khái quát
ba đề tài mà theo ông được Joyce theo đuổi trong cả cuộc đời sáng tác của mình:
Niềm khao khát tự do; mối quan hệ giữa hiểu biết thực tế và nghệ thuật tượng trưng;

mối quan hệ tác giả, tác phẩm và độc giả. Ở đề tài tự do, Jonh tìm ra cái tôi James
Joyce trong khát vọng tự do của các nhân vật, khát khao trốn thoát khỏi những ràng
buộc của tôn giáo, chính trị và dân tộc để bước vào một cuộc sống có ý nghĩa thật sự;
Ở đề tài mối quan hệ giữa kinh nghiệm thực tế và nghệ thuật tượng trưng, nhà
nghiên cứu cho rằng Joyce đã đi tìm một kiểu, một kĩ thuật viết để có thể nối những
điều tầm thường trong cuộc sống vào trong một cuốn sách sao cho sự phản xạ trở lại
sẽ tạo ra một ý nghĩa rộng hơn. Đó chính là thời điểm epiphany, nơi một đối tượng
nhỏ mọn nhất được soi sáng bằng việc tăng tột độ sự tượng trưng, ám chỉ của chúng
và tạo ra một sự cộng hưởng của trí tưởng tượng. Đề tài thứ hai này chính là tiền đề
cho đề tài thứ ba để đạt mục đích sáng tác của nhà văn là tạo ảnh hưởng lên độc giả
nhằm báo động về một cuộc sống nhỏ nhen, tù đọng. Nhìn chung, ba mảng đề tài mà


Jonh Kelly phân tích đã bao quát phần lớn quan niệm và kỹ thuật sáng tác “Người
Dublin” của James Joyce, chỉ vì phạm vi của một bài giới thiệu sách nên nhà nghiên
cứu mới chỉ gợi và hướng đi tiếp được mở ra với nhiều khả năng hơn cho đề tài của
chúng tôi.
Nhà nghiên cứu văn học hiện đại người Nhật Bản- Suzuki Takashi trong một báo
cáo khoa học về James Joyce được đọc tại đại học Aoyamagakuin, Nhật Bản
“Epiphany trong Người Dublin” (Epiphanies in Dubliners) [77] quan tâm đến cách
thức mà nhà văn để cho một Epiphany xuất hiện trong truyện ngắn. Ông phân tích
nhiều truyện ngắn tiêu biểu để chứng minh cho sự đa dạng trong thủ pháp tái hiện
epiphany của Joyce. Có những khi epiphany xuất hiện trực tiếp rõ ràng cho người đọc
dễ nắm bắt ví dụ epiphany của Jimmy ở cuối truyện “Sau cuộc đua”; có những
epiphany xuất hiện tại thời điểm có sự chuyển dịch không gian, thời gian, ánh sáng
và bóng tối như “Hai chàng ga lăng”; cũng có khi epiphany xuất hiện nhờ vào yếu
tố tình cờ, ngẫu nhiên như trong “Một cuộc chạm trán”.Suzuki còn chú ý đến mối
liên hệ có tính phát triển giữa các nhân vật trong các truyện ngắn khác nhau. Ông cho
rằng Gabriel có thể là phiên bản trưởng thành của các cậu bé trong “Một cuộc chạm
trán”. Gabriel không còn ở tuổi ngây thơ nên các khát vọng, sự ngưỡng mộ hướng

và tới một thế giới khác với xã hội Ailen tù túng được thể hiện rõ ràng và mãnh liệt
hơn cũng vì thế mà sự thất vọng cũng cay đắng hơn. Những phân tích của Suzuki
Takashi gợi ra rất nhiều khía cạnh có thể đào sâu vào thế giới nhân vật của “Người
Dublin”. Bài viết còn gợi ý cho chúng ta về sự đa dạng của các dạng thức và thời
điểm epiphany trong tập truyện.
Các nhà văn của chủ nghĩa hiện đại chống lại lối viết của các nhà văn hiện thực
thế kỉ XIX bằng việc sáng tạo ra một lối viết hoàn toàn mới thay vì miêu tả hiện thực
từ bên ngoài bản thân nó, các nhà văn hiện đại miêu tả một hiện thực nằm sâu trong
bản chất của đối tượng. Một trong những cây bút tiên phong của lối viết hiện đại ấy
chính là James Joyce và tác phẩm đầu tiên phá vỡ các nguyên tắc của chủ nghĩa hiện
thực kinh điển chính là “Người Dublin” của Joyce. Đó là ý kiến của Codell D.K. Yee
trong công trình “Theo từ ngữ dến với James Joyce: tái hiện lại một cách viết” ( The


word according to James Joyce: reconstruction representation) [68]. Codell đã dẫn
và chứng minh ý kiến của Colin MacCabe rằng Joyce bắt đầu phá vỡ nguyên tắc của
chủ nghĩa hiện thực với khái niệm epiphany. Sự thiếu vắng các ngữ cảnh hoặc sự
miêu tả không đầy đủ làm cho những hiểu biết về các truyện ngắn đôi khi nằm ngoài
văn bản, đòi hỏi người đọc phải có khả năng phán đoán. Joyce không chịu trách
nhiệm hoàn toàn nội dung của văn bản mà đó là câu hỏi mà người đọc phải trả lời
bằng sự tương tác qua lại giữa những thông tin ít ỏi mà văn bản cung cấp với trải
nghiệm của bản thân anh ta. Ý kiến của Codell bổ sung cho các ý kiến của các nhà
nghiên cứu khác, cung cấp thêm những thông tin thú vị cho việc tìm hiểu “Người
Dublin”
2.2. Ở trên chúng tôi đã giới thiệu một số công trình nghiên cứu có liên quan đến
hiện tượng epiphany trong “Người Dublin” của các nhà nghiên cứu nước ngoài.
Nghiên cứu về James Joyce và truyện ngắn của ông ở trong nước trên thực tế chưa có
nhiều công trình chuyên sâu.
Những năm cuối thế kỉ XX trong một số công trình về văn học phương Tây hiện
đại các nhà nghiên cứu như Hoàng Nhân, Hoàng Trinh, Phương Lựu, Đỗ Đức Hiểu,

Phùng Văn Tửu… có nhắc đến tên tuổi James Joyce như một tác giả tiêu biểu của
chủ nghĩa hiện đại với những cách tân trong tiểu thuyết, khai sinh ra kỹ thuật dòng ý
thức. Thời điểm đó chưa có bài viết nào đi sâu khám phá thế giới nghệ thuật của nhà
văn tiên phong này, tên tuổi ông được nhắc đến cùng với tên tuổi các nhà văn hiện
đại khác mà không có sự nhấn mạnh đáng kể nào.
Đến đầu thế kỉ XXI, Nguyễn Thế vinh với sự giúp đỡ của Susan J.Dadam, một
người Mỹ rất có tâm huyết với James Joyce, đã dịch cuốn tiểu thuyết đầu tay “Chân
dung một chàng trai trẻ” (A portrait of the artist as a young man) ra tiếng Việt. Cũng
chính Nguyễn Thế Vinh sưu tầm và giới thiệu một số bài đánh giá chung về sự
nghiệp Joyce tổng hợp lại trong Tạp chí văn học nước ngoài số 6-2005. Trong số tạp
chí này còn có một bài “Phê bình hình thức tác phẩm Cõi chết” của Susan j. Adam.
Bài viết phân tích những yếu tố thần thoại Xen-tơ, Na-uy và La mã trong truyện ngắn
Cõi chết, bóc tách nhiều lớp vỏ huyền thoại và văn học dân gian bao trùm lên hoặc ẩn


hiện trong nhiều lớp ngôn từ của truyện ngắn được đánh giá là hay nhất thế kỉ XX
này.
Cùng thời gian này, Lê Huy Bắc trong ấn phẩm “ Đặc trưng truyện ngắn Anh
Mỹ” [4] đã nhận định truyện ngắn của Joyce là truyện ngắn “Đốn ngộ” (epiphany)
một trong ba đặc trưng của truyện ngắn hiện đại Anh – Mỹ . Nhà nghiên cứu đã
mượn một khái niệm tu tập của phật giáo Thiền Tông để dịch từ Epiphany của Joyce.
Theo đó ông giải thích “Đốn ngộ có nghĩa là nhân vật đạt đến sự giác ngộ về bản
chất tồn tại, cái đẹp hay giá trị nhân văn nào đó chỉ trong một khoảnh khắc được
chiếu rọi bởi những tiêu chí tự thân của bản thể”.[4,207] Có thể nói Lê Huy Bắc là
người đầu tiên quan tâm đến truyện ngắn của James Joyce và xác nhận đặc trưng
trong lối viết truyện ngắn của nhà văn. Ông cũng chú ý đến cả sự “đốn ngộ” của độc
giả , tuy nhiên ông lại cho rằng độc giả sẽ chỉ “đốn ngộ” tại giây phút “đốn ngộ của
nhân vật”. Khi khảo sát sự xuất hiện của hiện tượng Epiphany của độc giả “Người
Dublin” chúng tôi sẽ tiếp tục mở rộng và bổ sung hướng nghiên cứu này.
Cùng quan niệm với nhà nghiên cứu Lê Huy Bắc, Lê Minh Kha trong luận văn

thạc sĩ “Góc khuất cái tôi James Joyce trong Người Dublin” dành một phần để khai
thác hiện tượng epiphany đối với các nhân vật của “Người Dublin” nhưng Lê Minh
Kha gọi đó là khoảnh khắc “bừng ngộ” của nhân vật. Lê Minh Kha không chú trọng
đến epiphany của độc giả cùng với nhân vật mà chú ý đên góc khuất cái tôi James
Joyce trong những thời điểm bừng ngộ ấy. Người viết nhấn mạnh “ Sự bừng ngộ của
nhân vật thường diễn ra trên hai phương diện: nhận thức về đời và ý thức về mình.
Trong đó ý thức về mình là vấn đề cốt lõi. Ý thức về mình gắn liền với sự bừng tỉnh
của cái tôi- cái tôi như một cá thể tự do, không nô lệ.”[26,79] Và cái tôi trong từng
nhân vật ẩn hiện bóng hình cùa tác giả với ý thức phản tỉnh dù không đưa được các
nhân vật của Joyce vượt thoát khỏi cuộc sống bế tắc nhưng là dấu hiệu cho khát vọng
mạnh mẽ của người nghệ sĩ James Joyce sẽ làm một cuộc tẩu thoát sau này. Khi nhắc
đến sự tiếp nhận của người đọc Lê Minh Kha cho rằng những khoảnh khắc bừng ngộ
của nhân vật sẽ ghi một dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc. Tác giả luận văn chưa


đẩy lên thành sự bừng ngộ của độc giả có lẽ vì điều đó nằm ngoài phạm vi đề tài
nghiên cứu của anh.
Ngoài một số công trình trên, trong nước ta còn một luận án tiến sĩ của
Nguyễn Linh Chi, một người chuyên tâm và say mê nghiên cứu James Joyce trong
nhiều năm gần đây. Đề tài mà cô nghiên cứu là “Nhân vật Stephen Dedalus của
James Joyce và mô típ mê cung”. Vậy đối tượng và phạm vi của công trình sẽ là các
tiểu thuyết của Joyce. Tuy thế, hiện tượng Epiphany vốn là một sợi chỉ đỏ xuyên suốt
các tác phẩm của Joyce cũng sẽ là một phần trong “ cái mê cung” mà Joyce xây
dựng. Tác giả luận án này xem epiphany như là “một dấu hiệu của tâm điểm để từ đó
người bị giam giữ (trong mê cung) có thể thoát ra ngoài”[7,15]. Trong hành trình
khám phá mê cung, Nguyễn Linh Chi nhận ra cái kết cấu vòng tròn trong kỹ thuật
epiphany của James Joyce. Đây là một gợi ý quý báu nếu chúng ta dự định xem xét
kết cấu các truyện ngắn trong “Người Dublin” vì đó là kiểu kết cấu quen thuộc của
James Joyce.
Để chuẩn bị cho công trình luận án chuyên sâu và nghiêm túc của mình, trước

đó, Nguyễn Linh Chi đã biên soạn ấn phẩm “Tác gia tác phẩm văn học trong nhà
trường- James Joyce”. Cuốn sách đã khái quát cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của
nhà văn trong đó dành một phần giới thiệu tập truyện “Người Dublin”. Nhà nghiên
cứu có sơ lược về chủ đề, kết cấu của tập truyện nhưng chỉ dừng ở mức giới thiệu chứ
không đi sâu vào khía cạnh nào.
Khi “Người Dublin” được dịch giả Vũ Mai Trang xuất bản năm 2009, nhà văn
Mai Thục đã viết một bài giới thiệu khá công phu cho tập truyện. Trong đó nhà văn
cũng rất chú ý đến hiện tượng epiphany như là một đặc trưng cơ bản của các truyện
ngắn nghĩa là một tập truyện hé lộ những bí ẩn tâm hồn con người hiện đại. Mai Thục
dùng “hiển lộ” để dịch “Epiphany”, theo đó, các truyện ngắn sẽ lần lượt bộc lộ
“những bí ẩn, những khoảng tối nằm sâu trong tâm hồn con người trong cái xã hội tê
liệt, tù đọng, dối trá, đói khổ, tối tăm, bế tắc…của Dublin” [25,15] … “Là những
khoảnh khắc bất ngờ, ngẫu nhiên, bình thường và lặng lẽ, là giây phút mà tính cách
bên trong của con người bỗng hiển lộ qua những chi tiết sinh hoạt thường ngày chân


thật” [25,15]. Mai Thục không lí giải sâu nhưng có vẻ như nhà văn xem epiphany
trong “Người Dublin” là một khía cạnh của thủ pháp miêu tả tâm hồn nhân vật tại
một thời điểm đặc biệt nào đó, thời điểm mà người đọc có thể nhìn rõ bản chất nhân
vật, rộng hơn là chiều sâu tâm hồn con người Dublin. Bài giới thiệu cũng khái quát
những nét cơ bản về phong cách nghệ thuật của James Joyce trong tập truyện, đó là
cách kể kiệm lời để người đọc tự suy ngẫm và kết luận, cốt truyện không rõ ràng,
không có xung đột kịch tính…Dừng lại ở giới hạn của một bài giới thiệu sách, bài
viết chưa cung cấp cho chúng ta cái nhìn sâu sắc nhưng nhìn chung cũng một lần nữa
khẳng định epiphany là một đặc trưng quan trọng của tập truyện “Người Dublin”.
Hướng theo những gợi ý của nhà văn Mai Thục, khóa luận tốt nghiệp của Lê
Thị Như Vân “Nghệ thuật kể chuyện trong Người Dublin của James Joyce” cũng
xem epiphany của Joyce là “phút tâm hồn hiển lộ”. Theo tác giả khóa luận, nghệ
thuật kết cấu cốt truyện của James Joyce trong “Người Dublin” gồm hai đặc trưng:
một là truyện không có cốt truyện; hai là xây dựng phút tâm hồn hiển lộ. “Điều làm

nên đặc sắc cho truyện của Joyce chính là cách ông xây dựng những khoảnh khắc,
những giây phút mà tính cách bên trong của con người bỗng hiển lộ qua những chi
tiết sinh hoạt thường ngày, chân thật.” [60,42] Có thể thấy khóa luận đã bám sát ý
kiến của nhà văn Mai Thục khi nhận định và phân tích epiphany trong “Người
Dublin”. Đó là quan niệm xem epiphany như một khoảnh khắc bất ngờ hé lộ bí ẩn
tâm hồn nhân vật và James Joyce đã cố tình tạo ra những khoảnh khắc ấy một cách tự
nhiên và chân thật nhất. Đề cao tài năng của James Joyce trong việc xây dựng “phút
tâm hồn hiển lộ” làm nên sức hấp dẫn cho các truyện ngắn nhưng cả Mai Thục là Lê
Thị Như Vân đều chưa đi sâu lí giải các thủ pháp mà Joyce sử dụng để kiến tạo thời
khắc ấy. Chúng tôi sẽ tiếp thu gợi mở này và cố gắng đi xa hơn cho phù hợp với mục
đích đề tài của mình.
2.3. Quá trình tìm hiểu lịch sử vấn đề, chúng tôi nhận thấy rằng các nhà nghiên
cứu nước ta đã bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến các sáng tác của James Joyce nhưng
cho đến thời điểm hiện tại chỉ có các công trình tập trung khảo sát tiểu thuyết của
Joyce hoặc nghiên cứu truyện ngắn của ông ở phương diện “Góc khuất cái tôi nhà


văn” hoặc “Nghệ thuật tự sự”, chưa có công trình nào chuyên sâu nghiên cứu hiện
tượng epiphany trong tập truyện ngắn người Dublin của James Joyce dù đã có vài ý
kiến mang tính gợi mở. Trong khi đó các công trình liên quan đến đề tài này ở nước
ngoài lại tương đối phong phú và đa dạng. Các nhà nghiên đã đề cập đến nhiều hướng
tiếp cận truyện ngắn James Joyce dưới sự chi phối của hiện tượng epiphany: từ chủ
đề của tập truyện, cách viết của tác giả và cả vai trò của người đọc. Tuy nhiên, số
lượng khá nhiều nhưng nội dung còn phân tán. Điều này vừa là thuận lợi cho chúng
tôi trong việc tìm kiếm tư liệu, tiếp thu các gợi ý quí báu nhưng cũng chính là thách
thức khi chúng tôi quyết tâm tìm một hướng đi của riêng mình để không lặp lại thành
tựu của những người đi trước.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
“Người Dublin” là tập truyện ngắn duy nhất của James Joyce và hiện nay ở Việt
Nam cũng chỉ có một bản dịch của Vũ Mai Trang do Công ty sách Bách Việt và nhà

xuất bản Văn học phát hành. Tập truyện là đối tượng nghiên cứu của chúng tôi trên
cơ sở đối sánh với nguyên bản tiếng Anh “Dubliners” của nhà xuất bản David
Campbell, London phát hành năm 1991.
Với đề tài “Hiện tượng Epiphany trong tập truyện ngắn người Dublin của
James Joyce” chúng tôi sẽ đi tìm một cách hiểu khái niệm Epiphany mà James Joyce
sử dụng trong tập truyện ngắn duy nhất này của ông.
Epiphany là hiện tượng giúp nhà văn thể hiện chủ đề của tập truyện mà ông gọi
là “ một chuỗi epiphany để thức tỉnh tinh thần dân tộc”. Vậy Epiphany đã chi phối
các thủ pháp nghệ thuật của nhà văn từ việc khắc họa bức chân dung tinh thần của
nhân vật đến việc bộc lộ cái tôi của mình và sử dụng các biểu tượng, cách kết
cấu…nhằm hướng đến hiện tượng Epiphany của độc giả- đối tượng mà nhà văn
muốn đánh thức.
4. Phương pháp nghiên cứu
Sau khi cân nhắc chúng tôi quyết định sẽ vận dụng ba phương pháp chính trong
quá trình nghiên cứu đề tài này: phương pháp văn hóa lịch sử, phương pháp phân


tích cấu trúc, phương pháp hiện tượng học. Bên cạnh đó sẽ cần thêm một số phương
pháp và thao tác hổ trợ khác như phân tích, tổng hợp, so sánh và thống kê.
Trước hết, phương pháp văn hóa- lịch sử sẽ giúp chúng tôi tìm hiểu ý nghĩa
của điều kiện sinh sống tự nhiên cùng những di sản tích tụ từ xa xưa của dân tộc
Ailen lên các sáng tác của James Joyce. Chủng tộc, môi trường dường như đều ghi
dấu ấn sâu đậm lên các truyện ngắn của ông dù ông có là một nhà văn lưu vong, xa
cách tổ quốc, từ bỏ tôn giáo truyền thống của gia đình và dân tộc. Hyppolyte Taine,
nhà nghiên lỗi lạc người Pháp đã viết rằng: “nghệ thuật chỉ tổng kết cái mà lịch sử đã
tạo nên” có nghĩa là dù với những phương pháp đặc thù của riêng mình thì việc sáng
tạo nghệ thuật cũng là một hiện tượng văn hóa phản ảnh trung thành lịch sử. Điều này
hoàn toàn phù hợp với dụng ý của James Joyce khi sáng tác “Người Dublin” là “Viết
một chương trong lịch sử đạo đức của dân tộc” mình.
Với cách kể chuyện đầy ẩn ý của James Joyce chúng tôi thấy rằng có thể vận

dụng phương pháp giải cấu trúc theo quan niệm của Roland Barthes để “phân cắt tác
phẩm” thành từng “đơn vị đọc” sau đó sẽ mượn các mật mã của tác phẩm để phân
giải và mở rộng ý nghĩa của nó. Chúng tôi đặc biệt tâm đắc với lối ví von của Roland
Barthes “đọc tác phẩm cũng như động tách bóc củ hành, không hề có lõi gốc bên
trong”. Quan niệm này rất gần gũi với việc đọc các truyện ngắn của James Joyce
cũng như tất cả các tác phẩm khác của ông.
Với phương pháp cấu trúc, chúng ta sẽ khám phá được “mô thức tự sự” của
James Joyce trong “Người Dublin”. Đó là kiểu trần thuật lấy nhân vật làm trung tâm
với điểm nhìn đa dạng, đa chiều với dụng công xây dựng không gian thời gian nghệ
thuật nhằm khơi gợi được hiện tượng epiphany của cả nhân vật và người đọc. Cái
“mô thức tự sự” này thể hiện quan niệm của tác giả về bản chất con người và bức
tranh xã hội (hay nói khác đi là “mô hình quan niệm về con người và thế giới của tác
giả”(Đào Ngọc Chương) ).
Phương pháp quan trọng thứ ba mà chúng tôi lựa chọn cho luận văn của mình là
phương pháp Hiện tượng học. Phương pháp này có hạt nhân tư tưởng là triết học
hiện tượng của Edmund Husserl được học giả người Ba Lan Roman Ingarden phát


triển thành lí luận văn học. Trong luận văn này chúng tôi vận dụng phương pháp phân
tích kết cấu tác phẩm thành các lớp của Roman Ingarden và đặc biệt chú ý đến tầng
bậc thứ tư “Tầng bậc mô thức hóa”. Mỗi tác phẩm văn học, theo Roman là một
“khách thể mang tính ý hướng” và khách thể ấy chỉ được xuất hiện hạn chế với một
số phương diện cơ bản gọi là mô thức, còn rất nhiều “điểm không xác định” chờ
người đọc lấp đầy. Những điểm không xác định sẽ được gợi ý từ những điểm đã xác
định trong tác phẩm. Do đó chúng tôi có tham vọng sẽ dựa vào những gợi ý trong các
truyện ngắn của James Joyce để thâm nhập vào các tầng bậc ý nghĩa của tác phẩm
liên quan đến hiện tượng epiphany mà Joyce muốn gợi ra ở người đọc truyện ngắn
của mình. Ở đây nếu kết hợp với phương pháp trực giác và thấu cảm chúng ta sẽ có
đủ hai cách cụ thể hóa cái mô thức trong từng truyện ngắn. Một là, như trên đã trình
bày, người đọc có thể từ những gợi ý trong tác phẩm để suy tưởng lấp đầy các

khoảng trống; hai là, tưởng tượng, liên tưởng theo ý hướng của mình.
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi cũng sẽ tiến hành so sánh đối chiếu các
dạng nhân vật, không gian, thời gian hoặc các kết cấu khác nhau giữa các truyện
ngắn. Song song đó cũng cần thống kê các thời điểm mà hiện tượng epiphany xuất
hiện, các dạng nhân vật… vì vậy so sánh và thống kê sẽ là những công cụ hổ trợ đắc
lực cho các phương pháp chính ở trên.
5. Dự kiến đóng góp của luận văn
Ý nghĩa khoa học: trong luận văn này, chúng tôi cố gắng đề xuất và lí giải một
cách hiểu về hiện tượng Epiphany mà Joyce xem như một tiêu chí sáng tác. Vận dụng
cách hiểu ấy chúng tôi tiến hành khảo sát sự chi phối của hiện tượng epiphany đối với
việc hình thành các đặc trưng của nhân vật; nghệ thuật xây dựng thời gian, không
gian và điểm rơi epiphany nơi các nhân vật đạt được sự nhận thức bất ngờ về bản
thân và thế giới. Luận văn cũng nghiên cứu lối viết của James Joyce nhằm hướng tới
và khơi gợi hiện tượng epiphany nơi độc giả “Người Dublin”.
Ý nghĩa thực tiễn: James Joyce là một nhà văn tiêu biểu của chủ nghĩa hiện đại.
Tác phẩm của ông không chỉ được các nhà nghiên cứu say mê mà còn được đưa vào
chương trình học của rất nhiều trường phổ thông và đại học danh tiếng trên thế giới.


Nhưng ở Việt Nam ta, tên tuổi, sự nghiệp và tác phẩm của Joyce hãy còn vắng bóng
và chưa được quan tâm đúng mức.Với luận văn của mình, chúng tôi hi vọng có thể
góp phần thúc đẩy niềm hứng thú nghiên cứu và học tập tác phẩm của Joyce ở trường
đại học. Luận văn cũng sẽ là tiền đề cho việc nghiên cứu hiện tượng epiphany trong
các sáng tác khác của James Joyce .
6. Bố cục của luận văn
Luận văn gồm 3 phần:
Phần mở đầu với sáu mục nhỏ: sau phần lí do chọn đề tài, người viết đi vào Lịch
sử vấn đề để khái quát tình hình nghiên cứu “Người Dublin” ở trong và ngoài nước.
Mục thứ ba sẽ giới hạn lại đối tượng và phạm vi nghiên cứu vì tập truyện duy nhất
của James Joyce có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau. Phương pháp nghiên cứu cũng

cần được xác định bởi nó là chìa khóa để người viết thâm nhập vào đối tượng nghiên
cứu của mình. Hai mục cuối của phần này là dự kiến đóng góp và cấu trúc của luận
văn.
Phần nội dung với ba chương: Chương 1 của luận văn dành một phần quan
trọng để giới thuyết hiện tượng epiphany từ trong tôn giáo đến với văn học. Kế đến là
phần xác định vị trí của tập truyện “Người Dublin” trong thể loại truyện ngắn hiện
đại, trong sự nghiệp sáng tác cũng như trong việc giúp người đọc nhận ra góc khuất
tâm hồn của tác giả James Joyce. Trong khi chương 2 dành để nghiên cứu thế giới
nhân vật của “Người Dublin” dưới sự chi phối của hiện tượng epiphany thì chương
ba khám phá lối viết của nhà văn nhằm gợi epiphany từ phía độc giả. Hai chương cơ
bản này sẽ soi chiếu vào nhau để làm sáng tỏ dụng công nghệ thuật của James Joyce
trong việc thực hiện ý đồ nghệ thuật của mình.
Cuối cùng là Phần kết luận tổng kết lại kết quả nghiên cứu trước khi giới thiệu
phần phụ lục và danh mục tài liệu mà người viết đã tham khảo trong quá trình làm
việc với đề tài của mình.


CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ HIỆN TƯỢNG EPIPHANY VÀ
“NGƯỜI DUBLIN” CỦA JAMES JOYCE
1.1. Epiphany- từ tôn giáo đến nghệ thuật.
Epiphany vốn có nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp cổ “epiphaneia” được hiểu là biểu
hiện hay ấn tượng trước một sự đột hiện, nó còn có nghĩa là một hiện tượng của cảm
giác, ý thức, sự đột ngột hiểu, nắm bắt được bản chất, ý nghĩa của một đối tượng.
Giống như trong trò chơi ghép hình (Jigsaw puzzle), khi mà người chơi đã gắn mảnh
ghép cuối cùng vào, thế là toàn bộ bức tranh hiện ra rõ ràng, đầy đủ hay một thông tin
nhỏ không đáng kể lại bỗng làm hiện ra bản chất sâu xa, huyền bí của hiện tượng.
Trong Kitô giáo, epiphany là hiện tượng liên quan đến một thời điểm, thời điểm
Chúa Jêsu “tỏ mình”, tức là biểu lộ Thiên tính trước sự chiêm ngưỡng, bái vọng của
ba nhà đạo sĩ phương Đông, những người đầu tiên đến với Người. Tự điển thuật ngữ
thần học mục epiphany chú giải:

_Hiển linh: epiphaneia: sự xuất hiện, tỏ ra
a. Những lần tỏ hiện của các thần linh trong Thánh Kinh
b. Lễ Hiển Linh, lễ Ba Vua, mừng vào ngày 6 tháng giêng (hoặc chúa
nhật tiếp đó) tưởng niệm biến cố Thiên Chúa “tỏ mình” cho dân ngoại qua
việc ba nhà đạo sĩ đến thờ lạy Chúa Hài Đồng. Các giáo hội phương Đông
mừng ba biến cố “tỏ hiện” của chúa Giêsu: tỏ hiện cho ba nhà đạo sĩ, tỏ hiện
ở sông Giodan khi lãnh phép rửa và tỏ hiện tại tiệc cưới Cana.[52,98]
Ngày 6 tháng 1, mười hai ngày sau khi Chúa giáng sinh, ba nhà đạo sĩ phương
Đông (các nhà trí thức ở vùng Babilon, phía đông xứ Palestin) đi theo một ngôi sao
dẫn đường đến vùng Bethlehem, tỉnh Juda, đất nước Do Thái để dâng quà mừng
Chúa hài đồng. Lúc bấy giờ, đất nước Do Thái chịu sự thống trị của đế quốc La Mã,
nhân dân sống trong cuộc sống nô lệ tối tăm. Tiên tri Isaia tiên đoán Đấng cứu thế sẽ
xuất hiện và thành Giêrusalem của Do Thái sẽ thành trung tâm ánh sáng. Vào ngày
con Chúa giáng sinh làm người, ánh sáng sẽ xuất hiện trên bầu trời Giêrusalem. Sự
việc đã xảy ra đúng như lời tiên tri, một ngôi sao sáng xuất hiện trên bầu trời nhưng
các thượng tế và luật sĩ, những người lo việc tư tế của thành Jerusalem lại không


quan tâm và nhân dân trong thành vẫn không hề hay biết Đấng cứu thế, vị “Vua của
dân Do Thái” đã giáng sinh. Các nhà đạo sĩ thông tuệ ở phương Đông đã quan sát
được ánh sao sáng tượng trưng cho dấu hiệu chào đời của con Thiên Chúa. Họ đã làm
một cuộc hành trình vượt qua nhiều khó khăn để đến bái lạy Chúa. Cuộc hành trình
không hề suôn sẻ vì có nhiều lúc ánh sao chỉ đường đột ngột biến mất nhưng nhờ
lòng tin và sự kiên trì của họ mà ngôi sao lại hiện ra. Ánh sao đó về sau trong thần
học Kitô giáo gọi là Ánh Sáng Tin Mừng. Tương truyền, việc Đấng cứu thế được sinh
ra đã có nhiều tín hiệu như những lời tiên tri trong các quyển Kinh Thánh có từ nhiều
thế kỉ trước, ngôi sao mới xuất hiện trên bầu trời và khi Chúa hài đồng ra đời còn có
một dàn đồng ca của các thiên thần
Những dấu hiệu ấy, các nhà tư tế của Jerusalem đều biết. Nhưng Chúa không
được sinh ra ở kinh thành giàu có, sang trọng mà sinh ra tại làng Bethlehem hẻo lánh,

nghèo nàn và trong sự thờ ơ, không tìm đến của các nhà tư tế Do Thái. Chỉ có những
nhà đạo sĩ ngoại đạo, từ xa xôi tìm đến với lòng thành kính chân thành mới là những
người đầu tiên được chiêm bái Chúa. Chúa được sinh ra giữa đêm đông giá rét và
nằm trong máng cỏ, nơi các mục đồng trú tạm để canh giữ bầy gia súc. Các nhà đạo
sĩ quì bái lạy một hài nhi bé nhỏ trong một bối cảnh đơn sơ như thế là vì họ đã có cái
nhìn epiphany, cái nhìn mang tính thiên khải. Ba món quà mà họ mang theo cũng bày
tỏ tấm lòng tôn sùng của họ trước Chúa.Đó là vàng, nhũ hương và mộc dược. Vàng
tượng trưng cho uy quyền của vua chúa. Khi dâng vàng cho Chúa Jesu, ba nhà đạo sĩ
đã tôn xưng Ngài là Vua của thế gian, vua trên các vị vua. Nhũ hương tượng trưng
cho thiên tính của Chúa hài đồng. Dâng nhũ hương, các nhà đạo sĩ đã xác tín Chúa
hài đồng là Chúa Con, là Đấng Cứu Thế, đại diện cho Thiên Chúa (Chúa Trời- Chúa
Cha). Mộc dược lại tượng trưng cho nhân tính của Chúa hài đồng. Chúa tuy là con
của Thiên Chúa nhưng cũng có nhân tính như con người, cũng sẽ phải trải qua cái
chết để cứu chuộc cho tội lỗi của con người.
Ngày 6 tháng 1 hàng năm trở thành ngày Lễ ba Vua để kỉ niệm sự kiện các nhà
đạo sĩ đến bái lạy Chúa như trên đã trình bày.Vốn họ là ba nhà chiêm tinh, những nhà
đạo sĩ thông thái nhưng họ đã trở thành biểu tượng cho tinh thần cao quí, một tinh


thần khát khao chân lí, hướng đến cái thiện, điều lành bằng một lương tâm trong sáng
nên đã được tôn xưng là Vua. Lễ ba Vua tượng trưng cho thiện chí tìm kiếm đức tin
vì ba nhà đạo sĩ Babilon ấy là dân ngoại đạo, không biết những lời hứa của Thiên
Chúa trong Kinh Thánh, không được các lời tiên tri dẫn đường, chỉ có ngôi sao của
niềm tin đưa họ đến với Đấng cứu thế. Họ tìm đến với Chúa vì lòng tôn kính Chúa
chứ không phải vì lợi ích của bản thân họ. Sự cao quí đó khiến họ xứng đáng được
tôn xưng. Về sau, lễ Ba Vua dần được gọi là Lễ Epiphany nhằm nhấn mạnh Hồng Ân
Thiên Chúa. Thiện chí của các nhà đạo sĩ là một khởi đầu và Hồng Ân của Chúa là
kết quả của cuộc hành trình. Những điều ấy sẽ còn mở ra nhiều epiphany khác cho
toàn thể con người không phân biệt sắc tộc trên thế giới.
Epiphany theo tự điển thuật ngữ thần học có nghĩa là Hiển Linh[…] chỉ việc

Chúa biểu lộ Thiên tính, Hồng Ân của mình cho con người và những người có đức
tin, lòng kính Chúa sẽ được cứu chuộc. Ba nhà đạo sĩ phương Đông là những người
ngoại đạo, từ nơi xa xôi đến, không phải là dân nước Chúa (Thánh Kinh gọi là dân
ngoại). Vì vậy Lễ Hiển Linh được gọi là Lễ Giáng sinh của dân ngoại, là dịp Chúa
biểu lộ Thiên tính của mình cho dân ngoại. Từ đó, Hồng Ân của Chúa không chỉ
dành cho các tín đồ Kitô giáo mà là cho tất cả mọi người không phân biệt màu da,
giai cấp, dân tộc.
Epiphany là thời điểm Chúa hiển linh trước sự mặc khải của mọi người. Từ đó trở
thành một lễ quan trọng của Kitô giáo. Từ ngày 24 tháng 12 đến ngày 6 tháng 1 là
mười hai ngày của một mùa Giáng Sinh. Lễ Epiphany còn là dịp để các tín đồ Kitô
giáo bày tỏ sự sám hối cho các tội lỗi trong quá khứ khi quá thờ ơ, không mang ánh
sáng Tin Mừng đến cho muôn dân, không quan tâm tìm Chúa mặc dù nhận được các
điềm báo chỉ dẫn (dấu chỉ) sự ra đời của Chúa. Vào dịp lễ Epiphany, các tín hữu Kitô
giáo cũng bày tỏ tình thân ái và tình bằng hữu, bỏ đi sự cố chấp và các thành kiến,
các mối bất hòa để trở nên thông cảm, gần gũi với nhau hơn.
Trong thần học Kitô giáo, Epiphany ban đầu chỉ thời điểm Chúa Jesu hiển lộ
thiên tính của mình trước các đạo sĩ phương Đông vào ngày 6 tháng 1. Sau này,
Epiphany còn chỉ chung các hiện tượng Chúa hoặc các thánh biểu lộ sự linh thánh


của mình cho con người nhận biết. Chẳng hạn, sự kiện Chúa nhận phép rửa tội ở sông
Jordan. Lúc bấy giờ, Chúa Jesu rời ngôi làng mà mình cư trú, bắt đầu lên đường thực
hiện sứ mạng cứu thế. Chưa có ai nhận ra Người là Đức Chúa, chưa có ai thờ phụng
Người. Khi Người đến sông Jordan thì Thánh Joan đang tiến hành phép rửa tội cho
các tín đồ. Chúa cũng bước xuống dòng sông nhận phép rửa dù Người chưa bao giờ
phạm một tội lỗi nào. Thánh Joan bằng cái nhìn thông tuệ đã nhận ra Người nhưng
Người bảo cứ để như thế vì đó là một trong những việc Chúa cần phải trải qua cùng
với con người. Khi Chúa nhận xong phép rửa thì Chúa thánh thần trong biểu tượng
chim bồ câu đã hiện ra trên đầu Người đồng thời Thiên Chúa từ trên trời cao phán
truyền xác nhận Chúa Jesu chính là Con của Thiên Chúa, là Đấng cứu thế. Đó là một

Epiphany cho tất cả tín đồ Thiên chúa có mặt tại sông Jordan lúc ấy.
Một câu chuyện Chúa hiển linh khác cũng thường được nhắc đến trong các bài
giảng vào dịp lễ Epiphany .Đó là câu chuyện Chúa hóa nước lã thành rượu tại tiệc
cưới ở Cana. Đây là lần đầu tiên Chúa biểu lộ quyền năng của mình trước các môn đệ
và rất đông người dự tiệc cưới. Theo Kinh Thánh Tân Ước kể lại, Chúa cùng các môn
đồ đi dự một tiệc cưới ở vùng Cana, tiệc cưới của một người họ hàng nên cả Mẹ
Maria cũng tới dự. Do sự sơ sót của chủ nhà nên giữa lúc bữa tiệc đang tưng bừng thì
hết rượu. Đối với gia chủ và đôi tân hôn thì đó là một sự xấu hổ, lúng túng. Đức Mẹ
Maria đã nhờ Chúa Jesu giúp đỡ gia đình ấy. Dù lúc này chưa tới giờ khắc Chúa biểu
lộ sự linh thánh của mình nhưng vì vâng lời Mẹ, Chúa đã biến sáu chum nước lã
thành sáu chum rượu ngon trước sự bất ngờ của mọi người. Đây được xem là lần biểu
lộ quyền năng công khai đầu tiên của Chúa, một Epiphany khiến các môn đệ mới
theo Người càng thêm tin tưởng, kính phục. Câu chuyện hiển linh tại tiệc cưới này
mang một ý nghĩa giáo lí sâu sắc mà các linh mục thường giảng trong các dịp lễ
Epiphany hoặc trong các buổi học giáo lí liên quan đến ý nghĩa thiêng liêng, bền chặt
của hôn nhân, gia đình. Sự kiện Chúa hiển linh tại tiệc cưới chứng minh mối quan
tâm của Người tới một trong những vấn đề trọng đại nhất của con người- vấn đề hôn
nhân. Kinh thánh Tân Ước cũng ghi lại rất nhiều trường hợp Chúa biểu lộ quyền năng
để cứu giúp cpn người. Mỗi lần như vậy được xem là một Epiphany, tức một lần


Chúa hiển linh. Cho đến ngày nay, các câu chuyện hiển linh của Chúa theo đức tin
của các tín đồ Kitô giáo vẫn thường xuyên xảy ra ở khắp nơi trên thế giới.
Epiphany trong thần học Kitô giáo ban đầu là thời điểm Đức Chúa Jêsu bộc lộ
thiên tính của mình trước những nhà đạo sĩ , sau đó có thêm nghĩa chỉ sự hiển linh
của Chúa và các thánh nhằm mặc khải một chân lí nào đó cho các tín đồ. Nó vừa chỉ
một lễ hội Kitô giáo vừa chỉ một hiện tượng thần học diễn ra tại những thời điểm bất
ngờ khi con người đột ngột nhận ra sự mầu nhiệm mà đức tin mang lại.
Không chỉ trong Kitô giáo mà cả các tôn giáo khác, Epiphany cũng có ý nghĩa
là sự đột ngột nhận thức bản thể. Từ đó, nó soi chiếu vào bản chất thế giới và thay đổi

các suy nghĩ, hành động của mình. “Chí tôn ca” (Bhagavad Gita), một kinh điển của
Ấn Độ giáo xuất hiện một Epiphany của Arjuna khi chàng nhận ra Krishna, người
đánh xe cho mình trong cuộc chiến thực sự là vị thần tượng trưng cho toàn vũ trụ.
“Chí tôn ca” là bài ca linh thánh, là “một bài thơ triết lí có vẻ đẹp phi thường”, là
một phần của áng sử thi đồ sộ Mahabharata. Cuốn sử thi này kể về cuộc chiến tranh
giữa các anh em nhà Pandava và các anh em Kaurava. Họ vốn là các anh em con chú
con bác với nhau có cùng tổ phụ là đức vua Bharata. Các anh em Pandava phải chiến
đấu để giành lại vương quốc đã bị các Kaurava đoạt lấy một cách bất công. Trong
phe Pandava thì Arjuna là anh hùng có sức mạnh chiến đấu mang tính chủ lực. Chàng
lại còn được Krishna đánh chiến xa và kiêm luôn vai trò người hướng đạo tinh thần.
Thế nhưng, khi cuộc chiến sắp bắt đầu, Arjuna nhìn sang bên kia chiến tuyến chỉ thấy
toàn anh em, bạn hữu, sư phụ thân thiết và đáng kính của mình. Chàng bỗng muốn
rời bỏ cuộc chiến mà chàng cho rằng dù có chiến thắng cũng sẽ rất đau lòng. Thái độ
của Arjuna thể hiện một quan niệm nhân văn của triết lí Hindu giáo, đó là Ahimsa
(Bất tổn sinh-không làm hại bất cứ sinh mạng nào). Đúng lúc này thì Krishna, vốn là
hóa thân của Thần bảo vệ Vishnu đã bộc lộ bản chất thần thánh của mình để khuyên
nhủ Arjuna. Chí tôn ca chính là bài ca tổng hợp các triết lí mà sau khi giác ngộ được,
người anh hùng Arjuna đã nhận thức được bổn phận của mình. Chàng đã chiến đấu
như là một vũ khí trong tay thần Bảo vệ vũ trụ, chống lại cái ác và sự bất công để
thiết lập lại một trật tự công bằng, bình đẳng và bác ái. Bằng cách hiến đời mình


×