Tải bản đầy đủ (.pdf) (140 trang)

văn hóa dân gian với thơ nguyễn bính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (682.14 KB, 140 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
T
6

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM
T
6

VĂN HÓA DÂN GIAN VỚI THƠ
NGUYỄN BÍNH
T
0

Luận văn Thạc sĩ
T
1

Khoa học Xã hội và Nhân văn
T
1

T
1

Mã số: 5. 04. 33

Người hướng dẫn :
T
6
1


Tiến sĩ Khoa học BÙI MẠNH NHỊ
T
6
1

T1
6

Người thực hiện:
T
6
1

NGUYỄN DUẬT TU.
T
6

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2000
T
6


LỜI CẢM ƠN

T
6

Luận văn này được hoàn thành nhờ sự giảng dạy và giúp đỡ của các Giáo sư, Tiến sĩ,
Cán bộ các Phòng, Ban của Trường Đại Học Sư Phạm Thành Phố Hồ Chí Minh và đồng
nghiệp gần xa.

Đặc biệt là sự tận tình của Tiến sĩ Bùi Mạnh Nhị, người đã cung cấp tài liệu, trực tiếp
hướng dẫn và góp nhiều ý kiến bổ ích để công trình hoàn thành đúng tiến độ.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó.
Ngày 20 tháng 3 năm 2000.
Người viết
Nguyễn Duật Tu.


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 2
T
8
6

T
8
6

MỤC LỤC .................................................................................................................... 3
T
8
6

T
8
6

QUY ƯỚC DÙNG SÁCH ........................................................................................... 5
T
8

6

T
8
6

DẪN LUẬN .................................................................................................................. 6
T
8
6

T
8
6

1. Lý do chọn đề tài. ............................................................................................................6
T
8
6

T
8
6

2. Lịch sử vấn đề. ................................................................................................................7
T
8
6

T

8
6

3. Nhiệm vụ và phướng pháp nghiên cứu. ......................................................................10
T
8
6

T
8
6

4. Kết cấu luận văn. ..........................................................................................................12
T
8
6

T
8
6

CHƯƠNG 1: NGUYỄN BÍNH, NGƯỜI KẾ TỤC VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA
DÂN GIAN TRUYỀN THỐNG ............................................................................... 13
T
8
6

T
8
6


1.1. Những đặc điểm văn hóa mang tính truyền thống của quê hương và gia đình...13
T
8
6

T
8
6

1.2. Chân dung người kế tục văn hóa dân gian truyền thống. .....................................17
T
8
6

T
8
6

CHƯƠNG 2: NHỮNG YẾU TỐ VĂN HÓA DÂN GIAN TRONG ĐỀ TÀI THƠ
NGUYỄN BÍNH......................................................................................................... 29
T
8
6

T
8
6

2.1. Đề tài quê hương. .......................................................................................................31

T
8
6

T
8
6

2.1.1. Làng và văn hóa làng. ...........................................................................................32
T
8
6

T
8
6

2.1.2. Dòng sông, con đò. ...............................................................................................38
T
8
6

T
8
6

2.1.3 Bức tranh bốn mùa. ................................................................................................41
T
8
6


T
8
6

2.2. Đề tài con người. ........................................................................................................48
T
8
6

T
8
6

2.2.1. Nhân vật "cô gái, chàng trai". ...............................................................................49
T
8
6

T
8
6

2.2.2. Nhân vật "người vợ người chồng ". ......................................................................54
T
8
6

T
8

6

2.2.3. Nhân vật "người mẹ, người con ". ........................................................................59
T
8
6

T
8
6

2.3. Tình yêu đôi lứa. ........................................................................................................62
T
8
6

T
8
6

2.3.1. Những tình huống trữ tình. ...................................................................................64
T
8
6

T
8
6

2.3.2 Những môtip ca dao quen thuộc. ...........................................................................67

T
8
6

T
8
6

CHƯƠNG 3: NHỮNG YẾU TỐ DÂN GIAN TRONG HÌNH ẢNH - BIỂU
TƯỢNG THƠ NGUYỄN BÍNH............................................................................... 74
T
8
6

T
8
6

3.1. Hình ảnh so sánh........................................................................................................76
T
8
6

T
8
6

3.1.1. Các liên từ so sánh. ...............................................................................................79
T
8

6

T
8
6

3.1.2. So sánh tương phản. ..............................................................................................81
T
8
6

T
8
6

3.1.3. Hình ảnh ẩn dụ. .....................................................................................................83
T
8
6

T
8
6

3.2. Một số biểu tượng. .....................................................................................................85
T
8
6

T

8
6

3.2.1. Tình yêu hạnh phúc...............................................................................................86
T
8
6

T
8
6


3.2.2. Bất hạnh khổ đau. .................................................................................................87
T
8
6

T
8
6

3.3. Hình ảnh miêu tả. ......................................................................................................89
T
8
6

T
8
6


3.3.1. Cảnh vật thiên nhiên. ............................................................................................90
T
8
6

T
8
6

3.3.2. Miêu tả con người. ................................................................................................93
T
8
6

T
8
6

3.4. Không gian và thời gian nghê thuật. ........................................................................97
T
8
6

T
8
6

3.4.1. Không gian nghệ thuật. .........................................................................................97
T

8
6

T
8
6

3.4.2 Thời gian nghệ thuật. ...........................................................................................101
T
8
6

T
8
6

CHƯƠNG 4: NHỮNG YẾU TỐ VĂN HÓA DÂN GIAN TRONG THỂ LOẠI
THƠ NGUYỄN BÍNH............................................................................................. 106
T
8
6

T
8
6

4.1. Thể thơ lục bát. ........................................................................................................106
T
8
6


T
8
6

4.1.1. Hiệp vần. .............................................................................................................110
T
8
6

T
8
6

4.1.2 Tiết tấu .................................................................................................................114
T
8
6

T
8
6

4.2. Kết cấu. .....................................................................................................................124
T
8
6

T
8

6

4.2.1. Lối đối đáp ..........................................................................................................125
T
8
6

T
8
6

4.2.2 Lối kể chuyện.......................................................................................................128
T
8
6

T
8
6

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 133
T
8
6

T
8
6

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 137

T
8
6

T
8
6


QUY ƯỚC DÙNG SÁCH

1 . Ý NGHĨA CÁC KÝ HIỆU:
T
5

Sđd

: Sách đã dẫn.

H

: Hà Nội.

TP.HCM

: Thành phố Hồ Chí Minh.

Tr

: Trang.


NXB

: Nhà xuất bản.

KHXH

: Khoa học xã hội.

GD

: Giáo dục.

T
6

T
6

T
6

T
6

T
6

T
6


T
6

TLI, II, III, C.112
T
6

1
T2
6

1
T2
6

: Tư liệu Kho tàng ca dao người Việt tập I, II, III.
Mẫu tự C, câu số 112.
T
6

Ví dụ

:Em là cô gái nhà quê.

T
6

(TLII, E.105).
T

6

2 . CHÚ THÍCH:
T
5

1,2…Ghi chú ở cuối trang.
T
6


DẪN LUẬN
1. Lý do chọn đề tài.
ĐX.Likhatrôp 1 trong cuốn "Thi pháp văn học Nga cổ" đã đặt câu hỏi: Tại sao phải
T
1

F
0
TP
1

T
1
P

nghiên cứu thi pháp văn học Nga cổ nói riêng và thi pháp văn học nghệ thuật nói chung? Và
ông đã lý giải: "Quá trình văn hóa của mỗi dân tộc, không chỉ là quá trình biến cải, tạo nên
cái mới, mà còn là quá trình giữ gìn cái cũ, quá trình tìm thấy cái mới trong cái cũ"
Chúng tôi cho rằng: Ý kiến trên không chỉ đúng với "văn học Nga cổ" mà còn đúng

T
1

với tất cả mọi nền văn học thế giới.
Văn học dân gian Việt Nam là những "vốn văn học cổ" của dân tộc, đã tồn tại từ ngàn
T
1

đời. Văn hóa dân gian, trong đó có ca dao, trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu được
của nhân dân lao động. Đó là lời ru ngọt ngào cho giấc ngủ trẻ thơ mau mắn, là mảnh đất
màu mỡ cho tài năng văn học nảy mầm, kết trái; là "những hòn ngọc quý" 2 do quần chúng
F
TP
1

T
1
P

sáng tạo, cần phải giữ gìn và phát triển.
Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu văn học đã chứng minh được ảnh hưởng của văn hóa
T
1

dân gian và của ca dao đối với các tác giả lớn như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân
Hương... trước đây và ngày nay như Tố Hữu, cây đại thụ của thơ ca cách mạng. Các học giả
cũng xác định được xu hướng trở về với văn học cội nguồn như là một đặc điểm chung của
lịch sử văn học và thi pháp văn học.
Hiện nay, phần lớn các nhà thơ Việt Nam vẫn tiếp tục đi theo xu hướng này để học
T

1

tập, kế thừa tinh hoa văn hóa dân tộc và tạo nên những đặc điểm phong cách nghệ thuật của
mình.

Thi pháp văn học Nga cổ - NXB Khoa Học. M.1979. Tr 352-353, Dẫn theo, Thi pháp ca dao - Nguyễn Xuân Kính NXB KHXH. H. 1992. Tr 236
1

Trích bài nói của Hồ Chủ Tịch tại Hội nghị cán bộ văn hóa ngày 30/10/1958. Dẫn theo, Tục ngữ ca dao dân ca Việt
Nam-Vũ Ngọc Phan, NXB KHXH, H., 1997, Tr.811.

2


Xuất phát từ quan điểm vừa trình bày, chúng tôi chọn đề tài: "Văn hóa dân gian với
T
1

thơ Nguyễn Bính" để tìm hiểu một số ảnh hưởng của văn hóa dân gian, đặc biệt là của ca
dao (bộ phận đặc sắc của văn hóa dân gian) với thơ Nguyễn Bính; mặt khác để làm rõ thêm
phần nào các nhận xét: "Nguyễn Bính - Thi sĩ của đồng quê", "Nguyễn Bính - Nhà thơ chân
quê" của các nhà nghiên cứu đi trước.
Chúng tôi chỉ chọn nhà thơ Nguyễn Bính, một phần vì khuôn khổ luận văn; phần khác,
T
1

bởi đây là tác giả tiêu biểu cho một thế hệ nhà thơ, một "tạng" nhà thơ, là người có dấu ấn
dân gian rất rõ, đủ điều kiện làm sáng tỏ đề tài.
Đồng thời theo chúng tôi, từ tác giả này có thể khái quát được một số đặc điểm tiêu
T

1

biểu của văn học hiện đại Việt Nam, trong quan hệ với văn hóa dân gian cũng như một số
quy luật của văn học hiện đại Việt Nam về tính dân tộc, tính nhân dân và một số đặc điểm
thi pháp nổi bật của nhà thơ được nghiên cứu.

2. Lịch sử vấn đề.
Trong quá trình chuẩn bị để hoàn thành luận văn này, chúng tôi đã được tiếp xúc với
T
1

các bài viết liên quan đến ảnh hưởng của văn hóa dân gian, của ca dao đối với thơ hiện đại.
Trước hết là phát biểu của Hồ Chủ tịch tại Hội nghị cán bộ văn hóa ngày 30/10/1958:
T
1

"Những câu tục ngữ, những câu vè, ca dao rất hay mà lại ngắn, chứ không "tràng giang đại
hải" dây cà ra dây muống... Các cán bộ văn hóa cần phải giúp các sáng tác của quần chúng.
Những sáng tác ấy là "những hòn ngọc quý". Chúng tôi nghĩ, đây là quan điểm của Đảng ta
về công tác sưu tầm nghiên cứu, kế thừa "truyền thống văn hóa cổ" của dân tộc.
Sinh thời, Nguyễn Du - Nhà thơ lớn của dân tộc, trong "Thanh Minh ngẫu hứng", giải
T
1

thích:
Thôn sơ học tang ma ngữ,
T
6
1


Dã khốc thời văn chiến phạt thanh
T
6
1

T
1

(Tiếng hát nơi thôn xóm giúp ta học những câu tả về trồng dâu, trồng gai, tiếng khóc

nơi đồng nội như nhắc lại thời gian chiến tranh). Ý kiến này rút ra từ thực tế sáng tác của
bản thân chứ không phải khảo luận, nhưng đã khẳng định bài học: Sáng tác văn học cần
phải dựa vào cái nền văn học dân gian.


Tháng 3/1963, nhà thơ Tố Hữu, trong bài nói chuyện với giáo viên văn học Hà Nội, đã
T
1

nói về cái việc làm "thư ký" cho cha hồi lên bảy tuổi, nhưng lại thật biết ơn người cha đã
trang bị chút ít "vốn về hình thức thơ ca dân gian và cổ điển", để sau này trở thành nhà thơ
lớn của dân tộc.
Trong tạp chí Văn học tháng 11/1965, Giáo sư Nguyễn Khánh Toàn xác nhận: "Vai trò
T
1

của văn học dân gian trong văn Việt Nam nói chung và trong truyện Kiều nói riêng". Hai
năm sau nữa, ông lại khẳng định: "Phải triệt để khai thác vốn văn nghệ dân gian".
Giữa khoảng thời gian hai bài viết của Giáo sư Nguyễn Khánh Toàn, nhà thơ Xuân
T

1

Diệu đọc tham luận trong đại hội thành lập Hội Văn Nghệ dân gian Việt Nam (tháng
11/1966): "Các nhà thơ học được những gì ở ca dao?". Ông tâm sự: "Học được nhiều lắm.
Riêng tôi, từ ba chục năm nay tôi đã học. Làm thơ mà không nghe, không học ca dao từ
thuở mới biết khôn, thì như lời khổng Tử: "Không học Kinh Thi lấy gì mà nói?". Ông còn
cho biết "Nguyễn Du đã đi học ở trường cô Vy, cô Sa, trường hát ví của cô gái phường Vải,
T2
1

thì mới có hơi thơ Kiều. Puskin vỡ lòng đã đi học trường văn học dân gian của bà nhũ mẫu".
T2
1

Ở tạp chí văn học số 1-1973, ông lại cho đăng "Tiếp nhận ảnh hưởng của thơ truyền thống"
để bổ sung ý kiến của mình mấy năm trước, cũng như xác nhận xu hướng sáng tác trong
thời đại mới.
Trong bài "Phong vị ca dao trong thơ Tố Hữu", Tạp chí Văn học, 11/1968, Nguyễn
T
1

Phú Trọng chọn bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu để xác định "ảnh hưởng" của ca dao trong
thơ.
Đặc biệt nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan, trong "Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam" đã
T
1

nói về "ảnh hưởng qua lại giữa tục ngữ ca dao xưa trong sáng tác mới"... và coi đó như là
một tất yếu trong phương hướng sáng tác.
Cho đến những năm 1980 trở lại đây, các công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa

T
1

văn hóa dân gian và văn học hiện đại, giữa ca dao và thơ, ảnh hưởng qua chúng lại càng
phong phú và đi vào chiều sâu hơn. Đó là: "Mấy ý kiến về vấn đề nghiên cứu mối quan hệ
giữa văn học và văn học dân gian" (Tạp chí Văn học số 1 - 1989 của Giáo sư Đỗ Bình Trị),
"Việc vận dụng thi pháp ca dao trong thơ trữ tình hiện nay" (Tạp chí Văn học 11/1994) và
"Thi pháp ca dao", NXB KHXH, Hà Nội, 1992, đều của Nguyễn Xuân Kính. "Thi pháp thơ
Tố Hữu, NXB Giáo dục,1997 của Trần Đình Sử. "Lục bát và song thất lục bát", NXB


KHXH,1998 của Phan Diễm Phương. "Ca dao vọng về trong thơ Nguyễn Duy",Tạp chí Văn
Học 07/1998 của Phạm Thu Yến.
Từ những bài viết vừa liệt kê ở mục này, chúng tôi nhận thấy: So với mặt bằng nghiên
T
1

cứu văn học dân gian, đề tài văn hóa dân gian trong thơ hiện đại còn khá khiêm tốn. Đúng
như nhận xét của Giáo sư Đỗ Bình Trị: "Ở nước ta thật ra đã có một vài công trình nghiên
cứu... Chúng tôi nghĩ, trước hết đến luận văn nổi tiếng của Giáo sư Nguyễn Khánh Toàn:
Vai trò của văn học dân gian trong văn học Việt Nam nói chung, trong truyện Kiều nói
T6
1

T6
1

riêng. Rất tiếc, những công trình này chưa được tiếp nối để tạo ra hẳn một hướng nghiên
cứu lớn, đặc biệt đối với vặn học quá khứ của dân tộc" 1.
F

2
TP
1

T
1
P

Nhưng việc nghiên cứu vấn đề đã nêu cũng có một quá trình phát triển nhất định. Từ
những bài viết ban đầu có tính thông tin, đăng tải rải rác trên tạp chí, càng về sau, nhất là
những năm cuối thập kỷ 80 trở lại đây, càng có nhiều công trình có tính chuyên môn hóa:
thống kê, so sánh, phát hiện, đánh giá... nhiều vấn đề có liên quan đến ảnh hưởng của văn
hóa dân gian đối với thơ và ngược lại. Điều đáng quan tâm nữa là, các công trình khoa học
này được nhiều nhà xuất bản lớn in và phát hành rộng rãi trong cả nước, đồng thời được
nhiều người trong và ngoài giới văn học đón nhận, nhất là tầng lớp sinh viên.... Ví dụ, riêng
về nhà thơ Nguyễn Bính, đã có các công trình của các tác giả: Hà Minh Đức với "Nguyễn
T
6
1

Bính, thi sĩ của đồng quê" NXB Giáo dục, Hà Nội,1995. Hoài Việt: "Nguyễn Bính, thi sĩ của
T
6
1

T
6
1

quê hương" NXB Hội nhà văn,1992. Hoàng Xuân tuyển chọn "Nguyễn Bính, thơ và đời",

T
6
1

T
6
1

NXB Văn học, Hà Nội,1994. Bên cạnh đó là các bài viết khác như "Lời giới thiệu" của Tô
T
6
1

T
6
1

T
6
1

Hoài, "Lời bạt" của Chu Văn trong Tuyển tập Nguyễn Bính; Hoài Anh "Người chiến sỹ cuối
T
6
1

T
6
1


T
6
1

T
6
1

T
6
1

cùng của thơ Việt" (Chân dung văn học, NXB Văn nghệ TP.HCM,1995). Đặc biệt lời nhận
T
6
1

xét của Hoài Thanh - Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam: "Ở mỗi người chúng ta đều có
T
6
1

T
6
1

một người nhà quê. Cái nghề làm ruộng và cuộc đời bình dị của người làm ruộng cha truyền
con nối từ mấy nghìn năm đã ăn sâu vào tâm tư chúng ta. Nhưng khôn hay dại, chúng ta
ngày một cố lìa xa nền nếp cũ để hòng đi tới chỗ mà ta gọi là văn minh... Ở Nguyễn Bính thì
không thế. Người nhà quê của Nguyễn Bính vẫn ngang nhiên sống như thường...Và thơ

Nguyễn Bính đã đánh thức người nhà quê vẫn ẩn náu trong lòng ta. Ta bỗng thấy vườn cau
bụi chuối là hoàn cảnh tự nhiên của ta và những tính tình đơn giản của dân quê là những

1

Mấy ý kiến về vấn đề nghiên cứu mối quan hệ giữa Văn học và Văn hóa dân gian, tạp chí văn học 1/1989.


tính tình căn bản của ta. Giá Nguyễn Bính sinh ra thời trước, tôi chắc ông đã làm những câu
ca dao mà dân quê vẫn hát quanh năm..."
Do mục đích khác nhau, trong nhiều công trình của các tác giả nêu trên, vấn đề văn
hóa dân gian, trong đó có ca dao với thơ Nguyễn Bính, là một hướng tiếp cận chuyên biệt
thì vẫn chưa đặt ra. Luận văn của chúng tôi mang tính thử nghiệm, do đó, vẫn rất cần được
tiếp tục bổ sung.
Dĩ nhiên, con đường đến với khoa học là vô tận. Tương lai sẽ còn nhiều công trình
khoa học khác giá trị. Song những công trình đã công bố vẫn là những tư liệu rất quý giá,
gợi mở nhiều vấn đề về lý luận, về phương pháp nghiên cứu... là cơ sở vững chắc giúp
chúng tôi hoàn thành luận văn này.

3. Nhiệm vụ và phướng pháp nghiên cứu.
Như tên gọi của luận văn, ở đây chúng tôi sẽ cố gắng chỉ ra mối liên hệ gần gũi giữa
văn hóa dân gian và thơ Nguyễn Bính, tìm một số ảnh hưởng của văn hóa dân gian, đặc biệt
là của ca dao đối với sáng tác nhà thơ "Chân Quê" này. Một nhiệm vụ như thế dẫu sao cũng
rất rộng lớn. Chúng tôi không đặt cho mình mục đích đi tìm hết tất cả các ảnh hưởng của
văn hóa dân gian, của ca dao đối với thơ Nguyễn Bính. Chúng tôi chỉ cố gắng khảo sát,
miêu tả, so sánh để tìm ra một số ảnh hưởng tiêu biểu mà thôi. Mặt khác chúng tôi cũng
không dừng lại chỉ ở những biểu hiện ảnh hưởng mà còn cố gắng chỉ ra một số ảnh hưởng
chứng tỏ sự vận dụng ca dao sáng tạo của nhà thơ. Đây cũng là bằng chứng của sự ảnh
hưởng tích cực của ca dao đối với nhà thơ và sự tiếp thu tích cực của nhà thơ đối với ca dao.
Để thực hiện nhiệm vụ trên đây chúng tôi muốn nói rõ một số điểm về phương pháp

nghiên cứu.
Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với văn học viết rất đa dạng tinh tế... Văn học
dân gian và văn học nói chung, ca dao và thơ Nguyễn Bính nói riêng, tuy gần nhau nhưng
thuộc hai hệ thống tư tưởng thẩm mỹ khác nhau. Khảo sát những mối liên hệ cũng như ảnh
hưởng của văn hóa dân gian với thơ Nguyễn Bính, không đơn giản là việc so sánh đối chiếu
thuần túy.


Để tìm ra ảnh hưởng của văn hóa dân gian trong thơ, trước hết phải có các tác phẩm
của nhà thơ có ảnh hưởng để làm dữ kiện so sánh, đối chiếu các hình thức nghệ thuật, "nội
dung của ảnh hưởng"; sau đó là các tài liệu văn hóa dân gian để khảo sát, thống kê các yếu
tố có quan hệ. Từ đó rút ra các ảnh hưởng về sự vận dụng sáng tạo văn hóa dân gian của nhà
thơ.
Mỗi sáng tác, dù của tập thể hay cá nhân, đều có một hoàn cảnh cụ thể. Cho nên khi
tiếp nhận tác phẩm, phải thẩm định bằng cách phân tích đánh giá giá trị của nó qua hình
thức, nội dung. Trong luận văn này, việc phân tích đánh giá, không chỉ đơn thuần là thưởng
thức cái hay, cái đẹp của tác phẩm, mà để tìm ra mối quan hệ giữa văn hóa dân gian, ca dao
với thơ Nguyễn Bính và một đôi nét về sự sáng tạo của nhà thơ.
Nhà thơ không bao giờ tách khỏi không gian văn hóa, thời đại sống... nên đặt nhà thơ
trong môi trường văn hóa (quê hương, gia đình, cá tính, sở thích cá nhân khi tiếp xúc với xã
hội...) nhằm tìm hiểu cái "tạng" nhà thơ là điều kiện cần. Những yếu tố ngoài văn học này ,
giúp nhà nghiên cứu hiểu kỹ hơn, chính xác hơn "cái bên trong văn học"; đồng thời chỉ ra
những ảnh hưởng riêng của tác giả khi tiếp xúc với văn hóa dân gian.
Như vậy để triển khai thuận lợi và đạt hiệu quả đề tài, chúng tôi dựa vào chuyên đề
giảng dạy: "Một số gợi ý về phương pháp nghiên cứu các yếu tố folklore trong tác phẩm văn
học" của Giáo sư Chu Xuân Diên, coi đó như là một phương pháp cơ bản. Phương pháp này
gồm ba bước:
1) Phát hiện các dấu vết Folklore trong tác phẩm thơ Nguyễn Bính. (Các dấu vết này
hiện ra dưới nhiều hình thức khác nhau: là tác phẩm văn học dân gian nguyên vẹn, hoặc một
phần, một yếu tố folklore, một từ, một ý của bài ca dân gian).

2) Phân tích và chỉ rõ vai trò ý nghĩa của các yếu tố Folklore, mà nhà văn sử dụng
trong tác phẩm với tư cách là một yếu tố nghệ thuật. Chứng minh cách sử dụng các yếu tố
dân gian đó phản ánh tính độc đáo về tư tưởng thẩm mĩ và tài năng của nhà thơ, đồng thời
làm phong phú hơn nội dung, nghệ thuật của tác phẩm và phong cách tác giả.
3) Dựa vào tiểu sử tác giả (quê hương, gia đình, bản thân, quá trình sáng tác...) để tìm
nguyên nhân ảnh hưởng của văn hóa dân gian trong đó có ca dao đến con người tác giả và
những tác phẩm cụ thể.


Trong quá trình khảo sát, chúng tôi không tách bạch từng phần theo quy trình cụ thể,
mà tùy từng trường hợp, có thể kết hợp để trình bày.

4. Kết cấu luận văn.
Ngoài phần dẫn luận (07 trang) và phần kết luận ( 04 trang), nội dung của luận văn
được tổ chức thành 4 chương như sau:
-

Chương 1: Nguyễn Bính, người kế tục và phát triển văn hóa dân gian truyền thống

(15 trang)
-

Chương 2: Những yếu tố văn hóa dân gian trong đề tài thơ Nguyễn Bính (41 trang)

-

Chương 3: Những yếu tố văn hóa dân gian trong hình ảnh - biểu tượng thơ Nguyễn

Bính (30 trang)
trang)


Chương 4: Những yếu tố văn hóa dân gian trong thể loại thơ Nguyễn Bính (24


CHƯƠNG 1: NGUYỄN BÍNH, NGƯỜI KẾ TỤC VÀ PHÁT TRIỂN
VĂN HÓA DÂN GIAN TRUYỀN THỐNG
1.1. Những đặc điểm văn hóa mang tính truyền thống của quê hương và gia đình
Trong "Ca dao tục ngữ Nam Hà" 1 có những câu giới thiệu những địa danh với những
T
6
1

F
3
TP
6
1

P

nghề truyền thống của địa phương:
Ngọc Sài hương nén bán trăm
T
6
1

Thiện Vịnh ương giống rau răm, rau cần
T
6
1


Vân Tập đan đó, đan bồ
T
6
1

Bối Xuyên khâu nón cho cô bán hàng
T
6
1

T
6
1

Thôn Thiện Vịnh thuộc xã Cộng Hòa và thôn Vân Tập, xã Minh Tân đều của huyện
Vụ Bản, tỉnh Nam Định - là quê nội và quê ngoại của nhà thơ Nguyễn Bính - những cái
làng, đồng trũng mà đến mùa nước thì con đường, con đê trên huyện kia chỉ là sợi chỉ mỏng
manh bên mép nước. Cái làng quê ấy đã đi vào trong thơ Nguyễn Bính:
Làng tôi cũng có sông có núi
T
6
1

Núi nhỏ, sông con chảy lặng lờ
T
6
1

Lụt năm Tỵ 2 , dân xiêu đi quá nửa

T
6
1

F
4
TP
6
1

T
6
1
P

Làng đã nghèo, càng nghèo xác nghèo xơ.
T
6
1

(Làng tôi)
Mảnh đất sơn thủy hữu tình, với "dãy núi Trang Nghiêm đứng chống trời", với "đê cao
có đất thả diều", cũng là quê hương có khá nhiều chợ và lễ hội thu hút khách thập phương:
Mồng Một chơi cửa chơi nhà
T
6
1

Mồng Hai chơi điếm, mồng Ba chơi đình
T

6
1

Bùi Văn Cường, Vũ Quốc Ái, Đỗ Nguyên Hạnh, Đoàn Tùng biên soạn: Ca dao tục ngữ Nam Hà, Ty văn hóa Nam
Hà, 1975.
2
Năm 1929.
1


Mồng Bốn chơi chợ Quả Linh 1 .
T
6
1

F
5
TP
6
1

T
6
1
P

Mồng Năm chợ Trình, mồng Sáu non Côi
T
6
1


Cách ngày mồng Bảy mới thôi
T
6
1

Bước sang mồng Tám đi chơi chợ Viềng
T
6
1

Chợ Viềng năm có một phiên... 2
T
6
1

F
TP
6
1

Đồng Quan mở hội vui thay
T
6
1

Thi văn thi võ lại bày cờ tiên
T
6
1


Sân đình nhạc múa đôi bên
T
6
1

Dưới sông chèo hát lại dìm bóng trâu
T
6
1

Bắt dê, bắt vịt leo cầu...
T
6
1

Ba năm vua mở khoa thi
T
6
1

Đệ Nhất thi hát, Đệ Nhì thi bơi
T
6
1

Đệ Tam thi đánh cờ người
T
6
1


Phương Bông, Đệ Tứ mồng Mười tháng Ba
T
6
1

3
7F
TP
6
1

P

"Mồng Mười tháng Ba" là ngày khai hội Đền Trần. Sau khi vua Trần mất, các làng vẫn
giữ lệ thường, ba năm một lần mở hội vào dịp triều đình mở khoa thi. Đây là nơi ba lần hội
đại quân trở về khôi phục Thăng Long. Cung Thiên Trường đã đi vào lịch sử, vào thơ:
Cảnh thanh u, vật cũng thanh u
T
6
1

Mười mấy châu tiên đây một châu
T
6
1

Trăm tiếng đàn chim, dàn nhạc hát
T
6

1

Nghìn hàng đám quýt, đám quân hầu... 4
T
6
1

F
8
TP
6
1

Chợ Quả Linh, xã Lê Lợi ; chợ Trình Xuyên, xã Liên Bảo; chợ Gói xã Thanh Côi, chợ Viềng xã Kim Thái, - đều
thuộc huyện Vụ Bản, Nam Định.
2
Ca dao tục ngữ Nam Hà. Tr 29-30.
3
Các làng Đệ Nhất, Đệ Nhị, Đệ Tam, Phương Bông thuộc xã Mỹ Trung; Đệ Tứ, xã Lộc Hạ đều thuộc huyện Mỹ Lộc,
Nam Định. Quê Vua Trần.
4
Ngự chơi Hành cung Thiên Trường - Trần Nhân Tôn. Bản địch của Hoàng Việt. Dẫn theo, Lê Trí Viễn. Đặc
trưng văn học Trung đại Việt Nam, NXB KHXH. H. 1996. Tr 199.
1


Cũng vào đầu tháng ba âm lịch còn có hội Phủ Giầy:
Thứ nhất là hội Phủ Giày
T
6

1

Vui là vui vậy không tày chùa Bi 1
T
6
1

F
9
TP
6
1

Phủ Giày là đền thờ công chúa Liễu Hạnh, bà tổ của tơ lụa, một trong tứ bất tử của
Việt Nam 2.
0F
1
P

P

Từ những cuộc giao du này đã tạo ra những cơ hội học tập kinh nghiệm sản xuất để
hình thành nhiều ngành nghề nổi tiếng trong nhân dân: "Làng Mai đan lát, Giáp Nhất đánh
rèn" 3, những tục thi làm bánh, nấu xôi: "Giầy Gôi, xôi Báng, rượu Hầu" 4 và những gánh hát
F
1
P

P


F
2
1
P

P

dân gian náo nức lòng người: "Con hát Thông Khê, đan sề Trang Hạ" 5 đến thế hệ Nguyễn
F
3
1
P

P

Bính còn xốn xang:
Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
T
6
1

Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy
T
6
1

Hội chèo làng Đặng 6 đi qua ngõ
T
6
1


F
4
TP
6
1

T
6
1
P

Mẹ bảo: "Thôn Đoài hát tối nay"
T
6
1

(Mưa xuân)
Mảnh đất chuộng võ mà cũng sành văn này, từ thời vua Hùng dựng nước đã từng đúc
trống đồng với kỹ thuật tinh xảo 7 đặc biệt, đã sinh ra những người con làm rạng rỡ non sông
F
5
1
P

P

đất nước. Đó là những vua chúa, tướng lĩnh thuộc dòng họ Trần ở thôn Tức Mạc (xã Lộc
Hòa, huyện Mỹ Lộc ngày nay), từng ba lần đánh thắng quân Nguyên, giành lại nền độc lập
dân tộc.

Mười hai đời kế tiếp danh khoa, vẻ vang tộc phả
T
6
1

Trăm nghìn năm vốn dòng thi lễ, rạng rỡ gia phong 8
T
6
1

F
TP
6
1

Ca dao tục ngữ Nam Hà. Tr 28. Phủ Giày ở xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, Nam Định.
Tứ bất tử của Việt Nam là: Tản Viên (con rể vua Hùng), Thánh Dóng (tướng của vua Hùng), Chữ Đồng Tử (lấy
công chúa Kim Dung, con gái vua Hùng) và bà chúa Liễu Hạnh.
3
Thuộc xã Quang Trung - Vụ Bản.
4
Làng Gôi (Côi) xã Thanh Côi. Làng Xuân Báng, xã Kim Thái, Làng Hầu, xã Liên Minh đều thuộc huyện Vụ Bản.
5
Làng Thông Khê thuộc xã Cộng Hòa, Vụ Bản nổi tiếng con hát sắc đẹp hát hay.
6
Làng Đặng Xá, xã Mỹ Hưng, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, kế huyện Vụ Bản.
7
Trống đồng Ngọc Lũ, Vũ Bị , Núi Gôi.
8
Trần Quốc Vượng - Việt Nam cái nhìn địa-văn hóa, NXB Văn hóa dân tộc, H,.1998, Tr 228.

1
2


Đó là những danh sĩ tài hoa như Trạng Nguyên Lương Thế Vinh, Hoàng Giáp Phan
Văn Nghị, nhà thơ trào phúng Trần Tế Xương, nhà sử học Trần Huy Liệu; nhà viết kịch
Trúc Đường, nhạc sĩ - tác giả "Quốc ca" Văn Cao...
Mảnh đất nhỏ nhoi trong địa bàn tổ quốc bao la, đã để lại bao nhiêu tình cảm cho con
người "chôn nhau cắt rốn" nơi đây:
Quê ta đó yên vui đẹp đẽ
T
6
1

Dân làng ta chăm chỉ cần cù
T
6
1

(Bức thư nhà - Nguyễn Bính )
Và khi phải chia xa thì chẳng bao giờ nguôi ngoai nỗi nhớ:
Anh đi anh nhớ non Côi
T
6
1

Nhớ dòng sông Vị, nhớ người tình chung.
T
6
1


Non Côi, sông Vị là nơi chứng kiến tiếng khóc chào đời, bước chân chập chững đầu
tiên và là nguồn cảm hứng không bao giờ cạn của nhà thơ Nguyễn Bính.
Đất nước, quê hương bao giờ cũng có ảnh hưởng đến con người, nhất là những người
mà thiên bẩm đã phú cho họ sự mẫn cảm trong quan hệ với môi trường xã hội văn hóa.
Chúng ta đã từng biết ảnh hưởng của vùng văn hóa Nghệ Tĩnh với Nguyễn Du, vùng văn
hóa Phong Châu đối với Tản Đà, vùng văn hóa Phú Xuân đối với Tố Hữu...
Và chính mảnh đất Nam Định, quê hương của Lương Thế Vinh, của Trần Huy Liệu,
Văn Cao; quê hương của hội Phủ Giầy, hội Đền Trần... đã nuôi dưỡng hồn thơ dân gian
Nguyễn Bính.
Điều thú vị hơn nữa là, những miền đất Nguyễn Bính sống sau này như Hà Nội, Huế,
Tháp Mười... cũng đều là những chiếc nôi hoặc những vùng đậm đặc văn hóa dân gian, mà
chắc chắn sẽ là những ảnh hưởng không nhỏ đến phong cách thơ Nguyễn Bính:
Thăng Long, Hà Nội đô thành
T
6
1

Nước non ai vẽ nên tranh họa đồ
T
6
1

Cố đô rồi lại tân đô
T
6
1

Nghìn năm văn vật bây giờ vẫn đây
T

6
1


Thừa Thiên trai hiền gái lịch
T
6
1

Non xanh nước biếc điện ngọc đền rồng
T
6
1

Tháp bảy tầng, Thánh Miếu, Chùa Ông
T
6
1

Chuông chùa Diệu Đế, trống rung Tam Tòa.
T
6
1

1.2. Chân dung người kế tục văn hóa dân gian truyền thống.
Nguyễn Bính sinh năm 1918, tên thật là Nguyễn Trọng Bính. Cụ thân sinh là Nguyễn
Đạo Bình, làm nghề dạy học, tính tình điềm đạm hiền lành, thường dạy các con: "Nhà ta coi
chữ hơn vàng. Coi tài hơn cả giàu sang trên đời". Cụ thân mẫu là Bùi Thị Miện, nguyên là
thôn nữ nết na xinh đẹp, con gái gia đình khá giả, có truyền thống yêu nước, em ruột cụ Bùi
Trình Khiêm 1 nổi tiếng khắp vùng: “Vụ Bản Trình Khiêm, Hà Nam Sứ Chỉ ”

F
7
1
P

P

Nguyễn Bính mồ côi mẹ lúc mới ba tháng tuổi nên cuộc sống của ông gắn bó nhiều
với bên ngoại. Ngay cả cái tên Nguyễn Trọng, cũng do người cậu Trình Khiêm "Văn hay
chữ tốt", rồi sau này là người thầy đầu tiên của Nguyễn Bính đặt cho.
Nguyễn Bính thông minh học giỏi, làm thơ từ bé. Mười ba tuổi đã nổi tiếng "thần
đồng", "thơ tiên" 2 được cậu Khiêm khen và "cưng" hơn so với các anh Bùi Hạnh Cẩn, Trúc
F
8
1
P

P

T
5

T
5

Đường 3 Nguyễn Mạnh Phác - Trúc Đường là anh ruột Nguyễn Bính, sau khi thi đỗ Thành
F
9
1
P


P

Chung vào loại giỏi ở Hà Nội (1932), năm 1933 vào Hà Đông dạy ở trường tư thục, bắt đầu
viết văn, làm thơ. Anh đi, Nguyễn Bính đi theo để được anh dạy thêm tiếng Pháp, truyền đạt
vặn học Pháp cho Bính (Nguyễn Bính đã có vốn thơ Đường). Trúc Đường thay mẹ chăm
sóc em. Suốt cuộc đời Nguyễn Bính gắn bó với Trúc Đường cả về văn chương lẫn đời sống.
Những bài thơ ở dạng bản thảo của Nguyễn Bính, Trúc Đường là người đọc đầu tiên và góp
ý kiến cho Bính.
Học xong tiểu học, lên trung học, Nguyễn Bính tỏ ý xin anh đi sáng tác thơ. Trúc
Đường không cản được, đành bụng để cho em theo đuổi nghiệp thơ. Thế là Nguyễn Bính
được dịp tung hoành. Nhưng đi đâu? Làm gì? sống bằng gì với hai bàn tay trắng và cái vốn
T
5

T
5

Thân sinh nhà văn Bùi Hạnh cẩn. Tham gia phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục. Đại biểu quốc hội tỉnh
Nam Định, khóa I nước VNDCCH.
2
Theo Thanh Hằng, cháu ruột Nguyễn Bính, con gái Trúc Đường.
3
Nhà văn, nhà viết chèo, kịch lịch sử (1911 -1991). Tác giả của 4 vở kịch ngắn, 14 vở kịch dài về đề tài
lịch sử.
1


học vấn không bằng cấp, trong cái xã hội đầy những cạm bẫy bất công của chế độ phong
kiến nửa thuộc địa đang tàn lụi? Vậy mà, Nguyễn Bính vẫn quyết dứt áo ra đi, coi như là:

Cha đừng tiếc, mẹ đừng thương
T
6
1

Cầm như đồng kẽm qua đường đánh rơi.
T
6
1

(Thư gửi thầy mẹ)
Nguyễn Bính mắc phải cái bệnh thông thường của khá đông văn nhân, thi sỹ lúc bấy
giờ: bệnh giang hồ. Trong "Một quãng đường" nhà văn Tô Hoài kể: "Một lần Nguyễn Bính
rủ tôi đi "giang hồ". Nghĩa là đi chơi không cần tiền. Có tiền mới đi chơi thì là xoàng rồi, ai
cũng làm được... ở sông Thương, ngày ngày, Chương (Vũ Hoàng Chương) và Bính tha thẩn
vào xóm Thùng Đấu phía ngoại ô thị xã Bắc Giang. Hai bạn thơ vừa đi vừa nghêu ngao đọc
thơ. Ông Chương thì "Tố của Hoàng ơi", ông Bính thì "Ngày xưa vua nước Bướm...", tôi đi
giữa, ngất nghểu như ba thằng rồ..."
Lang thang như thế, hết Bắc Giang, Bắc Ninh lại đến Thái Nguyên, Lạng Sơn; trở về
Hà Nội, Nguyễn Bính lại tiếp tục xuống Hải Dương, sang Hải Phòng... chán chê mê mỏi, lại
về sống với anh ruột. Nhưng chỉ được một thời gian là Nguyễn Bính lại đi. Lúc này (năm
1940) Trúc Đường đã chuyển ra Hà Nội và đang viết truyện dài "Nhan sắc". Nguyễn Bính
quyết định chia tay anh, đi Huế. Trúc Đường tán thành nhưng không có tiền, bèn cho Bính
chiếc máy ảnh, rồi về quê bán dãy thềm đá xanh - vật báu duy nhất còn lại của gia đình, đưa
tất cả tiền cho em.
Bính vô Huế, tháp tùng có Vũ Trọng Can. Chính tại đây, giữ đúng lời giao ước với
Trúc Đường, Nguyễn Bính sáng tác đều đặn: "Xuân tha hương", "Hoa với rượu", "Tựu
trường", "Giời mưa ở Huế"... và cũng đều đặn gửi ra cho Trúc Đường đọc, trước khi đưa
đăng báo.
Năm 1942, khi "Nhan sắc" của Trúc Đường ra mắt bạn đọc, thì cũng là thời gian

Nguyễn Bính trở ra Hà Nội và về thăm quê mẹ, chuẩn bị một chuyến "hành phương Nam",
1943:
Ta đi nhưng biết về đâu chứ
T
6
1

Đã dấy phong yên khắp bốn trời.
T
6
1


Lưng vốn vẫn là mấy vần thơ, một bộ quần áo cũ nát, vẫn cũng mấy người bạn sính
thơ, thích giang hồ; Nguyễn Bính đã đặt được chân đến Sài Gòn, Lục tỉnh. Những tháng
năm lưu lạc ở miền Nam, Nguyễn Bính đã đến Ba Tri - nhà của cụ Đồ Chiểu, đến Hà Tiên nổi tiếng phong cảnh đẹp, ở trong nhà Mộng Tuyết, Đông Hồ một thời gian rồi lại trở lên
Sài Gòn.
Cách mạng tháng Tám (1945), tổng khởi nghĩa, Nam bộ kháng chiến, chống Nhật rồi
chống quân Anh, Pháp; Nguyễn Bính lưu lạc từ vùng này sang vùng khác, khi thì bị hãm
trong vòng thế lực của Bình Xuyên, khi thì lạc lõng ở các vùng giáo phái…với bao nhiêu tin
đồn thất thiệt, lúc nói sống, lúc nói chết…nhưng thực sự, Nguyễn Bính đã trụ lại ở chiến
khu Đồng Tháp và với tư cách nhà thơ - chiến sỹ, ông đang cất cao giọng hào hùng ca ngợi
Đồng Tháp Mười:
Bảy trăm nghìn mẫu đất
T
6
1

Sớt chia bốn tỉnh miền Nam
T

6
1

Khăng khít biên thùy Chùa Tháp
T
6
1

Nằm trong tay trái Cửu Long Giang
T
6
1

Đồng Tháp Mười
T
6
1

Đồng Tháp Mười
T
6
1

Bao la bát ngát
T
6
1


T

6
1

Kể từ khi
Đặt chân lên đất nước này
Giặc Pháp giở trò xâm lược
Ngậm hờn vong quốc
Tháp Mười chung oán hận với non sông

Gươm báu chôn vùi
Đợi giờ quật khởi
Dân ta giành được chính quyền


Gieo mùa hạnh phúc xây nền tự do.
Đặc biệt, bài thơ ca ngợi tiểu đoàn 307 của Nguyễn Bính được nhạc sĩ Nguyễn Hữu
Trí phổ nhạc, đã lan truyền khắp trong Nam ngoài Bắc. Cho đến tận bây giờ, khí thế "đánh
đâu được đấy, oai hùng biết mấy..." vẫn còn hừng hực.
Từ một người bị thành kiến là "Văn nghệ sĩ cũ", "Văn nghệ sĩ lãng mạn", Nguyễn
Bính đã thành người tri kỷ, tri âm của đông đảo cán bộ chiến sĩ, từ các đồng chí lãnh đạo
như Lê Duẩn, Trần Văn Trà... anh chị em văn nghệ sĩ như Bảo Định Giang, Hoàng Tấn,
Đoàn Giỏi, Minh Lộc, Sơn Nam, Trần Kim Trắc, Hoàng Việt, Ba Du, Tám Danh... cho đến
các chiến sĩ vệ quốc đoàn, dân quân du kích, bà con nông dân, các em học sinh... Nguyễn
Bính sống trong tình yêu thương, đùm bọc của quê hương Nam bộ. Ông cũng sống những
giờ phút sảng khoái nhất để viết những câu thơ "Gươm súng bật giọng thép, thù sâu ôi thù
sâu", những bài ca dao vận động đồng bào đánh giặc:
Con chim có cánh thì bay
Con ơi! Có nước thì mày phải thương
Thà rằng chết ở chiến trường
Còn hơn chết ở trên giường thê nhi

Nhà thơ đã hoàn toàn hòa mình vào nhịp sống của toàn dân chiến đấu.
Hòa bình lập lại, tập kết ra Hà Nội, Nguyễn Bính trở về ở với gia đình Trúc Đường.
Hơn mười năm xa cách, âu lo, nhung nhớ, anh em nay lại bên nhau, tiếp tục bàn bạc về sáng
tác... Nhưng một nửa trái tim của Nguyễn Bính còn ở miền Nam. Niềm vui chưa trọn vẹn
đối với Nguyễn Bính cũng như cán bộ chiến sĩ miền Nam tập kết. Nguyễn Bính còn vợ và
hai con gái ở Nam Bộ. Lại những nhớ thương khắc khoải:
Mỗi tin bọn nó gây tang tóc
Em ạ! Đêm đêm mộng chẳng lành
Còn vang tiếng thét rừng Tân Lập
Vẫn ứ thù sâu đập Vĩnh Trinh
Đèn chong suốt sáng thơ đòi viết
Cắn chặt vành môi lệ chảy quanh


Tinh lên mặt giấy đèn soi tỏ
Hồn hướng về Nam bút đẩy nhanh.
(Xuân nhớ miền Nam)
Ba ôm tấm áo xanh giữa ngực
Tưởng chừng nghe thổn thức tim con
Bâng khuâng cặp mắt đen tròn
Chắt chiu vang tiếng chim non gọi đàn...
Treo áo con bên bàn làm việc
Nhìn chim thêu ba viết thư này
Áo không gửi được hôm nay
Thì ba giữ lấy mai ngày cho con
(Chim thêu)
Ở Hà Nội đến cuối năm 1964, Nguyễn Bính về công tác tại Ty Văn hóa Nam Hà, sau
hai mươi năm "Xuân tha hương", "Xuân lại tha hương", "Xuân vẫn tha hương". Công việc
làm thơ tuyên truyền, ca ngợi chiến thắng miền Nam, thơ sản xuất về công, nông nghiệp...
cuốn hút Nguyễn Bính. Đồng thời ông vẫn tiếp tục sáng tác các tập thơ "Gửi người vợ miền

Nam", "Bức thư nhà" với lời lẽ trau chuốt mượt mà theo phong cách dân gian:
Được tin anh lòng mừng khôn xiết
Trả lời anh em viết thư này,
Trong màn con đã ngủ say,
Ngoài sân trăng giải bóng cây la đà
Nay em kể chuyện nhà anh rõ:
Mẹ bình yên, con nhỏ chịu chơi
Em theo công điểm kịp người,
Lứa tằm, lứa lợn mẹ nuôi vẫn đều...

Anh hăng hái mà đi tiền tuyến!


Đánh quân thù lập chiến công cao
Cho dù xa cách bao lâu
Việc nhà em gắng trước sau vẹn tròn...
Tài thơ Nguyễn Bính, phải chăng một phần do dòng tộc có truyền thống học giỏi (từ
thời Lê Cảnh Thống (TK XVI) đã có người đỗ tiến sĩ, nay còn ghi bia đá ở Văn Miếu, Hà
Nội). Một phần được sự dạy dỗ đến nơi đến chốn của người cậu, người thầy Trình Khiêm
(Nguyễn Bính được cậu dạy cả chữ quốc ngữ và chữ Nho; chỉ dẫn động viên sáng tác về thơ
phú, văn chương, giảng giải từng câu đối Viếng ông Nghè Giao cũ, bài thơ Đông Hoa Sen
của Phạm Văn Nghị). Một phần là sự yêu thương chăm sóc của người anh ruột Trúc Đường
ngay từ điểm xuất phát trên con đường "Marathon Thơ" mà Nguyễn Bính theo đuổi suốt
đời, hay là do môi trường văn hóa, môi trường sống nơi quê mẹ?
Thôn Vân có biếc có hồng
Hồng trong nắng sớm, biếc trong vườn chiều
Đê cao có đất thả diều
Giời cao lắm lắm có nhiều chim bay
Khó mà đánh giá chính xác phần đời hay phần đạo đã tạo dựng nên một chân dung thơ
Nguyễn Bính. Công bằng mà xét, thì phải cả hai. Quê hương đã trở thành máu thịt của nhà

thơ. Trong các tập thơ xuất bản ở các thời kỳ khác nhau, tập nào cũng có bài về quê hương;
nhiều bài khác đề tài nhưng cũng xen vào những câu, chữ về quê hương:
Sáng giăng chia nửa vườn chè
(Thời trước - 1936)

Vào đám làng tôi mở trống chèo
Bay cờ, gió lộng, đỏ đuôi nheo
(Trở về quê cũ - Hà Nội 1957)
Quê hương với Nguyễn Bính có khi là hình dáng đất nước:
Quê hương tôi có ca dao tục ngữ
Ông trăng tròn từng xuống mọi nhà chơi


Một đĩa muối cũng nặng tình chồng vợ
Một dây trầu cũng nhắc chuyện lứa đôi.
Quê hương tôi có Trường Sơn một dải
Có Hồng Hà lại có Cửu Long Giang
Có Hà Nội, có Hồ Tây, hồ Kiếm
Có chợ Đồng Xuân bày đủ mặt hàng
(Bài thơ quê hương)
Lại có khi là những kỷ niệm rất riêng tư:
Ngày còn để chỏm chăn bê
Xin tre hàng xóm, mải mê vót diều
(Chuyện tiếng sáo diều)
Nhưng trong trường hợp nào, quê hương cũng là nơi in đậm dấu vết cuộc đời nhà thơ,
cho nên, dù có "tha hương" nơi đất khách quê người, từ mãi Thái Nguyên - Việt Bắc đến tận
Đồng Tháp - Hà Tiên, hoặc ngay giữa kinh kỳ Hà Nội - Huế - Sài Gòn, thì lòng người vẫn
hướng về "quê mẹ ":
Viết gửi về anh anh coi chơi
Một vài dòng ngắn thế này thôi

Để anh thấu rõ tình mong nhớ
Của đứa em anh ở cuối trời
(Lá thư về Bắc)

Tôi từ xa cách miền Nam
Quê nhà lửa xém vườn cam bao lần
Cây rừng mây núi khôn ngăn
Trông về con mắt đăm đăm từng giờ
(Trưa hè)


"Quê Mẹ" trong thơ Nguyễn Bính là tất cả con người, kỉ vật, lưu niệm: là khung cửi
dệt, là cánh đồng xa, là đêm trăng sáng, là hạt mưa xuân, là tiếng trống chèo, là dòng sông,
con đò; là người cha, người mẹ, người chị, là cô hàng xóm, cô hái mơ, anh lái đò; là ánh mắt
nhìn trộm nhau qua dậu mồng tơi, qua khung cửa sổ; là mối thương thầm nhớ vụng trong
đêm hát chèo, trong giấc mơ "quan trạng"... "Chỉ có quê hương mới tạo dựng nên được từng
câu, từng chữ Nguyễn Bính. Trên chặng đường nửa thế kỷ thơ, mỗi khi những gắn bó mồ
hôi nước mắt kia đầy lên, ngây ngất nhớ thương, day dứt không thể yên, khi ấy xuất hiện
những bài thơ tình quê tuyệt vời của Nguyễn Bính" 1
F
0
2
P

Tuy nhiên, chỉ có tình quê không vẫn chưa đủ tạo nên sự trường tồn của thơ Nguyễn
Bính. Trong "làng thơ" Việt Nam, không thiếu những nhà thơ tả cảnh que, tình quê. Đó là
các tác giả "Quê hương", "Bến Mi Lăng", "Cổng làng", "Chợ Tết", "Bến đò ngày xưa" 2.
F
1
2

P

P

Nhưng mỗi nhà thơ cảm xúc mọt cách riêng. "Anh Thơ không nhà quê một tí nào, Anh Thơ
là người thành thị đi du ngoạn nên chỉ thấy cảnh quê:
Trong thôn vắng, tiếng gà xao xác gáy
T
9
1

Các bà già đưa võng hát, thiu thiu...
T
9
1

Những đĩ con ngồi buồn lê bắt chấy
T
9
1

Bên đàn ruồi rạc nắng hết hơi kêu.
T
9
1

(Trưa hè)
T
6


Bàng Bá Lân cũng ít sống trong tình quê, nhưng hiểu cảnh quê hơn Anh Thơ, hiểu vì
T
6

mến hơn:
Quán cũ nằm lười trong sóng nắng
T
9
1

T
9
1

Bà hàng thưa khách ngả thiu thiu

Nghe mồ hôi chảy đầm như tắm
T
9
1

Đứng lặng trong mây một cánh diều
T
9
1

(Trưa hè)
T
6


1
2

Tô Hoài - Lời giới thiệu - Tuyển tập Nguyễn Bính, NXB Văn học, H., 1986,Tr. 19.
Tế Hanh, Yến Lan. Bàng Bá Lân, Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ.


Thơ Nguyễn Bính không có nhiều những bức tranh quê cụ thể như Anh Thơ, hoặc tỷ
T
6

mỉ với cảnh, với người như Đoàn Văn Cừ, nhưng lại khơi gợi nhiều ở thế giới nội tâm, ở
tình đời, tình người, tạo nên phong cách riêng:
Thầy ơi đừng chặt vườn chè
T
9
1

Mẹ ơi đừng bán cây lê con trồng...
T
9
1


T
9
1

Nhớ thương thầy mẹ khôn cùng
Lạy thầy lạy mẹ thấu lòng cho con

(Thư gửi thầy mẹ)
T
6

Tầm tầm trời cứ đổ mưa
Hết hôm nay nữa là vừa bốn hôm!
Cô đơn lòng lại thêm buồn
Tạnh mưa bươm bướm biết còn sang chơi?
(Người hàng xóm)
T
6

Nguyễn Bính không sa đà vào miêu tả chi tiết mà chỉ dựng cảnh, tạo không khí để gợi
T
6

tình cảm:
Đèo cao cho suối ngập ngừng
Suối thoai thoải nắng chiều lưng lửng chiều
(Đường rừng chiều)
T
6

Lá rơi theo gió lá bay
Bên hồ ta đứng ngắm say nhìn hồ
(Bên Hồ)
Một chút cảnh vật nhưng đã gợi được không khí thanh bình của làng quê, hoặc nếp
sống của gia đình, phong tục quê hương:
Em là con gái trong khung cửi
Dệt lụa quanh năm với mẹ già



×