Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

nhận thức và thái độ của sinh viên sư phạm các tỉnh đồng bằng sông cửu long đối với những chuẩn mực đạo đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.66 MB, 118 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

ĐỖ VĂN ĐOẠT

NHẬN THỨC VÀ THÁI ĐỘ CỦA SINH VIÊN SƯ PHẠM
CÁC TỈNH ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG ĐỐI VỚI
NHỮNG CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC

Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số: 60 31 80

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. LÊ THỊ MINH HÀ

Thành phố Hồ Chí Minh - 2007


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn TS. Lê Thị Minh Hà đã rất tận tâm chỉ dẫn tôi trong thời
gian thực hiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn: Các giảng viên và sinh viên ở Khoa Sư phạm - Đại học
Cần Thơ, Đại học Sư phạm Đồng Tháp và Khoa Sư phạm - Đại học An Giang đã ủng hộ tôi
trong quá trình nghiên cứu; Ban chủ nhiệm Khoa, các giảng viên trong Khoa Tâm lý - Giáo
dục, Phòng Khoa học công nghệ và Sau đại học, các phòng ban liên quan của Trường Đại
học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ tôi trong suốt khóa
học.
Tôi xin cảm ơn các bạn bè cùng lớp học, đồng nghiệp, người thân đã động viên tôi
hoàn thành luận văn.



Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 06 năm 2007
Tác giả
Đỗ Văn Đoạt


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 2
T
0

T
0

MỤC LỤC .................................................................................................................... 3
T
0

T
0

BẢNG VIẾT TẮT ....................................................................................................... 5
T
0

T
0

MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 6
T

0

T
0

1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................6
T
0

T
0

2. Mục đích nghiên cứu .....................................................................................................8
T
0

T
0

3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu .............................................................................8
T
0

T
0

4. Giới hạn của đề tài .........................................................................................................8
T
0


T
0

5. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài....................................................................................9
T
0

T
0

6. Giả thuyết khoa học .......................................................................................................9
T
0

T
0

7. Phương pháp nghiên cứu ..............................................................................................9
T
0

T
0

8. Đóng góp của đề tài ......................................................................................................10
T
0

T
0


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ......................... 11
T
0

T
0

1.1. Lịch sử nghiên cứu ván đề nhận thức và thái độ của sv đối với CMĐĐ .............11
T
0

T
0

1.1.1. Lược sử nghiên cứa vấn đề trên thế giới .............................................................11
T
0

T
0

1.1.2. Lược sử nghiên cứu vấn đề ở Việt Nam ..............................................................12
T
0

T
0

1.2. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu .......................................................................15

T
0

T
0

1.2.1. Lý luận về nhận thức và thái độ ..........................................................................15
T
0

T
0

1.2.2. Lý luận về chuẩn mực đạo đức ............................................................................25
T
0

T
0

1.2.3. Đặc điểm nhận thức và tình cảm của lứa tuổi thanh niên sinh viên ....................33
T
0

T
0

CHƯƠNG 2: TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU ............................................................... 38
T
0


T
0

2.1. Nội dung nghiên cứu .................................................................................................38
T
0

T
0

2.1.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận .....................................................................................38
T
0

T
0

2.1.2. Khảo sát thực trạng ..............................................................................................38
T
0

T
0

2.1.3. Nghiên cứu thử nghiệm .......................................................................................38
T
0

T

0

2.2. Tiến trình nghiên cứu ...............................................................................................39
T
0

T
0

2.2.1. Thực hiện đề cương nghiên cứu: .........................................................................39
T
0

T
0

2.2.2. Thực hiện đề tài nghiên cứu: ...............................................................................39
T
0

T
0

2.3. Các phương pháp nghiên cứu ..................................................................................39
T
0

T
0


2.3.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận .........................................................................39
T
0

T
0

2.3.2. Phương pháp điều tra ...........................................................................................40
T
0

T
0

2.3.3. Phương pháp phỏng vấn ......................................................................................41
T
0

T
0


2.3.4. Phương pháp quan sát ..........................................................................................41
T
0

T
0

2.3.5. Phương pháp thử nghiệm.....................................................................................42

T
0

T
0

2.3.6. Phương pháp toán thống kê .................................................................................44
T
0

T
0

CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ................................................................ 46
T
0

T
0

3.1. Kết quả nghiên cứu thực trạng ................................................................................46
T
0

T
0

3.1.1. Vài nét về khách thể nghiên cứu .........................................................................46
T
0


T
0

3.1.2. Thực trạng nhận thức và thái độ của sinh viên sư phạm một số tỉnh đồng bằng
sông Cửu Long đối với chuẩn mực đạo đức..................................................................46
T
0

T
0

3.2. Kết quả nghiên cứu thử nghiệm ..............................................................................75
T
0

T
0

3.2.1. Đề xuất một số biện pháp nâng cao nhận thức và thái độ của SVSP các tình
ĐBSCL đối với các CMĐĐ...........................................................................................75
T
0

T
0

3.2.2. Kết quả thử nghiệm tác động nâng cao nhận thức và thái độ của SVSP đối với
các CMĐĐ .....................................................................................................................76
T

0

T
0

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ................................................................................... 84
T
0

T
0

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 88
T
0

T
0

PHỤ LỤC ................................................................................................................... 91
T
0

T
0


BẢNG VIẾT TẮT



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đảng và Nhà nước ta luôn xác định rõ con người là trung tâm chiến lược và cũng là
vốn quí của xã hội, đặc biệt trong thế kỷ 21. Sự phát triển của con người là yếu tố quyết
định mọi sự phát triển của xã hội. Trong đó, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
sự phát triển, vừa là sản phẩm của nền văn hóa, lại vừa là chủ thể sáng tạo ra các giá trị văn
hóa của xã hội. Để có thể tồn tại và đáp ứng những đòi hỏi của xã hội, con người phải nhận
thức, tỏ thái độ và hành động tác động tới hiện thực khách quan. Nhận thức, thái độ và hành
vi có mối quan hệ chặt chẽ với nhau nhưng không ngang bằng về nguyên tắc, cấu thành nên
nhân cách của con người.
Nhận thức là một quá trình, quá trình này thường gắn với mục đích nhất định, nên
nhận thức của con người là một hoạt động. Đặc trưng nổi bật nhất của hoạt động nhận thức
là phản ánh hiện thực khách quan. Các quá trình nhận thức mang lại cho con người sự hiểu
biết về thực tại khách quan. Khi con người có nhận thức đúng về những chuẩn mực đạo đức,
thì họ không những sẽ có hành vi đúng mà còn có thái độ đúng mực đối với những hiện
tượng xấu, hành vi lệch chuẩn trong xã hội. Như vậy, bản thân họ một mặt, có khả năng tự
điều chỉnh hành vi của mình, mặt khác, có ảnh hưởng tích cực đến những người xung
quanh.
"Quyền" định hướng cho cách ứng xử của con người và cộng đồng người thuộc về đạo
đức, mà cái gốc của nó là các chuẩn mực đạo đức. Chuẩn mực đạo đức truyền thống và
chuẩn mực đạo đức hiện tại là bài toán của toàn xã hội, đặc biệt là đối với nhà trường. Nghị
quyết lần thứ V - Ban chấp hành Trung uơng Đảng khóa VIII khẳng định: "Tư tưởng, đạo
đức, lối sống là cốt lõi phẩm chất văn hóa trong một con người, là cái gốc của con người, nó
chi phối hành vi của con người". Do đó, vấn đề đạo đức luôn luôn là vấn đề thường trực
trong quá trình phát triển của đất nước.
Đạo đức là một phần không thể thiếu trong cấu trúc nhân cách của con người, vì vậy,
quan tâm đến nhận thức và thái độ đối với các vấn đề đạo đức của thế hệ trẻ, đến việc hình
thành các giá trị đạo đức, nhằm đáp ứng yêu cầu của thời đại là nghĩa vụ không chỉ riêng
của nhà trường mà của cả gia đình và xã hội.



Sinh viên Sư phạm là những nhà giáo tương lai. Họ cần phải thường xuyên trau dồi
nhân cách của bản thân, trong đó có yếu tố gốc của nhân cách là đạo đức trong sáng, lành
mạnh. Lao động sư phạm có đối tượng không phải là những nguyên vật liệu, máy móc,
những vật vô tri vô giác mà là những con người cụ thể với đời sống tinh thần phong phú.
Giáo viên không được phép tạo ra những phế phẩm, mà phải thực hiện đúng vai trò "trồng
người", Để ươm hạt, gieo và vun trồng cho "cây" nhân cách phát triển tốt, nhà giáo phải trau
dồi nhân cách, đó là sự cần thiết và được qui định một cách khách quan. Yếu tố định hướng
hoạt động của con người thực sự có ý nghĩa chính là đạo đức.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam là một trong những
nhân tố tạo ra sự chuyển biến tích cực trên hầu hết mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy
nhiên, những mặt trái của kinh tế thị trường đã và đang bộc lộ, tác động không kém phần
quyết liệt. Nó len lỏi vào từng ngõ xóm, từ thành thị đến nông thôn, đến mọi tầng lớp, thành
phần trong xã hội ở các mức độ khác nhau. Trong thực tế, có một bộ phận học sinh, sinh
viên cho rằng lối sống phải được "hiện đại hóa" để hòa nhập với thế giới hiện đại, họ thay
đổi cả về nhận thức, thái độ và hành vi đối với lối sống của người Việt Nam. Các trào lưu
"thực dụng", "siêu tốc",... trong lối sống của bộ phận thanh niên đang là mối hiểm họa do sự
lây lan của nó trong cộng đồng tuổi trẻ. Và như vậy, những vấn đề về đạo đức đang là điểm
báo động đỏ. Nguyên nhân có thể do họ thiếu hiểu biết và không hình thành được thái độ
đúng mực đối với các chuẩn mực đạo đức. Sự gạt bỏ nó hay hạn chế nó đến mức độ nào
không thể ngày một ngày hai và càng không thể là trách nhiệm riêng lẻ của một bộ phận
giáo dục nào trong xã hội, mà là sự tích hợp của các lực lượng, phương pháp, biện pháp
giáo dục theo một hệ thống thường xuyên, rộng khắp.
Vấn đề đạo đức đã, đang được các nhà Đạo đức học, Triết học, Xã hội học, Giáo dục
học,... và Tâm lý học quan tâm. Thế nhưng, một bộ phận SVSP có nhận thức và thái độ như
thế nào đối với các chuẩn mực đạo đức, lại là vấn đề hết sức cấp bách cần được nghiên cứu.
Do vậy, chúng ta cần tìm hiểu, đánh giá đúng thực trạng nhận thức và thái độ đối với
các chuẩn mực đạo đức của thế hệ trẻ ở từng vùng, miền, từ đó đưa ra những đề xuất khả thi
nhằm nâng cao nhận thức và thái độ của họ về những chuẩn mực đạo đức và vị trí của
chúng trong sự phát triển xã hội trên cơ sở giữ gìn, phát huy truyền thống văn hóa, đạo đức

dân tộc.


Nhận thức được tầm quan trọng trên, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: "Nhận thức
và thái độ của sinh viên Sư phạm các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đối với những
chuẩn mực đạo đức".

2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng nhận thức và thái độ của SVSP một số tỉnh đồng bằng sông cửu
Long đối với chuẩn mực đạo đức. Từ đó, thử nghiệm một số biện pháp được đề xuất nhằm
nâng cao nhận thức và thái độ đối với các những chuẩn mực đạo đức, góp phần hoàn thiện
nhân cách cho các giáo sinh.

3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Sinh viên sư phạm ở các trường Đại học tại các tỉnh An Giang, Đồng Tháp và thành
phố Cần Thơ:
- Khách thể nghiên cứu thực trạng: 570 SVSP năm thứ nhất và thứ hai.
- Khách thể nghiên cứu thử nghiệm: 80 SVSP năm thứ hai của ĐHCT.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Nhận thức và thái độ của sinh viên Sư phạm các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đối
với những chuẩn mực đạo đức.

4. Giới hạn của đề tài
Do thời gian và điều kiện có hạn, nên đề tài này chủ yếu tập trung:
- Nội dung: Tìm hiểu nhận thức và thái độ của SVSP đối với những CMĐĐ. Từ đó, đề
xuất một số biện pháp góp phần nâng cao nhận thức và thái độ đạo đức của các giáo sinh.
- Khách thể: 650 SVSP các tỉnh An Giang, Đồng Tháp và thành phố Cần Thơ.
- Phạm vi: Khoa Sư phạm - Đại học An Giang, Đại học Sư phạm Đồng Tháp và Khoa
Sư phạm - Đại học Cần Thơ.

- Thời gian: Từ tháng 06/2006 đến 06/2007.


5. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
5.1. Nghiên cứu một số vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài: nhận thức, thái độ, đạo
đức, chuẩn mực đạo đức,...
5.2. Khảo sát thực trạng nhận thức và thái độ của SVSP một số tỉnh đồng bằng sông
Cửu Long đối với những chuẩn mực đạo đức và nguyên nhân của thực trạng.
5.3. Đề xuất thử nghiệm một số biện pháp tác động nhằm nâng cao nhận thức và thái
độ của sinh viên sư phạm đối với những chuẩn mực đạo đức.

6. Giả thuyết khoa học
Nhận thức của đa phần SVSP được khảo sát ở đồng bằng sông Cửu Long chưa đầy đủ
và phù hợp, thái độ chưa thực sự đúng mực và ổn định đối với những chuẩn mực đạo đức;
do nhiều nguyên nhân. Nếu có biện pháp tác động thích hợp sẽ giúp SVSP có nhận thức đầy
đủ và thái độ đúng với các chuẩn mực đạo đức.

7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Các phương pháp nghiên cứu lý luận
Sử dụng các phương pháp phân tích và tổng hợp các tài liệu lý luận trong và ngoài
nước có liên quan đến đề tài.
7.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp điều tra
Xây dựng hệ thống anket điều tra với mục đích thu thập các thông tin về thực trạng
nhận thức và thái độ, làm cơ sở vận dụng một số biện pháp tác động nhằm nâng cao nhận
thức và thái độ của SVSP đối với những CMĐĐ.
7.2.2. Phương pháp phỏng vấn
Tiến hành gặp gỡ, trao đổi, trò chuyện với SVSP về tình hình thực tế, qua đó đánh giá
nhận thức và thái độ của họ đối với các chuẩn mực đạo đức.
7.2.3. Phương pháp quan sát

Phương pháp này được sử dụng nhằm thu thập những thông tin cần thiết bổ sung cho
việc thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.


7.2.4. Phương pháp thử nghiệm
Phương pháp thử nghiệm được sử dụng với mục đích chứng minh hiệu quả của biện
pháp tác động nhằm nâng cao nhận thức và thái độ của SVSP đối với các chuẩn mực đạo
đức.
7.3. Phương pháp thông kê toán học
Xử lý thông tin thu được.
Các phương pháp nghiên cứu trên sẽ được cụ thể hóa trong quá trình thực hiện đề tài
của luận văn.

8. Đóng góp của đề tài
8.1. Về lý luận
Kế thừa kinh nghiệm của các bậc tiền bối, nghiên cứu của luận văn nhằm góp phần
phân tích những vấn đề lý luận về nhận thức, thái độ, chuẩn mực đạo đức, về nhận thức và
thái độ của TNSV đối với các CMĐĐ.
8.2. Về thực tiễn
- Đánh giá thực trạng nhận thức và thái độ của SVSP một số tỉnh ĐBSCL đối với các
CMĐĐ.
- Phối hợp trong Bộ môn nơi người nghiên cứu công tác biên soạn tài liệu cho SVSP
học.


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Lịch sử nghiên cứu ván đề nhận thức và thái độ của sv đối với CMĐĐ
Vấn đề nhận thức và thái độ từ trước đến nay đã được nhiều tác giả nghiên cứu, tập
trung ở những vấn đề như là: giới tính, sức khỏe sinh sản, tệ nạn xã hội, nạn bạo hành phụ

nữ, thẩm mỹ, học tập,... Tuy nhiên, vấn đề nhận thức và thái độ của con người nói chung,
sinh viên sư phạm nói riêng đối với những chuẩn mực đạo đức chưa được nghiên cứu nhiều.

1.1.1. Lược sử nghiên cứa vấn đề trên thế giới
- B.Ph. Lomov đề cập đến thái độ của cá nhân đối với các vấn đề xung quanh, bao hàm
sự đánh giá xem cá nhân có thái độ như thế nào đối các sự kiện, hiện tượng của thế giới mà
nó đang sống, trong đó có những vấn đề liên quan đến hứng thú, ác cảm, định hướng giá
trị,...
- Năm 1909-1910, A.Ph. Lazuski phân tích thái độ cá nhân đối với môi trường theo
nghĩa rộng, bao gồm giới tự nhiên, sản phẩm lao động và những cá nhân khác, các nhóm xã
hội và những giá trị tinh thần như khoa học, nghệ thuật. Ông đặc biệt chú ý đến thái độ của
cá nhân với nghề nghiệp, với lao động, xem có thái độ lao động, thói quen lao động tốt hay
không, với sở hữu, với người khác và với xã hội. Tác giả cũng cho hay, đời sống tâm lý của
con người được chia làm hai lĩnh vực:
+ Cái tâm lý bên trong: Là cơ sở bẩm sinh của nhân cách, bao gồm khí chất, tính cách
và một loạt các đặc điểm tâm sinh lý khác.
+ Cái tâm lý bên ngoài: Là hệ thống thái độ của nhân cách đối với môi trường xung
quanh.
Như vậy, thái độ cá nhân, theo Lazuski, là sự biểu hiện ra bên ngoài của cái tâm lý,
phản ứng với sự tác động của môi trường xung quanh.
-G. Bandzeladze nghiên cứu nhiều về đạo đức và trong tác phẩm của mình "Đạo đức
học", Bandzeladze đã đề cập đến thái độ cộng sản chủ nghĩa đối với của công và sự đấu
tranh chống lại những biểu hiện của tâm lý tư hữu. Tác giả nhấn mạnh thái độ tôn trọng của
công, tác động tích cực tới sự sáng tạo dồi dào của cải vật chất và của cải tinh thần, thái độ


yêu lao động sinh ra những sản phẩm lao động,... Tác giả còn phân tích cơ sở tâm lý của
hành vi đạo đức ở ba mặt: Trí tuệ (con người phải có ý thức đạo đức, biết thế nào là tốt, là
xấu, những nghĩa vụ của mình); Tình cảm (có tình cảm đúng đắn, yêu cái tốt, ghét cái
xấu,...); Ý chí (có nghị lực thì làm việc sẽ tốt).

- Trong cuốn "Những cơ sở của tâm lý học sư phạm" (tập 2), V.A. Kruchetxky đã
khẳng định thanh niên có khả năng nhận thức sâu sắc một số phạm trù phức tạp của đạo đức
như: tính ngay thẳng, tính khiêm tốn, tự cao,..., tuy nhiên không đồng đều trong nhận thức ở
tất cả các em.

1.1.2. Lược sử nghiên cứu vấn đề ở Việt Nam
- Trong chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX - 07 "Con người Việt
Nam - mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế xã hội" có một số đề tài nghiên cứu
các vấn đề có liên quan đến đạo đức và nhân cách con người Việt Nam nói chung, học sinh
sinh viên nói riêng. Ban chủ nhiệm chương trình cùng với các chủ nhiệm đề tài đã cho ra
mắt bạn đọc một số kết quả nghiên cứu: "Tìm hiểu định hướng giá trị của thanh niên Việt
Nam trong điều kiện kinh tế thị trường" (Thái Duy Tuyên chủ biên, Hà Nội-1994); "Giá trị Định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị" (Nguyễn Quang uẩn chủ biên, Hà Nội1995); "Kết quả kiểm tra về vai trò của nhà trường trong việc hình thành và phát triển nhân
cách con người Việt Nam" (Hoàng Đức Nhuận chủ biên, Hà Nội-1995); "Gia đình - Nhà
trường - Xã hội với việc phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ
người tài" của Nguyễn Trọng Bảo chủ biên, Hà Nội-1996).
- Năm 1995, Viện nghiên cứu phát triển giáo dục, Bộ Giáo dục và Đào tạo có nghiên
cứu "Đạo đức, lối sống sinh viên hiện nay và những phương hướng,biện pháp giáo dục lối
sống cho sinh viên" (Mã số: B94-38-32 do Mạc Văn Trang chủ nhiệm).
- Một số tạp chí, có các bài viết xoay quanh vấn đề đạo đức và nhân cách: "Những
phẩm chất nhân cách cần giáo dục cho sinh viên" của Mạc Văn Trang (Tạp chí nghiên cứu
ĐH và GD chuyên nghiệp, số 4-1992); "Thẩm định những chuẩn mực giá trị trên bình diện
nhân cách" của Đỗ Huy (Tạp chí Triết học, số 3-1993); "Hình thành và phát triển nhân cách
trong cơ chế thị trường" của Lê Đức Phúc (Tạp chí Cộng sản, số 6-1995); "Một số suy nghĩ
về giáo dục nhân cách cho giáo sinh ở các trường sư phạm" của Bùi Văn Huệ (Tạp chí ĐH
và GD chuyên nghiệp, số 7-1996); "Bồi dưỡng đạo đức sinh viên trong nền kinh tế thị
trường" của Huỳnh Khái Vinh (Thông tin những vấn đề lý luận, số 16-1998); "Việc làm -


động cơ thúc đẩy tính tích cực học tập của sinh viên hiện nay" của Trần Hồng Đức (Tạp chí
ĐH và GD chuyên nghiệp số 3/1999).

- Đặc biệt, ngày 18 tháng 10 năm 1996, tại Hà Nội, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức
Hội thảo khoa học với chuyên đề "Định hướng giáo dục nhân cách đạo đức trong các trường
đại học", thu hút đông đảo các nhà khoa học, quản lý giáo dục tham gia. Ngày 25 tháng 06
năm 1998, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phối hợp với Ban khoa giáo Trung ương, Ban tư
tưởng văn hóa Trung ương tổ chức Hội nghị "Nâng cao chất lượng và hiệu quả việc giảng
dạy, học tập các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ở các trường Đại học và
Cao đẳng", trong đó bàn nhiều đến giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên.
- Trong cuốn "Tổng quan tình hình sinh viên, công tác Hội và phong trào sinh viên"
(tháng 12 năm 1998), Trung ương Hội sinh viên Việt Nam, bước đầu đã có những đánh giá
về định hướng giá trị, lối sống, đạo đức, nhu cầu của sinh viên Việt Nam từ năm 1993 đến
1998.
- Hoàng Mộc Lan với kết quả nghiên cứu: Định hướng về những đặc điểm nhân cách
của sinh viên hiện nay, cho thấy sinh viên đánh giá cao đặc điểm phẩm chất đạo đức tốt.
- Hà Nhật Thăng trong cuốn "Giáo dục hệ thống giá trị đạo đức - nhân văn" đề cập đến
những giá trị đạo đức cơ bản cần giáo dục cho HS, đồng thời giới thiệu tham khảo định
hướng giá trị đạo đức của một số nước trên thế giới.
- Tác giả Huỳnh Khái Vinh và các tác giả khác nêu bật sự thay đổi nhận thức, thái độ,
định hướng giá trị của các cá nhân đối với các giá trị đạo đức trong lao động, nghề nghiệp,
giáo dục - đào tạo, dân chủ hóa, gia đình và cộng đồng.
- Phạm Minh Hạc cùng các tác giả khác đã khảo sát thực trạng nhận thức các giá trị
đạo đức ở 666 đối tượng, chủ yếu là học sinh, sinh viên và kết luận: Các chuẩn mực đạo đức
được HSSV coi trọng hơn cả là những phẩm chất thể hiện đạo lý làm người, tôn trọng quan
hệ con người với con người như: Kính trọng và biết ơn thầy cô, tôn trọng lẽ phải, trung
thực, lễ độ, hiếu thảo,... Các chuẩn mực đạo đức mà HSSV xem nhẹ hơn là những giá trị
liên quan đến quyền, nghĩa vụ công dân đối với nhiệm vụ xây dựng đất nước, và giá trị
trong tình yêu hôn nhân như: Tình yêu trong sáng, thủy chung,... Các chuẩn mực đạo đức
trong quan hệ với bạn bè, thầy cô giáo, và những người thân trong gia đình được HSSV coi
trọng hơn là các chuẩn mực thuộc về trách nhiệm của công dân đối với quê hương đất nước.
Và những chuẩn mực đạo đức cần thiết đối với con người để thực hiện có hiệu quả CNH,



HĐH đất nước chưa được HSSV quan tâm thỏa đáng; Nhận thức về thái độ đối với lao động
còn hạn chế; Có sự khác biệt giữa nhận thức của HSSV và các thế hệ cha anh.
- Kết quả khảo sát năm 2001 của Ủy ban Quốc gia về thanh niên Việt Nam về "Tình
hình tư tưởng thanh niên" cho thấy, phần lớn thanh niên đã nhận thức được đúng những
nhiệm vụ cần thực hiện để sớm đạt được mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh": Chống tham nhũng, quan liêu, mất dân chủ; Giữ vững ổn định chính
trị, an ninh xã hội; Phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; Tiếp tục vận động, xây dựng chỉnh
đốn Đảng; Tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc,...
- Đặng Cảnh Khanh đã nghiên cứu đạo đức của thanh niên trong tình hình xã hội ngày
nay, khẳng định: Nhìn chung, thanh niên Việt Nam ngày càng tin vào sự lãnh đạo của Đảng,
mong muốn đứng trong hàng ngũ của Đảng, ý thức chính trị, ý thức cộng đồng, tinh thần
xung phong phục vụ, lòng nhân ái, sẵn sàng nhường cơm sẻ áo, xả thân vì nghĩa lớn. Tuy
nhiên, vẫn còn một bộ phận không nhỏ thanh niên bộc lộ những hạn chế, yếu kém đáng lo
ngại như: mất phương hướng, giảm sút niềm tin, thậm chí hoài nghi vào chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Một bộ phận thanh niên thờ ơ về chính trị, lo làm ăn kinh tế bằng bất kỳ giá nào,
ngại tham gia sinh hoạt Đoàn và các hoạt động xã hội, chạy theo lối sống vật chất tầm
thường, muốn hưởng thụ hơn cống hiến, quên quá khứ, chưa nhận thức được âm mưu "diễn
biến hòa bình".
Tóm lại, những vấn đề đạo đức, nhân cách của sinh viên đã được nhiều tác giả quan
tâm nghiên cứu. Song, qua các tài liệu tìm được, chúng tôi thấy chưa có công trình nào trực
tiếp bàn về nhận thức và thái độ của SVSP (đặc biệt ở đồng bằng sông cửu Long) đối với
các chuẩn mực đạo đức. Để góp phần tìm hiểu vấn đề còn ít được quan tâm nghiên cứu này,
tác giả chọn đề tài: "Nhận thức và thái độ của sinh viên sư phạm các tỉnh đồng bằng sông
Cửu Long đối với những chuẩn mực đạo đức".


1.2. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
1.2.1. Lý luận về nhận thức và thái độ
1.2.1.1. Nhận thức

Nhận thức là một trong ba mặt cơ bản của đời sống tâm lý con người (nhận thức, tình
cảm và hành động). Nhận thức là tiền đề của tình cảm và hành động ý chí nhưng đồng thời
lại có quan hệ mật thiết với chúng và các hiện tượng tâm lý khác của con người.
Nhận thức là một hoạt động rất đặc trưng của con người nói chung và mỗi người nói
riêng. Nhận thức là một lĩnh vực hết sức phức tạp. Do vậy, khi nghiên cứu vấn đề này cần
xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau. Nhận thức là một hoạt động của chủ thể nhằm khám
phá thế giới xung quanh, phản ánh những thuộc tính và qui luật khách quan của sự vật, hiện
tượng.
a1. Bản chất của nhận thức
- Nhận thức là một quá trình hoạt động:
Ở con người, quá trình nhận thức thường gắn với mục đích và động cơ nhất định nên
nhận thức của con người là một hoạt động.
Đặc điểm nổi bật nhất của hoạt động nhận thức là tri thức về hiện thực khách quan. Nó
không chỉ là tri thức về các thuộc tính bên ngoài mà còn là tri thức về các thuộc tính bên
trong.
Hoạt động nhận thức là cơ sở của mọi hoạt động tâm lý con người.
Nhận thức là hoạt động khám phá thế giới xung quanh của chủ thể, nhằm tìm ra chân
lý hay sự thật về những thuộc tính và qui luật khách quan của sự vật, hiện tượng. Nhận thức
đúng làm cơ sở cho tình cảm, ý chí, quan điểm, lập trường, tư tưởng và hành động đúng.
Hoạt động nhận thức thể hiện ở những mức độ nhận thức khác nhau và mang lại sản
phẩm khác nhau về hiện thực khách quan.
- Nhận thức mang bản chất xã hội, lịch sử:
Hoạt động nhận thức bao giờ cũng phải dựa vào những tri thức đã có, dựa vào kinh
nghiệm của nhân loại đã tích lũy được, tức là dựa vào kết quả nhận thức mà xã hội loài
người đã đạt được ở trình độ phát triển lịch sử lúc đó.


Nhận thức phải sử dụng các ngôn ngữ khác nhau do các thế hệ trước sáng tạo ra với tư
cách là phương tiện biểu đạt, khái quát và gìn giữ kết quả hoạt động nhận thức của loài
người.

Quá trình nhận thức được thúc đẩy bởi nhu cầu của xã hội, nghĩa là ý nghĩ của con
người được hướng vào giải quyết các vấn đề bức xúc do xã hội đặt ra.
Nhận thức của con người mang tính chất lịch sử, bởi bề rộng của sự khái quát và chiều
sâu của việc phát hiện ra bản chất của sự vật hiện tượng được qui định không chỉ bởi khả
năng của cá nhân, mà còn bởi kết qủa của hoạt động nhận thức mà loài người đã đạt được,
vào kho tàng tri thức có liên quan, vào trí tuệ của nhân loại.
Như vậy, tri thức của mỗi người được hình thành và phát triển trong quá trình hoạt
động nhận thức tích cực của bản thân họ, nhưng nội dung và tính chất của tri thức được qui
định bởi trình độ chung, tồn tại trong một giai đoạn phát triển xã hội lúc đó. Nhận thức là
một sản phẩm của sự phát triển xã hội - lịch sử.
a2. Các mức độ của quá trình nhận thức
Đã có nhiều tác giả trong và ngoài nước bàn về các mức độ của quá trình nhận thức,
nhưng đề tài này chỉ tập trung nói đến quan niệm của B.S. Bloom về đánh giá các mục tiêu
nhận thức:
Từ các mức độ của quá trình nhận thức, các nhà tâm lý học và giáo dục học ứng dụng
vào quá trình dạy học. Một trong các ứng dụng đó là việc xác định các mức độ của các mục
tiêu dạy học. Năm 1956, Bloom (nhà sư phạm học người Mỹ) và các cộng sự biên soạn tài
liệu: "Hệ phân loại các mục tiêu sư phạm, lĩnh vực nhận thức". B.S. Bloom đưa ra ba lĩnh
vực đánh giá:
- Lĩnh vực nhận thức: Tất cả những mục tiêu có liên hệ với sự học có tri thức.
- Lĩnh vực cảm xúc: Tất cả những mục tiêu liên hệ tới sự học về giá trị và thái độ.
- Lĩnh vực tâm - động: Tất cả các mục tiêu liên hệ với sự học chủ yếu về vận động, cử
chỉ chân tay.
Ông chia nhận thức thành nhiều mức độ khác nhau, phân loại mục tiêu nhận thức ra
thành 6 mức độ từ thấp đến cao. Mỗi mức đặc trưng cho một hoạt động trí tuệ.


- Mức 1: Biết (Knowledge) - đưa vào trí nhớ và phục hồi lại thông tin của cùng một
đối tượng nhận thức, ghi nhớ, có thể nhắc lại các sự kiện, định nghĩa các khái niệm, nội
dung các định luật,...

- Mức 2: Hiểu (Comprehension) - có thể thuyết minh, giải thích, chứng minh những
kiến thức đã lĩnh hội (phục hồi ngữ nghĩa thông tin trong những đối tượng khác nhau, thiết
lập liên hệ ở những đối tượng khác nhau).
-Mức 3: Vận dụng (Application) - có thể áp dụng kiến thức vào những tình huống
mới, khác với trong bài học (sử dụng các nguyên tắc, qui tắc, những phác đồ để giải quyết
một vấn đề nào đó).
- Mức 4: Phân tích (Analysis) - biết phân chia một toàn thể thành các bộ phận, một vấn
đề lớn thành những vấn đề nhỏ hơn, làm sáng tỏ mối quan hệ giữa các bộ phận (đồng nhất
những bộ phận tạo nên cái tổng thể, từ đó phân biệt các ý tưởng trong đối tượng đó).
- Mức 5: Tổng hợp (Synthesis) - biết sắp xếp các bộ phận thành toàn thể thống nhất,
ghép các vấn đề nhỏ thành các vấn đề lớn hơn, tạo thành một tổng thể mới (liên kết tất cả
các bộ phận tạo nên tổng thể).
- Mức 6: Đánh giá (Evaluation) - có thể nhận định, phán đoán về giá trị, ý nghĩa của
mỗi kiến thức (tạo thành những phán đoán về số lượng cũng như chất lượng thao tác tạo nên
chất lượng của trí tuệ).
Hai mức đầu là nhận thức ở mức thấp. Bốn mức sau gọi là nhận thức ở mức cao, vì
chúng đề cập đến các thao tác tư duy phức tạp hơn, huy động 3 thao tác phân tích, tổng hợp,
đánh giá.
Thành công của hệ phân loại này đã giúp khá nhiều nhà sư phạm tìm thấy các thang
đánh giá nhận thức dễ sử dụng, cho phép họ đào sâu các mục tiêu giảng dạy. Trong công tác
đào tạo từ nấc thang nhận thức thấp lên nhận thức cao đều cần được coi trọng, chúng ta cần
vượt qua từng bậc thang để đạt tới bậc thang cao hơn. Phân loại mục tiêu nhận thức của
Bloom trở thành phổ cập trong soạn thảo các giáo trình và xây dựng các mục tiêu đánh giá
chất lượng dạy học.
Hạn chế trong cách phân loại của Bloom là ba mức sau: mức phân tích, mức tổng hợp
và mức đánh giá rất khó tách bạch trong nhận thức, và do vậy rất khó đo đâu là phân tích,
tổng hợp và đánh giá, mặc dù Bloom có giới thiệu cách đánh giá mục tiêu nhận thức.


Từ việc phân tích cách đánh giá của Bloom, chúng ta có thể chia nhận thức của con

người thành ba mức độ: Nhận biết, thông hiểu và vận dụng.
-Nhận biết: Là mức độ nhận thức thấp nhất, nhận thức cảm tính bao gồm nhiều mức
khác nhau: cảm giác, tri giác, trí nhớ. Ở mức độ này, con người mới chỉ nắm được các dấu
hiệu bên ngoài của khái niệm nhưng chưa có được khả năng vận dụng để giải quyết những
tình huống, những hiện tượng trong cuộc sống. Nhận biết được biểu hiện ra các dấu hiệu:
Nhận ra vấn đề, nhận biết được hình thức bên ngoài của các khái niệm, nhận biết được một
số biểu hiện cụ thể, gọi tên được sự vật và hiện tượng, nhớ lại sự vật, hiện tượng.
- Thông hiểu: Là kết quả của quá trình nhận thức lý tính, là quá trình phản ánh gián
tiếp, độc lập và mang tính khái quát, nảy sinh trên cơ sở biết (nhận thức cảm tính). Hiểu
phản ánh được một số thuộc tính bản chất, nắm được khái niệm của sự vật, hiện tượng, bao
gồm việc chỉ ra nguyên nhân, ý nghĩa, cơ chế, chứng minh và giải thích tại sao, diễn đạt lại
cho người khác nghe... Hiểu có các mức độ: Hiểu một cách chung chung; Hiểu quá rộng
hoặc quá hẹp; Nắm được các biểu hiện đa dạng của khái niệm.
- Vận dụng: Khi đã nắm vững và thông hiểu sâu được bản chất, các thuộc tính trừu
tượng bên trong của khái niệm, có thể dùng các khái niệm để giải quyết được những vấn đề,
những tình huống phức tạp... Vận dụng là tiêu chí quan trọng nhất trong nhận thức. Vận
dụng có nhiều cấp độ: cấp độ trừu tượng và cụ thể hóa. Vận dụng trở thành tiêu chí xem xét
con người hiểu hay không hiểu. Hiểu thấp vận dụng ở mức thấp, hiểu cao ở mức độ cao.
Vận dụng có những biểu hiện sau: Vận dụng vào việc giải quyết các vấn đề của thực tiễn;
Tổng hợp lại, tạo ra cái khác; Phê phán, bình luận, đánh giá; Điều khiển hành vi của con
người.
Các mức độ: biết, hiểu và vận dụng của nhận thức có liên quan chặt chẽ với nhau, ảnh
hưởng qua lại với nhau. Nhận thức không đơn thuần là quá trình biết tiếp nhận đơn giản
những tri thức đã có mà là quá trình hiểu và tư duy tích cực để con người lựa chọn, vận
dụng hiểu biết giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra, biến đổi những tri thức kinh nghiệm xã
hội lịch sử, để tạo nên những tri thức mới cho bản thân và xã hội.
Trong đề tài này, chúng tôi khảo sát nhận thức của SVSP đối với các CMĐĐ để đánh
giá các em biết hay chưa, biết đúng hay sai, đầy đủ hay không đầy đủ về những nội dung
kiến thức nhất định của các chuẩn mực đạo đức.



1.2.1.2. Thái độ
b1. Khái niệm thái độ trong tàm lý học
Nói đến thuật ngữ "thái độ" là nói đến một vấn đề hết sức rộng lớn và phức tạp. Thái
độ là một thuật ngữ được sử dụng khá thường xuyên trong khoa học tâm lý và các ngành
khoa học khác, tuy thế việc tìm một khái niệm toàn diện về thái độ quả không phải là dễ
dàng. Có thể nói, chưa có quan niệm nào về thái độ được coi là cơ sở lý luận cho các đề tài
nghiên cứu về thái độ. Ở đây, chúng tôi trích ra một số quan niệm tiêu biểu và thích hợp
nhất cho vấn đề nghiên cứu.
- Dựa trên những tư tưởng của Lazuski và xuất phát từ lập trường Mác-xít, V.N.
Miasixev đề ra học thuyết tâm lý về thái độ chủ quan của cá nhân. Ông viết: Thái độ, dưới
dạng chung nhất, là hệ thống trọn vẹn các mối liên hệ cá nhân, có chọn lọc, có ý thức của
nhân cách với các khía cạnh khác nhau của hiện thực khách quan. Hệ thống này xuất phát từ
toàn bộ lịch sử phát triển của con người, nó thể hiện kinh nghiệm cá nhân và qui định hành
động và các thể nghiệm của cá nhân từ bên trong. Khái niệm "thái độ" là khía cạnh tiềm
năng của các quá trình tâm lý, liên quan đến tính tích cực chủ quan, có chọn lọc của nhân
cách.
- Các nhà tâm lý học Xô Viết ít dùng thuật ngữ "thái độ" trong các nghiên cứu cứu của
mình vì tính đa nghĩa của thuật ngữ này trong tiếng Nga. Cho nên, khái niệm tâm thế được
sử dụng nhiều hơn để nói đến thái độ chủ quan của nhân cách, được định nghĩa như sau:
Tâm thế xã hội là một dạng tâm thế được xem như một yếu tố hình thành hành vi xã hội của
nhân cách, xuất hiện dưới dạng các quan hệ của nhân cách với các điều kiện hoạt động của
nó và của những người khác.
- Tác giả K.K. Platonov lại cho rằng thái độ là "một cấu thành tích cực của ý thức cá
nhân và là các mối liên hệ ngược của chủ thể đối với thế giới, được phản ánh và được khách
thể hóa trong tâm vận động". Do vậy, phản ánh được hiểu không chỉ là kết quả tác động của
môi trường lên con người mà là biểu hiện của sự tác động qua lại giữa chúng, nói cách khác,
bản thân phản ánh là sự tác động qua lại được thực hiện bằng phương thức thái độ có ý thức.
- Các nhà tâm lý học của Leningrad thuộc Liên xô trước đây coi thái độ là "những cơ
cấu tâm lý sẵn có, định hướng cho sự ứng phó của cá nhân". Còn dưới góc độ tâm lý học

nhân cách thì Kosacowski và Lompscher đều khẳng định thái độ là thuộc tính tâm lý bao
gồm niềm tin, hứng thú, thái độ xã hội.


Các tác giả Xô viết mặc dù có cách định nghĩa khác nhau nhưng đều chung một ý là:
thái độ là sự phản ánh ý thức, là thuộc tính cốt lõi của nhân cách và là một yếu tố định
hướng hành vi xã hội của con người.
- Trong Tâm lý học phương Tây, vấn đề thái độ được đặt ra lần đầu do hai nhà Tâm lý
học người Mỹ là V.I. Thomas và PH. Znanheski (1918) và được nghiên cứu mạnh mẽ vào
những năm 30, 50 của thế kỷ này. Họ xem thái độ như là một trong những thuộc tính quan
trọng của các vấn đề xã hội. Họ cho rằng: Thái độ là trạng thái tinh thần của cá nhân đối với
một giá trị.
- Thái độ được hiểu là sự đáp ứng có tính cách đánh giá và đáp ứng thuộc lĩnh vực tình
cảm được đặt trên cơ sở việc áp dụng một số khái niệm có tính đánh giá và chính thái độ
làm nảy sinh động cơ hay các hành vi có chủ đích. Nếu vậy, thái độ nảy sinh bên trong của
con người trước sau đó mới biểu hiện ra bên ngoài và thái độ là sản phẩm của sự đánh giá
tâm lý và nhận thức về đối tượng xuất phát từ nhu cầu của chủ thể.
- Trong Tâm lý học xã hội thì quan niệm "thái độ" là sự sẵn sàng ổn định của cá nhân
để phản ứng với một tình huống và một phức thể tình huống, thái độ vốn có xu hướng rõ rệt
hình thành qui luật nhất quán phương thức xử thế của mỗi cá nhân
- Nhà tâm lý học xã hội Hoa kỳ G.V. Onparte thì cho rằng: "Thái độ đó là trạng thái
thần kinh và tâm lý của sự sẵn sàng được tạo ra trên cơ sở kinh nghiệm, nó có ảnh hưởng và
điều khiển năng động đến những khách thể và tình huống gắn liền với cá nhân đó".
- Theo D.N. Uzanataze cho rằng: "Thái độ là một trạng thái toàn vẹn của chủ thể. Đó
là sự phản ứng cơ bản đầu tiên đối với các tác động của tình huống trong chủ thể phải đặt ra
và giải quyết tình huống"
Qua những khái niệm trên ta thấy rõ các tác giả đều khẳng định đến khía cạnh tâm lý
cá nhân trong thái độ. Các tác giả đều cho rằng thái độ là cái gì đó rất riêng của cá nhân như
là sự sẵn sàng ổn định của cá nhân hay là sự sẵn sàng của cơ thể. Thế nhưng, thái độ không
chỉ đề cập đến khía cạnh tâm lý cá nhân mà phải được xem xét trong mối quan hệ với những

yếu tố khác như mối quan hệ với người khác và cả trong mối quan hệ phức tạp và đa dạng
của xã hội.
Thực vậy, thái độ không chỉ mang tính chất cá nhân mà còn mang tính xã hội. Thông
thường thái độ mang tính chất riêng tư của cá nhân vì mỗi cá nhân là một chủ thể nhất định,


song chính cá nhân lại tồn tại và sống trong một xã hội nhất định cho nên xã hội đã chi phối
rất rõ thái độ của con người.
Thái độ phải được xem xét dưới khía cạnh xã hội. Trong cuốn "Nhập môn Tâm lý học
xã hội Mác-xít", M. Hipsơ đề cập đến thuật ngữ "khuôn mẫu thái độ" là một hiện tượng tâm
lý xã hội với tư cách là sự sẵn sàng phản ứng nảy sinh trong những nhóm nhất định và trong
những tình huống cụ thể.
- Nhà tâm lý học xã hội Mỹ G.W. Allport cho rằng, "thái độ là trạng thái sẵn sàng về
mặt tinh thần và thần kinh được tổ chức thông qua kinh nghiệm, điều chỉnh hoặc ảnh hưởng
năng động đến các phản ứng của cá nhân với tất cả các khách thể và tình huống mà nó có
mối liên hệ" và đã tóm tắt thành năm đặc trưng của khái niệm thái độ đó là:
+ Trạng thái của tinh thần và hệ thần kinh.
+ Biểu hiện sự sẵn sàng hành động.
+ Tính tổ chức (sắp xếp theo thứ bậc) (trạng thái có tổ chức).
+ Hình thành trên cơ sở kinh nghiệm.
+ Gây ảnh hưởng và điều khiển hành vi.
-Theo Y. Tamat và Znanhieuski: Khi nghiên cứu về sự thích ứng của người nông dân
Balan di cư (từ châu Âu đến Mỹ) thì khái niệm này dùng để chỉ những đặc trưng cá nhân so
với đặc trưng xã hội. Thái độ được coi là trạng thái xúc động của cá nhân đối với các giá trị,
ý nghĩa, lý tưởng của đối tượng xã hội cụ thể hoặc là trạng thái ý thức của cá nhân phù hợp
với một số giá trị xã hội.
- Nhà tâm lý học Mỹ Newcom cho rằng, thái độ là khuynh hướng hành động, nhận
thức, tư duy, cảm nhận của cá nhân với khách thể có liên quan.
- H.C. Trianodis coi "thái độ là tư tưởng được hình thành từ những cảm xúc gây tác
động đến hành vi nhất định ở một giai cấp nhất định trong những tình huống xã hội. Thái độ

của con người bao gồm những điều người ta suy nghĩ và cảm thấy về đối tượng, cũng như
thái độ xử sự của họ đối với nó".
- R. Marten thì khẳng định, thái độ là xu hướng thường xuyên đối với các tình huống
xã hội. Nó biểu thị sự thống nhất của ý nghĩ, tình cảm và hành động. Thái độ của con người
có mối quan hệ chặt chẽ với hành vi, được xác định bằng tình huống thống nhất bên trong.


- H. Fillmore cho rằng, thái độ là sự sẵn sàng phản ứng tích cực hay tiêu cực đối với
đối tượng hay các ký hiệu (biểu tượng) của môi trường... Thái độ là sự định hướng của cá
nhân đến các khía cạnh khác nhau của môi trường và là cấu trúc có tính động cơ.
- J. Traver và cộng sự định nghĩa thái độ là các cảm xúc, tư duy và hành động tương
đối lâu dài đối với sự việc hay con người nào đó.
- V.I. Lênin định nghĩa thái độ là một khái niệm tạo lập: "Thái độ là một bộ phận lĩnh
vực tình cảm phản ánh quan hệ của cá nhân đối với hiện thực. Nó được quyết định bởi thế
giới quan của cá nhân cho nên cũng phản ánh tồn tại xã hội chịu ảnh hưởng của ý thức giai
cấp, của tâm lý xã hội, của dư luận và tập đoàn xã hội. Nó thường không phải là những đáp
ứng được biểu lộ một cách minh thị hay trực tiếp mà là những ý nghĩ đang chuyển hóa
thành hành động".
- Theo từ điển tiếng Việt: Thái độ được hiểu là "cách nghĩ, cách nhìn và cách hành
động theo một hướng nào đó trước một vấn đề, một tình hình".
Như vậy, khái niệm thái độ là một khái niệm mang tính chất phức tạp. Thái độ con
người theo diện rộng là toàn bộ hệ thống các mối quan hệ có tính phân biệt lựa chọn, có ý
thức của nhân cách đối với các mặt khác nhau của hiện thực khách quan. Hệ thống này là
kết quả của toàn bộ lịch sử phát triển con người. Nó thể hiện kinh nghiệm cá nhân và mặt
bên trong qui định thành hành vi, tâm trạng của con người.
b2. Đặc điểm của thái độ
Đầu tiên là cảm xúc với đối tượng mới gặp hoặc là tình cảm với đối tượng quen thuộc.
Tuy thế, vẫn chưa đủ, mà thái độ bao gồm cả ý định và hành động. Hành động ở đây là hành
động đối xử với một đối tượng nhất định. Đó là mặt trong, mặt chủ quan của thái độ. Mặt
bên trong của thái độ hay còn gọi là thái độ bên trong không phải lúc nào cũng thể hiện một

cách trọn vẹn, thẳng thắn và "nguyên xi" mà thái độ bên trong này có thể giấu kín nếu như
cảm thấy cần che giấu, khỉ đó chủ thể sẽ kìm chế, đè nén và không biểu hiện thái độ của
mình.
Khi con người tỏ thái độ hoặc biểu hiện thái độ được gọi là mặt bên ngoài của thái độ.
Mặt bên ngoài của thái độ là khi con người muốn biểu lộ một thái độ nào đó như là một sự
cần thiết hoặc chủ thể không ý thức là cần phải che giấu mà cứ biểu lộ ra ngoài một cách tự
nhiên và thoải mái.


Thái độ của con người như đã nói có thể biểu hiện một cách minh thị song cũng có thể
được che giấu. Ngay khi thái độ được biểu hiện thì thái độ có thể biểu hiện một cách chân
thực, rõ ràng nhưng cũng có thể biểu hiện một cách giả dối và không chân thực.
Thái độ mang tính chủ thể nhưng lại mang tính đối tượng khá rõ nét. Đối với con
người bao giờ thái độ cũng là thái độ đối với một đối tượng cụ thể, nhất định. Thế nhưng
thái độ lại thể hiện rất rõ nét tính chủ thể vì với cùng một đối tượng nhưng mỗi người lại có
thái độ khác nhau, thậm chí ngay khi con người có thái độ tương đối giống nhau thì cách
thức và mức độ biểu hiện cũng khác nhau.
Thái độ của con người vẫn mang tính cá nhân nhưng bao giờ cũng bị chi phối bởi
những yếu tố xã hội, dư luận xã hội, phong tục tập quán,... Thực sự phải thừa nhận rằng thái
độ tồn tại ở mỗi người khác nhau song việc biểu thị thái độ hay công khai thái độ đó cho
mọi người cùng biết lại là chuyện khác. Trước khi tỏ thái độ con người thường xem xét
những yếu tố xã hội xung quanh mình xem có cho phép hay không, có phù hơp hay không?
Mặt khác, thái độ chính là một phần trong biểu hiện tình cảm. Thái độ có thể nói là
giai đoạn nảy sinh trước động cơ song chính thái độ góp phần không nhỏ trong việc hình
thành động cơ và chính nó lại là giai đoạn định hướng cho động cơ đi đến hành động.
Thái độ thường được phân chia theo hai hướng khác nhau: Thái độ tích cực, thái độ
tiêu cực; Thái độ đúng đắn hay thái độ không đúng đắn (thái độ sai lệch). Khi đề cập đến
thái độ ta thường đề cập đến những thuật ngữ như: thích hay không thích, tán thành hay
không tán thành, e ngại hay tự tin,... Tất cả đều được hiểu là thái độ của một chủ thể đối với
một đối tượng nhất định, đó là những sự vật hiện tượng, hoặc một vấn đề, hay là một con

người cụ thể nào đó.
Theo nghĩa trên, đề tài này được thực hiện nhằm đo lường thái độ của sinh viên Sư
phạm đối với các chuẩn mực đạo đức. Chúng tôi phân tích thái độ của các em ở một số
những biểu hiện như: Có thích thú khi bàn về các chuẩn mực đạo đức không?; Có tán thành
học tập những chuẩn mực đạo đức hay không?; Đồng ý hay không đồng ý đối với những
quan niệm về các chuẩn mực đạo đức?; Thái độ của các em đối với các chuẩn mực đạo đức
là tích cực hay tiêu cực, đúng hay chưa đúng?; Các em có thực sự quan tâm đến các chuẩn
mực đạo đức hay không?; Và quan tâm ở mức độ nào?;...


1.2.1.3. Quan hệ giữa nhận thức và thái độ
Thái độ có liên quan chặt chẽ với nhận thức, thái độ chịu sự chi phối của nhận thức,
nhưng cùng lúc đó thái độ lại tác động ngược trở lại đến nhận thức. Thông thường nếu nhận
thức đúng đắn sẽ có thái độ tích cực, đúng đắn nhưng khi con người có thái độ tích cực đối
với một vấn đề cụ thể thì nhu cầu và hứng thú nhận thức của chủ thể sẽ được nâng lên. Lẽ dĩ
nhiên, đây chỉ là sự tác động xuôi chiều vì nhiều khi con người nhận thức đúng nhưng
không hẳn đã có thái độ tích cực và ngược lại.
Nhận thức và thái độ đều phản ánh hiện thực khách quan và mang tính chủ thể sâu sắc.
Tuy nhiên, giữa nhận thức và thái độ vẫn còn có những đặc điểm riêng. Trong khi nhận thức
phản ánh những thuộc tính và các mối quan hệ của bản thân thế giới, thái độ thể hiện mối
quan hệ giữa các sự vật hiện tượng với nhu cầu, động cơ của con người. Con người thường
có thái độ tích cực khi có những đối tượng nào đó làm thỏa mãn nhu cầu, hoặc ngược lại,
con người có thái độ tiêu cực khi có những đối tượng gây trở ngại cho sự thỏa mãn nhu cầu.
Nhận thức và thái độ là hai yếu tố tâm lý cơ bản tạo nên cấu trúc của biểu tượng, hành
vi tương ứng với những đối tượng được nhận thức. Trước khi con người có hành vi đáp lại
một tác nhân kích thích nào đó, người ta phải nhận thức, và phân tích sâu sắc nhằm nhận
thức được ý nghĩa, bản chất của kích thích, trên cơ sở đó mà có một phản ứng, một thái độ
đáp lại một cách thích hợp. Vì vậy, ta có thể nói muốn hình thành thái độ, con người phải có
nhận thức đúng.
Thái độ thể hiện mối quan hệ với nhu cầu, nguyện vọng đối với đối tượng. Nếu con

người có thái độ tích cực đối với đối tượng nhận thức, nghĩa là họ quan tâm, mong muốn
nhận thức đối tượng một cách sâu sắc thì quá trình nhận thức sẽ diễn ra thuận lợi hơn và
hiệu quả hơn. Vì thế, ta có thể nhận xét rằng thái độ tích cực của cá nhân đối với một đối
tượng nào đó có tác dụng thúc đẩy quá trình nhận thức của con người đối với đối tượng đó.
Nhận thức và thái độ có tác động lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, tạo nên ý thức trọn
vẹn ở mỗi người. Tuy nhiên, mỗi thành tố trên đều tương đối độc lập với nhau. Vì thế, trong
ý thức từng người, khi xảy ra mâu thuẫn giữa nhận thức và thái độ, sẽ gây nên sự không
nhất quán trong ý thức. Chẳng hạn, về nhận thức, ta hiểu đúng ý nghĩa và sâu sắc về đối
tượng, nhưng về thái độ, ta lại không có thái độ đúng đắn. Hoặc ngược lại, đôi khi một cá
nhân ngẫu nhiên có thái độ đúng với một hiện tượng nào đó nhưng lại bị hạn chế về mặt
nhận thức.


Nhận thức và thái độ có vai trò quan trọng trong quá trình tự ý thức và hình thành tự ý
thức. Trên cơ sở nhận thức được bản thân, con người có những thái độ trân trọng đối với
những giá trị nhân cách và đồng thời có thái độ tự phê phán, tự xoa bỏ những nhược điểm
về nhân cách của mình. Chính lúc này quá trình tự nhận thức phát triển thành tự ý thức.
Tóm lại, nói đến ý thức là nói đến nhận thức và thái độ của con người. Vì vậy, sự rối
loạn nghiêm trọng của bất kỳ một quá trình nhận thức nào hoặc rối loạn về mặt tình cảm,
thái độ tất yếu sẽ dẫn đến sự rối loạn ý thức.

1.2.2. Lý luận về chuẩn mực đạo đức
Thực ra, từ khi xuất hiện loài người, không thể tránh khỏi một qui luật tất yếu là họ
phải có quan hệ trực tiếp hay gián tiếp với nhau để tồn tại và phát triển. Trong các mối quan
hệ đó, con người phải lựa chọn cách giao tiếp, ứng xử, điều chỉnh thái độ, hành vi của mình
sao cho phù hợp với lợi ích chung của mọi người, của xã hội. Những người như vậy được
coi là người có đạo đức. Và ngược lại, những người chỉ hướng tới lợi ích cá nhân làm
phương hại đến lợi ích chung thì bị coi là người thiếu đạo đức. Theo nghĩa trên, đạo đức có
thể được xem như là một hiện tượng xã hội, phản ánh các mối quan hệ hiện thực bắt nguồn
từ bản thân cuộc sống con người. Đó là những qui tắc, chuẩn mực hoàn toàn tự giác trong

hành động của mỗi cá nhân trong tất cả các quan hệ xã hội, để từ đó đánh giá con người có
hay không có đạo đức.
Trên thực tế, tồn tại xã hội (lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất,...) và ý thức xã hội
(hệ tư tưởng, triết học, pháp lý, đạo đức, nghệ thuật,...) là hai bộ phận của một xã hội. Con
người là một thực thể xã hội, bao giờ cũng sống trong cộng đồng xã hội nhất định. Bản chất
con người do các mối quan hệ xã hội qui định. Ở con người có hai đặc tính: Tính xã hội và
tính tự giác, hai đặc tính này luôn qui định và chế ước lẫn nhau trong hoạt động và trong các
mối quan hệ khác nhau của con người. Trong quá trình quan hệ qua lại với nhau và với xã
hội con người đã đưa ra yêu cầu cho bản thân, nó được diễn đạt bằng những mệnh đề hay
một thuật ngữ nào đó và được gọi là những chuẩn mực đạo đức. Hệ thống những chuẩn mực
được con người tự giác đề ra và tự giác tuân theo trong quá trình quan hệ với người khác và
với xã hội được gọi là đạo đức.
Đạo đức là hệ thống những chuẩn mực biểu hiện thái độ đánh giá quan hệ giữa lợi ích
của bản thân với lợi ích của người khác và của xã hội.


×