Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

SKKN TĂNG CƯỜNG HỨNG THÚ HỌC TẬP MÔN HÓA CỦA HỌC SINH THPT BẰNG THÍ NGHIỆM HÓA HỌC VUI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (393.14 KB, 38 trang )

TĂNG CƯỜNG HỨNG THÚ HỌC TẬP MÔN HÓA CỦA HỌC SINH THPT
BẰNG THÍ NGHIỆM HÓA HỌC VUI
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Nhận thức rõ vai trò của giáo dục trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất
nước nhằm tạo ra nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu hội nhập với thế giới và với
khu vực nên giáo dục và vấn đề đổi mới phương pháp dạy học ở phổ thông đã được
các cấp lãnh đạo từ Trung ương đến địa phương hết sức quan tâm. Đặc biệt sau khi
có chỉ thị 15/1999/CT BGD – ĐT; trong báo cáo chính trị Đại hội Đảng lần thứ IX
(2001); trong Nghị quyết 40/2000/QH10 của Quốc hội và chỉ thị 14/2001/CT –
TTg của Thủ tướng chính phủ. Trong báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ X
(2006) có “Giáo dục cùng với khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu”. Như
vậy, phải nói rằng giáo dục và công cuộc đổi mới phương pháp dạy học đã nhận
được sự quan tâm đặc biệt của các cấp lãnh đạo Đảng, Nhà nước và ngành giáo
dục.
Để đạt được hiệu quả trong công tác đổi mới thì sự hứng thú, thái độ và sự
quan tâm của người học đối với môn học đóng vai trò rất quan trọng. Tuy nhiên,
hiện nay tại các trường trung học phổ thông tồn tại thực trạng là học sinh không
hứng thú với các môn học nói chung và môn hóa học nói riêng. Vấn đề này đã gây
ảnh hưởng rất nhiều cho quá trình dạy học trên lớp của giáo viên và sự hưng phấn
của giáo viên trong quá trình dạy học. Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động,
sáng tạo của học sinh; phù hợp với từng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh,
điều kiện của từng lớp học; bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng
hợp tác; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm,
đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh.
Xuất phát từ những thực tế đó và một số kinh nghiện trong giảng dạy bộ
môn hóa học, tôi thấy để có chất lượng giáo dục bộ môn hóa học cao, người giáo
viên ngoài phát huy tốt các phương pháp dạy học tích cực cần khai thác thêm các
thí nghiệm hóa học vui trong đời sống đưa vào bài giảng bằng nhiều hình thức
khác nhau nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh, tạo niềm tin, niềm
vui, hứng thú trong học tập bộ môn. Từ những lí do đó tôi chọn đề tài:
1




“TĂNG CƯỜNG HỨNG THÚ HỌC TẬP MÔN HÓA CỦA HOC SINH THPT
BẰNG THÍ NGHIỆM HÓA HỌC VUI ”
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Xây dựng hệ thống các thí nghiệm vui cho các bài giảng trong chương trình
hóa học THPT
Vận dụng hệ thống các thí nghiệm vui để xây dựng các bài dạy nhằm tăng
hứng thú học tập bộ môn cho học sinh.
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. ĐỐI TƯỢNG:
Quá trình dạy học môn hóa học trường THPT.
Các phương pháp dạy học tích cực, phương pháp tích hợp môi trường, kĩ
năng vận dụng kiến thức trong học tập và liên hệ thực tiễn của bộ môn hóa học.
3.2. PHẠM VI:
Các bài dạy trong chương trình hóa học THPT
IV. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Nếu vận dụng tốt hệ thống các thí nghiệm hóa học vui vào bài giảng trong
chương trình hóa THPT sẽ làm tăng ý nghĩa thực tiễn của môn học, làm cho các bài
học trở nên hấp dẫn và lôi cuốn học sinh hơn. Đồng thời góp phần năng cao năng
lực nhận thức, tự học, tích cực chủ động học tập của học sinh. Điều đó làm tăng
hứng thú học tập mang lại kết quả học tập bộ môn cao hơn.
V. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu cơ sở lí luận việc đổi mới chương trình giáo dục môn hóa,
phương pháp đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực, tích hợp
Nghiên cứu chương trình sách giáo khoa, sách giáo viên hóa học THPT. Mục
tiêu chương trình, để xây dựng hệ thống một số thí nghiệm hóa học phát huy tính
tích cực, chủ động tư duy cho học sinh nhằm tăng hứng thú, say mê học tập bộ
môn.
Thực nghiệm dạy học bộ môn hóa THPT

VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu luật giáo dục về đổi mới chương trình, phương pháp dạy học,..
2


Các tài liệu về lí luận dạy học, phương pháp dạy học tích cực bộ môn hóa.
Nghiên cứu thực trạng dạy học hóa trường
Liệt kê các thí nghiệm hóa học vui, hóa học thực tiễn áp dụng cho một số bài
dạy cụ thể ở chương trình hóa THPT
Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi phối hợp sử dụng chủ yếu các phương pháp
sau:
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
6.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn như: Điều tra bằng phiếu câu hỏi,
phỏng vấn, quan sát, trò chuyện, nghiên cứu kết quả sản phẩm họat động.
6.3. Thực nghiệm sư phạm
6.4. Phương pháp thống kê toán học
VII. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
7.1. Chỉ được thực trạng hứng thú học môn hóa của HS
7.2. Đề xuất một số thí nghiệm vui hóa học kích thích hứng thú học tập của HS
trong dạy học hóa học ở trường Trung học phổ thông

3


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC SỬ DỤNG CÁC THÍ NGHIỆM
HÓA HỌC VUI VÀO BÀI DẠY HÓA HỌC TĂNG HỨNG THÚ HỌC TẬP
BỘ MÔN.
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.1. Hứng thú

1.1.1.1. Khái niệm hứng thú
Hứng thú là một thuộc tính tâm lý của nhân cách, là một hiện tượng tâm lý phức
tạp được thể hiện khá rộng rãi trong cuộc sống của mỗi cá nhân cũng như trong các
lĩnh vực nghiên cứu khoa học. Có nhiều quan điểm khác nhau về hứng thú, thậm
chí trái ngược nhau:
a. Theo các nhà tâm lý học nước ngoài
Nhà tâm lý học I.PH. Shecbac cho rằng, hứng thú là thuộc tính bẩm sinh vốn có
của con người, nó được biểu hiện thông qua thái độ, tình cảm của con người vào
một đối tượng nào đó trong thế giới khách quan.
Annoi nhà tâm lý học người Mỹ lại quan niệm, hứng thú là một sự sáng tạo của
tinh thần với đối tượng mà con người hứng thú tham gia vào.
Harlette Buhler thì coi hứng thú là một hiện tượng phức hợp cho đến nay vẫn
chưa được xác định, hứng thú là một từ, không những chỉ toàn bộ những hành động
khác nhau mà còn thể hiện cấu trúc bao gồm các nhu cầu.
K.Strong và W.James cho rằng hứng thú là một trường hợp riêng của thiên
hướng biểu hiện trong xu thế hoạt động của con người như là một nét của tính cách.
A.G.Côvaliốp coi hứng thú là sự định hướng của cá nhân, vào một đối tượng
nhất định, tác giả đã đưa ra một khái niệm được xem là khá hoàn chỉnh về hứng thú
“Hứng thú là một thái độ đặc thù của cá nhân đối với đối tượng nào đó, do ý nghĩa
của nó trong cuộc sống và sự hấp dẫn về mặt tình cảm của nó” .
b. Theo các nhà tâm lý học, giáo dục học Việt Nam
Các tác giả: Phạm Minh Hạc – Lê Khanh – Trần Trọng Thủy cho rằng: Khi ta
có hứng thú về một cái gì đó, thì cái đó bao giờ cũng được ta ý thức, ta hiểu ý nghĩa
của nó đối với cuộc sống của ta. Hơn nữa ở ta xuất hiện một tình cảm đặc biệt đối
4


với nó, do đó hứng thú lôi cuốn hấp dẫn chúng ta về phía đối tượng của nó tạo ra
tâm lý khát khao tiếp cận đi sâu vào nó .
Có nhiều quan niệm khác nhau về hứng thú, tuy nhiên có thể coi quan niệm của

GS.TS. Nguyễn Quang Uẩn là bao hàm nhất: "Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá
nhân đối với đối tượng nào đó, vừa có ý nghĩa đối với cuộc sống, vừa có khả
năng mang lại khoái cảm cho cá nhân trong quá trình hoạt động".
Khái niệm này vừa nêu được bản chất cửa hứng thú, vừa gắn hứng thú với
hoạt động của cá nhân. Hứng thú là một thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối
tượng, thể hiện ở sự chú ý tới đối tượng, khao khát đi sâu nhận thức đối tượng sự
thích thú được thỏa mãn với đối tượng.
1.1.1.2. Cấu trúc của hứng thú
Tiến sĩ tâm lý học N.G.Marôzôva đã dựa vào 3 biểu hiện để đưa ra quan niệm
của mình về cấu trúc của hứng thú:
+ Cá nhân hiểu rõ được đối tượng đã gây ra hứng thú.
+ Có cảm xúc sâu sắc với đối tượng gây ra hứng thú.
+ Cá nhân tiến hành những hành động để vươn tới chiếm lĩnh đối tượng đó.
Vậy theo ông thì hứng thú liên quan đến việc người đó có xúc cảm tình cảm
thực sự với đối tượng mà mình muốn chiếm lĩnh, có niềm vui tìm hiểu và nhận
thức đối tượng, có động cơ trực tiếp xuất phát từ bản thân hoạt động, tự nó lôi
cuốn, kích thích hứng thú.
Hứng thú phải là sự kết hợp giữa nhận thức - xúc cảm tích cực và hành động,
nghĩa là có sự kết hợp giữa sự hiểu biết về đối tượng với sự thích thú với đối tượng
và tính tích cực hoạt động với đối tượng. Ba yếu tố này liên hệ chặt chẽ và quan hệ
tương tác lẫn nhau trong cấu trúc hứng thú. Tùy từng giai đoạn phát triển khác nhau
của hứng thú mà vai trò của từng yếu tố có sự biển đổi.
1.1.1.3. Đặc điểm của hứng thú
a. Tính xã hội của hứng thú
Thông thường, con người chỉ hứng thú với những cái mới, những cái còn chưa
ai biết, chưa được khám phá. Còn những điều đã biết mà không thổi cho nó một
luồng khí mới, đưa nó vào một vị trí khác tích cực hơn thì sẽ không gây được hứng
5



thú. Tuy nhiên, không phải cái mới nào đối với một hoạt động nào đó của con
người cũng tạo hứng thú. Điều kiện để xuất hiện hứng thú là người đó phải có hiểu
biết và có kinh nghiệm thực tế trong một loại hứng thú nhất định. Chỉ khi nào làm
cho con người thấy được cái mới, cái phong phú, tính sáng tạo và triển vọng trong
hoạt động của mình thì mới có thể hình thành những hứng thú vững chắc được.
b. Hứng thú mang tính tâm lý xã hội
Con người thường hứng thú với những hoạt động được nhiều người khen khi
thấy nó đem lại lợi ích cho xã hội và thỏa mãn những nguyện vọng của cá nhân.
Hứng thú của mỗi cá nhân hoàn toàn tùy thuộc vào khả năng lĩnh hội những thành
tựu của nền văn minh trong thời đại đó.
c. Hứng thú phụ thuộc vào đặc điểm của đối tượng và phẩm chất nhân
cách
Nghĩa là sự liên hệ qua lại giữa chủ thể và khách thể, mức độ tương ứng giữa
yêu cầu của đối tượng với yêu cầu của chủ thể. Mối quan hệ này có ý nghĩa quan
trọng trong việc hình thành những hứng thú ở từng người, từng lứa tuổi. Ví dụ, nếu
đối tượng gây cảm xúc cho học sinh tiểu học chủ yếu là những sự vật, hình ảnh…
cụ thể, thì hứng thú của học sinh THPT đa dạng và rộng hơn. Học sinh THPT có
thể hứng thú với khoa học kỹ thuật, thể thao, chính trị - xã hội. Hứng thú sẽ luôn
bền vững và phong phú nếu nó thường xuyên thức tỉnh sự chú ý và ý nghĩa của mỗi
cá nhân và ngược lại tính hay thay đổi hứng thú sẽ nói lên phong cách sống chưa
được xác định của một người nào đó.
1.1.1.4. Sự hình thành hứng thú
Sự hình thành hứng thú có thể diễn ra theo 2 con đường: tự phát và tự giác.
Có thể bắt đầu từ sự hấp dẫn của đối tượng làm nảy sinh thái độ cảm xúc tích
cực của chủ thể. Do những cảm xúc này mà chủ thể đi sâu nhận thức đối tượng,
hiểu rõ đối tượng mà hình thành hứng thú.
Ngược lại, có thể bắt đầu từ việc hiểu rõ tầm quan trọng của đối tượng mà đi
sâu nhận thức đối tượng đó, và càng hiểu rõ đối tượng càng cảm thấy hứng thú.
Theo nhận xét của A.G. Côvaliôp “Hứng thú có thể được hình thành một cách tự
phát vì không có ý thức, do sự vật hấp dẫn về tình cảm, sau đó mới dẫn đến nhận

6


thức của đối tượng đó. Quá trình hình thành hứng thú có thể theo hướng ngược lại.
Từ chỗ có ý thức về ý nghĩa của đối tượng dẫn đến chỗ bị đối tượng hấp dẫn”.
Trong hứng thú luôn có sự kết hợp giữa nhận thức, xúc cảm để dẫn đến tính tích
cực của hành vi là quá trình vận động và phát triển của hứng thú.
1.1.1.5. Các loại hứng thú
Dựa vào những căn cứ khác nhau, người ta có thể chia hứng thú thành nhiều
loại khác nhau.
* Dựa vào vào nội dung đối tượng của hứng thú và phạm vi hoạt động gắn với
hứng thú người ta chia hứng thú thành các loại sau:
- Hứng thú vật chất: biểu hiện như thích thú có đủ tiện nghi, hứng thú ăn mặc…
- Hứng thú nhận thức: hứng thú học tập được coi là một biểu hiện đặc biệt của
hứng thú nhận thức. Hứng thú có tính chất chuyên môn như hứng thú toán học, văn
học … cũng thuộc về hứng thú nhận thức.
- Hứng thú nghề nghiệp: hứng thú nghề kỹ thuật, hứng thú nghề sư phạm …
- Hứng thú chính trị - xã hội: hứng thú với các công tác xã hội, hứng thú đối với
vấn đề chính trị …
- Hứng thú thẩm mỹ: hứng thú hội họa, điện ảnh, sân khấu …
* Dựa vào chiều hướng của hứng thú, có thể chia thành các loại sau đây:
- Hứng thú trực tiếp: là hứng thú đối với bản thân trong quá trình nhận thức, quá
trình lao động và sự sáng tạo.
- Hứng thú gián tiếp: là hứng thú đối với kết quả hoạt động như hứng thú muốn
có học vấn, có nghề nghiệp, có chức vụ, có địa vị xã hội…
Trong hoạt động học tập người ta thường dùng hứng thú gián tiếp để kích thích
hứng thú trực tiếp của HS. Trong dạy học, cần làm cho HS kết hợp giữa hứng thú
trực tiếp và hứng thú gián tiếp với một đối tượng thì hứng thú mới được bền vững.
* Dựa vào tính hiệu lực của hứng thú, ta có thể chia thành 2 loại hứng thú sau:
- Hứng thú tích cực: là loại hứng thú khi con người không chỉ quan sát đối tượng

mà còn tiến hành hoạt động để chiếm hữu đối tượng. Hứng thú tích cực là nguồn

7


kích thích sự phát triển nhân cách, hình thành kỹ năng, kỹ xảo, năng lực và tính
cách, là nguồn gốc của sự sáng tạo.
- Hứng thú thụ động: là loại hứng thú mà con người chỉ dừng lại ở sự thích thú
ngắm nhìn đối tượng nhưng không thể hiện tính tích cực để nhận thức đối tượng,
làm chủ đối tượng và hoạt động sáng tạo trong lĩnh vực đó.
1.1.1.6. Động cơ và vai trò của nó trong việc hình thành hứng thú học tập của
học sinh
* Thế nào là động cơ học tập và làm thế nào để hình thành động cơ học tập?
Động cơ học tập là cái thúc đẩy hoạt động học, vì nó mà HS thực hiện hoạt
động học. Động cơ học tập của HS được hiện thân ở đối tượng của hoạt động học,
tức là những tri thức, kỹ năng, thái độ mà giáo dục sẽ đưa lại cho họ.
Động cơ học tập không có sẵn, cũng không thể áp đặt, mà phải được hình thành
dần dần trong quá trình HS dưới sự tổ chức cho HS tự phát hiện ra vấn đề và giải
quyết các vấn đề, hình thành ở HS nhu cầu học tập, nhu cầu nhận thức, nhu cầu
chiếm lĩnh đối tượng học.
* Động cơ và hứng thú học tập của học sinh.
Cũng như các loại hoạt động khác, hoạt động học tập của HS cũng phải có động
cơ, người ta gọi đó là động cơ học tập. Không có động cơ học tập, HS sẽ học theo
kiểu chiếu lệ, ép buộc. Có động cơ học tập các em ngày càng yêu thích môn học,
say mê và hứng thú đối với việc học hơn và do đó sẽ có kết quả cao hơn trong học
tập. Thực tiễn chứng tỏ HS sẽ có hứng thú học tập nếu thầy giáo biết tổ chức cho
các em phát hiện ra những điều mới lạ, luôn tạo ra cho các em sự ngạc nhiên, bất
ngờ trong quá trình học tập. Làm sao để sau mỗi lần đến lớp các em cảm thấy nhận
thức của mình được mở mang hơn và hiểu biết nhiều hơn. Chính những điều đó
thôi thúc các em tích cực, say mê học tập và các em ngày càng giác ngộ hơn ý

nghĩa của việc học.
Do vậy, có thể khẳng định việc hình thành động cơ, hứng thú học tập cho học
sinh có một ý nghĩa rất quan trọng không thể thiếu trong quá trình dạy học. Có
hứng thú học tập thì tư duy học sinh luôn ở trạng thái hưng phấn, đó là điều kiện tốt
8


để các em bộc lộ quan niệm, kích thích hoạt động và phát triển năng lực tư duy,
năng lực nhận thức của HS.
1.1.2. Vai trò của hứng thú trong dạy học
1.1.2.1. Hứng thú học tập
Có nhiều công trình nghiên cứu đã đồng nhất hứng thú học tập với hứng thú
nhận thức. Theo chúng tôi thì hứng thú học tập chỉ là một bộ phận của hứng thú
nhận thức.
Hứng thú nhận thức là một hiện tượng tâm lý diễn ra trong quá trình con người
tiến hành hoạt động nhận thức. Hứng thú nhận thức là khuynh hướng lựa chọn của
cá nhân nhằm vào việc nhận thức được hoặc một số lĩnh vực khoa học nhằm vào
mặt nội dung và quá trình hoạt động của nó. Trong quá trình này cá nhân không chỉ
dừng lại ở những đặc điểm bên ngoài của sự vật, hiện tượng mà còn xu thế đi sâu
vào cái bản chất bên trong của sự vật hiện tượng muốn nhận thức.
Hứng thú học tập quan hệ mật thiết với tính tò mò, ham hiểu biết của cá nhân.
Hứng thú là nguồn kích thích mạnh mẽ tính tích cực cá nhân. Khi có hứng thú học
sinh sẽ tích cực học tập hơn và học tập có hiệu quả hơn. Thái độ học tập tích cực
được thể hiện ở việc tiến hành nhiều hình thức học tập khác nhau và học tập một
cách không mệt mỏi .
1.1.2.2. Các giai đoạn hình thành hứng thú học tập
Do cách xác định bản chất của hứng thú khác nhau nên trong tâm lý học, việc
phân tích con đường hình thành và phát triển hứng thú cũng khác nhau. Trên cơ sở
khẳng định nguồn gốc cơ bản của hứng thú nằm trong nội dung tài liệu, và trong
hoạt động học tập của người học, G.I. Sukira đưa ra con đường, cách thức để hình

thành hứng thú học tập bằng cách việc chọn lựa tài liệu học tập và cách thức tổ
chức hoạt động học tập của người học.
Trong thực tế, biểu hiện của hứng thú học tập rất phong phú, ở đây chỉ đề cập
đền các dấu hiệu đặc trưng nhất. Mỗi dấu hiệu trên đều có sự kết hợp biện chứng
giữa nhận thức, xúc cảm và hành vi. Đây cũng chính là sự cụ thể hóa cấu trúc của
hứng thú và các giai đoạn hình thành hứng thú học tập.
9


1.1.2.3. Hứng thú và vấn đề tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh
Để tích cực hoá hoạt động nhận thức của HS thì hứng thú được các thầy giáo
quan tâm nhất, vì:
1. Hứng thú có quan hệ rất chặt chẽ đến tinh thần học tập. Khi học sinh đã
hứng thú vấn đề nào đó thì các em tích cực học tập ngay, điều đó xảy ra như một
phản ứng dây chuyền một cách tự nhiên và trực tiếp mà không cần một thao tác
trung gian nào khác.
2. Hứng thú là một yếu tố có tính biện chứng rất cao, có thể hình thành ở HS
một cách nhanh chóng bất cứ lúc nào trong quá trình dạy học.
3. Điều quan trọng hơn cả là nó nằm trong tay của người thầy. Người thầy có
thể điều khiển hứng thú của HS qua các yếu tố của quá trình dạy học: nội dung,
phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức qua các bước lên lớp: mở bài, giảng
bài mới, củng cố, vận dụng, kiểm tra kiến thức, qua mối quan hệ thầy, trò v.v…,
nghĩa là qua hoạt động hàng ngày của họ.
Để kích thích hứng thú học tập cần chú ý những vấn đề gì?
Hứng thú là sự phản ánh thái độ (mối quan hệ) của chủ thể đối với thế giới
khách quan. Như vậy hứng thú không phải mà một quá trình khép kín mà phải có
nguồn gốc từ cuộc sống tự nhiên và xã hội xung quanh. Nếu điều kiện thay đổi thì
hứng thú có thể thay đổi. Điều đó có nghĩa là có thể điều khiển được hứng thú,
khác với quan niệm cho rằng hứng thú là một cái gì bẩm sinh, bất biến.
Điều mà thầy giáo phải thực hiện thường xuyên là kích thích hứng thú trong

quá

trình dạy học thông qua: nội dung, phương pháp, phương tiện, hình thức tổ

chức…Hiện nay việc tích cực hóa hoạt động nhận thức của HS chủ yếu tập trung
vào hướng này.
1.1.3. Hứng thú học tập môn Hóa học
1.1.3.1. Vai trò của hứng thú trong học tập môn hóa học
Hứng thú làm nảy sinh khát vọng hành động, làm tăng hiệu quả của hoạt động
nhận thức, tăng sức làm việc. Vì thế cùng với nhu cầu hứng thú là một trong những
hệ thống động lực của nhân cách.
10


Trong bất kỳ hoạt động nào, tạo được hứng thú là điều cực kỳ quan trọng, làm
cho các em say sưa với công việc của mình, đặc biệt là học tập.
Đối với môn Hóa học, có hứng thú các em sẽ có tinh thần học bài, tìm thấy các
lý thú, cái hay trong môn học, không cảm thấy môn học khô khan, khó hiểu nữa.
Từ đó tạo niềm tin say mê học tập, đồng thời nó làm cho các em nhận thức đúng
đắn hơn vai trò của môn Hóa học trong trường phổ thông.
Hứng thú học tập môn Hóa học còn tạo ra những xúc cảm, tình cảm tích cực ở
HS trong quá trình học tập. Nó tạo ra sự say mê, thích thú khi tiếp nhận tri thức, tạo
ra sự hài lòng với kết quả học tập. Đây chính là động lực thúc đẩy các em tìm tòi,
sáng tạo trong học tập hóa học. Vì vậy, hứng thú học tập hóa học tác động đến toàn
diện bản thân người học và hiệu quả của quá trình dạy học môn Hóa học.
Hứng thú học tập môn Hóa học tác động đến HS cả trong và ngoài giờ lên lớp,
kích thích họ tìm kiếm nguồn tài liệu tham khảo để thỏa mãn nhu cầu nhận thức,
đồng thời suy nghĩ tìm ra nhiều hình thức học tập hiệu quả hơn.
Chính vì vậy, hình thành và phát triển hứng thú học tập cho HS là mục tiêu
quan trọng mà mỗi GV hướng tới để nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường.

1.1.3.2. Các biểu hiện của hứng thú học tập hóa học
Hứng thú học tập hóa học biểu hiện ở cả trong và ngoài giờ học, bao gồm biểu
hiện về mặt nhận thức, về mặt thái độ và về mặt hành vi. Những biểu hiện của hứng
thú học hóa học có thể được liệt kê qua các chỉ số tiêu biểu sau :
+ Hào hứng say mê khi học tập, chú ý nghe giảng, hăng hái phát biểu ý kiến.
+ Mong muốn được thầy cô gọi trả lời câu hỏi, thường nêu thắc mắc nhờ thầy
cô giải đáp.
+ Thích thú với nhiều hình thức học tập: nghe giảng lý thuyết, làm thí nghiệm
ứng dụng kiến thức vào thực tiễn…
+ Thực hiện đầy đủ, có chất lượng nhiệm vụ học tập ở nhà.
+ Đọc thêm các sách tham khảo về hóa học, tìm hiểu các hiện tượng hóa học
trong tự nhiên, tìm cách giải thích dựa vào kiến thức đã học.
+ Cảm thấy giờ học trôi nhanh, sảng khoái với giờ học, không muốn nghỉ buổi
học có môn Hóa học.
11


+ Thích thú làm các thí nghiệm hóa học, hăng hái tham gia các buổi sinh hoạt
tìm hiểu về hóa học, câu lạc bộ Hóa học…
Những biểu hiện của hứng thú học tập của mỗi HS về môn Hóa học ở mỗi lớp,
mỗi lứa tuổi là khác nhau. Tuy nhiên nếu chịu khó quan sát ta có thể nhận biết
được, bởi các em thường bộc lộ cảm xúc, tình cảm ra bên ngoài rất dễ nhận biết.
1.1.3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hứng thú học tập môn Hóa học
a. Nhóm các yếu tố chủ quan
+ Trình độ nhận thức của HS là yếu tố ảnh hưởng mạnh đến hứng thú học tập
môn Hóa học. Trình độ nhận thức là cơ sở cần thiết để phát triển hứng thú học tập,
đồng thời là điều kiện quan trọng để bồi dưỡng hứng thú học tập, và chỉ khi có tri
thức ban đầu về đối tượng, những kỹ năng, kỹ xảo đơn giản và những thao tác trí
tuệ nhất định, cá nhân mới có thể nhận thức đối tượng, rồi hứng thú với đối tượng.
Vấn đề nhận thức quá khó hoặc quá dễ đều không làm cho chủ thể hứng thú.

Khi trình độ và năng lực nhận thức của HS thấp thì hầu hết các môn học đối với
học sinh đều quá khó, khó hiểu nên không thể có hứng thú trong học tập. Ngược lại
nếu trình độ và năng lực nhận thức của HS đã phát triển cao mà các em chỉ được
học những cái đã biết thì cũng không tạo ra được hứng thú.
+ Động cơ và thái độ học tập của HS: Động cơ quan hệ mật thiết với hứng thú
học tập. Cả động cơ hoàn thiện tri thức và hứng thú học tập đều hướng vào việc
lĩnh hội tri thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn. Đồng thời các em học tập một cách tích
cực, tự giác thì dễ dàng nảy sinh hứng thú.
Thái độ đúng đắn đối với môn Hóa họclà điều kiện cần thiết và là tiền đề quan
trọng của sự hình thành hứng thú học tập. khi các em ý thức đầy đủ về môn học sẽ
giúp cho sự duy trì và phát triển hứng thú học tập.
+ Nhu cầu nhận thức, ham hiểu biết, niềm vui nhận thức sẽ làm nảy sinh khát
khao và luôn tìm tòi để đạt được tri thức, làm cơ sở để hình thành hứng thú. Việc
gắn tri thức hóa học với thực tiễn là biện pháp hiệu quả để khơi dậy nhu cầu nhận
thức của HS và nó kích thích sự tìm tòi, vận dụng của HS trong quá trình học tập.

12


b. Nhóm các yếu tố khách quan
Đó là những yếu tố bên ngoài tác động vào chủ thể bằng nhiều con đường khác
nhau, bao gồm :
+ Sự hấp dẫn của môn học. Đây là yếu tố tác động mạnh mẽ nhất đến sự hình
thành và phát triển hứng thú học môn Hóa học của HS. Tính hấp dẫn của môn Hóa
học sẽ tạo ra lòng say mê, hứng thú và dẫn đến những hành vi tích cực trong học
tập.
+ Phương pháp và năng lực giảng dạy của GV là yếu tố tác động đến sự hình
thành hứng thú học tập của HS. Nó có khả năng chi phối đến các yếu tố khác của
hứng thú học tập môn Hóa học. Giáo viên cần vận dung linh hoạt, sáng tạo và phù
hợp các PPDH khác nhau để giờ học đỡ nhàm chán. Muốn nâng cao hứng thú học

tập môn Hóa học thì GV phải làm sao cho bài học trở nên hấp dẫn, sinh động. Biết
cách khơi dậy và phát triển nhu cầu nhận thức của HS. Tầm hiểu biết, cách thức tổ
chức và hướng dẫn hoạt động của GV làm sao cho không khí lớp học luôn vui vẻ,
sinh động, tích cực và nghiêm túc.
+ Điều kiện vật chất, trang thiết bị như đồ dùng dạy học, phương tiện dạy
học…đều là các yếu tố giúp học sinh học tập có hiệu quả hơn.
+ Bầu không khí của lớp học cũng là yếu tố khách quan tác động đến hứng thú
học tập. Việc tạo ra không khí lớp học thoải mái, cởi mở sẽ ảnh hưởng thuận lợi
đến hứng thú học tập của HS.
Trong các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến hứng thú học tập của HS thì yếu tố
người thầy giữ vai trò quan trọng nhất.
1.1.3.4. Đặc điểm cơ bản của lứa tuổi học sinh THPT với việc tiếp thu môn Hóa
học
Mỗi giai đoạn có những đặc điểm riêng biệt, với lứa tuổi từ 15 đến 18 tuổi là
giai đoạn đầu tuổi thanh niên (thanh niên học sinh). Nội dung và tính chất của hoạt
động học tập khác rất nhiều so với hoạt động học tập của thiếu niên, hoạt động học
tập và độc lập ở mức cao hơn nhiều, kinh nghiệm sống các em phong phú hơn, các
em ý thức được rằng mình đang đứng trước ngưỡng cửa cuộc đời. Do vậy, thái độ
có ý thức của các em đối với học tập ngày càng phát triển .
13


- Thái độ đối với các môn học trở nên có lựa chọn hơn. Ở các em hình thành
hứng thú học tập gắn liền với khuynh hướng nghề nghiệp. Các em đã xác định cho
mình một hứng thú ổn định về một số môn học nào đó và thường liên quan đến việc
chọn nghề của HS, nên nhiều em rất tích cực học một số môn mà các em chọn thi
đại học, mặt khác các em lại sao nhãng các môn học khác. Hơn nữa, hứng thú nhận
thức của thanh niên sâu và bền vững hơn thiếu niên.
- Các em có khả năng tư duy lý luận, tư duy trừu tượng một cách độc lập, sáng
tạo, tư duy của các em chặt chẽ, có căn cứ và nhất quán hơn. Những đặc điểm đó

tạo điều kiện cho HS thực hiện các thao tác tư duy phức tạp, phân tích nội dung cơ
bản của khái niệm trừu tượng và nắm được mối quan hệ nhân quả trong tự nhiên.
Các em có khả năng tự làm thí nghiệm, tự tạo ra các thí nghiệm đơn giản, sử dụng
được các phương tiện kỹ thuật hiện đại. Do vậy, các em thuận lợi hơn trong việc
tiếp thu các kiến thức về Hóa học và vận dụng vào thực tiễn.
1.2. THỰC TRẠNG VỀ HỨNG THÚ HỌC TẬP HÓA HỌC CỦA HỌC SINH
2.1.1. Hứng thú của HS đối với giờ học hóa học
Với mục đích tìm hiểu mức độ biểu hiện hứng thú của HS đối với giờ học hóa
học đưa ra các mức độ. Kết quả điều tra 81 HS (2 lớp) về mức độ biểu hiện hứng
thú của HS:
Bảng 2.1. Hứng thú của HS đối với giờ học hóa học
Mức độ
Rất thích
Thích
Bình thường
Không thích

SL
8
26
41
6

%
9,8
32,1
50,1
8,0

Biểu đồ 2.1. Biểu thị hứng thú của HS đối với giờ học Hóa học

14


Số HS “rất thích” giờ học hóa là 9,8%, “thích” là 32,1%, trong đó có 8% không
thích giờ hóa, vậy số HS thật sự hứng thú với giờ học hóa đối với các em là thấp.
Điều này chứng tỏ vai trò của thầy giáo trong dạy học hóa học chưa kích thích
hứng thú học hóa cho các em.
2.1.2. Những hoạt động học tập tác động đến hứng thú của HS
Kết quả điều tra 81 HS về sở thích, hứng thú của HS trong giờ hóa cho thấy các
hoạt động đem lại hứng thú nhất cho người học là những hoạt động trong đó người
học phát huy tính tự lực như: tự làm thí nghiệm, làm bài tập ... Đặc biệt đáng mừng
là người học trong giờ hóa học rất thích được tự tay làm thí nghiệm (27,7%).
Biểu đồ 2.2. Các hoạt động ảnh hưởng hứng thú học tập môn Hoá học

15


Trong khi các hoạt động tự lực kích thích hứng thú của HS thì các hoạt động thụ
động không thể làm được điều đó, chỉ có 8,5% số HS được điều tra cảm thấy hứng
thú khi theo dõi GV làm thí nghiệm và 15,6% tìm thấy sự hứng thú khi ngồi nghe
thầy giáo giảng bài.
- Tình trạng lớp học tương đối trầm ở các trường lớp THPT khá phổ biến
hiện nay. Khi khảo sát ngẫu nhiên 2 lớp THPT, chúng tôi nhận thấy tỷ lệ phát biểu
ít chiếm quá nửa 50% , rồi đến tỷ lệ những học sinh chưa bao giờ phát biểu khá cao
(xấp xỉ 43%), còn lại lượng học sinh hăng hái phát biểu không đáng kể.

Nguyên nhân gây nên hiện tượng này khá phức tạp, bắt nguồn từ tâm lý
chung của học sinh (sợ bị chê cười khi phát biểu sai, chưa tự tin vào năng lực của
mình, chưa hiểu rõ tác dụng của việc phát biểu xây dựng bài), do cá nhân chưa
16



chuẩn bị bài kỹ, đến phương pháp giảng dạy của giáo viên chưa gây hứng thú tới
học sinh…
1.3. VAI TRÒ CỦA THÍ NGHIỆM VUI HÓA HỌC TRONG DẠY HỌC
MÔN HÓA HỌC
Đối với bộ môn Hóa học: các khái niệm, định luật, hiện tượng, bản chất hóa
học nhiều khi rất trìu tượng, khó hiểu, khô cứng làm HS khó tiếp thu, dễ nhàm
chán, đặc biệt các HS có tư duy không tốt sẽ có xu hướng sợ bộ môn Hóa học.
Để nâng cao hứng thú học tập bộ môn hóa của học sinh ở trường phổ thông hiện
nay, người giáo viên ngoài các phương pháp dạy học tích cực cần khai thác thêm
các hiện tượng hóa học thực tiễn trong đời sống, các thí nghiệm vui hóa học đưa
vào bài giảng nhằm phát huy tính tích cực, tạo niềm vui, hứng thú trong học tập bộ
môn.
1.3.1. Tổ chức hoạt động hướng dẫn học sinh lập mối liên hệ giữa nội dung bài
học và thực tiễn.
Học sinh thấy hứng thú và dễ ghi nhớ bài hơn nếu trong quá trình dạy và học,
giáo viên luôn có liên hệ thực tế giữa các kiến thức sách giáo khoa và thực tiễn đời
sống hàng ngày. Rất nhiều kiến thức hóa học có thể liên hệ được với các hiện
tượng tự nhiên xung quanh chúng ta bằng các thí nghiệm hóa học.
1.3.2. Tổ chức hoạt động hướng dẫn học sinh thông qua tình huống giả định
bằng các thí nghiệm hóa học.
Giáo viên có thể áp dụng nhiều phương pháp dạy học lồng ghép vào nhau,
trong đó hình thức đưa ra các tình huống giả định kèm theo thí nghiệm hóa học để
học sinh tranh luận vừa phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh, vừa tạo môi
trường thoải mái để các em trao đổi, từ đó giúp học sinh yêu thích môn học hơn.
Ví dụ: Khi học về ảnh hưởng của xúc tác đến tốc độ phản ứng hóa học trong bài “
Tốc độ phản ứng hóa học” – Hóa học lớp 10, giáo viên đưa ra tình huống:
Đường ăn có thể đốt cháy được không?
Sau khi thảo luận, chúng ta hãy cùng nhau làm một thí nghiệm để thử xem sao!

Giáo viên hướng dẫn học sinh cùng làm thí nghiệm:
17


Trên một nắp hộp bằng thiếc rải ở chính giữa một ít hạt đường (đường kính,
đường cát, ...), đưa que diêm đang cháy vào đốt cháy những hạt đường đó thì dù có
xoay xở đốt bao nhiêu lần cũng chẳng đốt cháy được nó. Phải chăng là đường
không thể cháy?
Bây giờ hãy rắc một số tàn thuốc lá lên những hạt đường đó rồi thử đốt lại xem
sao. Lúc này thì đường sẽ cháy, phát ra ngọn lửa màu xanh lam cho tới khi cháy
hết.
Sau khi cháy xong, tàn thuốc lá đã rắc vào đường vẫn là tàn thuốc lá và không
tăng, không giảm về số lượng, nhưng nó lại thúc đẩy cho đường cháy. Người ta gọi
nó là chất xúc tác. Từ đó giáo viên cho học sinh nhận xét về ảnh hưởng của chất
xúc tác đến tốc độ phản ứng hóa học.
1.3.3. Liên hệ thức tế trong bài dạy
Khi học xong vấn đề gì học sinh thấy có ứng dụng thực tiễn trong cuộc sống thì sẽ
chú ý tìm tòi, chủ động tư duy để tìm hiểu và dễ nhớ hơn. Do đó mỗi bài học giáo
viên đưa ra những ứng dụng thực tiễn, những thí nghiệm vui sẽ lôi cuốn sự chú ý
của học sinh.
CHƯƠNG II: VẬN DỤNG THÍ NGHIỆM VUI HÓA HỌC TRONG DẠY
HỌC MÔN HÓA HỌC Ở CHƯƠNG TRÌNH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG.
Hóa học là một môn khoa học thực nghiệm, hầu hết kiến thức hóa học đều được
rút ra từ quan sát thí nghiệm, trong dạy học hóa học ở trường phổ thông TN luôn
giữ một vai trò hết sức quan trọng .
Trước hết TN hóa học góp phần tạo trực quan sinh động, nhằm hổ trợ cho tư
duy trừu tượng của HS, giúp cho HS tư duy trên những hiện tượng cụ thể, xảy ra
trước mắt họ. Nhờ TN góp phần làm đơn giản hoá hiện tượng, làm nổi bậc những
khía cạnh cần nghiên cứu. Tức là nhờ TN mà các quá trình tự nhiên được tái hiện
lại trước mắt HS ở dạng rõ ràng nhất. Nhờ đó, HS dễ dàng nhận ra những tính chất

đặc trưng của các hiện tượng, quá trình và mối quan hệ giữa các tính chất đó.
Sử dụng thí nghiệm hoá học trong dạy học hoá học được coi là tích cực khi thí
nghiệm hoá học được dùng làm nguồn kiến thức để học sinh khai thác, tìm tòi kiến
thức hoặc dùng để kiểm chứng, kiểm tra những dự đoán, suy luận lý thuyết, hình
18


thành khái niệm. Các thí nghiệm trong giờ học chủ yếu do học sinh thực hiện nhằm
nghiên cứu kiến thức, kiểm tra dự đoán.
Thí nghiệm hóa học là một trong những PPDH hóa học ở trường phổ thông,
giúp cho HS tự chiếm lĩnh kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, đặc biệt rèn luyện cho các
em kỹ năng, kỹ xảo thực hành. Ngoài ra, TN còn giúp cho việc dạy học hóa học
không còn xa vời với thực tiễn.
Phương pháp sử dụng TN để kích thích hứng thú trong dạy học hóa học
TN hóa học được sử dụng ở nhiều giai đoạn khác nhau trong quá trình học.
Chẳng hạn, TN được tiến hành nhằm đề xuất vấn đề, nghiên cứu tài liệu mới hoặc
củng cố bài. TN có thể do GV tiến hành hay HS tiến hành dưới sự chỉ dẫn của GV.
Tuy nhiên, HS hứng thú nhất khi trực tiếp làm TN. Vì vậy, GV cần tạo điều kiện
cho các em được trực tiếp thực hiện đặc biệt là các TN đơn giản mà các em tự tạo
được và TN thực hành hóa học.
Khi dạy học và biểu diễn thí nghiệm minh họa về hiện tượng hóa học, giáo
viên có thể gia công những thí nghiệm đó bằng những dụng cụ đơn giản trong đời
sống để học sinh dễ thực hiện, điều đó sẽ giúp học sinh có thể tự thực hành và kích
thích sự tìm hiểu, khám phá ở học sinh.
1. Đặt tình huống vào bài mới
Tình huống có vấn đề là hoàn cảnh trong đó xuất hiện mâu thuẫn nhận thức mà HS
chấp nhận viếc giải quyết mâu thuẫn đó như một nhiệm vụ học tập và sẵn sàng đem
sức lực trí tuệ ra giải quyết.
Khi ở trong tình huống có vấn đề, trạng thái tâm lý của HS có sự chuyển biến rõ
rệt. Học sinh sau khi chấp nhận mâu thuẫn của bài toán nhận thức, sẽ xuất hiện nhu

cầu bức thiết muốn tìm đáp số của bài toán. Lúc này tính tò mò vốn có ở HS bị kích
thích.Trạng thái tâm lý ngạc nhiên, tò mò, hứng thú là điểm khởi đầu để các em đi
tìm lời giải đáp. Những yếu tố đó tạo nên động cơ học tập của HS trong giờ học.
1.1.

Bài: “Một số hợp chất quan trọng của kim loại kiềm thổ”– Hóa học 12

Giáo viên đặt câu hỏi cho phần tính chất của Ca(OH) 2: Vì sao khi tô vôi lên tường
thì lát sau vôi khô và cứng lại?
Học sinh trả lời: Ca(OH)2 là một bazơ nên có phản ứng với khí CO 2 trong không
khí.
GV cho học sinh làm thí nghiệm: Thổi khí làm đổi màu
19


Chuẩn bị:
dụng cụ: cốc thủy tinh, giấy lọc, ống hút
hóa chất: Ca(OH)2
Cách làm:
Lấy một ít vôi cho vào trong cốc thuỷ tinh, thêm nước lạnh, khuấy trộn, để lắng rồi
gạn lấy phần dung dịch trong, không màu vào một chiếc cốc. Sau đó, cắm một đầu
ống hút vào cốc, một đầu ống hút thì ngậm trong miệng mà thổi hơi vào cốc đựng
nước vôi. Chỉ một lát, sẽ thấy nước vôi đang trong, không màu trở nên đục, vẩn.
Nhưng tiếp tục thổi, sẽ thấy dung dịch trong cốc biến trở lại thành trong suốt.
Giải thích: Nước vôi chứa trong cốc khi gặp phải khí cacbonic có trong hơi thở ra
sẽ phản ứng tạo ra canxi cacbonat. Canxi cacbonat là những hạt rất nhỏ, không dễ
lắng, kết tủa nên lơ lửng trong nước, cho nên sẽ thấy nước trở nên vẩn đục màu
trắng sữa. Khi tiếp tục thổi khí cacbonic vào trong cốc thì do canxi cacbonic phản
ứng với nó tạo ra canxihydro cacbonat là chất tan trong nước nên chất lỏng trong
cốc lại biến thành trong suốt.

Từ thí nghiệm trên, học sinh rút ra được tính chất của dung dịch Ca(OH) 2 và khắc
sâu kiến thức
1.2.

Bài : Flo - “ Một số hợp chất của flo” –

Hóa học 10

GV đặt vấn đề: dung dịch HF là một axit yếu, SiO 2 là một oxitaxit, vậy giữa chúng
có phản ứng hóa học xảy ra hay không? Để tìm hiểu vấn đề này, chúng ta cùng làm
thí nghiệm sau:
Chuẩn bị:
Một tấm thủy tinh trơn không màu.
Parafin
Dung dịch axit flohiđric
Cách làm:
Muốn chạm khắc các hoa văn hay khắc chữ trên bề mặt thủy tinh. Trước tiên ta
quét đều đặn lên bề mặt thủy tinh một lớp parafin.

20


Sau đó ta chạm trổ các hình hoa văn lên lớp parafin đó, làm cho phần thủy tinh cần
khắc sẽ lộ ra.
Sau khi khắc, trổ xong , dùng một lượng axit Flohiđric (HF) quét, bôi nhẹ nhàng
lên lớp parafin; chất này gặp phần thủy tinh lộ ra do chạm khắc liền ăn mòn và tạo
nên hoa văn trên thủy tinh
Có một số sản phẩm thủy tinh sau khi dùng axit Flohiđric làm xong công việc điêu
khắc lại gia công thêm màu sắc rực rỡ làm cho tác phẩm điêu khắc trên thủy tinh
càng thêm lộng lẫy, đẹp mắt.

Chứng tỏ: Axit Flohiđric có khả năng ăn mòn thủy tinh.
Phản ứng hóa học xảy ra:

4HF + SiO2 → SiF4 + 2H2O

Chính vì vậy trong phòng thí nghiệm, axit Flohiđric không đựng trong bình thủy
tinh được, thường đựng trong bình bằng chì hay bằng nhựa.
1.3. Bài: “ Hợp chất của cacbon” – Hóa học 11.
GV đặt vấn đề: Vì sao khi mở nắp chai nước ngọt có ga lại có nhiều bọt khí thoát
ra? Đó là khí gì? Nó có ích gì với chúng ta? Hãy làm thí nghiệm sau để tìm các câu
giải đáp.
Chuẩn bị:
Tìm một miếng bọt xốp gọt thành một chiếc nút chai, đục một lỗ ở góc nút để
lồng khít vào một ống cao su.
Ở trong một lọ rộng miệng, đặt vào một cây nến đang cháy.
Cốc thủy tinh chứa nước vôi trong.
Cách làm:
Mở nắp chai nước uống có gaz, dùng chiếc nút chai đã chuẩn bị để nút miệng chai
nước uống có gaz, để một đầu ống cao su thò vào trong lọ rộng miệng, rồi nhè nhẹ
xóc chai nước uống có gaz thì chất khí bốc lên trong chai nước uống có gaz sẽ theo
ống cao su sang lọ rộng miệng, chỉ lát sau đã làm tắt ngọn nến đang cháy.
Nếu thử chuyển đầu ống cao su cắm vào trong nước vôi, nước vôi trong sẽ trở
nên đục ngầu.

21


Chúng ta có thể phán đoán chất khí trong nước uống có gaz chính là khí
cacboníc. Ở các nhà máy nước ngọt người ta dùng áp lực lớn để ép CO 2 hòa tan
trong nước sau đó nạp vào bình đóng kín thu được nước ngọt. Những ngày nóng

nực, mọi người thích uống nước uống có gaz. Khi uống nước có gaz, dạ dày và ruột
không hấp thu CO2, nhiệt độ ở dạ dày cao hơn nên khí thoát ra ngoài theo đường
miệng thì sẽ không ngừng ợ ra thứ khí đó, từ đó mà thải ra theo một phần nhiệt
lượng trong cơ thể làm cho người có cảm giác mát mẻ, dễ chịu. Ngoài ra, CO 2 có
tác dụng kích thích nhẹ thành dạ dày, tăng cường tiết dịch vị giúp dễ tiêu hóa .
2. Thí nghiệm biểu diễn
TN biểu diễn là TN do GV tiến hành trên lớp để khảo sát hay kiểm chứng một
hiện tượng, định luật hay giả thuyết nào trong khi nghiên cứu tài liệu mới. TN biểu
diễn nếu tổ chức hợp lý sẽ giúp cho HS tiếp thu bài dễ dàng và nhanh chóng hơn.
Các thí nghiệm của giáo viên cần tăng cường theo phương pháp nghiên cứu hạn chế
việc sử dụng thí nghiệm theo phương pháp minh hoạ nhằm phát huy tính tích cực
nhận thức của, rèn luyện tính tự học và tư duy của học sinh. Với các thí nghiệm
đơn giản, sử dụng hoá chất ít độc hại khó gây nguy hiểm cho học sinh ta có thể cho
học sinh thực hiện dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
a) Thí nghiệm biểu diễn khi nghiên cứu tính chất của một chất.
2.1. Bài “ Một số hợp chất quan trọng của kim loại kiềm ” – hóa học 12.
GV cho học sinh làm thí nghiệm khi dạy phần: Natricacbonnat
Chuẩn bị:
Cốc thủy tinh chứa giấm ăn.
Long não.
Sôđa (Na2CO3)
Cách làm:
Trong một cốc đựng giấm thả vào mấy viên long não thì thấy các viên long não
đều chìm xuống đáy cốc. Khi đó, thêm vào cốc một lượng nhỏ sôđa (Na 2CO3) sẽ

22


thấy các viên long não nổi dần lên, nhưng sau khi nổi lên tới mặt nước trong cốc nó
lại chìm xuống đáy cốc, cứ như vậy lặp đi lặp lại, trông rất thú vị.

Vì sao viên long não lại nổi lên, chìm xuống trong cốc nước như vậy?
Giải thích: Sôđa gặp giấm thì pháp sinh phản ứng hoá học tạo ra bọt khí
cacboníc (CO2). Bọt khí cacbonic bám vào bề mặt viên long não, tựa như những
"cái phao" buộc vào viên long não, làm cho viên long não được nâng lên. Khi chất
khí trong bọt khí khuếch tán vào không khí thì viên long não mất "phao" đỡ nên lại
chìm xuống. Quá trình cứ lặp lại như vậy.
* GV hướng dẫn làm mực viết vô hình không gây độc đối với sức khỏe từ bột sôđa
(sodium bicarbonate).
Thành phần:
Bột sôđa.
Giấy viết.
Nước.
Đèn (nguồn cung cấp nhiệt).
Cọ vẽ hoặc mảnh vải.
Tách đong.
Nước nho màu tím (tùy ý)
Cách làm:
1. Ít nhất có 2 cách làm mực vô hình từ bột sôđa. Hòa trộn hỗn hợp gồm các phần
bột sôđa và nước tỷ lệ bằng nhau.
2. Dùng một mảnh vải cotton, que tăm, hay cọ vẽ để viết lên tờ giấy trắng, sử dụng
hỗn hợp bột sôđa như mực viết.
3. Để mực khô.
4. Có một cách để đọc chữ viết là để tờ giấy lên nguồn gia nhiệt như bóng đèn. Bột
sôđa sẽ làm nổi chữ hiện lên màu nâu.
5. Một cách khác để đọc chữ là dùng nước nho màu tím sơn lên tờ giấy. Chữ sẽ
xuất hiện trên màu sắc khác.
Hướng dẫn:
23



1. Nếu dùng nguồn cung cấp nhiệt, tránh làm cháy mảnh giấy, không nên dùng đèn
halogen.
2. Bột sôđa và nước nho phản ứng acid - baz với nhau tạo nên sự thay đổi màu sắc
trên tờ giấy.
3. Có thể thực hiện thí nghiệm pha loãng dung dịch sôđa bằng cách dùng 1 phần
bột sôđa với 2 phần nước.
4. Nước nho cô đặc cho kết quả thay đổi màu sắc rõ ràng hơn nước nho thường

2.2. Bài “ Chất

giặt rửa” – Hóa học 12

Chuẩn bị:
Bình thủy tinh chứa nước
Một ít dầu ăn
Chất tẩy rửa
Cách làm:
Cho nước sạch vào tới nửa bình của một bình thuỷ tinh trong suốt, thêm vào một
ít dầu ăn. Khi đó dầu nổi trên mặt nước, mặt phân cách giữa dầu và nước rất rõ
ràng. Dùng tay lắc bình thuỷ tinh, để cưỡng bức dầu và nước tạo thành một pha, khi
để yên một lúc thì dầu và nước lại phân thành hai lớp trên dưới rõ ràng.
Khi đó lại cho thêm vào trong bình một ít chất tẩy rửa (hoặc bột giặt quần áo),
sau đó lắc bình thật kỹ rồi quan sát sẽ thấy dầu và nước không còn phân tầng thành
hai lớp nữa mà hoà làm một với nhau.
24


Giải thích: Bởi chất tẩy rửa có một thuộc tính đặc biệt là có thể bao vây từng
giọt dầu, đem phân tán đều trong nước, tác dụng như thế được gọi là "tác dụng nhũ
hoá". Hỗn hợp nước và dầu được hình thành nhờ tác dụng nhũ hoá được gọi là "nhũ

tương". Bột giặt có thể khử đi vết dầu trên quần áo chất tẩy rửa có thể tẩy sạch ố
dầu là do chúng có thể tách phân tử dầu trên quần áo để đưa vào trong nước.
2.3. Bài : “Protein” – Hóa học 12
Vì sao không thể dùng nước nóng để tẩy, giặt vết máu?
Vết máu dính trên quần áo cần phải lập tức giặt sạch, nếu không thì một thời
gian sau, vết máu sẽ rất khó khử đi hết. Không được dùng nước nóng để giặt tẩy vết
máu mà chỉ có thể dùng nước lạnh. Về điều này có thể dùng thực nghiệm để giải
thích.
Lấy hai miếng vải trắng, lần lượt nhỏ lên từng tấm vài giọt máu gà vừa cắt tiết.
Đem một miếng vải ngâm trong nước nóng, và đêm miếng vải kia ngâm vào nước
lạnh. Sau khoảng 15 phút, vớt hai miếng vải đó ra, sẽ thấy vết máu trên miếng vải
ngâm trong nước nóng có màu đỏ đen, còn trên miếng vải ngâm trong nước lạnh thì
vết máu vẫn đỏ tươi và nhạt đi.
Lấy xà phòng xát và giặt hai miếng vải thì thấy: Vết máu trên miếng vải đã từng
ngâm trong nước lạnh thì giặt sạch hết, còn ở miếng vải đã từng ngâm trong nước
nóng thì không còn cách nào giặt sạch được!
Protein trong dịch máu khi gặp nhiệt độ cao thì phát sinh chuyển biến hoá học
tạo dạng kết tủa – sự đông tụ. Vết máu khi chưa phát sinh những biến đổi hoá học
thì có thể tan trong nước, còn sau khi đã có những biến đổi do tác dụng của nhiệt
thì trở nên không tan trong nước. Có thể quan sát thực tế điều trên ở máu gà: sau
khi đun nóng thì máu gà trở thành "miếng tiết" không thể tan được nữa, và do vậy
vết máu không dễ giặt tẩy sạch.
Cũng với lý do trên, vết máu khi để ra ngoài không khí một thời gian dài thì cũng
phát sinh những biến đổi hoá học. Đó là nguyên nhân dẫn đến việc không dễ giặt
tẩy vết máu đã cũ.

25



×