Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Vận dụng tư tưởng hồ chí minh về sự thống nhất giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (795.5 KB, 108 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ HẠNH

VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
SỰ THỐNG NHẤT GIỮA LỢI ÍCH DÂN TỘC VÀ
LỢI ÍCH GIAI CẤP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội Khoa học
Mã số:

60.22.85

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Dƣơng Văn Thịnh

HÀ NỘI, 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sỹ với đề tài “Vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh về sự thống nhất giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp ở Việt Nam
hiện nay” là công trình nghiên cứu của riêng cá nhân tôi và những kết quả
nghiên cứu trong luận văn này hoàn toàn trung thực.
Ngày
tháng
năm 2014
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Hạnh



LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài luận văn: “Vận dụng tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh về sự thống nhất giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp ở Việt
Nam hiện nay”, bên cạnh sự nỗ lực của bản thân, không thể không kể đến sự
giúp đỡ rất nhiệt tình và sự động viên to lớn từ phía các Thầy giáo, Cô giáo
Khoa Xã hội học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Bệnh viện
Ban ngày Mai Hương, từ gia đình và bạn bè đã giúp cho tôi hoàn thành
nghiên cứu của mình.
Trước hết tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến
PGS.TS Dương Văn Thịnh đã tận tình hướng dẫn tôi từ những bước đi đầu
tiên khi xây dựng đề cương cho tới khi hoàn thành luận văn này.
Đồng thời, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới các Thầy
giáo, Cô giáo trong Khoa Triết học học, gia đình, đồng nghiệp và các em sinh
viên đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá trình thực hiện nghiên cứu.
Tuy đã có nhiều nỗ lực, nhưng cũng không tránh khỏi những thiếu sót
nhất định.Vì vậy tôi rất mong nhận được sự đóng góp quý báu của quí Thầy
Cô giáo và các bạn để luận văn được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Ngày
tháng
năm 2014
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Hạnh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 3
1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................................... 3
2. Tình hình nghiên cứu .............................................................................................. 4

3. Mục đích và nhiệm vụ của Luận văn ................................................................... 6
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.......................................................................... 6
5. Cơ sở lí luận và phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................... 7
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận văn ............................................................. 7
7. Kết cấu của luận văn................................................................................................ 7
CHƢƠNG 1 TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ SỰ THỐNG NHẤT GIỮA
LỢI ÍCH DÂN TỘC VÀ LỢI ÍCH GIAI CẤP VÀ NHỮNG YÊU CẦU CỦA
VIỆC VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG ĐÓ TRONG CÁCH MẠNG VIỆT NAM ... 8
1.1. Cơ sở ra đời và nội dung tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lợi
ích dân tộc và lợi ích giai cấp ...................................................................................... 8
1.1.1. Cơ sở ra đời .......................................................................................................... 8
1.1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lợi ích dân tộc và
lợi ích giai cấp trong cách mạng Việt Nam .............................................................. 22
1.2. Một số yêu cầu của việc vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất
giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp trong cách mạng Việt Nam .................... 34
1.2.1. Khái niệm vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh ................................................. 34
1.2.2. Yêu cầu vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lợi ích dân
tộc và lợi ích giai cấp ................................................................................................... 37
Kết luận chƣơng 1 ...................................................................................................... 46
CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG VÀ PHƢƠNG HƢỚNG VẬN DỤNG TƢ
TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ SỰ THỐNG NHẤT GIỮA LỢI ÍCH DÂN
TỘC VÀ LỢI ÍCH GIAI CẤP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............................... 48
2.1. Thực trạng vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lợi ích
dân tộc và lợi ích giai cấp ở Việt Nam hiện nay..................................................... 48
1


2.1.1. Về thành tựu ...................................................................................................... 48
2.1.2. Về khuyết điểm, tồn tại...................................................................................... 68
2.2. Một số phƣơng hƣớng cơ bản nhằm tiếp tục vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí

Minh về sự thống nhất giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp ở Việt Nam hiện
nay. ................................................................................................................................ 77
2.2.1. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.............................. 77
2.2.2. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa..................................................................................... 82
2.2.3. Kết hợp hài hòa lợi ích của của các tầng lớp xã hội và các thành phần kinh
tế trên lập trường giai cấp công nhân, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
sản.................................................................................................................................. 87
2.2.4. Củng cố và tăng cường khối đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh
công nhân - nông dân - tri thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản ................. 90
Kết luận chƣơng 2 ...................................................................................................... 94
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 98

2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tình hình thế giới hiện nay đang đan xen những yếu tố phức tạp, phát
triển và suy thoái, hợp tác và đấu tranh, ổn định và mất ổn định. Đó là kết quả
của sự tác động nhiều chiều và phụ thuộc lẫn nhau của nhiều yếu tố, trong đó,
phải kể đến mối quan hệ giữa lợi ích dân tộc dân tộc và lợi ích giai cấp.
Không thể tiếp cận vấn đề một cách phiến diện, càng không thể đưa ra một
giải pháp đơn lẻ nào đó để khắc phục được tất cả, thậm chí một bộ phận các
vấn đề đang nảy sinh trong mối quan hệ ấy, mà đòi hỏi phải có sự nỗ lực trên
nhiều mặt, từ công tác lý luận đến hoạt động thực tiễn của các quốc gia, dân
tộc.
Công cuộc đổi mới ở nước ta diễn ra toàn diện, triệt để và sâu sắc trên
tất cả các phương diện của đời sống xã hội. Đó cũng là quá trình không ngừng

nảy sinh những vấn đề mới. Việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, thực hiện đa dạng hóa quan hệ sở hữu đã làm biến đổi cơ cấu
giai cấp ở nước ta, tạo ra sự không thuần nhất, xung đột các lợi ích trái ngược
nhau. Thêm vào đó hiện nay các thế lực thù địch đang tìm mọi cách chia rẽ
khối đại đoàn kết dân tộc, gây tác động tiêu cực tới sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ đất nước của nhân dân ta. Do đó, Đảng ta chủ trương mở cửa nền kinh
tế, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Sự nghiệp đổi mới đòi hỏi phải huy động sức mạnh to lớn của khối
đoàn kết dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, của giai cấp công nhân. Đảng và
Nhà nước phải thường xuyên nhận thức và kịp thời giải quyết các vấn đề nảy
sinh để thúc đẩy xã hội phát triển. Ở Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
lợi ích dân tộc phải đặt cao hơn hết thảy, phải chống lại mọi sự vận dụng lí
luận giai cấp và đấu tranh giai cấp một cách máy móc, giáo điều. Chỉ trên cơ
sở đó mới có thể khai thác được mọi nguồn lực để phát triển đất nước, tạo

3


điều kiện cho mọi người Việt Nam yêu nước có thể đóng góp phần công sức
của mình vào sự phát triển dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lợi ích dân tộc và lợi ích
giai cấp là sự vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm về giai cấp và dân
tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, đưa lại
cho cách mạng Việt Nam những thắng lợi to lớn. Do đó, nghiên cứu và vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề này sẽ giúp cho chúng ta có những
hướng đi thích hợp trong bối cảnh đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
Chính vì những lí do đó mà tôi quyết định chọn vấn đề “Vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp ở
Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ triết học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu
Bàn về vấn đề dân tộc, giai cấp và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân
tộc và giai cấp không phải là một đề tài mới, nhưng nó vẫn là đề tài thu hút sự
quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu.
Có thể nêu ra một số công trình như: “Nguyên tắc thống nhất dân tộc,
giai cấp, nhân loại trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh” của Lương Thuỳ
Liên, luận án Tiến sĩ Triết học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại
Học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội, 2009. “Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề dân
tộc và giai cấp trong cách mạng Việt Nam” của Trần Văn Hải, luận án Tiến sĩ
Lịch sử, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2001. “Lý luận
Mác xít về quan hệ giai cấp và dân tộc với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện
nay” của Đinh Ngọc Quyên, luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2003. Trong đó luận án “Nguyên tắc thống
nhất dân tộc, giai cấp, nhân loại trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh” của
Lương Thuỳ Liên đã nghiên cứu và đánh giá nội dung và đặc điểm của
nguyên tắc thống nhất dân tộc, giai cấp, nhân loại trong tư tưởng Hồ Chí
Minh. Phân tích những nhân tố quy định sự hình thành và những biểu hiện
chủ yếu của nguyên tắc thống nhất dân tộc, giai cấp, nhân loại trong tư tưởng
4


Hồ Chí Minh, làm rõ giá trị của nguyên tắc đó đối với Việt Nam hiện nay.
“Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề dân tộc và giai cấp trong cách mạng Việt
Nam” của Trần Văn Hải đã hệ thống hoá những quan điểm của Hồ Chí Minh
về vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong cách mạng Việt Nam, nổi bật nhất
là quan điểm độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Ngoài ra còn có một số bài viết, chuyên khảo đăng tải trên các tạp chí
như: “Mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư
tưởng Hồ Chí Minh” của Nguyễn Duy Quý, Tạp chí Khoa học xã hội, số 5/
2004; “Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giai cấp và dân tộc” của

Nguyễn Ngọc Long, Tạp chí Nghiên cứu lý luận số 4/1996; “Sự thống nhất
giữa lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc trong sự nghiệp đổi mới” của Trần Hữu
Tiến, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 3 - 1996…Trong bài “Mối quan hệ
biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí
Minh” tác giả Nguyễn Duy Quý khái quát quá trình Hồ Chí Minh tiếp cận lý
luận dân tộc và giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin, những kết luận Hồ Chí
Minh rút ra qua việc nghiên cứu lý luận đó và thực tiễn lịch sử thế giới và đất
nước. Tác giả cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải học tập, quán triệt tư tưởng
Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp trong tình hình mới. Tác giả
Nguyễn Ngọc Long trong bài nêu trên đã phân tích quan điểm của giai cấp vô
sản với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các nước thuộc địa.
Tác giả cũng khái quát những luận giải của Hồ Chí Minh về sự thống nhất
không thể tách rời đó và khẳng định đó là một nội dung cơ bản và quan trọng
của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hầu hết, các công trình trên đã trình bày khá rõ ràng các vấn đề về dân
tộc, vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp, phân tích được mối quan hệ giữa
dân tộc và giai cấp, cũng như lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp.
Tuy nhiên, riêng những vấn đề triết học thì phần lớn các công trình trên
chỉ dừng lại ở những vấn đề có tính chất phương pháp luận chung nhất. Trong
khi đó, trong giai đoạn hiện nay, với xu hướng quốc tế hóa và sự phát triển
5


không ngừng của khoa học - công nghệ, mối quan hệ giữa lợi ích dân tộc và
lợi ích giai cấp cũng như việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan
hệ dân tộc và giai cấp đang nảy sinh nhiều vấn đề mới cần giải quyết. Vì vậy,
việc nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống vấn đề“Vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp ở Việt
Nam hiện nay” là một yêu cầu cấp thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ của Luận văn

* Mục đích:
Trên cơ sở phân tích làm rõ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về sự
thống nhất giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp, thực trạng vận dụng tư
tưởng đó trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam trong những năm qua, từ đó đề
xuất một số phương hướng cơ bản nhằm tiếp tục vận dụng tư tưởng đó ở Việt
Nam hiện nay.
* Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Phân tích làm rõ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất
giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp.
- Trình bày thực trạng việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về sự
thống nhất giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp trong những năm đổi mới.
- Đề xuất một số phương hướng nhằm tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về sự thống nhất giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp trong giai đoạn
hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là:
Tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về sự
thống nhất giữa lợi ích dân tộc và giai cấp ở Việt Nam hiện nay.

6


* Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa
lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp từ năm 1986 đến nay dưới góc độ triết học.
5. Cơ sở lí luận và phƣơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở lí luận
Luận văn được thực hiện dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về

dân tộc, giai cấp, mối quan hệ dân tộc và giai cấp.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở sử dụng tổng hợp nhiều phương
pháp, trong đó một số phương pháp chủ yếu như: sự thống nhất giữa lôgích và
lịch sử; phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp so sánh, phương
pháp điều tra xã hội học, phương pháp khoa học liên ngành…
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận văn
* Ý nghĩa lí luận
Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lí luận cho việc vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về sự thống nhất giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp ở Việt Nam
hiện nay. Đồng thời, góp phần thống nhất nhận thức và hoạt động thực tiễn
trong quá trình đổi mới.
* Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,
giảng dạy những vấn đề liên quan đến dân tộc, giai cấp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Nội dung
của luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.

7


CHƢƠNG 1
TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ SỰ THỐNG NHẤT GIỮA LỢI ÍCH
DÂN TỘC VÀ LỢI ÍCH GIAI CẤP VÀ NHỮNG YÊU CẦU CỦA VIỆC
VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG ĐÓ TRONG CÁCH MẠNG VIỆT NAM
1.1. Cơ sở ra đời và nội dung tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về sự thống
nhất giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp
1.1.1. Cơ sở ra đời
* Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về quan hệ dân tộc và giai cấp

Giai cấp và dân tộc là hai vấn đề có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Giai cấp ra đời trước dân tộc rất lâu. Còn dân tộc ở Châu Âu ra đời gắn với
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Quan điểm của Mác và Ăngghen về
quan hệ dân tộc và giai cấp được thể hiện trong nhiều tác phẩm như “Những
nguyên lí của chủ nghĩa cộng sản”, “Đấu tranh giai cấp ở Pháp” song tập
trung nhiều nhất là ở tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản”.
Vấn đề dân tộc được Mác và Ăngghen xem là một bộ phận của hệ vấn
đề dân tộc và giai cấp tức là xem xét vấn đề dân tộc dưới góc độ cuộc đấu
tranh của giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản. Nó là một bộ phận không
thể tách rời của sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân, đồng thời cũng là
giải phóng toàn thể những người lao động khỏi mọi hình thức áp bức bóc lột.
Mác và Ăngghen đã đề cập đến sự ra đời của dân tộc gắn liền với sự ra đời
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, của chủ nghĩa tư bản. Lẽ tất nhiên
đó là dân tộc tư sản mà giai cấp tư sản là đại biểu. Ở châu Âu khi chủ nghĩa tư
bản ra đời đã tồn tại các lãnh địa phong kiến cát cứ, phân tán và biệt lập. Ở
Đức, chẳng hạn, trước công cuộc thống nhất của Bixmac đã tồn tại tới 38
công quốc lớn, nhỏ, mà Phổ là lớn nhất. Các công quốc này có quân đội, tài
chính, đơn vị đo lường và tiền tệ, quan thuế riêng. Do đó việc xóa bỏ tình
trạng phân tán, cát cứ, xây dựng thị trường dân tộc thống nhất là nhiệm vụ
dân tộc của cách mạng tư sản, và giai cấp tư sản đã hoàn thành nhiệm vụ này.
Các ông đã viết về vấn đề này như sau: “Giai cấp tư sản ngày càng xóa bỏ
8


tình trạng phân tán của tư liệu sản xuất, của tài sản và của dân cư. Nó tụ tập
dân cư, tập trung các tư liệu sản xuất và tích tụ tài sản vào trong tay một số ít
người. Kết quả tất yếu của những thay đổi ấy là sự tập trung về Chính trị.
Những địa phương độc lập, liên hệ với nhau hầu như chỉ bởi những quan hệ
liên minh và những lợi ích, luật lệ, chính phủ, thuế quan khác nhau, thì đã
được tập hợp lại thành một dân tộc thống nhất, có một chính phủ thống nhất,

một luật pháp thống nhất có tính chất giai cấp và một thuế quan thống nhất”
[54, tr.546 – 547]. Như vậy, dân tộc trong quan điểm của Mác và Ăngghen là
cộng đồng người gắn với xã hội có giai cấp, có nhà nước và có các thể chế
chính trị. Nhưng khác với các hình thức cộng đồng người trước đó, những
mối liên hệ dân tộc chặt chẽ hơn, bền vững hơn, một mặt do chúng được hình
thành trong quá trình lịch sử rất lâu dài, đã trải qua nhiều thử thách, mặt khác,
do chúng được hình thành và củng cố trên cơ sở mới là quan hệ trong một địa
bàn, tầng lớp có những lợi ích chung và riêng và có quan hệ với lợi ích dân
tộc ở những mức độ khác nhau. Trong các quan hệ ấy, quan hệ dân tộc và giai
cấp là quan hệ chi phối.
Quan hệ giai cấp với tư cách là sản phẩm của một phương thức sản xuất
nhất định là nhân tố đóng vai trò quyết định đối với sự hình thành dân tộc,
tính chất dân tộc, xu hướng phát triển của dân tộc. Trong kết cấu giai cấp của
xã hội, giai cấp nào mạnh nhất về kinh tế thì sẽ giữ vai trò thống trị đối với
dân tộc. Tính chất của giai cấp thống trị bị quy định bởi tính chất của phương
thức sản xuất và quy định tính chất của dân tộc, áp bức giai cấp sẽ sinh ra áp
bức dân tộc: “hãy xóa bỏ nạn người bóc người thì nạn dân tộc này bóc lột dân
tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ. Khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội
bộ dân tộc không còn nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng mất” [54,
tr.565]. Mác và Ăngghen đã phân tích và chỉ rõ tính chất đặc biệt của cuộc
đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản. Cuộc cách mạng vô
sản, theo Mác và Ăngghen là cuộc cách mạng mang tầm vóc thế giới, và là
cuộc đấu tranh giai cấp cuối cùng trong lịch sử. Bởi vì, nó là cuộc cách mạng
9


duy nhất trong lịch sử không phải nhằm thay thế sự thống trị của giai cấp bóc
lột này bằng giai cấp bóc lột khác, mà là nhằm xóa bỏ chế độ tư hữu sản sinh
ra sự bóc lột, mà biểu hiện cuối cùng và đầy đủ nhất của nó là chế độ tư sản,
từ đó xóa bỏ hoàn toàn cơ sở cho bóc lột, áp bức giai cấp, áp bức dân tộc và

áp bức con người nói chung. Do vậy, không thể giải quyết được vấn đề dân
tộc nếu không tiến hành cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân để thủ
tiêu chế độ người bóc lột người. Mác và Ăngghen khẳng định rằng chỉ có con
đường cách mạng vô sản, xây dựng chủ nghĩa cộng sản mới xóa bỏ triệt để
ách áp bức dân tộc. Do đó, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản trước tiên phải
được thực hiện trên địa bàn một quốc gia – dân tộc nhất định. Là đại biểu
chân chính của lợi ích và truyền thống dân tộc, giai cấp công nhân có khả
năng đoàn kết mọi lực lượng yêu nước cách mạng xây dựng mặt trận dân tộc
trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Nhiều nhà nghiên cứu đến nay thống nhất rằng trong quan hệ dân tộc –
giai cấp thì Mác và Ăngghen tập trung làm sáng tỏ vấn đề giai cấp. Sở dĩ như
vậy là bởi thời của các ông trong xã hội Tây Âu mâu thuẫn cơ bản nổi cộm là
mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Chính vì vậy, Mác và
Ăngghen tập trung giải quyết vấn đề giai cấp. Vấn đề dân tộc mà hai ông nói
đến mới chỉ được đặt ra chủ yếu với giai cấp vô sản ở các nước tư bản phát
triển, chưa phải đối với giai cấp vô sản ở các dân tộc thuộc địa, nửa thuộc địa
và phụ thuộc. V.I. Lênin là người kế tục sự nghiệp cao cả của Mác và
Ăngghen. Song, sống trong thời đại chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai
đoạn chủ nghĩa đế quốc, Lênin đã bổ sung thêm vào kho tàng lý luận của chủ
nghĩa Mác những luận điểm mới về mối quan hệ dân tộc và giai cấp với
những điều kiện mới của thời đại.
Trong vấn đề dân tộc, Lênin đã nêu lên hai xu hướng của chủ nghĩa tư
bản: một là thức tỉnh và phát triển đời sống dân tộc và các phong trào dân tộc,
hình thành các quốc gia dân tộc. Xu hướng này tương ứng với việc xóa bỏ chế
độ phong kiến cát cứ xây dựng những quốc gia tư sản độc lập, phong trào dân
10


tộc trở thành phong trào có tính chất quần chúng, các quốc gia dân tộc lần
lượt ra đời. Và hai là phá vỡ những hàng rào ngăn cách các dân tộc. Xu hướng

này tương ứng với giai đoạn các quốc gia tư bản chủ nghĩa đã hình thành và
phát triển, làm cho các dân tộc xích lại gần nhau, hình thành thị trường thế
giới. Trách nhiệm của giai cấp vô sản Nga là phải lật đổ mọi ách áp bức
phong kiến, xóa bỏ mọi áp bức dân tộc, xóa bỏ mọi đặc quyền của bất kì dân
tộc nào. Giai cấp vô sản Nga, về vấn đề dân tộc, một mặt phải chống mọi thứ
chủ nghĩa dân tộc, trước hết là chủ nghĩa dân tộc đại Nga giữ vững quyền
bình đẳng hoàn toàn giữa các dân tộc, giải quyết vấn đề quyền tự quyết về
chính trị của các dân tộc, mặt khác cần giữ vững nguyên tắc của chủ nghĩa
quốc tế, giữ vững cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản và sự thống nhất về tổ
chức của giai cấp vô sản, gắn công nhân các dân tộc trong nước thành một
khối. Lênin viết: “Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng; các dân tộc được quyền
tự quyết, liên hợp công nhân tất cả các dân tộc lại” [15, tr.84].
Lênin đã giải quyết vấn đề dân tộc trên cơ sở gắn nó với thời đại chủ
nghĩa đế quốc, từ đó mở rộng phạm vi vấn đề dân tộc từ những dân tộc nhỏ bé
ở Châu Âu thành vấn đề giải phóng, độc lập của tất cả các dân tộc bị áp bức
trên thế giới. Đặc biệt là khi giai cấp tư sản ở các nước trên thế giới đã liên
minh với nhau để cùng đối phó với giai cấp vô sản thì cách mạng xã hội chủ
nghĩa càng không thể chỉ là của giai cấp vô sản cách mạng ở từng nước riêng
biệt chỉ chống lại giai cấp tư sản nước mình. Cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa của giai cấp vô sản là cuộc đấu tranh mang tính liên hợp giữa những
người vô sản trên toàn thế giới với nhân dân tất cả các nước thuộc địa và nửa
thuộc địa nhằm chống lại chủ nghĩa đế quốc. Như vậy, từ việc tìm bạn đồng
minh cho giai cấp vô sản, Lênin đã chỉ ra và hướng phong trào giải phóng dân
tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc vào con đường cách mạng vô sản, giải
quyết vấn đề dân tộc và giai cấp theo lập trường vô sản. Xem xét vấn đề dân
tộc – thuộc địa để chuẩn bị cho cách mạng vô sản nổ ra và thắng lợi ở nước
Nga, Lênin nhận ra rằng giai cấp vô sản không chỉ có bạn đồng minh to lớn
11



mà để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình nó cần phải liên hiệp với lực
lượng này, đó là nhân dân các dân tộc thuộc địa. Người cho rằng nếu: “Không
có sự cố gắng tự nguyện tiến tới sự liên minh và sự thống nhất của giai cấp vô
sản, rồi sau nữa, của toàn thể quần chúng cần lao thuộc tất cả các nước và các
dân tộc trên toàn thế giới, thì không thể chiến thắng hoàn toàn chủ nghĩa tư
bản được” [45, tr.206]. Ngay cả sau này khi cách mạng Nga đã thành công,
trong nhiều văn bản chỉ thị của Người đối với Đảng Bônsêvích Nga và Quốc
tế cộng sản, Người cũng rất chú ý và nhấn mạnh về sự cần thiết phải thực hiện
sự đoàn kết giữa giai cấp vô sản và nhân dân các nước thuộc địa để thực sự
đảm bảo cho thắng lợi của cách mạng, để cho giai cấp vô sản giữ được thành
quả cách mạng của mình trước sự tấn công điên cuồng của chủ nghĩa đế quốc.
Không dừng lại ở những lời kêu gọi chung chung Lênin khẳng định sự cần
thiết “phải thi hành một chính sách thực hiện sự liên minh chặt chẽ nhất của
tất cả các phong trào giải phóng dân tộc và thuộc địa với nước Nga Xôviết,
bằng cách đem lại cho sự liên minh ấy những hình thức phù hợp với trình độ
phát triển của phong trào cộng sản trong nội bộ giai cấp vô sản ở mỗi nước,
hay của phong trào giải phóng dân tộc dân chủ tư sản của công nhân và nông
dân ở các nước chậm tiến hay ở các dân tộc chậm tiến” [45, tr.200].
Cũng trong tác phẩm “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề
dân tộc và vấn đề thuộc địa”, Lênin đã xác định vai trò của giai cấp công nhân
ở các nước thuộc địa phải “ủng hộ tích cực nhất phong trào giải phóng dân tộc
ấy” [45, tr.203]. Quan điểm này của Lênin hoàn toàn khác với quan điểm giai
cấp cực đoan phổ biến ở Quốc tế Cộng sản những năm 30 thế kỷ XX. Tuy
nhiên, do nước Nga thời Lênin còn sống vốn là “nhà tù lớn” của các dân tộc
nên vấn đề dân tộc được đặt ra với Lênin chỉ như là hệ quả của vấn đề giai
cấp. Tóm lại con đường mà Lênin chỉ ra là: Giải phóng giai cấp đi đến giải
phóng dân tộc và giải phóng nhân loại.
Tóm lại, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định rằng, vấn đề dân tộc và
vấn đề giai cấp quan hệ biện chứng với nhau không thể tách rời. Việc giải
12



quyết vấn đề giai cấp có ý nghĩa quyết định đối với việc giải quyết vấn đề dân
tộc. Ngược lại, bất cứ ở đâu và khi nào sự hình thành và phát triển của dân
tộc, việc giải quyết vấn đề dân tộc đều gắn liền với lợi ích giai cấp, được sự
chỉ đạo bởi quan điểm của giai cấp nhất định. Tùy thuộc vào những điều kiện
lịch sử cụ thể mà việc giải quyết vấn đề dân tộc hay vấn đề giai cấp trở thành
nhiệm vụ chủ yếu trong từng giai đoạn cách mạng. Quan hệ dân tộc và giai
cấp theo chủ nghĩa Mác - Lênin như là quan hệ giữa cái bộ phận với cái toàn
thể, như là quan hệ giữa phần tử chính, chủ yếu của hệ thống với toàn hệ
thống đó. Khi mà phần tử này giữ vai trò chủ đạo, chi phối các phần tử khác,
và phù hợp ở một mức độ nhất định đối với toàn hệ thống phần tử này sẽ giữ
vai trò thống trị. Nhưng một khi vai trò chủ đạo ấy mất đi thì nhất định một
phần tử chính, chủ yếu khác của hệ thống sẽ xuất hiện và thay thế. Sự xuất
hiện và trưởng thành của giai cấp công nhân trong các dân tộc và trên thế giới
cũng tương tự như vậy. Chủ nghĩa Mác – Lênin kết luận rằng: trong thời đại
ngày nay, dân tộc gắn liền với giai cấp công nhân và để làm tròn sứ mệnh của
mình, giai cấp công nhân phải nắm lấy ngọn cờ dân tộc.
Tháng 7/1920, Hồ Chí Minh đọc tác phẩm “Sơ thảo lần thứ nhất những
luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin. Luận cương của
Lênin đã giải đáp cho Người con đường giành độc lập cho đất nước, tự do cho
đồng bào. Có thể khẳng định rằng Chủ nghĩa Mác - Lênin là nhân tố ảnh
hưởng và tác động quyết định đến quá trình hình thành và phát triển của tư
tưởng Hồ Chí Minh. Nó là cơ sở hình thành thế giới quan và phương pháp
luận khoa học của Hồ Chí Minh, nhờ đó mà Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh
đã có bước phát triển về chất từ một người yêu nước trở thành một chiến sĩ
cộng sản lỗi lạc, tìm ra con đường cứu nước đúng đắn. Chính trên cơ sở của lý
luận Mác - Lênin đã giúp Người tiếp thu và chuyển hoá những nhân tố tích
cực, những giá trị và tinh hoa văn hoá của dân tộc và của nhân loại để tạo nên
tư tưởng của mình phù hợp với xu thế vận động của lịch sử. Vì vậy, trong quá

trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh thì chủ nghĩa Mác - Lênin có vai trò to
13


lớn, là cơ sở, nguồn gốc chủ yếu trong việc hình thành tư tưởng của Hồ Chí
Minh.
* Quan hệ dân tộc – giai cấp ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Từ nửa sau của thế kỷ XIX trở đi, do sự phát triển của lực lượng sản
xuất, chủ nghĩa tư bản trên thế giới đã chuyển thành chủ nghĩa đế quốc. Chính
phủ tư sản của các nước đế quốc đã dùng vũ lực và sức mạnh đi xâm lược và
đặt ách đô hộ lên giai cấp công nhân và nhân dân lao động các nước nhược
tiểu. Mâu thuẫn cơ bản của thời đại đế quốc đó là mâu thuẫn giữa giai cấp
công nhân và nhân dân lao động với giai cấp tư sản ở các nước tư bản chủ
nghĩa, và mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc với các dân tộc thuộc địa. Từ chỗ
thống nhất với lợi ích dân tộc, đi tiên phong trong phong trào dân tộc, giai cấp
tư sản từ cuối thế kỷ XIX đã đứng lên trên dân tộc, mượn danh công lý và
chính nghĩa của dân tộc tư sản đi xâm lược, đặt ách áp bức lên các dân tộc
thuộc địa, gây ra nhiều xung đột và mâu thuẫn. Đỉnh cao của sự xung đột ấy
vào đầu thế kỷ XX là chiến tranh thế giới thứ nhất 1914-1918. Chiến tranh đế
quốc đã tạo điều kiện cho cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân tại các nước
đế quốc tham chiến có điều kiện phát triển. Đấu tranh giải phóng của các dân
tộc thúc đẩy sự suy yếu của chủ nghĩa đế quốc và sự trưởng thành lớn mạnh
của giai cấp công nhân. Tiêu biểu của phong trào đấu tranh thế kỷ XX là sự
bùng nổ và giành thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917. Đó là
thắng lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga nói riêng và thế
giới nói chung; là sự khẳng định vai trò đầu tàu lịch sử của giai cấp công nhân
trong thời đại mới. Nhìn chung, từ cuối thế kỉ XIX đến đầu thế kỷ XX, lịch sử
loài người đã mở ra một thời đại mới, đó là thời đại chủ nghĩa đế quốc và
cách mạng vô sản, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH. Là một bộ
phận không thể tách rời của thế giới, mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp từ

cuối thế kỷ XIX cho đến đầu thế kỷ XX ở Việt Nam cũng không nằm ngoài
xu thế đó.

14


Năm 1858 thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta. Đây là kẻ thù mới
có tiềm lực kinh tế và quân sự rất mạnh. Trong lúc đó, chế độ phong kiến Việt
Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng về mọi mặt, xã hội phong
kiến đang suy tàn với hai giai cấp đối kháng chủ yếu. Trong xã hội Việt Nam
lúc bấy giờ, quan hệ giữa giai cấp địa chủ với các tầng lớp nhân dân, quan hệ
giữa triều đình và nhân dân trở nên khủng hoảng chia rẽ gay gắt. Hậu quả của
sự khủng hoảng ấy là nước Việt Nam mất độc lập (1884) sau 27 năm kể từ
khi thực dân Pháp xâm lược. Chính sách cai trị và các chương trình khai thác
thuộc địa của thực dân pháp dẫn đến những biến đổi xã hội sâu sắc, hình
thành cơ cấu giai cấp – xã hội mới khác với cơ cấu giai cấp – xã hội cổ
truyền. Bên cạnh những giai cấp cũ là địa chủ phong kiến và nông dân, giờ
đây xuất hiện thêm những giai cấp, tầng lớp mới, đó là công nhân, tư sản và
tiểu tư sản. Thân phận, quyền lợi và thái độ chính trị của các giai cấp đối với
vấn đề dân tộc, dân chủ không giống nhau. Sự phân hóa trong cùng một giai
cấp đã diễn ra.
Giai cấp địa chủ, phong kiến phân hóa thành hai bộ phận là đại địa chủ
phong kiến (vua quan phong kiến) và trung, tiểu địa chủ phong kiến. Đến năm
1884, Nhà nước và giai cấp phong kiến đã hoàn toàn đầu hàng. Vua tồn tại
chỉ là bù nhìn, nhà nước phong kiến còn nhưng chỉ là thủ đoạn để thực hiện
chính sách thực dân của Pháp, là hình thức, công cụ để thực dân Pháp sử
dụng. Bộ phận trung tiểu địa chủ thì mâu thuẫn với đế quốc và chống đế quốc.
Giai cấp nông dân Việt Nam là một trong hai giai cấp cơ bản của xã hội
phong kiến. Giờ đây, ngoài bị bóc lột phong kiến họ còn chịu thêm bóc lột
thực dân. Nông dân phân hóa theo thời gian thành cố nông, bần nông, trung

nông, phú nông. Giai cấp nông dân Việt Nam là một trong hai giai cấp cơ bản
của xã hội phong kiến. Thuế khoá nặng nề, lao dịch chồng chất đã làm đời
sống người nông dân Việt Nam rất cơ cực. Bị mất ruộng và phá sản, nông dân
phải cày thuê cho địa chủ, một bộ phận phải bỏ làng đi xiêu tán ra các thành
thị kiếm việc làm, chạy vào các đồn điền, hầm mỏ làm thuê trở thành đội
15


quân vô sản. Nông dân Việt Nam chiếm trên 90% dân số, họ tuy là lực lượng
đông đảo nhưng còn non yếu vì thiếu tổ chức, thiếu người lãnh đạo. Muốn trở
nên hùng mạnh họ cần một giai cấp tiên tiến lãnh đạo và giai cấp nào muốn
lãnh đạo cách mạng thành công tất yếu phải lôi kéo bộ phận hùng hậu này đi
theo.
Cùng với sự phát triển của đô thị, tầng lớp tiểu tư sản cũng từng bước
hình thành và ngày càng đông. Họ bao gồm: Tri thức, tiểu thương, tiểu chủ,
thợ thủ công, dân nghèo thành thị, những người làm các nghề tự do…Họ
không phải là giai cấp mà là một tầng lớp xã hội. Đời sống của tiểu tư sản
trong những năm 20 của thế kỷ XX ngày một khó khăn do sưu thuế chồng
chất và giá cả đắt đỏ. Chính sách độc quyền kinh tế của Pháp đã làm phá sản
giới thợ thủ công. Chính sách đối xử phân biệt và văn hóa giáo dục ngu dân
đã làm cho tầng lớp tri thức thấy chua chát, bị miệt thị. Họ cảm thấy nền văn
hóa dân tộc bị bọn thống trị nước ngoài coi rẻ và chà đạp. Cảnh phồn hoa bề
ngoài của đô thị không che lấp được nỗi khổ của họ, những người dân mất
nước không có quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, học hành, đi lại và
nhiều quyền tự do sơ đẳng khác. Học sinh, trí thức có thể bị đuổi học, đuổi
việc, giam cầm; tiểu thương, tiểu chủ, thợ thủ công có thể bị phá sản, bị thất
nghiệp do thuế má nặng nề của đế quốc và sự cạnh tranh của tư sản. Bị áp bức
về chính trị, chèn ép về chuyên môn, bóc lột về kinh tế nên tiểu tư sản có tinh
thần yêu nước, căm thù đế quốc khá cao. Xã hội Việt Nam trong quan hệ với
tiểu tư sản có hai mâu thuẫn chính là tiểu tư sản mâu thuẫn với đế quốc và

tiểu tư sản mâu thuẫn với địa chủ. Đô thị và công nghiệp phát triển thì giai
cấp tư sản theo đó cũng từng bước xuất hiện. Họ xuất thân từ địa chủ, quan
lại, tiểu tư sản…Chính sách bảo thủ, phản động về kinh tế, không chủ trương
phát triển công nghiệp ở thuộc địa và chính sách chuyên chế về chính trị của
thực dân Pháp đã làm cho giai cấp tư sản Việt Nam ra đời khá muộn, què
quặt. Chỉ sau chiến tranh thế giới thứ nhất, gắn liền với cuộc khai thác thuộc
địa lần thứ hai của Pháp, giai cấp tư sản Việt Nam mới hình thành. Họ có mặt
16


ở hầu hết khắp các ngành (Bông vải sợi, nhuộm, đồ gốm, máy xay, máy in,
làm sơn, ép dầu, làm đường, xà phòng, nước mắm, sửa chữa ôtô…). Sau thời
gian phát triển, giai cấp tư sản phân hóa thành hai bộ phận: Tư sản mại bản và
tư sản dân tộc.
Sự du nhập của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa vào Việt Nam
và sự phát triển của công thương nghiệp thuộc địa đã dẫn đến sự ra đời của
giai cấp công nhân. Là sản phẩm của quá trình xâm lược và khai thác thuộc
địa của thực dân Pháp, giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư
sản. Giai cấp công nhân Việt Nam được hình thành từ cuộc khai thác thuộc
địa lần thứ nhất và đến cuối những năm 20 của thế kỷ XX số lượng đã tăng
lên đáng kể. Họ sống và làm việc tập trung trong các xí nghiệp, hầm mỏ,
trung tâm công nghiệp. Cái họ cần là một luồng tư tưởng mới với một bộ
tham mưu dẫn dắt. Về thành phần, công nhân xuất thân từ những người thợ
thủ công, những người tiểu thủ công nghiệp phá sản, nhưng chủ yếu là từ
những người nông dân bị bần cùng hóa. Song công nghiệp Việt Nam chưa
phát triển cho nên công nhân chưa thoát ly hoàn toàn khỏi nông dân. Họ là
những công nhân theo mùa vụ, theo hợp đồng với chủ xưởng. Khi hết mùa vụ
họ có thể trở lại địa phương, với gia đình và trở về số phận của nông dân. Đế
quốc, phong kiến và tư sản ra sức bóc lột công nhân vô cùng thậm tệ theo ba
thủ đoạn: Chế độ lao động tự do, chế độ lao động theo giao kèo, chế độ lao

động cưỡng bức. Trong quan hệ với công nhân, xã hội Việt Nam có ba mâu
thuẫn chính là: Công nhân mâu thuẫn với đế quốc; công nhân mâu thuẫn với
phong kiến; công nhân mâu thuẫn với tư sản bản xứ. Đối với giai cấp công
nhân, kẻ thù giai cấp và kẻ thù dân tộc là một. Do thành phần xuất thân, công
nhân Việt Nam đã kế thừa được truyền thống bất khuất của dân tộc. Nằm
trong mạch máu kinh tế của xã hội, vừa mới ra đời, tuy số lượng còn ít, nhưng
những đặc điểm chung và riêng của công nhân Việt Nam cho thấy rằng, họ
vừa là người lao động đau khổ, vừa là người tiên tiến cho nên công nhân là
người đại điện xuất sắc nhất cho tất cả các giai cấp tầng lớp bị áp bức ở Việt
17


Nam. Họ có đầy đủ khả năng để tập hợp và lôi cuốn các tầng lớp nhân dân và
phong trào chống đế quốc và phong kiến, giành độc lập tự do. Song khi chưa
có lý luận tiên phong và đảng Cộng sản, họ vẫn chưa thể biến khả năng của
mình thành hiện thực.
Như vậy, ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, dưới ách thống
trị của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam nổi lên nhiều mẫu thuẫn cả về mẫu
thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp. Các giai cấp trong xã hội cũng có nhiều
biến đổi. Sự ra đời và phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam qua hai
cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã trở thành một tiền đề vật chất
quan trọng để đến khi Hồ Chí Minh truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào
nước ta thì cách mạng Việt Nam có thể hòa nhịp với xu thế của thời đại. Vấn
đề dân tộc của Việt Nam đầu thế kỷ XX đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết.
Hồ Chí Minh là người sẽ đáp ứng được những yêu cầu mà lịch sự dân tộc đặt
ra, giải quyết đúng đắn mối quan hệ dân tộc và giai cấp.
* Giá trị truyền thống dân tộc
Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết: “Một đức tính rất đẹp và rất quý
của dân tộc Việt Nam ta, là sự quý trọng truyền thống của dân tộc” [33, 130].
Ở đây, đi tìm hiểu truyền thống và đặc điểm của dân tộc Việt Nam để xem xét

chúng tác động như thế nào tới sự hình thành tư tưởng của Hồ Chí Minh về
dân tộc và giai cấp, Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng gì từ truyền thống dân tộc,
qua đó giúp hiểu thêm về động cơ Hồ Chí Minh đi ra nước ngoài năm 1911
và cách Người giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp trong quá trình lãnh
đạo cách mạng Việt Nam.
Yêu nước là giá trị tinh thần của con người và cộng đồng người được
hình thành trong quá trình đấu tranh dựng nước, giữ nước và xây dựng đất
nước. Tình yêu và lòng trung thành với tổ quốc có thể nói là những nội dung
chính của chủ nghĩa yêu nước. Đó là giá trị tinh thần phổ quát của nhân loại.
Từ ngày lập nước, Việt Nam đã liên tiếp trải qua các cuộc chiến chống xâm
lược. Tính đến trước khi thực dân Pháp xâm lược, dân tộc ta đã phải tiến hành
18


trên 20 cuộc kháng chiến và khởi nghĩa. Ý thức dân tộc nảy nở từ rất sớm và
ngày càng sâu sắc. Tinh thần tự lực tự cường, ý chí giành độc lập tự do ngày
càng mạnh mẽ, chỉ chờ dịp là bùng nổ thành phong trào, lôi cuốn toàn dân
tham gia. Công cuộc giành và giữ gìn nền độc lập dân tộc là công việc của
toàn dân. Khởi nghĩa toàn dân, chiến tranh nhân dân là nét đặc sắc trong lịch
sử chống xâm lược và bảo vệ tổ quốc của nhân dân ta. Có thể nói, mỗi khi đất
nước bị mất độc lập, đa số các cuộc khởi nghĩa, dù do giai cấp nào lãnh đạo,
đều nêu cao chủ nghĩa yêu nước, đặt lợi ích dân tộc lên trên lợi ích giai cấp
nhằm phát huy tối đa sức mạnh đại đoàn kết dân tộc đánh đuổi kẻ thù, giành
lại độc lập, tự do cho dân tộc. Chủ nghĩa yêu nước của dân tộc đã được Chủ
tịch Hồ Chí Minh khái quát thành chân lí “Không có gì quý hơn độc lập, tự
do”. Ông đã nêu lên bốn yếu tố làm hình thành lòng yêu nước, đó là: một là
việc chống thiên tai, hai là xây dựng hệ thống đê điều, ba là xây dựng nhà
nước dân chủ tập quyền, chống ngoại xâm, bốn là xây dựng văn hóa dân tộc.
Bên cạnh lòng yêu nước, ý thức dân tộc, tinh thần dân tộc cũng là một
đặc trưng nổi bật của văn hóa Việt Nam. Ý thức dân tộc thể hiện ở ý thức về

một cội nguồn, một lãnh thổ chung, ý thức về tính độc lập, tự chủ của một dân
tộc có chủ quyền và lòng quyết tâm bảo vệ lãnh thổ. Tinh thần dân tộc là động
lực mạnh mẽ của các phong trào yêu nước, của việc phục hưng đất nước, giữ
gìn và phát triền nền văn hóa. Tinh thần dân tộc được nói tới ở đây không
phải theo nghĩa là thứ chủ nghĩa dân tộc cực đoan, vị kỉ, coi trọng, đề cao dân
tộc mình, chỉ vì lợi ích của dân tộc mình mà coi thường, chà đạp lên các dân
tộc khác, bắt các dân tộc khác phải cúi đầu mà đó là ý chí, lòng mong muốn
và bằng hành động để cho dân tộc mình được tự lập và tự cường, trở nên hùng
mạnh sánh vai với các cường quốc khác.
Mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp trong lịch sử Việt Nam truyền
thống, nổi lên một đặc điểm là ở quy mô cộng đồng thì người Việt nhấn mạnh
và coi trọng tính cộng đồng, sự hòa hợp, cố kết dân tộc. Chính vì truyền thống
đề cao yếu tố dân tộc, tinh thần dân tộc rất đậm nét mà trong lịch sử có những
19


cuộc đấu tranh giai cấp đã chuyển thành đấu tranh dân tộc. Lòng yêu nước, ý
thức dân tộc phát triển làm cho tinh thần cộng đồng thấm đượm và tinh thần
cộng đồng bền chặt làm cho lòng yêu nước, tinh thần dân tộc thêm sâu sắc.
Các yếu tố đó có quan hệ khăng khít với nhau, tạo nên phẩm chất và nói lên
đặc trưng bản chất của văn hóa Việt Nam.
Chính những giá trị truyền thống này đã ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng
của Hồ Chí Minh. Là một người yêu nước, sống gần gũi với nhân dân, hiểu
được đời sống cảnh ngộ của họ đã giúp cho Hồ Chí Minh quyết chí cứu dân,
cứu nước. Hồ Chí Minh đã sớm khước từ các con đường cứu nước của các
bậc tiền bối, hướng về cái mới, quyết chí tìm đường cứu nước. Hồ Chí Minh
là người thấu hiểu đời sống và tình cảnh của nhân dân lao động của nhân dân
ta và nhân dân lao động trên thế giới. Tất cả các điều đó đã khiến Hồ Chí
Minh tìm thấy con đường cứu nước đúng cho dân tộc Việt Nam và giải quyết
đúng đắn mối quan hệ dân tộc và giai cấp.

* Phẩm chất và năng lực thiên bẩm của Hồ Chí Minh
Bên cạnh những cơ sở khách quan ảnh hưởng đến việc hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp thì nhân tố phẩm
chất và năng lực thiên bẩm của Hồ Chí Minh cũng là một cơ sở đáng quan
tâm. Tư tưởng là sản phẩm của tư duy con người trong quá trình hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn. Tư tưởng đó đạt tới chân lý khách quan đến
mức độ nào là phụ thuộc vào chủ thể nhận thức và khách thể nhận thức. Nếu
một trong hai yếu tố này bị hạn chế thì tỷ lệ chân lý khách quan trong tư
tưởng đó sẽ bị hạn chế. Đành rằng thời thế tạo anh hùng nhưng không phải cá
nhân nào cũng trở thành anh hùng trong cùng một điều kiện lịch sử giống
nhau. Cũng trong điều kiện lịch sử ấy thì cái làm cho nhân cách của người
này hơn hẳn nhân cách người kia là do nhân tố chủ quan của họ quyết định,
do chủ thể nhận thức là chính bản thân họ.
Có thể nói, Hồ Chí Minh là một con người có nhạy cảm chính trị đặc
biệt. Mặc dù không phải là người Việt Nam đầu tiên đến Pháp, cũng không
20


phải người Việt Nam duy nhất đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về
vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin, song Người là người Việt
Nam đầu tiên biết được đây là cái cần cho Tổ quốc, cho dân tộc, là con đường
đúng đắn để giải phóng dân tộc, giai cấp và nhân loại. Bên cạnh đó, Người có
một tư duy biện chứng sâu sắc. Với một tư duy biện chứng khoa học, Hồ Chí
Minh đã nhận thức và giải quyết một cách hợp lý, khéo léo mối quan hệ dân
tộc và giai cấp. Hồ Chí Minh luôn quán triệt quan điểm thực tiễn, xem xét sự
vật, hiện tượng trong những điều kiện cụ thể của sự sinh thành và phát triển.
Do vậy, Hồ Chí Minh đã không rơi vào sai lầm của chủ nghĩa giáo điều và tả
khuynh khi xem xét các vấn để về mốỉ quan hệ dân tộc và giai cấp trong cách
mạng Việt Nam. Tư duy Hồ Chí Minh cũng không bao giờ xa rời quan điểm
toàn diện, có trọng tâm. Hồ Chí Minh luôn xem xét sự vật ở cả mối liên hệ

bên trong và mối liên hệ bên ngoài. Người luôn nhận thức rõ những vấn đề có
tính chất trọng tâm, có tính chiến lược, mà việc giải quyết chúng là cơ sở để
giải quyết các vấn đề khác. Trên cơ sở quan điểm toàn diện, có trọng tâm, Hồ
Chí Minh đã luôn xem xét các nhân tố dân tộc, giai cấp trong mối liên hệ chặt
chẽ, qua lại với nhau, nhưng đồng thời cũng thấy rõ vị trí, vai trò khác nhau
của mỗi nhân tố, trong đó nhân tố dân tộc là điểm xuất phát.
Là một người có tấm lòng yêu nước, thương dân sâu sắc. Hồ Chí Minh
còn là người "có bản lĩnh kiên định, có khí tiết kiên cường trong đấu tranh
thực hiện mục tiêu, lý tưởng đã lựa chọn" [109, tr.68). Đó là phẩm chất làm
cho con người dám hành động, không chùn bước trước những khó khăn nguy
hiểm. Chính nhờ những phẩm chất này, khách thể nhận thức của Hồ Chí Minh
(Quan hệ dân tộc – giai cấp ở Việt Nam và trên thế giới cuối thể kỷ XIX đầu
thế kỷ XX; chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống; quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin về quan hệ dân tộc và giai cấp) đã liên tục được chủ thể
hóa và ngược lại.

21


1.1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lợi ích
dân tộc và lợi ích giai cấp trong cách mạng Việt Nam
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, phong trào giải phóng dân tộc ở nước
ta diễn ra khá sôi nổi dưới nhiều hình thức song đều thất bại. Nguyên nhân
cơ bản của những thất bại này là do thiếu một đường lối cách mạng đúng
đắn, thiếu một tổ chức cách mạng có khả năng dẫn dắt dân tộc đến thắng lợi.
Hồ Chí Minh từ yêu cầu của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Người đã
biết kết hợp và vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực
tiễn Việt Nam, tìm thấy con đường cứu nước trên cơ sở rút kinh nghiệm từ
sự thất bại của phong trào Đông Du của Phan Bội Châu, bởi sự thất bại của
cuộc khởi nghĩa Yên Bái do quốc dân đảng của Nguyễn Thái Học lãnh đạo.

Và một trong những quan điểm, chủ trương đúng đắn giúp nhân dân ta thực
hiện thành công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh đó là
việc kết hợp đúng đắn lợi ích của dân tộc và lợi ích của giai cấp công nhân
trong cách mạng Việt Nam.
* Cách mạng là sự nghiệp của toàn dân do giai cấp công nhân lãnh đạo
Tháng 12/1944, trong chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải
phóng quân, Hồ Chí Minh viết về tư tưởng cách mạng toàn dân của mình
như sau: “ Cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến của toàn dân cần
phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân” [79, tr.507].
Cách mạng toàn dân là sự nghiệp của toàn dân, được biểu hiện trong
các thời kỳ cách mạng và các lĩnh vực của cách mạng. Hồ Chí Minh luôn
luôn tìm mọi cách bảo đảm cho khối đoàn kết dân tộc không bị sứt mẻ. Theo
Hồ Chí Minh, cho dù con người có mắc phải sai lầm nào đó, nhưng một khi
họ biết sửa chữa lỗi lầm thì vẫn phải hết sức tranh thủ họ, đảm bảo cho lực
lượng toàn dân không bao giờ suy giảm. Trong thư gửi đồng bào Nam Bộ
tháng 6/ 1946 Hồ Chí Minh đã kêu gọi như sau: “Tôi khuyên đồng bào đoàn
kết chặt chẽ và rộng rãi. Năm ngón tay cũng có ngón vắn, ngón dài. Nhưng
vắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người
22


×