Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

ĐÁNH GIÁ về các cơ CHẾ CHÍNH SÁCH tài CHÍNH hỗ TRỢ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (553.88 KB, 39 trang )

BÁO CÁO
ĐÁNH GIÁ VỀ CÁC CƠ CHẾ CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH HỖ TRỢ
DOANH NGHIỆP NGHIÊN CỨU ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ

1


MỞ ĐẦU
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã và đang cố gắng tạo môi trường
thuận lợi thúc đẩy hoạt động khoa học và công nghệ nhằm nâng cao hiệu quả và sự
đóng góp tích cực của hoạt động khoa học và công nghệ cho sự nghiệp đổi mới đất
nước, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong những năm gần đây,
đặc biệt là trong những năm thực hiện công cuộc đổi mới, một loạt chính sách và biện
pháp quản lý vĩ mô của Nhà nước có liên quan đến đầu tư phát triển khoa học và công
nghệ đã được Chính phủ, Quốc hội ban hành như Nghị định số 35-HĐBT về đổi mới
công tác quản lý khoa học và công nghệ; Quyết định số 324-CT về việc tổ chức lại
mạng lưới các cơ quan nghiên cứu và phát triển; Quyết định số 782/QĐ-TTg về việc
sắp xếp lại các cơ quan nghiên cứu và phát triển; Quyết định số 68/QĐ-CP về việc
cho phép thí điểm thành lập doanh nghiệp nhà nước trong các cơ sở nghiên cứu và đào
tạo; Nghị định số 119/1999/NĐ-CP ngày 18-9-1999 về một số chính sách, cơ chế tài
chính khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào hoạt động KH&CN; Luật
KH&CN năm 2000 và các văn bản hướng dẫn Luật (NĐ 81/2002/NĐ-CP hướng
dẫn một số điều của Luật KH&CN, NĐ 122/2003/NĐ-CP về thành lập Quỹ phát
triển KH&CN quốc gia…), Nghị định số 115/ 2005/NĐ-CP về cơ chế tự chủ, tự
chịu trách nhiệm của các tổ chức KH&CN công lập, Nghị định số 80/2007/NĐ-CP về
doanh nghiệp KH&CN, Thông tư liên tịch số 93/2006/TTLT/BTC-BKHCN hướng
dẫn chế độ khoán kinh phí của đề tài, dự án KH&CN sử dụng ngân sách nhà nước,
Thông tư liên tịch số 44/2007/TTLT-BTC-BKHCN hướng dẫn định mức xây dựng và
phân bổ dự toán kinh phí đối với các đề tài, dự án khoa học và công nghệ có sử dụng
ngân sách nhà nước; Luật Sở hữu trí tuệ (2005), Luật chuyển giao công nghệ (2006),
Luật công nghệ cao (2008).


Nhìn chung các cố gắng đó chủ yếu vẫn nằm trong khuôn khổ sử dụng ngân sách
Nhà nước và thông qua hệ thống quản lý hành chính phục vụ phát triển KH&CN.
Trong quá trình tổ chức thực hiện, nhiều nhận định cho rằng cơ chế, chính sách tài
chính của chúng ta chưa phù hợp với đặc thù của hoạt động KH&CN và chưa chú
trọng đúng mức, đúng chỗ đến hỗ trợ đổi mới (công nghệ) của doanh nghiệp. Điều
này thể hiện ở công tác lập kế hoạch sử dụng ngân sách nhà nước hằng năm còn bất
cập; triển khai cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức KH&CN gặp khó
khăn về thời gian; khoán chi cho các đề tài dự án KH&CN gặp nhiều vướng mắc,
khó triển khai vào thực tiễn.
Nguyên tắc đầu tư, hỗ trợ bằng ngân sách nhà nước trong hoạt động KH&CN cũng
như đổi mới chưa được làm rõ trong thực tiễn và do vậy nảy sinh nhiều quan điểm khác
nhau giữa các nhà quản lý khoa học, quản lý tài chính, người làm công tác khoa học về
sử dụng ngân sách Nhà nước (tài chính công) với chức năng sự nghiệp hoặc làm kinh tế.
Luật ngân sách nhà nước (2002), Nghị định số 60/2003/NĐ-CP quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành Luật ngân sách nhà nước và Thông tư số 59/2003/TT-BTC hướng
dẫn Nghị định 60/2003/NĐ-CP đã quy định và hướng dẫn chung cho việc thực hiện Luật
ngân sách nhà nước đối với các lĩnh vực và các Bộ, cơ quan ngang bộ, UBND, đơn vị sử
2


dụng ngân sách và đơn vị ngân sách hỗ trợ. Tuy nhiên đối với đặc thù của hoạt động
KH&CN cần phải có các quy định hoặc hướng dẫn cụ thể trong việc lập dự toán sử dụng
ngân sách nhà nước cho phù hợp hơn nữa.
Cơ chế tài chính quỹ cho hoạt động KH&CN, quỹ đổi mới công nghệ, chương
trình đổi mới công nghệ... là cách thức cấp tài chính kiểu mới đều lấy kinh phí từ ngân
sách nhà nước, chưa có tiền lệ, do vậy cũng cần phải có cơ chế, cách thức sử dụng phù
hợp.
Việc nhập làm chủ, thích nghi, cải tiến công nghệ là việc làm tất yếu của các nước
kém phát triển, song chúng ta chưa có cơ chế tài chính phù hợp, đặc biệt là cơ chế phối
kết hợp giữa tài chính của Nhà nước với tài chính của doanh nghiệp trong việc giải quyết

vấn đề nhập các công nghệ và làm chủ, thích nghi, cải tiến đổi mới công nghệ nhập này
để phổ biến rộng cho các các doanh nghiệp cùng quan tâm.
Mục tiêu tổng quát của báo cáo
Nghiên cứu đề xuất các cải tiến về cơ chế, chính sách tài chính Nhà nước đối với
hoạt động KH&CN, đổi mới công nghệ.
Mục tiêu cụ thể
1- Đề xuất các cải tiến về cơ chế, chính sách tài chính Nhà nước trong công tác lập
kế hoạch, phân bổ, cấp phát, kiểm soát sử dụng Ngân sách Nhà nước dành cho hoạt động
KH&CN, các chương trình KH&CN, các tổ chức KH&CN; các quỹ KH&CN, thù lao
cho nhà khoa học, dự toán và phân bổ ngân sách KH&CN;
2 - Đề xuất các cải tiến về cơ chế, chính sách tài chính Nhà nước hỗ trợ các hoạt
động đổi mới công nghệ: phát triển công nghệ, sản xuất thử nghiệm, ươm tạo công nghệ,
ươm tạo doanh nghiệp công nghệ; làm chủ, thích nghi cải tiến, công nghệ nhập.
Vấn đề nghiên cứu
1- Cơ chế, chính sách trong công tác lập kế hoạch, phân bổ, cấp phát ngân sách nhà
nước dành cho hoạt động KH&CN của Nhà nước và hoạt động đổi mới công nghệ của
doanh nghiệp.
2- Cơ chế sử dụng ngân sách nhà nước cho quỹ phát triển KH&CN, quỹ đổi mới
công nghệ;
3- Cơ chế sử dụng kết hợp ngân sách nhà nước và tài chính doanh nghiệp cho hoạt
động NC&PT, đổi mới công nghệ của doanh nghiệp; sản xuất thử nghiệm.
4- Cơ chế sử dụng ngân sách nhà nước và tài chính doanh nghiệp trong việc nhập,
làm chủ và cải tiến công nghệ nhập.
Báo cáo dự kiến các cách tiếp cận có tính chất hệ thống và lý luận về tài chính
công và tài chính doanh nghiệp trong vấn đề đầu tư, sử dụng tài chính cho hoạt động
KH&CN của Nhà nước và đổi mới của doanh nghiệp. Về cụ thể cách tiếp cận sau đây
được áp dụng trong quá trình thực hiện nghiên cứu của đề tài:
1- Căn cứ vào tính chất hàng hoá công và hàng hoá tư của hoạt động KH&CN và
3



hoạt động đổi mới công nghệ để xem xét phạm vi trách nhiệm của tài chính Nhà nước và
của doanh nghiệp trong hoạt động KH&CN và hoạt động đổi mới công nghệ.
2- Áp dụng nguyên lý lợi ích công và lợi ích tư trong hoạt động KH&CN
của Nhà nước và hoạt động đổi mới công nghệ của doanh nghiệp để xem xét vấn đề đầu
tư kinh phí từ nhà nước và từ doanh nghiệp;
3- Áp dụng nguyên lý Chi phí/Kết quả trong hoạt động KH&CN làm thước đo cho
việc xem xét sự phân bổ, cung cấp tài chính cho hoạt động KH&CN; lập dự toán cũng
như lập kế hoạch tài chính của các tổ chức KH&CN và của quốc gia.
4- Áp dụng nguyên lý, chế độ kế toán tổng quát/ kế toán theo nguyên tắc kế toán
doanh nghiệp để xem xét, đánh giá việc xây dựng kế hoạch tài chính và cơ chế hoạt động
của các tổ chức KH&CN và của quốc gia.
Phương pháp luận nghiên cứu
1- Nghiên cứu các tài liệu khoa học trong và ngoàì nước về các vấn đề tài chính
liên quan đến tài chính cho hoạt động KH&CN, hoạt động đổi mới;
2- Nghiên cứu các trường hợp, khảo sát thực tế về cơ chế tài chính cho các hoạt
động KH&CN, hoạt động đổi mới tại các cơ quan quản lý KH&CN, cơ quan tài chính có
liên quan, các viện trường, các doanh nghiệp: Đề tài đã tiến hành khảo sát tại 25 tổ chức,
gồm 04 vụ của các bộ; 06 sở KH&CN địa phương; 13 viện, trường đại học và 02 doanh
nghiêp tại 3 niềm Bắc, Trung, Nam (xem Phụ lục III).
3- Phỏng vấn, hội thảo, điều tra ý kiến chuyên gia (quản lý KH&CN, quản lý tài
chính, quản lý doanh nghiệp) về cơ chế sử dụng tài chính cho hoạt động KH&CN, hoạt
động đổi mới: Đề tài đã phỏng vấn, hội thảo với các chuyên gia tại 25 tổ chức được điều
tra, khảo sát (xem Danh sách chuyên gia tại Phụ lục III).
Thuật ngữ Đổi mới (công nghệ)
Trong nghiên cứu, đề tài sử dụng thuật ngữ đổi mới (công nghệ) với nghĩa tương
đồng với thuật ngữ innovation trong tiếng Anh (nhiều người dịch là đổi mới) dùng trong
lĩnh vực kinh tế nhằm giới hạn nội hàm đổi mới (công nghệ) là những đổi mới của doanh
nghiệp trong sản xuất sản phẩm mới, quy trình công nghệ mới, marketing và tổ chức đưa
sản phẩm mới vào thâm nhập thị trường. Đổi mới (công nghệ) không bao hàm các nội

dung đổi mới khác (vd về chính trị,...).

4


LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH
NHÀ NƯỚC, DOANH NGHIỆP ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KH&CN, ĐỔI MỚI
CÔNG NGHỆ
I.1. HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
1.1.1. Khoa học
Theo UNESCO và OECD, khoa học là một tập hợp những hiểu biết về tự nhiên,
xã hội và tư duy về các quy luật khách quan, về sự tồn tại và phát triển của chúng
trên cơ sở thực tiễn. Các lĩnh vực KH&CN bao gồm: Khoa học tự nhiên; Khoa học
xã hội, Nhân văn; Khoa học kỹ thuật và công nghệ; Khoa học Nông nghiệp; Khoa học
Y dược.
Theo Luật khoa học và công nghệ của Việt nam (2000), khoa học là hệ thống tri
thức về các hiện tượng, sự vật, quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy.
1.1.2. Công nghệ
Theo ESCAP: "Công nghệ là hệ thống kiến thức về quy trình và kỹ thuật
dùng để chế biến vật liệu và thông tin".
Theo Luật khoa học và công nghệ của Việt Nam (2000), công nghệ là tập hợp
các phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí quyết, công cụ, phương tiện dùng để biến đổi
các nguồn lực thành sản phẩm.
Theo Luật chuyển giao công nghệ của Việt Nam (2006), công nghệ là giải pháp,
quy trình, bí quyết kỹ thuật có kèm hoặc không kèm công cụ, phương tiện dùng
để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm.
Các thành phần công nghệ gồm các yếu tố: Kỹ thuật (Technoware), Con
người (Humanware), Thông tin (Inforware) và Tổ chức (Organware).
Dòng lưu chuyển công nghệ diễn ra thông qua: Con người, Tài liệu, Thiết bị
và Sản phẩm. Việc mua bán, chuyển giao công nghệ đều diễn ra thông qua các yếu

tố này.
1.1.3. Hoạt động KH&CN
Theo UNESCO và OECD, hoạt động KH&CN là hoạt động có hệ thống,
có liên quan chặt chẽ đến việc tạo ra, nâng cao, truyền bá và ứng dụng các kiến thức
KH&CN vào đời sống, xã hội. Hoạt động KH&CN bao gồm hoạt động giáo dục và
đào tạo, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ (NC&PT) và dịch vụ KH&CN.
Theo nghĩa hẹp hoạt động KH&CN bao gồm hoạt động NC&PT và dịch vụ KH&CN.

5


a) Hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ
(NC&PT)
Theo UNESCO và OECD, hoạt động NC&PT là tập hợp các hoạt động có hệ
thống và sáng tạo nhằm phát triển kho tàng kiến thức bao gồm các kiến thức có liên
quan đến con người, tự nhiên và xã hội và nhằm sử dụng các kiến thức mới để để tạo ra
những áp dụng mới. Hoạt động NC&PT bao gồm hoạt động nghiên cứu khoa học và
hoạt động triển khai thực nghiệm.
Luật Khoa học và công nghệ (2000) đưa ra quy định, hoạt động khoa học và
công nghệ bao gồm nghiên cứu khoa học, nghiên cứu và phát triển công nghệ, dịch
vụ khoa học và công nghệ, hoạt động phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá
sản xuất và các hoạt động khác nhằm phát triển khoa học và công nghệ.


Hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH)

Theo UNESCO và OECD: NCKH có thể xác định là tập hợp toàn bộ các hoạt
động có hệ thống và sáng tạo nhằm phát triển kho tàng kiến thức khoa học và
nhằm áp dụng chúng vào thực tiễn. NCKH bao gồm hai hoạt động kế tiếp nhau:
Nghiên cứu cơ bản (NCCB) và Nghiên cứu ứng dụng (NCUD). Trong đó, NCCB có

thể xác định là bất kỳ công tác thực nghiệm hoặc lý thuyết nào được tiến hành nhằm
đạt được những kiến thức mới về các hiện tượng, thực tế quan sát được mà chưa có một
nghiên cứu ứng dụng hoặc vận dụng đặc biệt nào; Còn NCUD được xác định như là
một nghiên cứu đầu tiên được tiến hành nhằm đạt được những kiến thức mới nhưng
chủ yếu có một mục đích hoặc một mục tiêu thực tiễn đặc thù.


Hoạt động triển khai thực nghiệm (TKTN)

Theo UNESCO và OECD, triển khai thực nghiệm có thể xác định như là một
công việc có hệ thống nhằm vận dụng các kiến thức NCKH đạt được và/hoặc kinh
nghiệm thực tiễn có được để tạo ra sản phẩm mới, công nghệ mới, phương pháp tiến
hành mới, hệ thống dịch vụ mới và nhằm cơ bản hoàn thiện những gì đã hoặc đang sử
dụng hoặc sản xuất. Các hoạt động triển khai thực nghiệm gồm: chế thử đầu tiên; pilốt;
sản xuất thử nghiệm,..


Hoạt động sản xuất thử nghiệm

Theo Luật khoa học và công nghệ của Việt Nam (2000), sản xuất thử nghiệm là
hoạt động ứng dụng kết quả triển khai thực nghiệm để sản xuất thử ở quy mô nhỏ
nhằm hoàn thiện công nghệ mới, sản phẩm mới trước khi đưa vào sản xuất và đời
sống.


Hoạt động phát triển công nghệ

Theo Luật khoa học và công nghệ Việt Nam (2000), phát triển công nghệ là
hoạt động nhằm tạo ra và hoàn thiện công nghệ mới, sản phẩm mới. Phát triển công
nghệ bao gồm Triển khai thực nghiệm và Sản xuất thử nghiệm.


6


b) Hoạt động ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ


Hoạt động ươm tạo công nghệ

Theo Luật chuyển giao công nghệ của Việt Nam (2006), ươm tạo công nghệ là
hoạt động hỗ trợ nhằm tạo ra và hoàn thiện công nghệ có triển vọng ứng dụng công
nghệ thực tiễn và thương mại hoá từ ý tưởng công nghệ hoặc kết quả nghiên cứu khoa
học và phát triển công nghệ.


Hoạt động ươm tạo doanh nghiệp công nghệ

Theo Luật chuyển giao công nghệ của Việt Nam (2006), ươm tạo doanh
nghiệp công nghệ là hoạt động hỗ trợ tổ chức, cá nhân hoàn thiện công nghệ, huy động
vốn đầu tư, tổ chức sản xuất, kinh doanh, tiếp thị, thực hiện thủ tục pháp lý và các
dịch vụ cần thiết khác để thành lập doanh nghiệp sử dụng công nghệ mới được tạo
ra.
1.1.4. Hoạt động dịch vụ KH&CN (DVKHCN)
Theo UNESCO, DVKHCN có thể được xác định như là tập hợp tất cả các hoạt
động liên quan đến NC&PT và góp phần vào việc tạo ra, truyền bá và áp dụng các kiến
thức KH&CN.
Theo Luật khoa học và công nghệ của Việt Nam (2000), DVKHCN là các hoạt
động phục vụ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; các hoạt động liên quan
đến sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ; các dịch vụ về thông tin tư vấn, đào tạo,
bồi dưỡng, phổ biến, ứng dụng tri thức KH&CN và kinh nghiệm thực tiễn.

Hoạt động chuyển giao công nghệ không làm cho giá trị công nghệ tăng
thêm mà chỉ là làm cho công nghệ được phổ biến, nhân rộng, chuyển đến nơi tiếp nhận
là những hộ, người sử dụng công nghệ.
Đề tài sử dụng các khái niệm, thuật ngữ nêu trong mục I.1. Hoạt động KH&CN
để làm cở cho việc xem xét, phân tích mức độ phù hợp của cơ chế, chính sách tài
chính của Nhà nước (công ích) và của doanh nghiệp (lợi ích riêng) đối với hoạt
động KH&CN tại các Chương II và Chương III của đề tài.
I.2. HOẠT ĐỘNG ĐỔI MỚI (CÔNG NGHỆ)
1.2.1. Đổi mới (công nghệ)
Theo OECD và UNESCO, đổi mới là việc triển khai thực hiện một sản phẩm mới
hoặc sản phẩm được nâng cấp một cách rõ rệt (vật chất hoặc dịch vụ) hoặc quy
trình, phương pháp marketing mới hoặc một phương pháp tổ chức mới trong thực
tiễn sản xuất kinh doanh, tổ chức giao tiếp với các đối tác hoặc quan hệ với bên ngoài.

7


a) Các loại đổi mới (công nghệ)
- Đổi mới sản phẩm là việc triển khai một sản phẩm hoặc một dịch vụ mới hoặc
sản phẩm hoặc dịch vụ được nâng cấp rõ rệt với sự chú ý đến tính chất hoặc việc sử
dụng theo chủ định. Điều này bao gồm việc nâng cấp rõ rệt các điểm riêng biệt về kỹ
thuật, các thành phần và vật liệu, cùng với phần mềm đi kèm, thân thiện với người
sử dụng hoặc tính chất có tính năng riêng biệt khác.
- Đổi mới quy trình là việc thực hiện việc sản xuất mới hoặc việc sản xuất được
nâng cấp rõ rệt hoặc phương pháp phân phối mới. Điều này bao gồm những thay
đổi rõ rệt trong kỹ thuật, thiết bị và/hoặc phần mềm.
- Đổi mới marketing là việc thực hiện phương pháp marketing mới bao gồm
các thay đổi rõ rệt trong thiết kế sản phẩm hoặc bao gói, bố trí sản phẩm, xúc tiến hoặc
làm giá sản phẩm.
- Đổi mới tổ chức là việc thực hiện một phương pháp tổ chức mới trong

thực tiễn kinh doanh của doanh nghiệp, tổ chức giao tiếp với cấc đối tác hoặc quan hệ
với bên ngoài
b) Các hoạt động đổi mới (công nghệ)
Là tất cả các bước về khoa học, công nghệ, tổ chức, tài chính và thương mại được
tiến hành hoặc chủ định sẽ tiến hành để thực hiện các đổi mới. Có một số hoạt động
đổi mới tự nó là đổi mới, một số hoạt động là hoạt động không có tính mới nhưng
lại cần thiết cho việc thực hiện đổi mới. Như vậy hoạt động đổi mới (công nghệ) bao
gồm cả hoạt động NC&PT mà bản thân nó không trực tiếp dẫn đến triển khai một đổi
mới riêng biệt nào.


Các hoạt động đổi mới của đổi mới sản phẩm và đổi mới quy trình

- NC&PT nội bộ: bao gồm tất cả các NC&PT do doanh nghiệp tự thực hiện kể cả
nghiên cứu cơ bản;
- Sử dụng NC&PT bên ngoài: thuê các hoạt động NC&PT của các tổ chức
nghiên cứu nhà nước hoặc nghiên cứu của tư nhân hoặc của các doanh nghiệp khác kể
cả của doanh nghiệp trong cùng tập đoàn;
- Sử dụng các tri thức từ bên ngoài: tậu quyền sử dụng các sáng chế hoặc các
phát minh không đăng ký sáng chế, các thương hiệu, bí quyết và các tri thức kiểu khác
từ các doanh nghiệp khác, tổ chức khác như các trường đại học, các tổ chức nghiên cứu
nhà nước, các tổ chức không phải là NC&PT;
- Mua các máy móc, thiết bị và các sản phẩm khác: các máy móc thiết bị tiên
tiến, máy tính với phần cứng và phần mềm, nhà, đất (kể cả việc nâng cấp, biến đổi
hoặc sửa chữa) mà chúng cần cho thực hiện đổi mới sản phẩm, đổi mới quy trình;
- Các công việc khác đối với hoạt động đổi mới sản phẩm đổi mới quy trình: các
hoạt động liên quan đến phát triển và thực hiện đổi mới sản phẩm, đổi mới quy trình
như là việc thiết kế, kế hoạch hoá, thử nghiệm cho sản phẩm mới (vật chất và dịch vụ),
8



quy trình sản xuất và phương pháp phân phối mà chúng chưa được đưa vào NC&PT.
- Chuẩn bị thị trường cho đổi mới sản phẩm: hoạt động nhằm vào thâm nhập thị
trường đối với sản phẩm và dịch vụ mới hoặc được nâng cấp rõ rệt;
- Đào tạo (bao gồm cả việc đào tạo từ bên ngoài) liên quan đến triển khai đổi
mới sản phẩm hoặc đổi mới quy trình cũng như thực hiện các đổi mới này.


Các hoạt động đổi mới của đổi mới marketing và đổi mới tổ chức

- Chuẩn bị cho đổi mới marketing: các hoạt động liên quan đến triển khai và
thực hiện phương pháp marketing mới. Hoạt động này bao gồm cả việc mua tậu tri
thức từ bên ngoài, hoặc các vật chất mà chúng liên quan đến đổi mới marketing;
- Chuẩn bị cho đổi mới tổ chức: các hoạt động được tiến hành cho công tác kế
hoạch hoá và thực hiện phương pháp tổ chức mới. Hoạt động này bao gồm mua, tậu các
tri thức khác từ bên ngoài và các sản phẩm vật chất khác mà chúng liên quan một cách
riêng biệt đến đổi mới tổ chức.
1.2.2. Chính sách đổi mới (công nghệ)
Đổi mới ngày nay trở thành chìa khoá của việc tăng sản lượng đầu ra và sức sản
xuất của doanh nghiệp. Mối quan hệ giữa đổi mới và phát triển kinh tế đã được thừa
nhận rộng rãi.
Sự quan tâm đến tầm quan trọng của đổi mới ngày càng tăng làm cho đổi mới
trở thành một vấn đề chủ chốt trong chương trình nghị sự chính sách của hầu hết các
nước phát triển. Chính sách đổi mới ban đầu phát triển lên từ chính sách KH&CN,
song đã tiếp thu được các khía cạnh quan trọng của chính sách công nghiệp. Cùng
với sự hiểu biết về đổi mới ngày càng tốt hơn, đã có những thay đổi lớn trong việc
phát triển các chính sách liên quan tới đổi mới. Ban đầu, người ta cho rằng tiến bộ
công nghệ đạt được thông qua một quá trình tuyến tính đơn giản bắt đầu từ nghiên cứu
khoa học cơ bản rồi tiến triển một cách tuần tự qua các mức ứng dụng cao hơn của
nghiên cứu, bao gồm khoa học ứng dụng công nghệ và tiếp thị. Khoa học khi đó được

xem là động lực, và tất cả những gì chính phủ cần chỉ là chính sách khoa học. Tư duy
mới về đổi mới đưa đến cách tiếp cận mang tính liên kết hơn đối với việc soạn thảo các
chính sách liên quan đến đổi mới.
1.2.3. Hàng hoá công, hàng hoá tư, các lợi ích
Hầu hết tri thức công nghệ thể hiện tính chất của hàng hóa công. Điều này có
nghĩa là một khi tri thức công nghệ đã được phổ biến thì mọi người có thể tiếp cận để
được sử dụng công nghệ đó. Đặc điểm này chính là nguồn gốc của hai vấn đề chủ yếu
đối với các nhà đổi mới (công nghệ) tư nhân. Thứ nhất là sự lan tỏa lợi ích của đổi
mới (công nghệ) với các tác động tích cực, tức là lợi ích xã hội lớn hơn lợi ích riêng
của công ty (khách hàng và cả các đối thủ đều được hưởng lợi từ các đổi mới của
công ty). Vấn đề thứ hai là một khía cạnh của vấn đề thứ nhất, đó là tri thức không
thể để làm của riêng, tức là doanh nghiệp không thể giành lấy tất cả lợi ích do đổi mới
mang lại cho riêng mình. Chính điều này đã làm doanh nghiệp giảm nhiệt tình đầu
tư vào các hoạt động đổi mới (công nghệ) có tính chất hàng hoá công. Do vậy, ở đâu tri
9


thức công nghệ mang đặc tính của hàng hóa công thì ở đó thị trường không phát huy
tác dụng hoặc thất bại (market failure) và điều này có nghĩa là không khuyến khích các
công ty đổi mới (công nghệ) có tính hàng hoá công. Hay nói cách khác ở đâu cơ chế thị
trường không phát huy tác dụng (thương mại) thì ở đó cần có bàn bay của nhà nước can
thiệp (công ích).
ừ lập trường mang tính lý thuyết này, nhiều nghiên cứu đã đưa ra số liệu thống
kê và các chỉ số liên quan chủ yếu đến chi phí cho đổi mới (công nghệ) và tỷ suất lợi
nhuận cá nhân và xã hội của các hoạt động đổi mới (công nghệ). Trong các nghiên cứu
đó, lợi nhuận cá nhân của các hoạt động công nghệ được suy ra từ các phương pháp
kinh tế lượng có sử dụng hàm sản xuất ước lượng, biểu thị mối tương quan giữa các đầu
vào và đầu ra của các hoạt động đổi mới (công nghệ) ở mức công ty hoặc ở mức tổng
thể hơn. Tri thức công nghệ thể hiện có đặc tính của hàng hóa công, do vậy chính sách
KH&CN phải đưa ra được giải pháp, câu trả lời đối với sự suy giảm nhiệt tình

của doanh nghiệp và các thất bại thị trường khác như rủi ro và chi phí giao dịch. Các
công cụ chính sách chủ yếu là sự tài trợ trực tiếp, toàn phần của chính phủ cho các
nghiên cứu và phát triển công ích, đặc biệt là cho nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng
dụng của các lĩnh vực công ích khác (chính phủ với tư cách là người cung cấp hàng hóa
công) và chính phủ hỗ trợ tài chính thông qua công cụ thuế, tín dụng cho các hoạt
động đổi mới có tính chất tiền cạnh tranh do doanh nghiệp thực hiện.
Cách tiếp cận hệ thống đối với đổi mới (công nghệ) dịch chuyển trọng tâm chính
sách về phía nhấn mạnh đến sự tương tác giữa các thiết chế, xem xét các quá trình
tương tác trong việc tạo ra tri thức, phổ biến và ứng dụng tri thức. Điều này dẫn đến sự
đánh giá cao hơn tầm quan trọng của các điều kiện, luật lệ và chính sách mà trong đó
thị trường hoạt động, và do vậy vai trò không thể bỏ qua của chính phủ trong việc
giám sát và tìm cách “tinh chỉnh” khung tổng quát đó. Cụ thể là, các vấn đề thuộc về hệ
thống cần được xem xét cùng các vấn đề của thị trường.
Nhiều nhân tố có ảnh hưởng đến hành vi của các công ty, bao gồm cả các
chính sách của chính phủ. Cách tiếp cận hệ thống đổi mới quốc gia với mục tiêu
chính sách là cần thiết bởi:
- Không thể có được câu trả lời chính sách đơn giản cho các vấn đề phức tạp
được đưa ra bởi mối quan hệ giữa công nghệ và việc làm trong một nền kinh tế dựa
trên tri thức.
- Một chiến lược hiệu quả về chính sách phải bao gồm nhiều hành động chính
sách kinh tế vĩ mô và chính sách cấu trúc.
- Tính chặt chẽ của một gói chính sách là điều kiện thành công, và điều này phụ
thuộc vào tính hiệu lực của khung chính sách cũng như chất lượng của quá trình
hình thành chính sách.
1.2.4. Các nhân tố của chính sách đổi mới (công nghệ)
Có bốn nhóm nhân tố chính liên quan trước hết đến đổi mới (công nghệ).
Đó là nhân tố liên quan đến doanh nghiệp (công ty), các tổ chức KH&CN, các vấn đề
10



chuyển giao và hấp thụ công nghệ, tri thức, kỹ năng. Ngoài ra, một loạt các cơ hội
cho đổi mới còn bị ảnh hưởng bởi nhóm nhân tố thứ tư – đó là môi trường xung quanh
các tổ chức, các dàn xếp về pháp lý, bối cảnh kinh tế vĩ mô và nhiều điều kiện khác
đang tồn tại không phụ thuộc vào các suy tính về đổi mới (công nghệ).
Bốn nhóm nhân tố lớn liên quan đến đổi mới (công nghệ) có thể được thể hiện
như một sơ đồ (Hình 1) chỉ ra các lĩnh vực trong đó đòn bẩy chính sách có thể được
áp dụng vào đổi mới doanh nghiệp, hoặc các lĩnh vực cần phải lưu ý đến khi các
sáng kiến chính sách đang được hình thành. Đây là cách thể hiện “hình thái” chính
sách đối với một hệ thống đổi mới quốc gia một cách tổng quát. Các yếu tố bao gồm:
a) Các điều kiện khung
Các điều kiện khung cơ bản của các nhân tố quốc gia về thể chế và cấu trúc (như
luật pháp, kinh tế, tài chính, giáo dục) hình thành nên các quy tắc và cơ hội cho đổi mới
(công nghệ).
Môi trường hoạt động trong đó các công ty có thể vận động và biến đổi là môi
trường xung quanh các hoạt động đổi mới (công nghệ) ở cấp công ty (động lực đổi
mới). Môi trường này bao gồm các thể chế và điều kiện cơ bản đã được xác lập (hoặc
vẫn đang phát triển) theo những nguyên lý không liên quan đến đổi mới. Các nhân tố
này xác lập các tham số cơ bản, theo đó công ty tồn tại và hoạt động. Các nhân tố đó,
do vậy, sẽ có ảnh hưởng lớn đến đổi mới (công nghệ) của doanh nghiệp. Môi trường
thể chế tổng quát đó tạo ra các điều kiện khung, theo đó đổi mới (công nghệ) sẽ diễn
ra. Các bộ phận cấu thành bao gồm:
- Hệ thống giáo dục cơ sở cho quảng đại quần chúng.
- Cơ sở hạ tầng liên lạc, bao gồm đường sá, thông tin liên lạc.
- Thể chế tài chính (vd. tiếp cận các nguồn vốn đầu tư mạo hiểm).
- Khung cảnh, luật pháp, chẳng hạn như luật sáng chế, thuế, các quy định về quản lý
doanh nghiệp và lãi suất tiết kiệm, tỷ giá ngoại tệ, thuế xuất nhập khẩu và cạnh tranh.
- Sự tiếp cận thị trường, kể cả khả năng thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với khách hàng
cũng như các vấn đề như qui mô thị trường và sự dễ dàng tiếp cận thị trường.
- Cấu trúc ngành và môi trường cạnh tranh, kể cả sự tồn tại của các công ty cung
ứng trong các ngành sản xuất hỗ trợ.


11


b) Cơ sở khoa học và kỹ thuật
Cơ sở khoa học và kỹ thuật: Đó là tri thức được tích lũy và các tổ chức KH&CN
làm nền tảng cho đổi mới của doanh nghiệp bằng cách cung cấp dịch vụ đào tạo công
nghệ và cung cấp tri thức khoa học cho doanh nghiệp.
Tri thức khoa học và kỹ năng kỹ thuật là chỗ dựa quan trọng của đổi mới. Ở
hầu hết các nước, các yếu tố này tập trung và được phát triển tại các tổ chức KH&CN
công. Đầu ra tri thức khoa học của các tổ chức này trên phạm vi toàn thế giới tạo ra
sự hiểu biết thực chất và cơ sở lý thuyết cho đổi mới doanh nghiệp.
Sự khác nhau về tính chất hoạt động của các tổ chức KH&CN và các công ty
thực hiện đổi mới cần được hiểu rõ. Có sự khác biệt đáng kể về động cơ thúc đẩy hoạt
động của các cộng đồng trong hai khu vực này. Thành công thường nhìn nhận theo các
cách khác nhau. Cơ cấu thường cũng khác nhau. Trong khoa học, các cá nhân thường
có vai trò lớn hơn so với tổ chức họ làm việc trong đó. Mặt khác, “công ty” (và do đó
các vấn đề về tổ chức như các nhóm làm việc và chiến lược) dường như là quan
trọng hơn so với cá nhân trong đổi mới doanh nghiệp. Tuy nhiên, mạng lưới các cá
nhân có vai trò then chốt trong việc thông tin giữa các nhà khoa học và giữa những
người tham gia đổi mới. Các tổ chức KH&CN quốc gia có thể đóng vai trò dẫn dắt
có hiệu quả tại địa phương, đồng thời cung cấp nhân lực có tay nghề để giữ các vị trí
then chốt liên quan đến đổi mới (công nghệ). Các tổ chức này cũng cung cấp các
nguồn chuyên gia, xúc tiến hợp tác hiệu quả và cung cấp những công nghệ, thiết bị
được cải tiến cho doanh nghiệp. Các bộ phận của cơ sở khoa học và kỹ thuật quốc gia
gồm:
- Hệ thống đào tạo kỹ thuật chuyên ngành.
- Hệ thống trường đại học.
- Hệ thống hỗ trợ nghiên cứu cơ bản (bên cạnh những đột phát cơ bản và các
lợi ích lâu dài, nghiên cứu cơ bản đối khi được xem là mang lại rất ít lợi ích trực

triếp cho đổi mới doanh nghiệp).
- Các hoạt động NC&PT mang tính hàng hóa công - tài trợ các chương trình và
tổ chức được định hướng vào các khu vực như y tế, môi trường và quốc phòng.
- Các hoạt động NC&PT mang tính chiến lược - tài trợ các chương trình và
tổ chức được định hướng vào NC&PT tiền cạnh tranh hay công nghệ nguồn.
- Hỗ trợ đổi mới không sinh lợi - tài trợ các chương trình và tổ chức được
định hướng vào nghiên cứu các lĩnh vực mà các doanh nghiệp khó có thể có được
đủ lợi ích từ chính nghiên cứu trong nội bộ của mình.
c) Các nhân tố chuyển giao
Các nhân tố chuyển giao có ảnh hưởng lớn đến tính hiệu quả của các mối liên
kết, các luồng trao đổi thông tin và kỹ năng, sự tiếp thu học hỏi. Đây là các nhân tố về
con người mà tính chất của chúng được xác định phần lớn bởi các đặc điểm văn hóa
và xã hội của nhóm người trong xã hội.
12


Nghiên cứu về đổi mới đã nhận dạng được các nhân tố về con người, xã hội và
văn hóa, có tầm quan trọng đối với hoạt động đổi mới hiệu quả ở cấp công ty. Những
nhân tố này liên quan đến sự dễ dàng liên lạc trong nội bộ các tổ chức, các mối tương
tác không chính thức, sự hợp tác và các kênh thông tin và sự truyền đạt tay nghề trong
các tổ chức và giữa các tổ chức với nhau, các nhân tố xã hội và văn hóa với ảnh hưởng
rộng khắp đối với việc các hoạt động và các kênh này có thể vận hành hiệu quả đến
mức nào. Một điểm quan trọng mà nghiên cứu về đổi mới nêu lên là hầu hết tri thức cốt
yếu, đặc biệt tri thức công nghệ, không được viết ra. Do vậy, một số dạng thông tin chỉ
có thể được truyền đạt thực ra là giữa hai cá nhân có kinh nghiệm - qua truyền đạt tới
một cá nhân có óc tiếp thu và đủ trình độ để hiểu hoàn toàn được thông tin, hoặc qua
sự chuyển giao vật chất của những người mang tri thức đó. Đây chính là học hỏi của
công ty (tức là phổ biến tri thức tới nhiều cá nhân chủ chốt trong nội bộ công ty), và
nó có vai trò quan trọng đối với năng lực đổi mới của công ty. Một cách tổng quát, các
nhân tố chuyển giao có thể được liệt kê như sau:

- Các liên hệ chính thức và không chính thức giữa các công ty, mối quan hệ
giữa những người sử dụng và người cung ứng, các cơ quan điều chỉnh pháp luật, các
viện nghiên cứu và các tác nhân kích thích bên trong các “chùm” đối thủ cạnh
tranh. Tất cả các mối liên hệ này đều có thể tạo ra các luồng thông tin có lợi cho đổi
mới hoặc dẫn công ty đến chỗ dễ tiếp thu đổi mới hơn.
- Sự hiện diện của những “người gác cổng” công nghệ, hay những người
nhạy cảm công nghệ. Đó là những cá nhân, bằng nhiều cách, luôn theo sát những phát
triển mới nhất (kể cả công nghệ mới và tri thức được mã hóa trong các bằng sáng chế,
các tài liệu chuyên môn và các tạp chí khoa học), và luôn duy trì mạng lưới riêng để tạo
điều kiện cho các luồng thông tin trao đổi. Yếu tố “người gác cổng” công nghệ đóng
một vai trò quan trọng đối với đổi mới trong nội bộ công ty.
- Các mối liên hệ quốc tế là một bộ phận quan trọng của mạng lưới thông
tin. Mạng lưới các chuyên gia quốc tế là phương cách quan trọng để truyền những hiểu
biết mới nhất về khoa học và những phát triển công nghệ tiên tiến nhất.
- Mức độ lưu chuyển của các chuyên gia khoa học hoặc công nghệ sẽ ảnh
hưởng đến tốc độ lan truyền của các phát triển mới.
- Sự dễ dàng tiếp cận ngành công nghệ tới các năng lực tiềm tàng của NC&PT
công.
- Sự hình thành công ty spin-off thường kéo theo sự chuyển giao các cá nhân có
trình độ. Đây là một phương cách giá trị để đạt được sự thương mại hóa các phát
triển mới do nghiên cứu trong khu vực công mang lại.
- Nguyên tắc xử thế, hệ thống giá trị cộng đồng, sự tin cậy và cởi mở có ảnh
hưởng đến hiệu quả của các mạng lưới, các mối liên hệ và các kênh liên lạc khác, do
chúng có tác động đến sự giao tiếp không chính thức giữa cá nhân và là điều tạo
nền tảng cho nhiều thỏa thuận kinh doanh. Chúng còn xác lập các tham số và các quy
tắc xử thế được chấp nhận, theo đó liên lạc và trao đổi thông tin được thực hiện.
13


- Tri thức được mã hóa trong các sáng chế, tài liệu chuyên môn và tạp chí khoa

học.
d) Động lực đổi mới
Động lực đổi mới là lĩnh vực quan trọng nhất đối với đổi mới doanh nghiệp,
bao gồm các nhân tố nằm trong hoặc ngay bên ngoài công ty và có tác động trực tiếp
đến tính đổi mới của công ty.
Một hệ thống phức tạp các nhân tố định hình đổi mới ở cấp công ty được gọi
là “động lực đổi mới”. Đặt động lực đổi mới vào trung tâm của sơ đồ là sự thừa nhận
tầm quan trọng của công ty trong việc đổi mới nền kinh tế. Do đó, điều quan trọng là
cần phải hiểu được các đặc điểm nào làm cho công ty trở nên đổi mới hơn hay kém
đổi mới và đổi mới được phát động trong nội bộ công ty như thế nào. Xu hướng đổi
mới của công ty tất nhiên còn phụ thuộc vào các cơ hội công nghệ mà công ty gặp
được.
1.2.5. Chiến lược đổi mới và hoạt động NC&PT của doanh nghiệp
Các lựa chọn mở ra đối với một công ty mong muốn đổi mới, tức là mong
muốn thay đổi tài sản công nghệ và năng lực sản xuất của mình, gồm ba loại: chiến
lược, NC&PT và các hoạt động không thuộc NC&PT.
- Chiến lược là một nền tảng cần thiết cho hoạt động đổi mới, công ty cần phải
- một cách rõ ràng - ra quyết định về các loại thị trường mà công ty đáp ứng, hoặc
tìm cách tạo ra, và các dạng đổi mới mà công ty sẽ phải thử nghiệm.
- NC&PT là một số lựa chọn liên quan đến NC&PT (theo nghĩa của Tài liệu
Frascati, kể cả phát triển thử nghiệm là loại đi xa hơn nghiên cứu cơ bản và nghiên
cứu ứng dụng):
+ Công ty có thể thực hiện nghiên cứu cơ bản để mở rộng tri thức về các quá
trình cơ bản liên quan đến những gì công ty sản xuất.
+ Công ty có thể tham gia nghiên cứu chiến lược (theo nghĩa là nghiên cứu phù
hợp với ngành sản xuất của mình nhưng không có ứng dụng cụ thể) nhằm mở rộng
phạm vi các dự án ứng dụng, và nghiên cứu ứng dụng nhằm cho ra những sáng chế
cụ thể hoặc những cải tiến đối với các kỹ thuật hiện có.
+ Công ty có thể phát triển các khái niệm sản phẩm để nhận định xem liệu các
khái niệm đó có khả thi và tồn tại được không. Giai đoạn này gồm: i) thiết kế mẫu; ii)

triển khai và thử nghiệm; iii) nghiên cứu tiếp để cải tiến thiết kế hoặc chức năng kỹ
thuật.
- Việc không liên quan đến NC&PT: Công ty có thể tham gia vào nhiều hoạt
động khác không có bất kỳ mối liên quan trực tiếp nào đến NC&PT và không được
định nghĩa là NC&PT, song lại đóng vai trò chủ chốt trong đổi mới doanh nghiệp và
nâng cao hiệu năng doanh nghiệp như:
+ Nhận dạng các khái niệm sản phẩm mới và công nghệ mới: i) Thông qua bên
tiếp thị của công ty và quan hệ với người dùng; ii) Thông qua việc nhận dạng các cơ
14


hội cho việc thương mại hóa được hình thành từ nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu
chiến lược của chính công ty hoặc của các công ty khác; iii) Thông qua thiết kế năng
lực thiết kế và kỹ thuật của mình; iv) Bằng cách giám sát đối thủ; v) Bằng cách sử dụng
nhà tư vấn.
+ Phát triển dự án dẫn đường và sau đó phát triển phương tiện sản xuất ở mức
tổng thể.
+ Mua thông tin kỹ thuật, trả lệ phí hoặc tiền bản quyền cho các sáng chế đã
được cấp bằng (điều này thường đòi hỏi công tác nghiên cứu và kỹ thuật để thích
nghi và cải tiến) hoặc mua bí quyết và kỹ năng thông qua tư vấn kỹ thuật và thiết kế các
loại khác nhau.
+ Trình độ nhân lực cần cho sản xuất có thể được phát triển (thông qua đào tạo
nội bộ) hoặc mua (qua thuê mướn); học hỏi ngầm và không chính thức (học qua làm).
+ Đầu tư vào thiết bị qui trình hoặc các đầu vào trung gian (các cấu kiện, các
máy móc hoặc toàn bộ một nhà máy).
+ Tổ chức lại hệ thống quản lý, toàn bộ hệ thống sản xuất và các phương
pháp sản xuất, bao gồm cả các dạng mới của quản lý kho hàng và kiểm soát chất
lượng, và không ngừng cải tiến chất lượng.
Nhiều nỗ lực đã được thực hiện nhằm xây dựng các mô hình để tìm hiểu
phương cách mà đổi mới (công nghệ) được khởi tạo trong nội bộ công ty, và đổi mới

(công nghệ) bị ảnh hưởng như thế nào bởi các yếu tố diễn ra bên ngoài công ty. Một
trong những cách tiếp cận hữu ích là mô hình chuỗi liên kết (Hình 2).
Hình 2. Mô hình đổi mới chuỗi liên kết
Nghiên cứu
Tri thức
Thị trường tiềm
năng

Sáng chế
và/hoặc tạo ra
mẫu phân tích

Thiết kế chi tiết
và thử nghiệm

Thiết kế lại và
sản xuất

Phân phối và tiếp
thị

Mô hình chuỗi liên kết trình bày đổi mới dưới dạng mối quan hệ tương tác giữa
các cơ hội thị trường với cơ sở tri thức và năng lực của công ty. Trong mô hình
chuỗi liên kết, nghiên cứu được xem không phải như nguồngốc của những ý tưởng
phát minh, mà như một dạng giải quyết vấn đề được yêu cầu gọi đến vào bất kỳ
thời điểm nào. Khi xuất hiện vấn đề trong quá trình đổi mới, công ty sẽ cần đến cơ
sở tri thức của mình vào thời điểm cụ thể đó. Cơ sở tri thức này được tạo nên từ các kết
quả nghiên cứu trước đây và từ các kinh nghiệm thực tiễn và kỹ thuật. Hệ thống
15



nghiên cứu sẽ nhận lấy những khó khăn mà cơ sở tri thức hiện có không giải quyết
được, và như vậy sẽ mở rộng khả năng của cơ sở tri thức nếu giải quyết thành công
các khó khăn đó.
Tổng kết thực tiễn cho thấy Nghiên cứu có thể liên quan đến bất kỳ giai đoạn nào
của đổi mới, nó là một hoạt động phức tạp và khác biệt từ trong nội tại, với nhiều
chức năng rất đa dạng. Nghiên cứu có thể là một bổ trợ cho đổi mới. Nhiều hoạt động
nghiên cứu sẽ được hình thành từ quá trình đổi mới. Nhiều vấn đề cần giải quyết bắt
nguồn từ các ý tưởng đổi mới được tạo ra ở những nơi khác. Do đó, đối với mô hình
chuỗi liên kết, nghiên cứu không thể được xem chỉ như là công việc khám phá diễn ra
trước đổi mới mà có thể cả trong quá trình đổi mới.
Đề tài sử dụng những lý luận theo quan niệm của OECD nêu trong mục I.2. Hoạt
động đổi mới (công nghệ) để làm cơ sở cho việc phân tích về cơ chế, chính sách tài
chính của Nhà nước và của doanh nghiệp đối với các hoạt động đổi mới (công nghệ) tại
các Chương II và Chương III của đề tài.
I.3. QUAN HỆ GIỮA NC&PT VÀ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ
Từ các phần I.1 và I.2 có thể nhận thấy có sự tương tác, liên hệ giữa nghiên
cứu và phát triển với đổi mới công nghệ. Các hoạt động NC&PT chỉ diễn ra ở quy
mô phòng thí nghiệm, hoặc xưởng thử nghiệm, xưởng bán công nghiệp với sản phẩm ở
dạng sản phẩm mẫu. Để có được công nghệ mới hoàn chỉnh và sản phẩm mới có thể
thương mại hoá được trên thị trường thì cần phải có công việc đổi mới trong thực tiễn
sản xuất (quy trình công nghệ mới thay quy trình cũ, sản phẩm mới thay sản phẩm cũ).
Trong giai đoạn đổi mới này không chỉ quy trình công nghệ mới được đưa vào hoạt
động, sản phẩm mới được sản xuất mà một số công tác tổ chức thâm nhập thị trường
để bán sản phẩm mới cũng được xúc tiến. Trong công việc này cũng có thể nảy sinh
vấn đề mà cần phải tiến hành các hoạt động NC&PT bổ sung cần thiết để cho sản phẩm
hoàn hảo hơn, thích hợp hơn với thị trường cần thâm nhập.
Mô hình tương tác về tri thức và hệ thống đổi mới theo một cách đơn giản hoá
có thể thể hiện ở Hình 3. Ở đây có thể nhận thấy hoạt động này có thể diễn ra theo
kiểu Công nghệ đẩy hoặc Thị trường kéo nhưng quá trình này là liên tục không bị ngắt

quãng từ nghiên cứu cơ bản đến phân phối sản phẩm trong thị trường hoặc ngược lại.
Chỉ có đến thâm nhập vào thị trường thành công thì mới có thể nói đến sự thành công
của quy trình sản xuất mới hoặc sản xuất thành công sản phẩm mới. Nhiều kết quả rất
có thể ngộ nhận là sản phẩm mới, quy trình công nghệ mới nhưng thực tế mới ở mức
quy mô phòng thí nghiệm hoặc xưởng thực nghiệm. Có một điều cần khẳng định
là doanh nghiệp phải là người chủ trì của việc đổi mới công nghệ, các nhà khoa học
không bao giờ và cũng không thể đóng được vai trò chủ trì công tác đổi mới công nghệ
tại doanh nghiệp. Điều này ở nhiều nước đã trở thành nguyên tắc trong việc hỗ trợ tài
chính cho đổi mới công nghệ tại doanh nghiệp.
Hình 3. Mối quan
và thị trường kéo

hệ giữa tri thức và hệ thống đổi mới - cơ chế công nghệ đẩy

16


Kết quả

Nghiên cứu
cơ bản

Sản phẩm mẫu

Nghiên cứu ứng
dụng và phát triển
công nghệ

Các yêu cầu về
khoa học


Sản phẩm

Triển khai thương
mại và sản xuất

Các yêu cầu
kỹ thuật

17

Nhu cầu thị trường

Nhu cầu
thị trường


Mô hình trên là mô hình tuyến tính mô tả mối quan hệ trực tuyến tuần tự nối tiếp
nhau từ nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ đến sản xuất và thương mại. Vào
thời điểm đến những năm 1970 quan điểm này đã được phổ biến rộng rãi trên thế giới.
Người ta gọi đây là mô hình "Công nghệ đẩy". Tư tưởng chính của nó là công nghệ
đóng vai trò động lực cho quá trình đổi mới và phát triển của xã hội. Công nghệ là sản
phẩm sáng tạo của con người trong hoạt động NC&PT và khi được đưa vào sản xuất
nó sẽ dẫn dắt thị trường, tạo ra nhu cầu thị trường. Nói một cách khác nhu cầu thị
trường là hệ quả của phát triển công nghệ. Theo lôgic hình thức thì có thể thấy như
vậy là hợp lý, tuy nhiên, trong thực tiễn không thiếu những sáng tạo công nghệ
không thể tạo nên phát triển thị trường do không đáp ứng được yêu cầu của xã hội.
Mô hình "Công nghệ đẩy" đã không thể hiện được tầm quan trọng của yêu cầu thị
trường, nhu cầu xã hội đến việc sáng tạo công nghệ mới. Mô hình này thường tồn tại
trong các nước đang phát triển khi mà hoạt động NC&PT phần lớn vẫn do nhà nước

bao cấp. Đây không phải là mô hình phát huy tốt trong cơ chế thị trường. Đây chỉ là
cơ chế "điểm hút" của thị trường và theo mô hình này chủ yếu nhà nước sử dụng
cho sự phát triển trong một số lĩnh vực khoa học và công nghệ.
Mô hình "Thị trường kéo" cũng là mô hình tuyến tính và có cách tiếp cận
ngược với mô hình công nghệ đẩy. Mô hình này nhấn mạnh vai trò quyết định của thị
trường đến các hoạt động NC&PT công nghệ. Tư tưởng của quan điểm này coi yêu cầu
của thị trường chứ không phải các tổ chức NC&PT là động lực cho quá trình đổi mới và
sáng tạo công nghệ. Khi xuất hiện yêu cầu của thị trường thì các ý tưởng KH&CN lập
tức được sản sinh ra từ các tổ chức NC&PT để đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của thị trường.
Theo mô hình này người ta tìm được mối liên kết chặt chẽ hơn giữa thị trường và hoạt
động của các tổ chức NC&PT. Đây là mô hình mà ở đó phát huy được tối đa cơ chế thị
trường (cơ chế lợi nhuận). Nhà nước trong trường hợp này tạo điều kiện thuận lợi cho
cơ chế thị trường phát huy hết tác dụng, không nên có các can thiệp vào các lĩnh vực
KH&CN mà ở đó có thể thị trường phát huy được vai trò của mình.
Trong thực tế phát triển của KH&CN, quá trình đổi mới không phải diễn ra
một cách tuyến tính như đã ðýợc nêu trong mô hình trên, có nghĩa là không phải chỉ đơn
thuần do sức đẩy của công nghệ mà cũng không phải luôn luôn do sức kéo của thị
trường mà nó diễn ra do cả hai động lực trên trong từng hoàn cảnh cụ thể của quá
trình đổi mới. Chính vì vậy để mô tả một cách sát thực quá trình phát triển KH&CN
người ta đưa ra mô hình hỗn hợp giữa công nghệ đẩy và sức kéo của thị trường. Tuy
vai trò của thị trường được đề cao nhưng không phải lúc nào thị trường cũng có
tính quyết định cho quá trình đổi mới. Nhà nước luôn đóng một vai trò quan trọng
trong việc bù đắp phần khiếm khuyết của thị trường.
Theo mô hình này, khi xuất hiện yêu cầu của thị trường về một sản phẩm
nào đó thì sẽ làm xuất hiện nhu cầu cho hoạt động nghiên cứu và sáng tạo công nghệ
để sản xuất ra sản phẩm đó. Như vậy thị trường đã có tác động mạnh và thúc đẩy hoạt
động NC&PT phát triển. Ngược lại, hoạt động NC&PT sáng tạo ra công nghệ tạo ra
sản phẩm mới sẽ kích thích tiêu dùng và tạo ra nhu cầu thị trường mới và tác động lại



NC&PT.
Đề tài đã sử dụng triết lý đẩy, kéo nêu trên để làm cơ sở cho các phân tích về
cơ chế, chính sách tài chính đối với việc tổ chức và hoạt động của các chương trình, đề
tài, dự án KH&CN phải được « kéo » như thế nào thì mới thực sự gắn kết KH&CN
với sản xuất ; có địa chỉ ứng dụng ; đáp ứng yêu cầu của thị trường.
I.4. LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VỀ PHẠM VI,TRÁCH NHIỆM CỦA NHÀ
NƯỚC VÀ THỊ TRƯỜNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KH&CN, ĐỔI MỚI (CÔNG
NGHỆ)
1.4.1. Lý luận chung về quan hệ giữa nhà nước và thị trường
Trong quá trình phát triển của kinh tế thế giới, mối quan hệ giữa nhà nước và
thị trường được tổng kết theo 3 mô hình như sau:
1) Trường phái "Bàn tay vô hình" mà Adam Smith là đại diện chủ trương
không có sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế thị trường. Theo đó, nhân tố
quan trọng nhất cho sự phát triển là con người - con người kinh tế và điều kiện để họ
tiến hành trao đổi chính là lợi ích tư mà họ nhận được. Khi các hoạt động kinh tế được
tiến hành, bàn tay vô hình chính là các quy luật khách quan của nền kinh tế thị
trường sẽ chi phối các hoạt động. Nhà nước trong những điều kiện như vậy, không
cần can thiệp vào hoạt động kinh tế mà chỉ cần thực hiện những chức năng truyền
thống của nhà nước của mình.
2) Trường phái "Cần có sự can thiệp của nhà nước" cho rằng nền kinh tế thị
trường theo kiểu bàn tay vô hình đã không giải quyết được các cuộc khủng hoảng
kinh tế thế giới và chính bàn tay hữu hình (can thiệp của nhà nước) đã phải tham
gia lập lại trật tự kinh tế. Học thuyết kinh tế của M.Keynes là nền tảng tư tưởng
về sự can thiệp của nhà nước. Đó là vấn liên quan đến lao động, thị trường lao động,
thất nghiệp; vấn đề cơ cấu kinh tế, quy mô sản xuất, quy mô tiêu dùng và thu nhập;
vấn đề kích cầu, kích thích tiêu dùng, khuyến khích sản xuất và đầu tư phát triển;
vấn đề tham gia tích cực vào hoạt động đầu tư; sử dụng ngân sách để khuyến khích
đầu tư tư nhân; vấn đề sử dụng hệ thống tài chính, tiền tệ, thuế.
3) Trường phái "Kinh tế hỗn hợp" là trường phái vừa đề cao vai trò của nhà nước,
vừa đề cao vai trò năng động, tích cực của thị trường. Đó là sự kết hợp giữa bàn tay vô

hình của thị trường và bàn tay hữu hình (có sức mạnh của công quyền, thể chế, tài
chính). Một nền kinh tế vận hành tốt chỉ khi kết hợp một cách hài hoà nhất giữa nhà
nước và thị trường theo nguyên tắc: không thể vỗ tay bằng một bàn tay. Thừa nhận
một cơ chế vận hành hỗn hợp, cần quan tâm cả yếu tố vô hình và hữu hình. Những
điều thị trường không thể giải quyết được thì nhà nước phải quan tâm giải quyết.
Trên thực tế, hiện nay phần lớn các nước trên thế giới phát triển kinh tế thị
trường đều thực hiện hoặc hướng theo mô hình "kinh tế hỗn hợp". Việt Nam đi theo
mô hình nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, như vậy về cơ bản cũng là
theo mô hình "kinh tế hỗn hợp".
Dựa theo mô hình trên, phần lớn các nước đang phát triển ban đầu luôn luôn coi


phát triển KH&CN là hoạt động của nhà nước. Nhà nước tổ chức, tham gia và
cung cấp tài chính cho hầu hết các hoạt động KH&CN. Tuy nhiên, vai trò của nhà
nước ở các nước đang phát triển trong việc can thiệp để phát triển KH&CN cũng chỉ có
thể dừng lại ở một mức độ nhất định. Để có được những thành công lớn, nhà nước
các nước trên đã hỗ trợ và khuyến khích các vai trò tác nhân trung gian tích cực tham
gia vào các hoạt động phát triển KH&CN chế tạo ra nhu cầu thật sự đối với công nghệ
và tạo ra động lực cho quá trình đổi mới. Trong quá trình đó, nhà nước đã tạo ra được
sự tin cậy lẫn nhau giữa khu vực tư nhân và nhà nước và ngay cả ở bộ máy hành
chính của nhà nước. Nhà nước cũng giúp thiết lập sự tin cậy lẫn nhau giữa ngành
công nghiệp và các tổ chức NC&PT. Bước đi đầu tiên là các tổ chức NC&PT phải tìm
kiếm các chương trình nghiên cứu cho mình từ những vấn đề mà các ngành công
nghiệp đang gặp khó khăn trong việc sử dụng công nghệ được chuyển giao từ nước
ngoài. Từ đó các tổ chức NC&PT dần tiến đến giúp các doanh nghiệp nghiên cứu khả
năng thích nghi và cải tiến các quy trình công nghệ hiện có, nâng cấp công nghệ. Cuối
cùng các tổ chức NC&PT nhờ đó mà có khả năng sáng tạo ra công nghệ mới và giúp
doanh nghiệp đổi mới công nghệ. Kinh nghiệm cho thấy, ở một nước thành công về
phát triển công nghệ, đầu tư của công nghiệp cho NC&PT của quốc gia đã chiếm tỷ
lệ 60%-70%. Điều đó chứng tỏ rằng khi nhà nước đề ra được đường lối đúng đắn cho

quá trình phát triển các hoạt động NC&PT thì sự phối kết hợp giữa các tổ chức nhà
nước có liên quan với khu vực tư nhân (thị trường) sẽ chặt chẽ trong hoạt động
KH&CN theo chức năng, cơ chế hoạt động của mỗi bên. Lý thuyết về liên kết xoắn
ba (Triple Helix) đã thể hiện sự cộng tác này và trên thực tế nhiều nước phát triển
đã thực hiện tốt mối liên kết này trong hoạt động phát triển KH&CN, đổi mới công
nghệ.
Bức tranh về hoạt động KH&CN, đổi mới (công nghệ) của các nước cho thấy
hiện nay đang tồn tại hai quan điểm có vẻ trái ngược nhau về hoạt động này. Quan
điểm đó được dựa trên hai lôgíc khác nhau. Lý luận về công ích coi kết quả nghiên
cứu và phát triển có thể tự do tiếp cận và sử dụng và lý luận về sở hữu coi kết quả
nghiên cứu là sở hữu tư nhân. Hoạt động KH&CN là một trong những hoạt động
quan trọng của xã hội và đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế và tiến bộ
xã hội. Trong bối cảnh hiện nay tại các nước đang phát triển, sản phẩm của NC&PT
được coi là hàng hóa thương mại, đề cao vai trò của thị trường, dường như đang thách
thức quan niệm cho rằng KH&CN là của công. Đây là vấn đề khá phổ biến ở các nước
đang phát triển và các nước đang có nền kinh tế chuyển đổi, nơi có đến 80% hoạt động
NC&PT vẫn còn do chính phủ cấp tài chính. Nguyên nhân chính của hiện tượng
này ở các nước đang phát triển là sức ép tài chính của nhà nước quá lớn khi cung cấp
cho KH&CN theo hình thức bao cấp, trong khi đó các tổ chức NC&PT hoạt động
thiếu hiệu quả làm cho người ta nghĩ ngay đến việc dùng cơ chế thị trường để điều
tiết. Theo quan điểm này chi phí cho NC&PT trong nhiều lĩnh vực sẽ được giảm đi,
thậm chí ngay cả những lĩnh vực như y tế, giáo dục và các nghiên cứu rủi ro khác.
Như vậy, chính tại các nước này sẽ xuất hiện mâu thuẫn mới giữa việc hướng các
hoạt động KH&CN, đổi mới công nghệ theo yêu cầu thị trường để phát triển kinh tếxã hội và duy trì một số hoạt động KH&CN, đổi mới công nghệ như là hoạt động


công cộng vì lợi ích chung trong một số hoạt động KH&CN, đổi mới công nghệ.
Thiên về quan điểm thị trường hoá tất cả các hoạt động KH&CN, đổi mới công nghệ
sẽ là nguy hiểm đối với nền KH&CN của một quốc gia. Nhà nước phải đảm bảo phát
triển KH&CN, đổi mới công nghệ bằng cách phối hợp giữa hai cơ chế xuất phát từ

chức năng của nhà nước là công ích và chức năng của thị trường là lợi ích của doanh
nghiệp.
Đề tài đi theo quan điểm nêu trên và lấy đó làm cơ sở cho việc xác định vai trò
của nhà nước và của thị trường trong hoạt động KH&CN, hoạt động đổi mới (công
nghệ), đặc biệt là vấn đề cơ chế, chính sách tài chính của nhà nước chỉ có trách
nhiệm cấp kinh phí 100% vào các vấn đề công ích và có trách nhiệm hỗ trợ các vấn
đề đổi mới (công nghệ) của doanh nghiệp trong các Chương II và Chương III của đề
tài.
1.4.2. Chức năng của nhà nước và thị trường đối với hoạt động
KH&CN, đổi mới (công nghệ)
Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước và doanh nghiệp công nghiệp là hai nhân
tố quan trọng nhất quyết định đến sự phát triển của KH&CN của một quốc gia. Trước
đổi mới, hoạt động nghiên cứu và triển khai của nước ta vẫn còn nặng về cơ chế bao
cấp (làm thay doanh nghiệp), hoạt động KH&CN và đổi mới (công nghệ) là lĩnh vực
chỉ có Nhà nước đầu tư và triển khai thực hiện. Doanh nghiệp ỷ lại nhà nước về
KH&CN và thậm chí cả đổi mới (công nghệ), chưa chủ động đầu tư, tiến hành các
nhiệm vụ KH&CN, đổi mới (công nghệ) có lợi cho riêng mình. Trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN như hiện nay, Nhà nước cần có quan điểm mới về phát triển
KH&CN, đổi mới (công nghệ), phải làm rõ trách nhiệm giữa Nhà nước và doanh nghiệp
đối với hoạt động KH&CN, đổi mới công nghệ.
Nhà nước ngoài trách nhiệm về mặt quản lý nhà nước đối với toàn bộ hoạt động
KH&CN, đổi mới (công nghệ) trong quốc gia sẽ thực hiện chức năng công ích của
mình. Trách nhiệm trước hết của Nhà nước là tổ chức các hoạt động nghiên cứu và
triển khai phục vụ lợi ích chung cho toàn xã hội (công ích) và thứ đến là hỗ trợ
các hoạt động NC&PT của doanh nghiệp và chỉ hỗ trợ một phần nhằm giảm bớt rủi ro
trong hoạt động NC&PT của doanh nghiệp. Về nguyên tắc, nhà nước chỉ thực hiện
các hoạt động NC&PT công nghiệp đến giai đoạn tiền canh tranh (công nghệ nguồn,
sản phẩm mẫu,…) và cho xã hội sử dụng miễn phí kết quả đó. Trong một số trường
hợp công ích khác (phục vụ chữa bệnh, môi trường, nông nghiệp, phòng chống
thiên tai, quốc phòng, an ninh,…) nhà nước có thể không dừng ở mức nghiên cứu

ra công nghệ tiền cạnh tranh mà tiến hành tạo ra công nghệ hoàn chỉnh để phục vụ
các đối tượng này.
Doanh nghiệp phải có trách nhiệm đối với những hoạt động KH&CN, đổi mới
công nghệ của mình phục vụ cho hoạt động kinh tế (tìm kiếm lợi nhuận, lợi ích
riêng) của mình. Doanh nghiệp chủ động đầu tư tiến hành các hoạt động KH&CN,
đổi mới (công nghệ) phục vụ cho bản thân doanh nghiệp. Trong quá trình này, nhà nước
chỉ hỗ trợ một phần kinh phí cho hoạt động NC&PT và các hoạt động có tính rủi ro


khác (đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ nhà nước có thể hỗ trợ cả việc nâng cao năng
lực công nghệ của doanh nghiệp bằng cách hỗ trợ đào tạo nhân lực làm công tác
NC&PT của doanh nghiệp, hỗ trợ xác định các vấn đề cần nghiên cứu của doanh
nghiệp, hỗ trợ tìm kiếm chuyên gia nước ngoài am hiểu lĩnh vực công nghệ để tư
vấn cho doanh nghiệp,…). Tại các nước phát triển, doanh nghiệp đã nhận thức được
trách nhiệm của mình và đã chú trọng đầu tư, tăng cường năng lực NC&PT của
doanh nghiệp. Các số liệu thống kê cho thấy tại các nước cho thấy mức độ đầu tư cho
NC&PT của doanh nghiệp chiếm tỷ trọng 1/2-2/3 tổng số 2%-3% GDP đầu tư của toàn
xã hội cho hoạt động này.
Như vậy, quản lý Nhà nước và cơ chế thị trường (doanh nghiệp) là hai yếu tố
chính có tính chất phối hợp (không loại trừ nhau) tạo ra sự sống động của hoạt động
NC&PT phục vụ cho phát triển kinh tế-xã hội và phát triển bền vững, đáp ứng nhu cầu
đời sống ngày càng cao và yêu cầu xã hội công bằng, văn minh. Đây cũng là sự thể hiện
mô thức "Nhà nước và Nhân dân cùng làm" và nguyên tắc "Hoạt động NC&PT theo cơ
chế thị trường, có sự quản lý Nhà nước và theo định hướng XHCN" trong lĩnh vực quản
lý KH&CN.
Rõ ràng ở đây cần có sự phân công giữa vai trò nhà nước và vai trò của doanh
nghiệp đối với hoạt động NC&PT. Nhà nước không thể nào bao cấp hết thảy các hoạt
động KH&CN trong xã hội. Nhà nước có trách nhiệm tổ chức thực hiện các nhiệm
vụ công ích, nghiên cứu phục vụ chung cho toàn xã hội, còn các doanh nghiệp có trách
nhiệm cung cấp kinh phí cho các hoạt động KH&CN tạo ra công nghệ mới, sản phẩm

mới, những sản phẩm, công nghệ theo yêu cầu thị trường.
Có thể nhận thấy, các lĩnh vực nêu trên nằm trong hoạt động KH&CN và trong
hoạt động đổi mới (công nghệ). Doanh nghiệp có trách nhiệm đầu tư cho các hoạt động
NC&PT tạo ra công nghệ cho doanh nghiệp và xúc tiến các hoạt động đổi mới (công
nghệ) của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể tiếp nhận các công nghệ công ích của nhà
nước để tiếp tục sử dụng cho mục đích nghiên cứu hoàn thiện, sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Trong quá trình hoàn thiện nghiên cứu công nghệ (sản xuất thử nghiệm,
bán công nghiệp,...) doanh nghiệp có thể nhận được hỗ trợ của của nhà nước nhằm giải
quyết các rủi ro có thể xuất hiện.
Như vậy bộ máy quản lý nhà nước phải được tổ chức cho phù hợp với trách
nhiệm tổ chức thực hiện các hoạt động KH&CN, phục vụ lợi ích chung toàn xã hội và
trách nhiệm hỗ trợ các hoạt động KH&CN của doanh nghiệp.
Một cách khái quát trong hoạt động NC&PT nhà nước chịu trách nhiệm về
NCCB, NCƯD, triển khai thực nghiệm trong các lĩnh vực KH&CN của một quốc
gia. Đối với các nghiên cứu công nghiệp nhà nước chỉ nghiên cứu đến sản phẩm tiền
cạnh tranh (sản phẩm mẫu), sau đó doanh nghiệp tiếp nhận và tiếp tục đầu tư hoàn
thiện công nghệ phục vụ mục đích của doanh nghiệp. Đối với các nghiên cứu khác
(nông nghiệp, môi trường, quốc phòng, an ninh, y tế,…) nhà nước đầu tư nghiên cứu
đến khâu hoàn thiện công nghệ và đưa vào áp dụng trong sản xuất, đời sống. Hình 4
thể hiện sự phân chia và trách nhiệm của nhà nước và của doanh nghiệp đối với hoạt


động KH&CN, đổi mới (công nghệ). Ô 1, 2 và một phần ô 3 là do nhà nước đảm trách
và đầu tư; ô 4, một phần ô 3 và phần nhỏ của ô 1,2 là do doanh nghiệp đảm trách và đầu
tư. Nguyên tắc phân công này là sự phối hợp giữa nhà nước và doanh nghiệp. Doanh
nghiệp mà yếu thì vai trò của nhà nước phải tăng cường về trách nhiệm và đầu tư của
mình và ngược lại.
Hình 4. Trách nhiệm về hoạt động KH&CN, đổi mới (công nghệ) giữa nhà nước
và thị trường (doanh nghiệp)


Nghiên cứu
cơ bản (1)

Nghiên cứu
ứng dụng
(2)

Triển khai
thực nghiệm
(3)

Thị trường, sản
xuất, đời sống (4)

Việc phân định trách nhiệm giữa nhà nước và thị trường trong công tác tổ chức và
quản lý hoạt động KH&CN, đổi mới (công nghệ) được quan niệm như trên trong
khuôn khổ đề tài để làm cơ sở cho việc xem xét cơ chế, chính sách tài chính của
Nhà nước và của doanh nghiệp đối với hoạt động KH&CN, đổi mới (công nghệ).
I.5. VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH NHÀ NƯỚC, DOANH NGHIỆP ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG KH&CN, ĐỔI MỚI (CÔNG NGHỆ)
Tài chính nói chung và tài chính của nhà nước nói riêng được coi là quan
trọng nhất trong 4 nguồn lực (tài chính, nhân lực, vật lực và thông tin) trong hoạt động
KH&CN, đổi mới công nghệ. Tại các nước có đồng tiền mạnh thì chỉ cần có tài
chính là đã có thể tuyển dụng được cán bộ, mua được thông tin và tậu được thiết bị theo
yêu cầu của hoạt động KH&CN. Nguồn tài chính do vậy thường giữ vai trò điều tiết
các nguồn lực khác. Điều này đã được chứng minh tại các nước phát triển. Có thể
điều này không đúng tại một số nước đang phát triển vì tại đây nhân lực KH&CN mới
là yếu tố hàng đầu, quan trọng nhất và vai trò của tài chính có thể xuống hàng thứ
yếu. Ở các



nước này thiếu lao động khoa học giỏi, năng lực KH&CN trong nước hoặc vấn đề
thông tin KH&CN mới là cốt yếu.
Nhìn nhận theo đầu tư cho tổ chức KH&CN triển khai các hoạt động
KH&CN, đổi mới công nghệ, ngân sách nhà nước được đầu tư theo hai nội dung
chủ yếu như sau:
1) Đầu tư phát triển, trong đó cụ thể là đầu tư hạ tầng cơ sở, nhà xưởng, phòng thí
nghiệm, trang thiết bị cho các tổ chức KH&CN do nhà nước thành lập; phối hợp đầu
tư cùng với doanh nghiệp trong hoạt động đổi mới công nghệ;
2) Đầu tư cho hoạt động thường xuyên, trong đó một số kinh phí được cấp trực
tiếp cho các tổ chức KH&CN, một số kinh phí được cấp gián tiếp thông qua tuyển
chọn của các chương trình, đề tài KH&CN của nhà nước, bộ ngành hoặc thông qua các
quỹ phát triển KH&CN, đổi mới công nghệ quốc gia. Các chương trình, quỹ này của
Nhà nước là công cụ để bẻ ghi tài chính nhà nước vào thực hiện các mục tiêu đã xác
định trong chiến lược phát triển KH&CN, đổi mới (công nghệ) của nhà nước.
1.5.1. Tài chính cho hoạt động KH&CN, đổi mới (công nghệ)
a) Tài chính nhà nước đầu tư phát triển xây dựng cơ sở vật chất cho
KH&CN, đổi mới (công nghệ)
Tài chính của nhà nước dành cho đầu tư phát triển được sử dụng cho việc xây
dựng cơ sở vất chất của hệ thống các tổ chức NC&PT, tổ chức dịch vụ KH&CN do
nhà nước thành lập. Các tổ chức này triển khai các nhiệm vụ công ích của nhà nước và
được tổ chức dưới dạng phi lợi nhuận (non-profit organizations). Các cơ sở vật chất của
các tổ chức này không chịu chế độ khấu hao như đối với cơ sở sản xuất kinh doanh. Kết
quả hoạt động của các tổ chức này được chia sẻ theo hình thức sản phẩm công ích,
nghĩa là mọi người được tiếp cận sản phẩm này miễn phí. Trong nhiều trường hợp kết
quả là công nghệ thì có thể có sự mua bán trao đổi với những người sử dụng nhưng
giá cả chỉ lấy vừa đủ bù đắp chi phí, không lấy lãi.
b) Tài chính nhà nước đầu tư cho NC&PT, KH&CN công ích
Đối với các hoạt động nghiên cứu công nghiệp tài chính nhà nước chỉ đầu tư
cho đến khâu tạo ra sảm phẩm mẫu (prototype), sau khâu đó doanh nghiệp phải tiếp tục

đầu tư tài chính để hoàn thiện công nghệ. Đây cũng thể hiện tài chính đầu tư của
nhà nước cho hoạt động chỉ đến khâu tiền cạnh tranh. Tuy nhiên đối với hoạt động
công ích trong các lĩnh vực y tế, nông nghiệp, môi trường, quốc phòng - an ninh,… tài
chính của nhà nước vẫn đầu tư cho đến khâu hoàn thiện công nghệ cuối cùng trước khi
đưa vào ứng dụng trong thực tiễn và được chuyển giao với giá rẻ (trợ giá) cho đối tượng
được hưởng lợi từ các kết quả này.
Cũng với chức năng này, tài chính nhà nước được cung cấp cho các hoạt
động thường xuyên của các tổ chức KH&CN và các cơ quan quản lý KH&CN. Đặc
biệt là cung cấp tài chính cho các chương trình, đề tài, dự án KH&CN; cho các quỹ
phát triển KH&CN, quỹ đổi mới công nghệ quốc gia.


c) Tài chính nhà nước hỗ trợ đổi mới (công nghệ) của doanh nghiệp
Chức năng của tài chính nhà nước đối với hoạt động KH&CN, đổi mới (công
nghệ) trong trường hợp hỗ trợ này là tài trợ một phần kinh phí của các dự án, đề tài
NC&PT của các doanh nghiệp. Nguyên tắc hỗ trợ tài chính ở đây là hỗ trợ phần rủi ro
có thể xảy ra trong quá trình thực hiện đề tài, dự án do doanh nghiệp thực hiện và hỗ trợ
cho phát triển nhân lực NC&PT của doanh nghiệp. Thông thường các hỗ trợ này
không vượt quá 50% kinh phí cần thiết cho thực hiện đề tài, dự án KH&CN. Hàng
năm, các nước kinh tế thị trường như các nước OECD trợ cấp cho các hoạt động sản
xuất công nghiệp chế tạo đã lên tới 50 tỷ USD.
d) Tài chính nhà nước đầu tư hoàn thiện công nghệ
Chức năng của tài chính nhà nước đầu tư hoàn thiện công nghệ là cùng đầu tư
với các doanh nghiệp để hoàn thiện công nghệ đến khâu thương mại hoá và chia lợi
từ đầu tư này. Theo cách làm này thì tài chính dành cho hoạt động KH&CN, đổi mới
(công nghệ) không còn mang tính công ích nữa mà đã mang tính kinh doanh, đầu tư
kiếm lời, làm ăn kinh tế. Hoạt động đầu tư mạo hiển của nhà nước trong hoạt động đổi
mới (công nghệ) là một hình thức đầu tư này. Một ví dụ ở Thái lan, Nhà nước thông
qua Trung tâm chuyển giao công nghệ Thái lan kết hợp với doanh nghiệp để đầu tư
tạo ra công nghệ mới.

1.5.2. Chuỗi đổi mới, người tham gia và tài chính nhà nước
Việc tiếp theo chính là phải xác định mối hài hoà giữa yếu tố thị trường và khả
năng đảm bảo tài chính của Nhà nước đối với hoạt động KH&CN và phân công trách
nhiệm trong từng hạng mục công việc KH&CN. Nhà nước có thể theo nguyên tắc: Nhà
nước chỉ đầu tư vào các hoạt động KH&CN mà các doanh nghiệp không đầu tư. Cơ
chế tài chính ở đây là ngoài phần nhà nước chủ động đầu tư vào khu vực nhà nước
quan tâm thì phần nhà nước cần có cơ chế để thu hút các doanh nghiệp đầu tư kinh phí
vào hoạt động NC&PT của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cũng phải có chiến lược sản
phẩm của mình và trong đó phải tự đầu tư cho hoạt động NC&PT của mình và cả các
hoạt động chuyển giao, đổi mới của doanh nghiệp. Nhà nước đối với doanh nghiệp là
bà đỡ và như vậy trong trường hợp này đó là nguyên tắc: “Nhà nước và nhân dân cùng
làm”.
Hình 5 mô tả về tài chính của nhà nước đối với các hoạt động và tổ chức
KH&CN tham gia hoạt động KH&CN, đổi mới (công nghệ). Theo đó, có thể nhận
thấy kinh phí từ khi nghiên cứu cơ bản đến bắt đầu sản xuất là chi phí chỉ có bỏ ra,
chưa có thu hồi. Việc thu hồi tài chính chỉ có thể có được từ bắt đầu sản xuất, bán sản
phẩm cho đến khi sản phẩm khác thay thế sản phẩn cũ do doanh nghiệp sản xuất.
Như chức năng nghiên cứu của nhà nước thì việc này cho thấy đầu tư cho KH&CN,
đổi mới công nghệ ở giai đoạn này là đầu tư không đặt vấn đề thu hồi kinh phí bỏ ra
mà lợi ích của nhà nước ở đây là tri thức về khoa học và tri thức về công nghệ (tiền
cạnh tranh, công nghệ công ích). Hình 5 cũng cho thấy, mức cao nhất kinh phí nhà
nước tập trung đầu tư cho các tổ chức KH&CN, các phòng thí nghiệm/viện nghiên
cứu quốc gia để thực hiện một số nghiên cứu cơ bản và chủ yếu là nghiên cứu tạo


×