LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết:
Thực hiện đổi mới nông nghiệp, nơng thơn cả nước nói chung, vùng
đồng bằng sơng Hồng (ĐBSH) nói riêng đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, ổn
định và liên tục. Đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế có vai trị
quan trọng của ngành nghề tiểu thủ công nghiệp (TTCN). Việc phát triển
ngành nghề TTCN không chỉ tạo thêm công ăn việc làm, tăng thu nhập cho
người lao động mà cịn góp phần tích cực vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
thực hiện cơng nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH) và góp phần xóa đói
giảm nghèo.
Theo số liệu điều tra của tổ chức quốc tế Nhật Bản (JICA) năm 2004, cả
nước có 2017 làng nghề, trong đó riêng vùng ĐBSH chiếm 43% số làng nghề
toàn quốc. Để phát triển ngành nghề nơng thơn, Chính phủ đã ban hành nhiều
chủ trương chính sách, nhất là Quyết định số 132/2000/QĐ-TTg ngày
24/11/2000 về một số chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nơng
thơn, Nghị định 66/2006/NĐ-CP ngày 7/7/2006 về phát triển ngành nghề
nông thơn. Chính vậy, ngành nghề nơng thơn, làng nghề đã có những bước
chuyển mình phát triển và đóng góp khơng nhỏ vào sự thay đổi diện mạo
nông thôn mới như: Bắc Ninh, Hà Tây, Nam Định,…Đặc biệt tỉnh Hà Tây, là
một trong số các tỉnh có nhiều làng nghề khá phát triển của vùng ĐBSH.
Ngành nghề TTCN ở Hà Tây khá đa dạng, trong đó đặc biệt là nghề mây,
tre đan. Nghề mây, tre đan được phát triển ở Hà Tây từ thế kỷ XVII, và phát
triển mạnh ở huyện Chương Mỹ, huyện Phú Xuyên và huyện Thường Tín,…
Trong quá trình phát triển, đã hình thành nhiều loại hình liên kết trong sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm mây, tre đan khá hiệu quả, góp phần tạo việc làm,
tăng thu nhập cho người lao động nông nghiệp nông thôn. Hơn nữa, ngành
Lê Thị Dinh - NN46B
1
nghề mây, tre đan cũng góp phần tích cực trong việc xóa đói giảm nghèo
trong nơng thơn nói chung, trong các làng nghề nói riêng.
Tuy nhiên, q trình phát triển nghề mây, tre đan của Hà Tây chủ yếu lao
động bằng thủ cơng là chính, năng suất lao động thấp, giá đầu vào tăng ảnh
hưởng đến hiệu quả và khă năng cạnh tranh. Cơ chế liên kết giữa các hộ và cơ
sở chủ yếu tự phát và tùy thuộc vào thị trưởng nên bấp bênh và rủi ro cao, khả
năng tiếp cận thị trường hạn chế,…Hơn nữa, từ trước đến nay đã có nhiều
nghiên cứu về thị trường và các ngành hàng nơng sản, nhưng cịn thiếu các
nghiên cứu về cơ chế liên kết tiêu thụ sản phẩm mây, tre đan.
2. Mục đích:
Từ thực tiễn trên trong q trình thực tập tốt nghiệp, mục đích của đề tài
là: hệ thống hoá cơ sở khoa học về cơ chế liên kết tiêu thụ sản phẩm mây, tre
đan xuất khẩu; đánh giá thực trạng cơ chế liên kết tiêu thụ sản phẩm mây, tre
đan xuất khẩu tỉnh Hà Tây; đề xuất một số giải pháp củng cố và nâng cao cơ
chế liên kết tiêu thụ sản phẩm.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là cơ chế liên kết giữa các tác nhân trong sản xuất
và tiêu thụ sản phẩm mây, tre đan xuất khẩu. Nghiên cứu mức độ quan hệ
chặt chẽ của cơ chế liên kết được thể hiện thông qua các cam kết và trách
nhiệm của mỗi bên thực hiện các cam kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
4. Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu tập trung chủ yếu ở hai huyện Chương Mỹ và Phú
Xuyên của tỉnh Hà Tây. Đây là hai huyện có nhiều làng nghề mây, tre đan và
đại diện cho hai vùng địa lý khác nhau của Hà Tây. Huyện Chương Mỹ đại
diện cho vùng bán sơn địa và huyện Phú Xuyên đại diện cho vùng thấp của
tỉnh Hà Tây.
Lê Thị Dinh - NN46B
2
5. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu là phương pháp thống kê,phân tích, so sánh từ
đó phân tích các mối quan hệ hợp tác, quan hệ lợi ích, phân phối lợi ích giữa
các tác nhân. Áp dụng phương pháp SWOT nhằm tìm ra những điểm mạnh,
điểm yếu, cơ hội và thách thức của cơ chế liên kết tiêu thụ sản phẩm.
6. Nội dung:
Về nội dung, đề tài chia thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về cơ chế liên kết tiêu thụ sản
phẩm. Chương này làm rõ các khái niệm về cơ chế, liên kết; nội dung và các
hình thức liên kết kinh tế; đặc điểm và vai trò của hàng mây, tre đan; các yếu
tố ảnh hưởng và kinh nghiệm thực hiện của một số nước.
Chương 2: Thực trạng cơ chế liên kết tiêu thụ sản phẩm hàng mây, tre
đan của tỉnh Hà Tây. Chương này tập trung phân tích cơ chế liên kết tiêu thụ
sản phẩm mây, tre đan của tỉnh Hà Tây thơng qua tình hình sản xuất và tiêu
thụ. Từ đó có những nhận xét về ưu điểm và tồn tại cần giải quyết.
Chương 3: Định hướng phát triển và một số giải pháp thực hiện và nâng
cao cơ chế liên kết tiêu thụ sản phẩm.
Tuy nhiên, với phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn chắc không tránh
khỏi nhiều thiếu xót, mong các thầy cơ góp ý, chỉnh sửa để hoàn thiện thêm.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện
Lê Thị Dinh
Lê Thị Dinh - NN46B
3
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CƠ CHẾ LIÊN
KẾT TIÊU THỤ SẢN PHẨM MÂY, TRE ĐAN XUẤT KHẨU.
1. Khái niệm về cơ chế và liên kết kinh tế:
1.1. Cơ chế:
Theo Từ điển tiếng Việt, cơ chế là sự sắp xếp để phối hợp các bộ phận
của một đoàn thể nhằm tạo một tác dụng chung. Hay có thể hiểu cơ chế là
cách thức hoạt động của một tập hợp các yếu tố phụ thuộc vào nhau.
Cơ chế là cách thức hoạt động của một tập hợp các yếu tố phụ thuộc vào
nhau. Các cách thức hoạt động này được đúc rút từ thực tiễn sản xuất và đời
sống mang tính khách quan, được con người nhận thức, thừa nhận và thực
hiện. Cơ chế vận hành đúng là cơ chế có sự thống nhất giữa nhân tố khách
quan và chủ quan. Ở mỗi giai đoạn khác nhau có những cơ chế điều chỉnh
khác nhau, phụ thuộc vào những điều kiện khách quan và khả năng nhận thức
chủ quan của con người.
Hơn nữa, các khái niệm cho thấy “cơ chế” được dùng với hàm ý chỉ hiện
tượng ở trạng thái động chứ không phải ở trạng thái tĩnh. Cho nên hiểu cơ chế
chỉ là các quy định quản lý là hiểu theo trạng thái tĩnh, chưa bao quát tồn
diện tính chất động của hiện tượng.
Cơ chế quản lý như một hiện tượng đang chuyển động, khơng thể khơng
nói tới con người hoạt động trong đó như là những chi tiết không thể thiếu
của bộ máy quản lý. Con người nằm trong cơ chế , tham gia vào sự vận hành
của cơ chế, bị cơ chế điều khiển, chứ khơng nằm ngồi cơ chế và điều khiển
cơ chế. Quan hệ giữa cơ chế và con người là quan hệ giữa cục bộ với tồn bộ.
Cho nên nó khơng chỉ bao gồm những quy định về cách thức vận hành mà
còn bao gồm cả con người hoạt động theo những cách thức đã được định sẵn
trong thiết kế cơ chế. Chính những hành động của tất cả chi tiết con người
như vậy đã tạo nên cơ chế như là một bộ máy quản lý đang vận hành.
Lê Thị Dinh - NN46B
4
Cần nhấn mạnh rằng cơ chế phải và chỉ có thể vận hành theo những cách
thức định sẵn, phù hợp với những quy định pháp lý do các cơ quan có thẩm
quyền ban hành, hoặc được cộng đồng thừa nhận và được mọi người tơn
trọng thực hiện, trong đó mỗi chi tiết phải đóng đúng vai trị của mình. Chỉ
cần một chi tiết hư mòn hay kém chất lượng, sự vận hành của cơ chế sẽ lập
tức trục trặc. Cho nên cơ chế tự nó có khả năng phát hiện và đòi hỏi loại trừ
những chi tiết, ở đây là những con người khơng phù hợp với nó.
1.2. Liên kết tiêu thụ sản phẩm:
Theo Từ điển Tiếng Việt, hợp tác là chung sức, trợ giúp qua lại nhau.
Còn Từ điển Kinh tế lại định nghĩa, hiệp tác, hình thức xã hội hóa lao động,
hoạt động chung của nhiều người trong cùng một quá trình lao động hoặc
trong quá trình lao động khác nhau có liên hệ với nhau.
Từ điển ngơn ngữ học (1992) cho rằng “Liên kết” là kết lại với nhau từ
nhiều thành phần hoặc tổ chức riêng rẽ.
Liên kết kinh tế là sự phối hợp của hai hay nhiều bên và trong quá trình
hoạt động, cùng mang lại lợi ích cho các bên tham gia. Trong bối cảnh tồn
cầu hóa về kinh tế hiện nay, liên kết kinh tế đang ngày càng trở thành nhu cầu
bức xúc, xuất hiện ở mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội.
Cơ sở lý thuyết về liên kết ngành là một nhóm trong cùng một khu vực
địa lý bao gồm các công ty, và các cơ quan được liên kết với nhau bởi sự
đồng thuận và tương trợ.
Như vậy, liên kết kinh tế là sự phối hợp của hai hay nhiều bên, khơng kể
quy mơ hay loại hình sở hữu. Mục tiêu của liên kết kinh tế là các bên tìm cách
bù đắp sự thiếu hụt của mình, từ sự phối hợp hoạt động với các đối tác nhằm
đem lại lợi ích cho các bên. Liên kết kinh tế có thể xuất hiện giữa các doanh
nghiệp (DN) lớn, nhỏ với nhau (cùng lớn, cùng nhỏ, hay lớn với nhỏ) mà
không phân biệt các doanh nghiệp thuộc loại hình sở hữu nào.
Lê Thị Dinh - NN46B
5
1.3. Cơ chế liên kết tiêu thụ sản phẩm tiểu thủ công nghiệp:
Hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm là q trình chuyển hóa từ
ngun liệu thơ thành các hàng hóa dịch vụ cho người tiêu dùng được coi là
các giai đoạn, các mắt xích liên hồn trong một chuỗi hàng của các hoạt động
sản xuất tổng thể.
Ngành hàng là tập hợp các tác nhân kinh tế có những chức năng nhất
định, quy tụ trực tiếp vào việc sản xuất ra những sản phẩm nhất định, được
sắp xếp theo một trật tự nhất định trong từng mạch hàng, theo những luồng
hàng với sự vận hành của luồng vật chất.
Mỗi giai đoạn, mỗi mắt xích trong chuỗi hàng (ngành hàng) được thực
hiện bởi các cá nhân, hộ, doanh nghiệp…Mỗi tác nhân có một hoặc một số
chức năng, nhưng chức năng của tác nhân đứng sau bao giờ cũng tiếp nối
chức năng của tác nhân đứng trước kề nó. Sản phẩm của tác nhân sau bao giờ
cũng tiếp nối sản phẩm của tác nhân đứng trước kề nó, hồn thiện hơn sản
phẩm của các tác nhân đứng trước, tạo nên chuỗi các sản phẩm. Giữa các tác
nhân trong từng mắt xích và giữa các mắt xích ln tồn tại những mối quan
hệ kinh tế nhất định. Khi nền kinh tế càng phát triển, sản xuất chun mơn
hóa càng sâu, thì các quan hệ kinh tế càng đan xen ràng buộc chặt chẽ, khơng
chỉ có quan hệ về lượng vật chất (đầu vào, đầu ra) mà cịn quan hệ đến cơng
tác quản lý, kiểm soát chất lượng sản phẩm.
Tiêu thụ sản phẩm là quá trình trao đổi, thương lượng, thỏa thuận giữa
bên mua và bên bán về chủng loại sản phẩm, nguyên liệu sản xuất, chất
lượng, giá cả, địa điểm, thời gian giao hàng và điều kiện thanh tốn hàng hóa.
Mục đích của tiêu thụ sản phẩm là bên bán mong muốn bán được hàng
và thu được nhiều lợi nhuận, còn bên mua mong muốn mua được hàng tốt, giá
cả phù hợp để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cuối cùng hoặc nhu cầu của các quá
trình sản xuất - kinh doanh tiếp theo. Tiêu thụ sản phẩm là quá trình gắn kết
Lê Thị Dinh - NN46B
6
giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa vùng nguyên liệu với người sản xuất chế biến
và tiêu thụ, giữa người mua và người bán.
Các thành phần chủ yếu trong tiêu thụ phẩm:
+ Hàng hóa mua bán có thể là sản phẩm trung gian làm nguyên liệu cho
quá trình sản xuất tiếp theo, cũng có thể là sản phẩm cuối cùng trực tiếp phục
vụ tiêu dùng
+ Người mua và người bán: Trong giao dịch sơ cấp, bên bán thông
thường là người sản xuất - người có hàng hóa nơng sản, hoặc đại diện của họ.
Bên mua có thể là thương nhân, nhà chế biến, nhà xuất khẩu hoặc người được
ủy thác của họ. Trong giao dịch thứ cấp, thì bên mua và bên bán rất đa dạng,
nhiều khi các đối tác trung gian tham gia vào cả bên mua và bên bán.
+ Địa điểm giao nhận hàng mua bán theo truyền thống diễn ra tại các
chợ, các đại lý và các cửa hàng bán lẻ. Ngày nay, ngồi các hình thức truyền
thống như trên, các nước trên thế giới đã hình thành các sàn giao dịch, hệ
thống phân phối hiện đại.
+ Chất lượng và giá cả: Chất lượng và giá cả hàng hóa ln quan hệ chặt
chẽ với nhau và tùy thuộc vào quan hệ cung cầu trên thị trường. Để định giá
sản phẩm, người mua và người bán có thể thỏa thuận giá sản phẩm ở ngay
thời điểm giao hàng, hoặc định giá trước còn nhận sản phẩm sau; Cũng có thể
định giá trực tiếp hoặc gián tiếp thơng qua điện thoại, internet…
+ Phương tiện thanh toán: Phương tiện thanh toán trong thương mại
được thực hiện bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản qua ngân hàng, hoặc bằng
giấy tờ có giá trị tương đương. Trong một số trường hợp cũng có thể dùng
hàng đổi hàng.
Như vậy, cơ chế liên kết tiêu thụ sản phẩm là cách thức tổ chức phân
công lao động xã hội, trong đó các hộ, doanh nghiệp phối hợp, gắn bó, phụ
Lê Thị Dinh - NN46B
7
thuộc với nhau thông qua các cam kết, các thoả thuận điều kiện về sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm nhằm đem lại lợi ích cho các bên.
Tuy nhiên, hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm tiểu thủ cơng nghiệp
sử dụng các ngun liệu từ nơng nghiệp có đặc điểm sản phẩm nông nghiệp
được sản xuất ở một nơi và theo thời vụ nhất định nhưng tiêu thụ ở nhiều nơi
và sử dụng cả năm. Do vậy cần các hoạt động vận chuyển, phân phối, bảo
quản nhằm đảm bảo cung ứng đủ số, chất lượng sản phẩm sản xuất trong năm
và giảm chi phí sản xuất.
Hiện tại, có nhiều cách phân chia cơ chế liên kết sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm.Nếu dựa theo vai trò, quan hệ kinh tế giữa các tác nhân từ sản xuất đến
tiêu dùng, người ta phân thành liên kết dọc và liên kết ngang.
- Liên kết dọc: Liên kết dọc là liên kết giữa các tác nhân ở các mắt xích
liên tiếp khác nhau trong sản xuất của một ngành hàng. Trên phạm vi rộng
hơn, liên kết dọc được điều tiết thông qua cả quá trình sản xuất và phân phối,
hơn là điều tiết mỗi một đầu vào cụ thể bất kỳ nào đối với quá trình sản xuất.
- Liên kết ngang: là mối liên kết giữa các tác nhân sản xuất như nhau ở
cùng một cấp, cùng một giai đoạn hay cùng một mắt xích của ngành hàng.
Q trình liên kết giữa cung đoạn và giữa các tác nhân trong ngành hàng
tất yếu dẫn đến hợp nhất dọc. Hợp nhất dọc là mức độ liên kết cao nhất trong
hệ thống. Trong hợp nhất dọc, các giai đoạn sản xuất hay nhiều phân đoạn thị
trường được hợp nhất làm một. Các sản phẩm được chuyển dịch từ phân đoạn
này sang phân đoạn kế tiếp được thực hiện bởi những quyết định mang tính
quản lý thay vì hoạt động thương mại theo cơ chế thị trường. Hợp nhất dọc
thực chất là sự hợp nhất các giai đoạn kế tiếp trong quá trình sản xuất và phân
phối sản phẩm, được thực hiện dưới quyền sở hữu và kiểm soát thống nhất
của một tổ chức nhất định nhằm mục đích tăng sức mạnh thương trường của
cơng ty hay thực thể đó.
Lê Thị Dinh - NN46B
8
Phối hợp dọc như là một quá trình phối hợp các giao dịch thị trường giữa
nhà cung cấp và khách hàng.
Cao
Liên kết
Liên doanh hợp nhất
Về vốn
Mức độ
Liên kết
Phụ thuộc về
Thỏa thuận
Tài chính
về kỹ thuật
Cùng thực
hiện
Phối hợp
Chiều dọc
Chiến lược
liên kết
Tách biệt
Cùng tiêu thụ
Thấp
Cao
Mức độ phụ thuộc nhau về tổ chức
Hình 1: Hợp nhất ngoài theo quan điểm tổ chức và tài chính
Phối hợp dọc bao gồm một số hoặc nhiều giao dịch trao đổi các yếu tố
đầu vào, hoặc trao đổi nguyên liệu giữa người sản xuất và người chế biến
hoặc giữa người bán buôn và người bán lẻ hoặc giữa người bán lẻ và người
tiêu dùng. Phối hợp dọc còn được định nghĩa như là một cấu trúc quản trị
được tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau.
Kinh tế học về chi phí giao dịch bắt đầu từ giả thuyết rằng các tổ chức
kinh doanh có hai đặc trưng là sự hợp lý và hành vi cơ hội. Biến số giao dịch
phù hợp nhất trong lý thuyết này là biểu hiện mối quan hệ với nhau là đầu tư.
Đầu tư cụ thể này là những đầu tư lâu dài được thực hiện nhờ sự trợ
giúp của một giao dịch đặc biệt với một đối tác thương mại đặc biệt. Mối
quan hệ đầu tư đặc biệt tránh cho nhà đầu tư đó một rủi ro khi giao dịch với
Lê Thị Dinh - NN46B
9
đối tác. Chi phí giao dịch đó có thể bằng không khi thực hiện giao dịch nằm
trong phạm vi một cơ sở kinh doanh, đây chính là sự hợp nhất theo chiều dọc.
Từ quan điểm chi phí giao dịch, yếu tố xác định là đặc trưng tài sản (đầu tư),
yếu tố này ảnh hưởng mạnh hơn các yếu tố quan trọng khác như mức độ
không chắc chắn và tần suất
Cao
Mức độ
Tần suất cao:
Không
Mất cấn đối về sức
Hợp nhất
mạnh: Hợp nhất dọc
Tần suất thấp:
Mất cân đối về
Phối hợp bằng
sức mạnh: phối hợp
HĐ hoặc chợ cóc
Hợp nhất dọc
theo Hợp đồng
chắc chắn
Chợ cóc
Chợ cóc hoặc
phối hợp theo HĐ
Thấp
Cả hai đều thấp
Hỗn hợp
Phối hợp theo
hợp đồng/hợp nhất dọc
Cả hai đều cao Lượng tài sản
Hình 2: Cấu trúc quản trị phụ thuộc vào mức độ khơng
chắc chắn và lượng tài sản
Hình trên cho thấy, khi cả hai đều có tài sản lớn thì khuyến khích họ
phối hợp bên trong. Tất nhiên, nếu độ không chắc chắn thấp, cả hai đối tác có
thể lựa chọn phối hợp dài hạn dựa trên hình thức hợp đồng. Đặc biệt tình
huống này có thể xẩy ra nếu các cơ sở kinh doanh cạnh tranh trong cấu trúc
thị trường độc quyền cạnh tranh, ở đó sự phụ thuộc nhau mang tính quyết
định và chi phí cho sự thay đổi hình thức kinh doanh cao. Nếu mức độ không
chắc chắn cao và có tài sản lớn, cách thức hợp đồng có thể gây nguy hiểm khi
mức độ phụ thuộc lẫn nhau cao. Do vậy về nguyên tắc hợp nhất dọc là cách
tốt nhất để ngăn cản những hành vi cơ hội. Tất nhiên, nếu mức độ không chắc
chắn cao và lượng tài sản thấp, thì cơ sở kinh doanh có thể lựa chọn hình thức
Lê Thị Dinh - NN46B
10
hợp đồng nếu tần suất giao dịch cao hoặc lựa chọn chợ bán lẻ phân tán (chợ
cóc) nếu tần suất thấp. Cả hai cơ sở kinh doanh sẽ có cơ hội tìm kiếm các
hình thức tiêu thụ với giá chấp nhận được.
Trong tình huống hỗn hợp, ở đó các đối tác có mối quan hệ khơng cân
xứng về tài sản, khi có sự cân xứng về sức mạnh trên thị trường thì có nhiều
kết cục xẩy ra. Nếu lượng tài sản cao ở một đối tác nhưng lại thấp ở đối tác
kia và mức độ khơng chắc chắn thấp, thì hành vi cơ hội có thể xẩy ra ở đối tác
mạnh hơn, ít nhất nếu chi phí thay đổi hình thức kinh doanh khơng q cao.
Giao dịch theo chợ cóc cũng có thể xẩy ra. Nếu cân xứng về sức mạnh giữa
các đối tác, thì họ có thể thích những quan hệ thương mại không chặt chẽ hơn,
dựa trên những trao đổi buôn bán giản đơn.
Tất nhiên, nếu lượng tài sản lớn ở một bên và bên kia thấp và mức độ
khơng chắc chắn cao, thì các đối tác có thể lựa chọn sự hợp nhất dọc. Nếu
mối quan hệ sức mạnh thị trường giữa các đối tác là không cân bằng, thì đối
tác kém sức mạnh hơn khơng mong muốn rủi ro xẩy ra khi thực hiện các hợp
đồng, trong khi đối tác mạnh hơn có thể phân xử các hợp đồng đã ký một
cách thỏa đáng.
Tuy nhiên, quá trình hợp nhất dọc dễ dẫn đến độc quyền lũng loạn thị
trường. Lợi ích trong độc quyền chủ yếu tập trung vào một nhóm người và
phương hại đến lợi ích chung toàn xã hội, đặc biệt về lâu dài sẽ hạn chế tốc độ
tăng trưởng và phát triển, bởi độc quyền dẫn tới xóa bỏ cạnh tranh – động lực
cơ bản thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
2. Nội dung và hình thức liên kết kinh tế:
Mỗi ngành hàng gồm nhiều công đoạn, được thực hiện bởi những tác
nhân nhất định. Mỗi tác nhân có thể là các pháp nhân độc lập hoặc các bộ
phận phụ thuộc nhau về mặt pháp lý nhưng đều thực hiện và hoàn thành một
số chức năng và tạo ra những sản phẩm nhất định.
Lê Thị Dinh - NN46B
11
Mối liên kết trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh giữa các tác
nhân là những pháp nhân độc lập rất đa dạng và bao gồm cả liên kết dọc và
liên kết ngang đan xen lẫn nhau.
Để xác định mức độ liên kết, người ta dựa theo độ sâu của các thoả thuận
hoặc cấu trúc tổ chức của thỏa thuận, hợp đồng. Độ sâu của thoả thuận, hợp
đồng liên quan đến mức độ và tính phức tạp của việc cung cấp tiếp cận thị
trường, cung cấp nguồn lực và công tác tổ chức quản lý sản xuất - kinh doanh.
Hình thức liên kết
- Liên kết theo chiều ngang
- Liên kết theo chiều dọc
Cơ
sở
A
Cơ chế liên kết
- Hợp đồng (có đầu tư, khơng đầu tư)
- Thoả thuận miệng (có ĐT, khơng ĐT)
- Mua bán tự do
Cơ
sở
B
Hình 3: Phân loại cơ chế liên kết tiêu thụ sản phẩm
Nội dung của cơ chế liên kết tiêu thụ sản phẩm bao gồm:
+ Sự thỏa thuận hay cam kết giữa các bên trong quá trình sản xuất - tiêu
thụ sản phẩm. Các cam kết này phải được công nhận là sự hợp tác giữa các
bên tham gia chứ không phải là quan hệ cạnh tranh hay bóc lột giữa bên này
với bên kia.
+ Cam kết phải có các điều kiện ưu đãi: Ưu đãi này phải được xây
dựng trên quan hệ cung cầu thị trường, hay nói cách khác các bên điều được
hưởng lợi từ cam kết.
+ Trách nhiệm của mỗi bên khi thực hiện các cam kết: Các bên có trách
nhiệm thực hiện đúng, đủ và nghiêm túc theo cam kết.
Đánh giá mức độ liên kết hay độ sâu của liên kết - mức độ quan hệ chặt
chẽ giữa các tác nhân trong việc tiếp cận thị trường như cung ứng nguồn lực
đầu vào, đầu ra và đặc biệt là công tác quản lý từ sản xuất đến tiêu thụ sản
Lê Thị Dinh - NN46B
12
phẩm. Các mối quan hệ liên kết này được thể hiện thơng qua các hình thức
với các nội dung cơ bản như sau:
- Mua bán tự do trên thị trường
Mua bán trên thị trường tự do là hình thức giao dịch trực tiếp giữa người
mua và người bán. Người mua thấy được số lượng, chất lượng hàng hóa mình
cần, cịn người bán sau khi thỏa thuận được giá cả sẽ bán và thu được tiền mặt
đáp ứng yêu cầu sản xuất và đời sống. Việc mua bán được thực hiện trên thị
trường theo quan hệ cung cầu. Bất kỳ bên mua hoặc bên bán hàng hóa nào,
nếu thỏa thuận được với nhau thì hoạt động giao dịch được diễn ra. Thị
trường có vai trị là người định giá.
Đặc điểm của hình thức giao dịch này, mỗi tác nhân độc lập và tự do trao
đổi hàng hóa của mình với các tác nhân khác. Giá cả được định đoạt tại mỗi
thời điểm giao dịch. Thị trường tự do phản ánh quan hệ cung cầu của thị
trường, do đó trong một số trường hợp thương mại thị trường tự do không cho
hiệu quả khi nó gây ra các khó khăn trong điều hành hoạt động của thị trường
và giữa các tác nhân. Một ví dụ đơn giản, khi thị trường khủng hoảng thiếu
ngun liệu, giá cả tăng lên có thể gây đình trệ sản xuất của xí nghiệp. Trong
trường hợp này, hiệu quả của thị trường tự do bị hạn chế và các mối liên kết
chủ động có thể giúp giải quyết các hạn chế của thị trường tự do.
Các tác nhân trao đổi với nhau trên thị trường tự do, không chỉ có các
mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau trong một ngành hàng và giữa các ngành
hàng mà cịn có quan hệ liên kết tồn tại và diễn ra khi hoạt động sản xuất của
một tác nhân phụ thuộc vào hoạt động sản xuất của một tác nhân khác. Nói
cách khác, một tác nhân có vai trị kiểm sốt thị trường và mọi kế hoạch sản
xuất, mặt hàng kinh doanh của tác nhân đó đều có mối quan hệ với kế hoạch,
chiến lược sản xuất của các tác nhân khác.
Lê Thị Dinh - NN46B
13
Những nhu cầu về sự khác biệt sản phẩm từ cấp độ sản xuất đã đặt áp
lực lên các mối quan hệ thị trường tự do và có thể dẫn tới hình thức liên kết
dạng hợp đồng giữa các giai đoạn chủ chốt trong hệ thống thị trường hoặc
hình thức hợp nhất dọc.
- Hợp đồng miệng (Thỏa thuận miệng)
Hợp đồng miệng là các thỏa thuận không được thể hiện bằng văn bản
giữa các tác nhân cam kết cùng nhau thực hiện một số hoạt động, một số cơng
việc nào đó. Hợp đồng miệng cũng được hai bên thống nhất về số lượng, chất
lượng, giá cả, thời hạn và địa điểm giao nhận hàng. Cơ sở của hợp đồng
miệng là niềm tin, độ tín nhiệm, và trách nhiệm cam kết thực hiện giữa các
tác nhân tham gia hợp đồng. Hợp đồng miệng thường được thực hiện giữa các
tác nhân có quan hệ thân thiết (họ hàng, anh em ruột thịt, bạn bè,…), hoặc
giữa các tác nhân đã có q trình hợp tác, liên kết sản xuất - kinh doanh với
nhau, và trong suốt thời gian hợp tác sản xuất - kinh doanh ln thể hiện được
nguồn lực tài chính, khả năng tổ chức và trách nhiệm giữ chữ tín với các đối
tác.
Tuy nhiên, hợp đồng miệng thường chỉ là các thoả thuận trên nguyên tắc
về số lượng, giá cả, điều kiện giao nhận hàng hóa. Hợp đồng miệng cũng có
thể có hoặc khơng có đầu tư ứng trước về tiền vốn, vật tư, cũng như các hỗ trợ
và giám sát kỹ thuật. So với hợp đồng bằng văn bản, thì hợp đồng miệng lỏng
lẻo và có tính chất pháp lý thấp hơn.
- Hợp đồng bằng văn bản (Hợp đồng)
Liên kết theo hợp đồng là quan hệ mua bán chính thức được thiết lập
giữa các tác nhân trong việc mua nguyên liệu hoặc bán sản phẩm. Hợp đồng
là “sự thoả thuận giữa nông dân và các cơ sở chế biến hoặc tiêu thụ sản phẩm
nông sản về việc tiêu thụ sản phẩm trong tương lai và thường với giá đặt
trước”.
Lê Thị Dinh - NN46B
14
Liên kết dạng hợp đồng là hình thức một cơng ty cam kết mua hàng hóa
từ một nhà sản xuất với một mức giá được xác định trước khi mua. Mối quan
hệ hợp đồng giữa nhà sản xuất và nhà chế biến chỉ sự điều chỉnh của những
văn bản thỏa thuận cá nhân mang tính pháp lý, những giao dịch này có thể là
về giá mua bán, thị trường, chất lượng và số lượng nguyên liệu đầu vào, các
dịch vụ kỹ thuật, cung cấp tài chính,....được thỏa thuận trước khi bán. Liên
kết dạng hợp đồng tạo ra sự linh hoạt trong việc chia sẽ rủi ro và quyền kiểm
soát giữa các chủ thể tham gia hợp đồng.
Cơ sở lý luận chính cho hợp đồng nơng sản là lý thuyết về “chi phí giao
dịch” trong đó quan tâm tới 3 yếu tố chính cho sự hình thành và phát triển của
hợp đồng nơng sản, cụ thể là: tính hợp lý bị giới hạn, tính cơ hội và tính cụ
thể của tài sản. Nếu khơng có sự chi phối của các yếu tố đó trong các giao
dịch thị trường thì sẽ khơng cần có hợp đồng nơng sản bởi vì các doanh
nghiệp kinh doanh nơng sản có thể mua tất cả các nguyên vật liệu trên thị
trường buôn bán trao tay để đáp ứng nhu cầu của họ một cách nhanh nhất và
hoàn hảo. Một lựa chọn khác cho việc thu mua ngun liệu là các doanh
nghiệp kinh doanh nơng nghiệp có thể tự thiết lập các đồn điền của riêng họ.
Tuy nhiên, lựa chọn này có thể lại sinh ra các chi phí giao dịch khác như chi
phí giám sát, rủi ro của các mùa vụ, chi phí mua/thu đất và tập huấn kỹ thuật.
Vì thế, hợp đồng nơng sản chỉ cần thiết nếu nó tạo ra chi phí giao dịch thấp
hơn so với các lựa chọn khác.
Dựa trên tính tồn diện của các điều khoản hợp đồng, người ta chia làm
2 loại hợp đồng hợp đồng đầy đủ và hợp đồng khơng đầy đủ. Hợp đồng đầy
đủ là hình thức liên kết cao hơn, trong đó tất cả các nội dung của giao dịch
được ghi trong hợp đồng. Tuy nhiên, hợp đồng không đầy đủ cho phép các
bên giải quyết các vấn đề của giao dịch mà họ không chắc chắn khi ký hợp
Lê Thị Dinh - NN46B
15
đồng. Cũng do hợp đồng khơng đầy đủ nên tính ràng buộc, tính cam kết của
loại hợp đồng này khơng cao.
Cũng có thể dựa trên quan hệ hợp đồng theo chuỗi giá trị, có thể chia
hợp đồng làm 2 loại: Hợp đồng sản xuất và hợp đồng tiêu thụ. Hai dạng hợp
đồng này khác nhau ở trách nhiệm quản lý, sở hữu sản phẩm và cung cấp yếu
tố đầu vào. Trong mỗi kiểu hợp đồng này, có một loạt các điều khoản như
việc định giá, dự trữ, vận chuyển và xác định chất lượng.
- Hiệp hội với liên kết tiêu thụ sản phẩm
Trong quá trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế, mối quan hệ
giữa các hộ, cơ sở và doanh nghiệp sản xuất kinh doanh là sự đan xen giữa
hợp tác và cạnh tranh. Các đơn vị này một mặt liên kết với nhau để cùng phát
triển, nhưng mặt khác cũng cạnh tranh lẫn nhau nhằm tạo ra những ưu thế độc
chiếm thị trường và thu nhiều lợi nhuận.
Để điều chỉnh các mối quan hệ nhằm bảo vệ lợi ích giữa các tác nhân
trước các đối tác khác, một số tác nhân đã liên kết với nhau hình thành các
hiệp hội.
Hiệp hội là một loại hình liên kết, hợp tác mang tính cộng đồng hỗ trợ
phát triển và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các cơ sở, đồng thời là cầu nối
giữa các cơ quan chính quyền với cơ sở. Hiệp hội với những lợi thế trong tổ
chức liên kết, hợp tác và sự kết nối các hoạt động sẽ giảm được chi phí, tiết
kiệm nguồn lực, tạo năng lực nội sinh mới trên nhiều phương diện: về thời
gian, khoảng cách, chi phí, tốc độ và tính ổn định cho các giao dịch trên thị
trườngv.v…Qua đó, qui mô và không gian kinh tế của các doanh nghiệp được
mở rộng và có nhiều cơ hội tiếp cận với các nguồn lực và thị trường. Trên thế
giới, tiếng nói của hiệp hội có sức mạnh và quyền lực rất lớn mà ngay cả
Chính phủ cũng khơng thể làm thay. Sự phát triển hiệp hội là yêu cầu tất yếu
Lê Thị Dinh - NN46B
16
của một nền kinh tế thị trường hiện đại trong thể chế phát triển kinh tế - xã
hội hiện nay.
Thành viên của các Hiệp hội có thể là các doanh nghiệp và một số tổ
chức kinh tế - kỹ thuật khác cùng chung lợi ích, hợp tác bảo vệ quyền lợi
chung và phát triển. Hơn nữa, Hiệp hội là một tổ chức mà sự tham gia của các
thành viên không mang tính áp đặt, bắt buộc mà hồn tồn mang tính tự
nguyện nhằm thoả mãn một số nhu cầu, lợi ích nào đó của các thành viên.
Trong số các nhu cầu, lợi ích đó nhiều khi khơng phải chỉ đơn thuần về mặt
kinh tế mà còn các nhu cầu khác, rất đa dạng và phong phú.
Tuy có liên hệ mật thiết với chính quyền, nhưng Hiệp hội bảo vệ quyền
lợi chính đáng cho doanh nghiệp, từng nhóm doanh nghiệp để góp phần xây
dựng mơi trường kinh doanh lành mạnh và giải quyết kịp thời những mâu
thuẫn nảy sinh, tạo nên lòng tin của khách hàng, của giới doanh nghiệp đối
với mơi trường kinh doanh, bảo vệ lợi ích chính đáng của doanh nghiệp.
Hiệp hội, với đội ngũ cán bộ, chuyên gia và cộng tác viên có khả năng,
đẩy mạnh tư vấn, hướng dẫn cho doanh nghiệp khai thác các cơ hội kinh
doanh, thiết lập các quan hệ bạn hàng, nâng cao năng lực quản lý, giải quyết
các tranh chấp phát sinh; hỗ trợ doanh nghiệp trong việc quảng bá, giới thiệu
doanh nghiệp và sản phẩm tới khách hàng; tổ chức đào tạo cán bộ cho doanh
nghiệp, góp phần xây dựng đội ngũ doanh nhân; hỗ trợ các doanh nghiệp
trong việc phịng tránh và giải quyết có hiệu quả các tranh chấp phát sinh
trong kinh doanh, tư vấn và hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc thực hiện bảo
hộ sở hữu thương hiệu, kiểu dáng công nghiệp và sáng chế của mình.
Thơng qua các hoạt động hỗ trợ, các hiệp hội có thể tăng cường chức
năng chung của thị trường với việc thúc đẩy cung cấp hàng hố cơng thiết yếu
đang có mặt trong một số doanh nghiệp và cần thiết cho sự vận hành của nền
Lê Thị Dinh - NN46B
17
kinh tế. Có hai loại hàng hố - quyền sở hữu tài sản và hành chính cơng được nhà nước cung cấp, vì vậy những đóng góp của hiệp hội sẽ mang tính
gián tiếp theo yêu cầu của nhà nước. Loại hàng hố thứ ba, cơ sở hạ tầng, có
thể được cung cấp thông qua các hoạt động trực tiếp của hiệp hội cũng như áp
lực gián tiếp của các cơ quan nhà nước.
Các hoạt động hỗ trợ thị trường được nhiều hiệp hội doanh nghiệp thực
hiện nhằm khắc phục một số khiếm khuyết của thị trường như tăng cường các
hoạt động phối hợp giữa các doanh nghiệp qua đó dung hoà các mối quan hệ
trong sản xuất và ra quyết định đầu tư.
3. Đặc điểm của hàng mây tre đan:
Hàng mây tre là mặt hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống của dân tộc,
được tạo nên chủ yếu từ những nguyên liệu tự nhiên qua đôi bàn tay khéo léo
của con người. Đó là mặt hàng tinh tế và có thẩm mỹ cao, là kết tinh các đặc
điểm văn hố của các làng nghề tạo nên tính độc đáo khác hẳn với các sản
phẩm công nghiệp được sản xuất hàng loạt bằng máy móc.
Sản phẩm mây, tre đan thường gắn với các làng nghề truyền thống,
nguyên liệu làm ra sản phẩm rất phong phú: tre, trúc, cói, mây… chủ yếu là
có sẵn trong nước, trị giá phục liệu nhập khẩu thường chiếm từ 3-5% trong
giá thành sản phẩm, nhiều loại không đáng kể.
Sản phẩm mây, tre đan phần lớn được sử dụng làm hàng trang trí trong
gia đình, nhà hàng, khách sạn…nên mẫu mã, kiểu dáng đóng vai trị quan
trọng và thường xuyên được cải tiến. Sử dụng hàng mây, tre đan vừa tạo sự
thân thiện với môi trường vừa có vẻ đẹp nhẹ nhàng, trang nhã.
Sản phẩm được làm từ nguyên liệu tự nhiên nên chịu ảnh hưởng lớn của
thời tiết khí hậu. Sản phẩm chóng bị hỏng nếu khâu xử lý nguyên liệu không
tốt và cách bảo quản không cẩn thận. Thời gian sử dụng sản phẩm này cũng
không dài như các sản phẩm công nghiệp làm từ những vật liệu khác.
Lê Thị Dinh - NN46B
18
4. Vai trò của liên kết trong sản xuất – tiêu thụ sản phẩm mây, tre đan
xuất khẩu:
- Liên kết kinh tế giúp doanh nghiệp khắc phục những bất lợi về quy mô
Trong hoạt động sản xuất - kinh doanh, mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh
(Hộ, HTX, Doanh nghiệp) đều thực hiện một chuỗi các hoạt động từ cung
cấp, dịch vụ đầu vào và đầu ra; Mỗi cung đoạn lại có những đầu vào khác
nhau, quy trình cơng nghệ khác nhau và mang tính đặc thù; Hơn nữa để sản
xuất một loại sản phẩm đầu ra nào đó lại yêu cầu những chủng loại vật tư,
nguyên liệu đầu vào khác nhau mà bản thân đơn vị sản xuất (Hộ, HTX, doanh
nghiệp) không tự sản xuất ra tất cả, mà đó là kết quả của q trình phân cơng
lao động, liên kết hợp tác của hai hay nhiều bên nhằm phát huy lợi thế so
sánh, giảm chi phí sản xuất và chủ động, ổn định sản xuất - kinh doanh.
Trong một chuỗi các hoạt động sản xuất kinh doanh mỗi hộ, cơ sở đều có
một hoặc một số lĩnh vực hoạt động chủ đạo, mang tính đặc thù, chuyên biệt.
Bên cạnh những hoạt động chính, cịn một loạt các hoạt động phụ, mà bản
thân cơ sở không thể thực hiện được, nhưng nó lại khơng thể thiếu đối với cả
chuỗi dây chuyền sản xuất chính. Ví dụ, trong sản xuất hàng mây tre đan,
người ta sử dụng các nguyên liệu sản xuất chính là tre, mây, song,…các
nguyên liệu này nằm ở nhiều vùng miền khác nhau do nhiều chủ thể khác
nhau đang quản lý sử dụng. Sau đó, người ta khai thác, sơ chế, vận chuyển
đến các làng nghề. Tại các làng nghề để tạo ra 1 sản phẩm hoàn chính, ngồi
sử dụng ngun liệu chính là tre, song mây, guột, còn sử dụng thêm một số
nguyên liệu khác như gỗ, sứ, vải, và các hóa chất khác như lưu huỳnh, keo,
sơn,… để đảm bảo mỹ thuật và tính bền vững của sản phẩm. Tất cả những sản
phẩm này là kết quả hoạt động của nhiều lĩnh vực, nhiều chủ thể khác nhau
mà mỗi hộ, doanh nghiệp khó có thể đảm nhận hết. Hơn nữa nếu có làm được
thì ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm. Chính vì vậy các liên kết giúp các hộ,
Lê Thị Dinh - NN46B
19
doanh nghiệp khắc phục những hạn chế về qui mô và lĩnh vực hoạt động theo
hướng hiệu quả hơn.
- Liên kết kinh tế giúp doanh nghiệp phản ứng nhanh với những thay đổi
của thị trường.
Như trên đã nói, liên kết kinh tế giúp doanh nghiệp khắc phục được
những hạn chế về quy mơ, thì ở một khía cạnh khác, liên kết kinh tế còn giúp
cho doanh nghiệp phản ứng nhanh với những thay đổi của thị trường.
+ Nhu cầu của thị trường là ln thay đổi, điều đó buộc các doanh
nghiệp vừa phải luôn thay đổi mẫu mã của các sản phẩm hiện có, vừa phải
tìm cách đa dạng hố sản phẩm. Để có được những thay đổi phù hợp với nhu
cầu của thị trường, doanh nghiệp cần phải có thơng tin và có đủ khả năng
triển khai nhanh các phương án sản xuất mới. Chính sự liên kết kinh tế sẽ
giúp cho doanh nghiệp đạt được điều đó.
+ Liên kết kinh tế giúp cho các doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm của
mình được nhanh hơn, thể hiện thơng qua sự liên kết của hệ thống các nhà
thương mại với các nhà sản xuất, thơng qua hình thức đại lý bán hàng. Hình
thức liên kết này, các cửa hàng kinh doanh sẽ nhận làm đại lý bán buôn hay
bán lẻ sản phẩm cho doanh nghiệp sản xuất. Và nhờ đó, sản phẩm của doanh
nghiệp sẽ được đưa vào thị trường một cách nhanh chóng hơn, kịp thời hơn.
+ Liên kết kinh tế cịn giúp cho các doanh nghiệp có thể tiếp cận nhanh
chóng với các cơng nghệ và kỹ thuật mới, nhờ sự phối hợp với các nhà nghiên
cứu ở các trường đại học hay cơ sở nghiên cứu trong và ngoài nước.
Ngược lại, sự thay đổi của thị trường cũng thúc đẩy liên kết kinh tế.
Trong thực tế, khi những thay đổi của thị trường vượt ra ngoài khả năng đáp
ứng của doanh nghiệp, buộc các doanh nghiệp phải tìm cách liên kết với các
đối tác khác để tìm kiếm sự hỗ trợ về vốn và công nghệ, kể cả việc tiến hành
Lê Thị Dinh - NN46B
20
đặt gia cơng sản xuất ở bên ngồi những phụ kiện phục vụ cho sản phẩm
chính của mình, như đã nói ở trên.
- Liên kết kinh tế giúp doanh nghiệp giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh.
Phát triển sản xuất là một q trình vận động khơng ngừng, tích tụ tập
trung rồi lại chia tách, sáp nhập để đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội và
phù hợp với khả năng nội tại của doanh nghiệp nhằm mục đích tìm kiếm lợi
nhuận cao nhất, mà lại giảm thiểu được rủi ro. Q trình đó diễn ra thực chất
là thơng qua các hoạt động liên kết kinh tế.
Đứng trước một cơ hội sản xuất lớn, nhiều khi vượt quá khả năng sản
xuất của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp bỏ sẽ mất cơ hội làm ăn, nhưng nếu
doanh nghiệp đơn độc một mình triển khai thực hiện dự án dẫn đến hiệu quả
thấp, thậm chí thua lỗ. Để tránh được hiện tượng này, nhiều doanh nghiệp đã
biết phân tán rủi ro bằng cách mời gọi các doanh nghiệp khác cùng tham gia
thực hiện dự án, mỗi doanh nghiệp đảm nhận một phần công việc, tuỳ theo
năng lực của từng doanh nghiệp. Như vậy, mỗi DN tham gia dự án chỉ phải
chịu một phần rủi ro nếu có.
Mặt khác, hai doanh nghiệp, trước đây là đối thủ của nhau, cạnh tranh
nhau trên cùng một loại sản phẩm, trong cùng một thị trường đến nay, để
giảm thiểu rủi ro do cạnh tranh, họ liên kết lại, cùng thoả hiệp để phân chia thị
trường, kể cả việc sáp nhập để tạo nên độc quyền.
Như vậy Nhà nước cần khuyến khích các cơ sở sản xuất đầu tư mở rộng
sản xuất kinh doanh, hợp tác sản xuất kinh doanh nhằm đạt hiệu kinh tế cao và
phục vụ nhu cầu đa dạng của xã hội nhưng mặt khác, Nhà nước cũng cần có giải
pháp chính sách quản lý vĩ mô nhằm hạn chế độc quyền dẫn đến lũng đoạn thị
trường và lũng đoạn nền kinh tế, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất đời sống
của dân cư.
Lê Thị Dinh - NN46B
21
5. Các yếu tố ảnh hưởng đến cơ chế liên kết tiêu thụ sản phẩm:
Các yếu tố tác động đến cơ chế liên kết tiêu thụ sản phẩm mây, tre đan
của hộ, cơ sở như sau:
Yếu tố bên trong
- Nguồn nhân lực
(Trình độ văn hóa,
chun mơn kỹ
thuật,…)
- Khả năng tài
chính
- Qui mô sản xuất
- Thương hiệu
- Khả năng
marketing và hệ
thống tiêu thụ sản
phẩm
- Kỹ thuật và cơng
nghệ
Yếu tố bên ngồi
- Cơ sở hạ tầng (giao
thông, thông tin,…)
- Mức độ tập trung
sản xuất (Làng nghề)
- Mơi trường pháp lý
- Chính sách tài
chính, thương mại
- Mức độ phát triển
và hiệu quả hoạt
động của Hiệp hội
Cơ chế liên kết
Hình 4: Các yếu tố tác động đến việc xuất khẩu sản phẩm mây, tre đan
Các nhân tố tác động đến việc xuất khẩu tiêu thụ sản phẩm mây, tre đan
của hộ, cơ sở như sau:
Nhân tố ảnh hưởng bên trong
- Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm mây, tre đan
Trước tiên, để có một sản phẩm mây, che đan có chất lượng cao thì cần
có nguồn ngun liệu chất lượng tốt, đồng đều,…. Muốn như vậy, việc tròng
sản phẩm mây tre đan cần đúng yêu cầu kỹ thuật, có giống tốt, sau này cho
sản phẩm đồng đều, cây đẹp.
Một mặt, để nâng cao năng suất sản phẩm mây tre đan thì hộ trồng, sản
xuất cung cấp nguồn nguyên liệu, cần phải đầu tư và kỹ thuật chăm sóc cây
và đặc biệt là công tác thâm canh nâng cao năng suất. Đồng thời, phải tuyển
chọn và phát triển những giống mây, tre mới có chất lượng cao.
Lê Thị Dinh - NN46B
22
Ngồi nhân tố đó thì cịn có khâu chế biến và bảo quản cũng ảnh hưởng
đến chất lượng sản phẩm mây, tre đan xuất khẩu. Đó là hai khâu quan trọng
nhất vì qua quá trình chế biến thì giá trị của sản phẩm mây, tre đan tăng lên
rất nhiều lần đồng thời với đó là phải yêu cầu giữ được phẩm chất của từng
loại sản phẩm. Chính khâu chế biến quyết định đến các loại sản phẩm mây tre
đan hộ sản xuất ra, quyết định độ, bóng, màu sắc, độ bền của sản phẩm.
- Trình độ và tay nghê kỹ thuật của hộ trong sản xuất các sản phẩm mây,
tre đan
Đây chính là yếu tố quan trọng nhất làm nên một sản phẩm mây, tre đan
có sức thu hút khách hàng và chất lượng tốt. Và yếu tố này được tạo nên từ kỹ
nghê, tay nghề truyền qua các đời trong gia đình của hộ, phần nhiều là do quá
trình học hỏi, đào tạo. Điều này quyết định đến sự đa dạng của các sản phẩm
mây, tre đan, trình độ tinh sảo của từng sản phẩm,..
- Mức độ và quy mô sản xuất tập trung của địa phương và thường gắn
với sự phát triển của các làng nghề
Chính điều này ảnh hưởng đến việc tập trung nguồn nguyên liệu, tập
hợp sản phẩm mây, tre đan sản xuất ra để xuất khẩu. Nếu mức độ sản xuất tập
trung cao của hộ, địa phương sẽ góp phần giảm chi phí tập trung, giảm bớt
được khâu trung gian, do đó lợi ích của hộ đạt được sẽ cao hơn. Đồng thời
góp phần hình thành làng nghề sản xuất mây, tre đan truyền thống tại địa
phương.
- Thị trường tiêu thụ và nhu cầu sản phẩm mây, tre đan xuất khẩu
Thị trường tiêu thụ là nơi kết thúc vịng tuần hồn khép kín từ việc sản
xuất đến lưu thông. Khi nền kinh tế ngày càng phát triển, hàng hố rất nhiều
khơng chỉ trong mà cịn ngồi nước và chính vì thế người tiêu dùng có rất
nhiều cơ hội để lựa chọn. Để sản phẩm mây, tre đan được lựa chọn và có
nhiều thị trường tiêu thụ thì phải có sản phẩm chất lượng tơt, mẫu mã đa
Lê Thị Dinh - NN46B
23
dạng, bền, và sản phẩm phải có sự hấp dẫn, tạo ra ấn tượng đầu tiên đối với
khách hàng cùng với chiến lược kinh doanh có hiệu quả. Từ đó vừa giữ được
thị trường mà có thể mở rộng thị trường khác nữa ngày càng tăng được sức
cạnh tranh của sản phẩm mây, tre đan nước mình.
Năng lực cạnh tranh của quốc gia
Xét về mặt kinh tế thì tiêu chí này có liên quan trực tiếp đến thu hút đầu tư
của nước ngoài cho phát triển. Theo các nhà kinh tế thế giới để xem xét sức
cạnh tranh của một quốc gia có 5 tiêu chí đó là: ổn định kinh tế-chính trị, hiệu
lực bộ máy hành chính quốc gia, kết cấu hạ tầng, lực lượng lao động, tình
trạng tham nhũng. Muốn nâng cao sức cạnh tranh của quốc gia thì phải phát
triển hồn thiện 5 tiêu chí đó.
Xem xét một cách tồn diện thì năng lực cạnh tranh của quốc gia có ảnh
hưởng rất lớn đến sức cạnh tranh của các doanh nghiệp. Khi sức cạnh tranh
yếu thì nó sẽ cản trở và không hỗ trợ và nâng cao sức cạnh tranh cho hàng
hoá. Theo tổ chức diễn đàn thế giới thì Việt Nam xếp hạng 81/117 nền kinh tế
có chỉ số cạnh tranh tồn cầu năm 2005, hạng 80 về cạnh tranh kinh doanh,
hạng 92 về năng lực hoạt động của các cơ quan công quyền.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp xuất khẩu
Vấn đề này nó được xem xét qua sự tăng doanh số nhưng quan trọng hơn
là xem xét thị phần chiếm lĩnh. Như vậy nếu doanh nghiệp có sức cạnh tranh
sẽ tạo được chỗ đứng cho hàng hố của mình. Đối với các doanh nghiệp mà
đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu thì điều đó có ý nghĩa cực kỳ quan
trọng.
Trong sản xuất kinh doanh có một qui luật quan trọng nếu nhà doanh
nghiệp nào nhận ra và ứng dụng được thì sẽ gặt hái được nhiều thành cơng.
Qui luật đó địi hỏi: nơi nào đơng nhà kinh doanh thì phải tìm đến thị trường
mới cịn trống vắng để kinh doanh “vắng thì tìm đến, đơng thì tránh xa”. Điều
Lê Thị Dinh - NN46B
24
đó minh chứng là các hãng nổi tiếng là các hãng nổi tiếng trên thế giới đều đã
mở rộng đến các nước, Châu Á, Châu Âu, Phi, Mỹ, tìm kiếm những thị
trường cịn ít đối thủ cạnh tranh hoặc cịn trống chưa ai đến, chưa ai dám đến.
Nếu như các doanh nghiệp có hàng hố chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, đạt
tiêu chuẩn an tồn, sản xuất với chi phí thấp hạ giá thành ngoài ra xây dựng,
quảng bá được thương hiệu… khi đó sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh cho hàng hố
của mình đồng thời mở rộng được thị trường xuất khẩu, tạo sự ổn định cho
hàng hoá của doanh nghiệp mình.
- Năng lực cạnh tranh của chính sản phẩm mây, tre đan xuất khẩu
Đây là yếu tố có tính chất quyết định và ảnh hưởng trực tiếp tới sự tồn
tại cũng như chỗ đứng của hàng hoá đó trên thị trường trong khi yêu cầu của
con người ngày càng cao cùng với cạnh tranh gay gắt trên thị trường. Các yếu
tố chất lượng, giá cả, phân phối có ý nghĩa quyết định đối với sức cạnh tranh
của hàng hố. Nếu một mặt hàng vừa có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, giá cả
hợp lý và hàng hoá có sự phong phú sản phẩm cao cùng với đó là quảng cáo
độc đáo thị có sức hấp dẫn thu hút được nhiều khách hàng. Đặc biệt, khi nước
ta đã gia nhập WTO thì vấn đề đó càng trở nên quan trọng nếu muốn tăng sức
cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp mình. Do đó, phải nâng cao chất
lượng, chủng loại đa dạng, sử dụng công nghệ hiện đại để tăng hiệu quả bán
hàng đồng thời tránh được sự ép giá. Cuộc phấn đấu để nâng cao sức cạnh
tranh của hàng hoá, của doanh nghiệp và của cả nền kinh tế quốc gia là vấn đề
rất lớn, vấn đề sống cịn khi hội nhập kinh tế khơng chỉ của Việt Nam mà của
toàn thế giới.
Nhân tố ảnh hưởng bên ngồi
- Chính sách thương mại của chính phủ đối với xuất khẩu nơng sản
Với những chính sách như cắt giảm, miễn thuế xuất khẩu hàng nông sản,
mở rộng từng bước, tiến tới tự do hoá đối tượng xuất khẩu, giảm dần rồi xoá
Lê Thị Dinh - NN46B
25