Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Kinh nghiệm và đề xuất đổi mới cơ chế tài chính cho hoạt động KHCN trong doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.46 KB, 11 trang )

BÁO CÁO
Kinh nghiệm và đề xuất đổi mới cơ chế tài chính cho hoạt động KHCN trong
doanh nghiệp
Vấn đề nghiên cứu phát triển (R&D) là một hoạt động có tác dụng trực tiếp đến
tốc độ tăng trường và sự phát triển bền vững của các doanh nghiệp. Các tập đoàn lớn
của thế giới chi phí R&D hàng năm tới 7-15% doanh thu. Ở Việt Nam, Chính phủ
khuyến khích doanh nghiệp (DN) đầu tư cho R&D, tuy nhiên do kinh phí còn hạn
hẹp, cơ chế không đổi mới nên hiệu quả R&D còn thấp. Bài viết này đề cập đến một
số vấn đề về cơ chế quản lý tài chính phục vụ cho chức năng R&D với mong muốn
góp tiếng nói cùng các nhà quản lý trong các tập đoàn đặc biệt là các tập đoàn viễn
thông mới ra đời ở Việt Nam.
1. Cơ chế quản lý tài chính của tập đoàn kinh tế
* Cơ chế quản lý tài chính:
Quản lý tài chính là sự tác động của nhà quản lý tới các hoạt động tài chính của
DN. Nó được thực hiện thông qua một cơ chế. Đó là cơ chế quản lý tài chính DN. Cơ
chế quản lý tài chính DN được hiểu là một tổng thể các phương pháp, các hình thức
và công cụ được vận dụng để quản lý các hoạt động tài chính của DN trong những
điều kiện cụ thể nhằm đạt được những mục tiêu nhất định.
Nội dung chủ yếu của cơ chế quản lý tài chính DN bao gồm: cơ chế quản lý tài
sản; cơ chế huy động vốn; cơ chế quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận; cơ chế kiểm
soát tài chính của DN.
* Cơ chế quản lý tài chính của tập đoàn kinh tế:
Sự tạo thành các chức năng cơ bản của tập đoàn kinh tế là do bản thuân cấu tạo
tập đoàn, gồm 3 thành phần: công ty mẹ - tập đoàn, các công ty con, các công ty liên
kết. Khi triển khai bình diện các công ty con và các công ty liên kết, tập đoàn thực
hiện quá trình sản xuất (chức năng sản xuất kinh doanh – SXKD). Khi triển khai trên
bình diện công ty mẹ, tập đoàn thực hiện hợp lực tài chính (chức năng điều hành tài
chính) giữa công ty giữa công ty mẹ và các công ty con, các công ty liên kết và đồng
thời công ty mẹ đảm nhận ngành nghề kinh doanh chính của tập đoàn. Do đó nội dung
cơ chế quản lý tài chính của tập đoàn cùng lúc phải cụ thể hoá và thể hiện được các
đặc điểm kinh tế ngành, vừa không những phải bao hàm đầy đủ những nội dung của


cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp nói chung mà còn phải có những cơ chế tài
chính cho những chức năng mà công ty mẹ đảm nhận. Như vậy, ngoài những nội dung
cơ bản trong cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp thì cơ chế quản lý tài chính của
tập đoàn kinh tế sẽ có thêm một số nội dung sau đây:

1


* Cơ chế tài chính cho chức năng đầu tư vốn của công ty mẹ, gồm có: định giá
công ty con trong tập đoàn khi quyết định huy động vốn và định giá cổ phiếu của một
công ty niêm yết để quyết định đầu tư.
* Cơ chế tài chính cho chức năng R&D.
* Cơ chế tài chính phục vụ các giải pháp khi sáp nhập, hợp nhất DN.
* Cơ chế kiểm soát của công ty mẹ tập đoàn đối với các công ty con và các
công ty liên kết.
2. Vai trò của cơ chế quản lý tài chính đối với chức năng R&D của tập đoàn
DN
* Chức năng R&D của các tập đoàn kinh tế
Hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ là một chức năng
không thể thiếu của các tập đoàn kinh tế. Quy luật cạnh tranh đã khiến cho chức R&D
của các tập đoàn kinh tế ngày càng tập trung hơn và trở thành vũ khí cạnh tranh, quyết
định tương lai của tập đoàn. Đặc biệt, khi khoa học và công nghệ trở thành hàng hoá
có sức cạnh tranh hơn cả vốn thì từ chỗ R&D là lĩnh vực bên ngoài sản xuất, là hoạt
động của các nhà khoa học và các viện nghiên cứu do Nhà nước quản lý và cung cấp
tài chính, thì nay khoa học và công nghệ được nội bộ hoá trong các tập đoàn kinh tế tõ
đã làm xuất hiện các Viện R&D trong các Tập đoàn. Hoạt động nghiên R&D gắn kết
chặt chẽ với hoạt động của tập đoàn kinh tế, khắc phục các điểm yếu trong quản lý,
công nghệ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của bản thân tập đoàn, đồng thời phát hiện ra
các điểm mạnh của đối thủ trên thương trường để tìm ra giải pháp nhằm cạnh tranh
thắng lợi. Có thể nói, tập đoàn kinh tế tự đảm nhận chức năng R&D là một bằng

chứng về tiến bộ trong phân công xã hội hiện nay và cho đến nay, nhiều nhà kinh tế
nhận định rằng, tập đoàn kinh tế là lực lượng chính để thực hiện cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ trong thế kỷ XXI.
* Cơ chế tài chính cho R&D của tập đoàn kinh tế
- Đánh giá đúng vai trò của HK&CN trong SXKD: trong chiến lược phát triển
của mình, các tập đoàn kinh tế lớn luôn đặt vấn đề công nghệ lên hàng đầu. Đi đầu
trong công nghệ cũng có nghĩa là tiến trước đối thủ cạnh tranh và chiếm lĩnh thị
trường, mang lại cho tập đoàn sức mạnh cạnh tranh và lợi nhuận độc quyền cao, vì
vậy họ có đánh giá đúng mức các nhà khoa học, vai trò của hoạt động khoa học công
nghệ trong sản xuất kinh doanh, từ đó chú trọng vào vấn đề tuyển chọn, đào tạo nguồn
nhân lực để có thể đảm đương được những nhiệm vụ nghiên cứu khoa học.
- Chi phí cho công tác R&D: ngày nay, tài sản quan trọng nhất của một DN là
công nghệ. Công nghệ bao gồm bằng phát minh sáng chế, bản quyền, sản phẩm hoặc
dịch vụ độc quyền hay là các phương pháp xử lý sản xuất đặc biệt, nó được hình
thành từ các chi phí cho đầu tư R&D. Quyết định đầu tư cho R&D là một quyết định
khó khăn, đòi hỏi sự chuẩn bị kỹ càng về kinh phí, nguồn nhân lực, xu hướng phát
triển công nghệ trong lĩnh vực mà tập đoàn quan tâm. Nhiều khoản đầu tư cho R&D
2


trong lĩnh vực viễn thông và công nghệ thông tin (CNTT) như đầu tư sản xuất máy
tính, phần mềm hệ thống, chi phí đào tạo, công nghệ viễn thông... thường chi mất
hàng trăm triệu đô la hàng năm và một dự án đầu tư nghiên cứu loại này trong nhiều
năm có thể lên tới chi phí hàng tỷ đô la nhưng phần lớn những chi phí này sẽ chi cho
các khoản không có hình thái vật chất như: thiết kế hệ thống, thí nghiệm, chạy thử,
đào tạo nâng cao trình độ. Đánh giá hiệu quả những dự án R&D, xem xét sự vận động
của luồng tiền trong những dự án này quả thật là khó khăn và chưa thể xác định được
hiệu quả nếu dự án chưa đạt được kết quả ứng dụng trên thị trường thương mại. Với
tính phức tạp như trên, những chi phí này không thực hiện bằng phương pháp lập kế
hoạch tài chính thông thường theo những định mức và đơn giá phổ thông hiện nay mà

được quyết định theo phương pháp đặt hàng: tập đoàn dành ngân sách để đặt hàng cho
các viện, các trung tâm R&D thực hiện. Khó khăn lớn nhất lúc này sẽ là vấn đề thẩm
quyền và trách nhiệm quyết định đầu tư. Ở những tập đoàn lớn, các dự án này đều
phải được các cấp cao nhất như Tổng Giám đốc, Hội đồng quản trị quyết định với sự
tham gia của các chuyên gia cao cấp; một số trường hợp còn phải xin ý kiến của Đại
hội đồng cổ đông - những người chủ sở hữu đích thực của Tập đoàn và gắn liền quyền
lợi và trách nhiệm của họ đến sự thành bại của dự án.
- Để hoạt động R&D hiệu quả, các tập đoàn luôn tập trung vào hai vấn đề cần
nghiên cứu. Một là, khái niệm “đổi mới” để đạt được tối ưu các hoạt động từ mua
nguyên vật liệu, sản xuất chế tạo, bán hàng, đến các vấn đề kỹ thuật và cải tiến sản
phẩm nhằm thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Kết quả của quá trình này sẽ dẫn đến
nhiều thay đổi: Từ mô hình tổ chức, kỹ thuật sản xuất, cách thức bán hàng, đến việc
phải tái cơ cấu công ty. Hai là, khái niệm “sáng chế” những phương pháp sản xuất
được hình thành từ những phát minh hoặc từ những thành quả khoa học công nghệ
khác và sử dụng những nguyên lý đó để chế tạo những sản phẩm thương mại cần thiết
cho thị trường.
- Một giải pháp nữa là các tập đoàn có thể học hỏi làm chủ và thực thi sáng
chế công nghệ. Trước khi mua bản quyền, Tập đoàn phải trả lời câu hỏi bao giờ, ở đâu
tái xuất được công nghệ đã làm chủ, tức là tìm ra lộ trình R&D khả thi, có tính thương
mại. Hoặc có thể thành lập ra các liên doanh quốc tế để qua đó học hỏi và hoàn thiện
chính sách R&D nói riêng cho chính mình và quản lý tập đoàn nói chung.
3. Cơ chế tài chính cho công tác R&D ở các DN viễn thông Việt Nam hiện nay
Nghiên cứu phát triển công nghệ mới, nhất là trong lĩnh vực công nghệ cao như
viễn thông và CNTT là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của DN. Thực tế các tập
đoàn viễn thông trên thế giới đều giành một phần lớn ngân sách chi cho hoạt độ R&D,
thường là một tỷ lệ khá lớn trên doanh thu tuỳ theo từng thời kỳ và lĩnh vực nghiên
cứu như tập đoàn ZTE hàng năm chi cho R&D từ 10-17% doanh số, Siemens AG chi
7%, France Telecom 1,6% trên doanh số; tập đoàn Huawei có 48% trong tổng số hơn
44.000 nhân viên làm việc trong lĩnh vực R&D... Đây là những chỉ số quan trọng bởi
doanh số hiện tại do R&D trong quá khứ thúc đẩy và đầu tư vào R&D hiện tại là một

dự báo về tăng trưởng doanh số trong tương lai.
3


Theo số liệu điều tra từ 7.232 DN sản xuất ở nước ta do Tổng cục Thống kê
thực hiện năm 2002, số doanh nghiệp đầu tư vốn cho nghiên cứu khoa học và đổi mới
công nghệ chỉ có 444 DN (tỷ lệ 6,1%), trong đó có 40,9% DN nhà nước; 5,9% DN
ngoài quốc doanh và 53,1% doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trong tổng số
vốn đầu tư cho hoạt động khoa học công nghệ của các DN chỉ có 8% cho nghiên cứu
khoa học, còn lại đều là dành cho đổi mới trang bị kỹ thuật chủ yếu là nhập khẩu máy
móc thiết bị từ nước ngoài, còn việc đầu tư để tự đổi mới công nghệ và sản phẩm ít
được coi trọng. Nếu so với doanh thu thì tỷ lệ đầu tư cho nghiên cứu khoa học trên
doanh thu của 444 DN nói trên chỉ đạt 0,26%.
Đối với các DN viễn thông Việt Nam, qua khảo sát điều lệ DN, mô hình tổ
chức và quy chế tài chính thấy: chỉ duy nhất có Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt
Nam có các tổ chức chuyên về nghiên cứu là Viện Kinh tế Bưu Điện, Viện Khoa học
Kỹ thuật Bưu Điện, Trung tâm CNTT trực thuộc Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn
thông với mục tiêu gắn kết giữa các khâu đào tạo - nghiên cứu - sản xuất trong Tập
đoàn, tuy nhiên mức chi cho các đơn vị cũng rất khiêm tốn (không cao hơn các DN
nghiệp do Tổng cục Thống kê khảo sát trên đây), số liệu theo bảng sau:
Số lượng các đề tài R&D các sản phẩm công nghiệp trong 8 năm (từ năm 1996
đến năm 2004) của Tập đoàn VNPT là 67 đề tài bao gồm các đề tài nghiên cứu chế
thử, còn mang tính nhỏ lẻ, chủ yếu là các thiết bị phục vụ cho công tác đo kiểm, bảo
dưỡng thiết bị viễn thông, một số thiết bị đầu cuối, các thiết bị đấu nối, cáp đồng, cáp
quang và một phần thiết bị tổng đài (chủ yếu là card thuê bao), một số phần mềm điều
khiển tổng đài điện tử số, phần mềm ứng dụng cho điều hành SXKD… Tổng kinh phí
nghiên cứu cho cả giai đoạn này chỉ đạt gần 8,5 tỷ đồng cho phần cứng và 19 tỷ đồng
cho nghiên cứu phần mềm. (Nguồn: Báo cáo Hội thảo 20 năm đổi mới, tháng
8/2005).
Những thông tin trên đây cho thấy có sự hạn chế nhất định trong việc đầu tư

cho R&D ở các DN viễn thông Việt Nam nói chung, điều này phản ánh một thực tế là
các quy chế tài chính được khảo sát của các DN viễn thông đều chưa thể hiện được sự
quan tâm và những nét đặc thù của hoạt động R&D, ví dụ như nguồn chi cho R&D
chỉ là những khoản kinh phí còn hạn hẹp, được gọi là các khoản chi cho đề tài khoa
học, chi sáng kiến, cải tiến kỹ thuật… Tuy có tên trong khoản mục chi phí nhưng
những hướng dẫn cụ thể cho khoản chi phí này còn chung chung hoặc nếu hướng dẫn
(đối với các đơn vị nghiên cứu) thì được xác định là các khoản chi cho các đơn vị sự
nghiệp với các định mức và đơn giá còn hết sức chặt chẽ, nhiều khi chưa hợp lý.
Những hạn chế trên có nhiều lý do, ngoài nguyên nhân do các DN viễn thông Việt
Nam có tiềm lực tài chính còn nhỏ so với các tập đoàn viễn thông trên thế giới, sự
quan tâm chưa đúng mức đến vấn đề này của các DN... thì có những nguyên nhân từ
phía cơ chế chính sách của Nhà nước, chẳng hạn như các quy định hiện hành về đầu
tư chưa cụ thể cho công tác R&D. Chi phí R&D để có được một công nghệ hoặc sản
phẩm mới sẽ rất lớn và thực hiện trong một thời gian dài, tính rủi ro cao, khó định

4


lượng được hiệu quả vì thế các doanh nghiệp không dám mạo hiểm quyết định đầu tư
những dự án vốn có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước.
4. Một số ý kiến với việc đổi mới cơ chế tài chính cho công tác R&D
Trên cơ sở nghiên cứu chính sách đầu tư cho hoạt động R&D của các tập đoàn
trên thế giới, chính sách đầu tư cho khoa học công nghệ ở Việt Nam, các vấn đề về tài
chính và hoạt động R&D của ngành bưu chính viễn thông, chúng tôi xin có một số ý
kiến đối với việc đổi mới cơ chế tài chính cho công tác R&D của Ngành:
- Về cơ chế chi phí cho hoạt động R&D, cần ban hành những hướng dẫn cụ
thể hơn, chẳng hạn có thể ban hành những quy định tính hiệu quả sinh lời của dự án
khoa học, sáng kiến cải tiến kỹ thuật... làm cơ sở để trả công cho những người làm
công tác nghiên cứu tương xứng với đóng góp làm lợi của họ, chi trả đúng đối tượng
để tăng động lực nghiên cứu.

- Bản thân hoạt động R&D là một phần của SXKD, tham gia vào quá trình tạo
ra lợi nhuận và sự phát triển của Tập đoàn. Vì vậy cần nghiên cứu đề xuất việc thành
lập Quỹ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của các tập đoàn DN viễn thông
và CNTT, được hình thành từ lợi nhuận sau thuế của DN.
Trường hợp những dự án lớn, có tầm cỡ quốc gia, DN có thể đề nghị nhà nước
hỗ trợ từ ngân sách Trung ương cho hoạt động khoa học công nghệ. Những dự án đầu
tư này xin trình duyệt đặc biệt không theo quy định hiện hành.
- Tăng dần tỷ lệ cho kế hoạch chi phí cũng như kế hoạch đầu tư từ ngân sách
của Tập đoàn cho hoạt động R&D, đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là cho các
chương trình mục tiêu, các chương trình khoa học công nghệ lớn, các tài năng đang
theo học trong các trường đào tạo, có cam kết sẽ làm việc lâu dài trong DN nhằm thu
hút lao động có hàm lượng chất xám cao.
- Chi phí nghiên cứu một công trình khoa học thường phát sinh trong thời gian
dài, với số lượng kinh phí lớn, trên thực tế còn phải kết hợp với các DN mới có thể
ứng dụng đưa vào kinh doanh phục vụ, vì thế rất cần có cơ chế tạo sự liên kết giữa các
đơn vị làm công tác nghiên cứu và các đơn vị sản xuất. Ngoài các nguồn tài chính do
tập đoàn cấp còn có thể xem xét áp dụng chế độ đơn đặt hàng sản xuất của các doanh
nghiệp viễn thông đối với các cơ sở nghiên cứu, đào tạo, nhất là hiện nay Chính phủ
đã có nghị định quy định về doanh nghiệp khoa học công nghệ cần sớm nghiên cứu
đưa vào quy chế tài chính của tập đoàn DN viễn thông
Liên hệ và phân tích về đổi mới chính sách tài chính tạo động lực phát triển
khoa học và công nghệ ở Việt Nam
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của chúng ta hiện nay là phải đẩy nhanh
tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) nhằm đưa đất nước ta trở thành
một nước công nghiệp vào năm 2020. Để thực hiện được mục tiêu đó, thời gian qua
Nhà nước đã chú trọng tập trung đầu tư vốn và ban hành nhiều chính sách kinh tế - tài
chính tạo điều kiện thuận lợi cho KH&CN phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh nhiều chính
5



sách có tác dụng thúc đẩy cũng còn những điều chưa phù hợp, thậm chí có tác dụng
ngược lại. Trước nhu cầu phát triển, trong thời gian tới, Nhà nước cần phải có các giải
pháp đồng bộ, có tính đột phá, trong việc đổi mới các cơ chế, chính sách tài chính để
tạo động lực thúc đẩy KH&CN phát triển.
Hiện trạng cơ chế, chính sách tài chính cho KH&CN
1. Chính sách thuế khuyến khích phát triển KH&CN
Trong nhiều năm qua, các chính sách thuế đều có các ưu đãi cao đối với hoạt
động nghiên cứu và ứng dụng thành tựu KH&CN vào sản xuất.
Về thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN)
Theo quy định của Luật thuế TNDN, các cơ sở kinh doanh thành lập mới tuỳ
thuộc ngành nghề, lĩnh vực, địa bàn khuyến khích đầu tư sẽ được miễn giảm thuế và
được hưởng thuế suất ưu đãi như sau:
Dự án đầu tư thành lập cơ sở kinh doanh mới về nghiên cứu khoa học và phát
triển công nghệ, dịch vụ KH&CN, tư vấn pháp lý, đầu tư, kinh doanh, quản trị doanh
nghiệp, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ được áp dụng các thuế
suất ưu đãi 20%, 15%, 10%; miễn thuế tối đa 4 năm kể từ khi có thu nhập chịu thuế
và giảm 50% số thuế phải nộp tối đa là 9 năm tiếp theo tuỳ thuộc vào địa bàn hoạt
động.
Cơ sở kinh doanh đầu tư xây dựng dây chuyền sản xuất mới, mở rộng quy mô,
đổi mới công nghệ, cải thiện môi trường sinh thái, nâng cao năng lực sản xuất thì
được miễn thuế TNDN cho phần thu nhập tăng thêm do đầu tư mang lại tối đa là 4
năm và giảm 50% số thuế phải nộp tối đa là 7 năm tiếp theo.
Miễn thuế TNDN đối với phần thu nhập của cơ sở kinh doanh có được:
1) Từ việc thực hiện hợp đồng nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ,
sản phẩm đang trong thời kỳ sản xuất thử nghiệm, sản phẩm làm ra từ công nghệ mới
lần đầu tiên áp dụng tại Việt Nam; 2) Từ việc thực hiện các hợp đồng dịch vụ kỹ thuật
trực tiếp phục vụ nông nghiệp; 3) Miễn thuế TNDN cho nhà đầu tư góp vốn bằng sáng
chế, bí quyết kỹ thuật, quy trình công nghệ; dịch vụ kỹ thuật, giảm thuế TNDN cho
phần thu nhập từ hoạt động chuyển nhượng giá trị phần vốn của nhà đầu tư nước
ngoài cho doanh nghiệp Việt Nam theo quy định của Chính phủ.

Về thuế giá trị gia tăng (GTGT)
Theo quy định của Luật thuế GTGT thì thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải
chuyên dùng trong dây chuyền công nghệ và vật tư xây dựng thuộc loại trong nước
chưa sản xuất được cần nhập khẩu để tạo tài sản cố định của doanh nghiệp; thiết bị,
máy móc, vật tư, phương tiện vận tải thuộc loại trong nước chưa sản xuất được cần
nhập khẩu để sử dụng trực tiếp vào hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công
nghệ; chuyển giao công nghệ, phần mềm máy tính đều thuộc đối tượng không chịu

6


thuế GTGT. Ngoài ra, hoạt động dịch vụ KH&CN được xếp vào nhóm dịch vụ chịu
mức thuế suất thấp là 5%.
2. Về cơ chế, chính sách tài chính đối với khu công nghệ cao
Quyết định số 53/2004/QĐ-TTg ngày 5.4.2004 của Thủ tướng Chính phủ và
Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao đã dành các ưu đãi đặc biệt
cho khu công nghệ cao nhằm tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động đầu tư thu
hút vốn, công nghệ cao, nhân công có trình độ cao trong và ngoài nước, góp phần xây
dựng các ngành công nghiệp công nghệ cao làm động lực phát triển kinh tế, tạo thuận
lợi để gắn kết giữa đào tạo - nghiên cứu - phát triển công nghệ cao với sản xuất và
dịch vụ, góp phần nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ.
Về thuế TNDN, nhà đầu tư được hưởng thuế suất TNDN là 10% trong suốt
thời gian thực hiện dự án; được miễn thuế TNDN 4 năm kể từ khi có thu nhập chịu
thuế và giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo. Về thuế thu nhập đối với
người có thu nhập cao: Lãi cổ phần của thành viên đầu tư vào các cơ sở kinh doanh cổ
phần trong lĩnh vực KH&CN, tiền thưởng về cải tiến kỹ thuật, sáng chế phát minh
không phải nộp thuế thu nhập. Thu nhập về chuyển giao công nghệ trên 15 triệu
đồng/lần được áp dụng thuế suất thấp là 5% tổng thu nhập. Cá nhân là người Việt
Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài làm việc cho các dự án đầu tư tại khu
công nghệ cao được miễn, giảm thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao để bằng

mức thuế phải nộp áp dụng đối với người nước ngoài có cùng mức thu nhập. Ngoài ra,
còn có những ưu đãi về thuế sử dụng đất, về vốn, tín dụng và bảo lãnh
3. Cơ chế, chính sách tài chính khác hỗ trợ phát triển KH&CN
Chính sách đầu tư tập trung phát triển mạnh kết cấu hạ tầng giao thông, thuỷ
lợi, năng lượng, thông tin liên lạc đã tạo điều kiện thuận lợi đưa KH&CN nhanh
chóng trở thành động lực quan trọng phát triển kinh tế - xã hội, đổi mới toàn diện đất
nước. Để tạo tiền đề cho việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, khai thác và phát
huy tiềm năng kinh tế của các vùng/miền, năm 2003 Chính phủ đã thông qua kế hoạch
đầu tư khoảng 45.000 tỷ đồng cho 20 công trình giao thông và 16 công trình thuỷ lợi
lớn trong giai đoạn 2003- 2010.
Việc cắt giảm mạnh mẽ hàng rào thuế quan theo các cam kết hội nhập quốc tế
và sửa đổi chính sách thuế nhập khẩu theo hướng bảo hộ có thời gian và có chọn lọc,
xoá bỏ bao cấp dưới mọi hình thức đã và đang góp phần làm tăng khả năng tiếp cận
đối với thị trường toàn cầu và các luồng công nghệ mới. Việc cắt giảm mạnh mẽ bảo
hộ trong nước cũng góp phần đáng kể vào việc lành mạnh hoá quá trình ra quyết định
đầu tư, phân bổ nguồn vốn vào các khu vực có năng suất, hiệu quả cao, sử dụng công
nghệ tiên tiến.
Quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước với việc cổ phần hoá và đa đạng hoá
sở hữu, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp nhà nước đã góp phần thúc đẩy quá trình
thu hút công nghệ mới, nâng cao hiệu suất và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Việc cho
phép nhà đầu tư nước ngoài được được mua tối đa 30% cổ phần của doanh nghiệp
7


được chuyển đổi sở hữu là một bước tiến mới tạo thuận lợi cho những nhà đầu tư tiến
hành đầu tư vào doanh nghiệp được cổ phần hoá nhằm đổi mới công nghệ sản xuất và
quản lý.
Chủ trương cho phép nông dân sản xuất nguyên liệu được mua cổ phần của các
doanh nghiệp chế biến nông sản hoạt động trên cùng địa bàn không những đã gắn kết
chặt chẽ người nuôi trồng và cung ứng nguyên liệu với doanh ngiệp chế biến sản

phẩm, mà còn có tác dụng thúc đẩy doanh nghiệp chế biến trở thành đầu mối phổ
biến, chuyển giao công nghệ nuôi trồng cây, con mới cho nông dân. Bên cạnh đó,
doanh nghiệp chế biến còn đóng vai trò đầu mối bao tiêu sản phẩm cho nông dân
thông qua hợp đồng về sản xuất và tiêu thụ sản phẩm giữa nông dân và doanh nghiệp.
4. Một số hạn chế của cơ chế, chính sách tài chính hiện hành
Những năm gần đây việc đầu tư của Nhà nước cho KH&CN đã được quan tâm.
Tuy nhiên, nguồn vốn này cũng chỉ đáp ứng khoảng 40% nhu cầu phát triển của
KH&CN. Bình quân giai đoạn 1996-2000, đầu tư cho KH&CN chỉ chiếm trên dưới
0,4% GDP, trong đó vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước chiếm khoảng 70%. Những
năm sau đó tuy mức đầu tư có tăng lên về số tuyệt đối, song tính theo số tương đối thì
tỷ lệ đầu tư cho KH&CN so với tổng chi ngân sách nhà nước hầu như không tăng, mãi
tới năm 2001 thì tỷ lệ này mới được nâng lên và đến năm 2003 đã đạt khoảng 2% tổng
chi ngân sách nhà nước, xấp xỉ khoảng 0,5% GDP (trong khi đó Trung Quốc là 0,8%
GDP, Ma-lai-xi-a là 0,97% và Hàn Quốc là 2,71%). Nguồn vốn đầu tư của xã hội cho
phát triển KH&CN chủ yếu vẫn tập trung từ ngân sách Nhà nước, chiếm khoảng 80%,
còn lại 20% là dựa vào các nguồn vốn khác như tín dụng, vốn tự có của các doanh
nghiệp, vốn vay, viện trợ nước ngoài.
Nhìn chung, đầu tư tài chính cho hoạt động KH&CN còn quá thấp, chưa đáp
ứng được yêu cầu phát triển trong thời kỳ CNH, HĐH, còn thua kém so với nhiều
nước trong khu vực và thấp xa với ngưỡng tối thiểu. Nguồn vốn đầu tư cho phát triển
KH&CN đã ít, việc phân bổ và sử dụng ngân sách nhà nước lại chưa hợp lý và kém
hiệu quả. Bên cạnh đó cơ chế chính sách tài chính thúc đẩy huy động vốn ngoài ngân
sách cho phát triển KH&CN chưa đủ mạnh, chưa khuyến khích và buộc các doanh
nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhà nước tích cực áp dụng những thành tựu
KH&CN, đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh của
hàng hoá và dịch vụ trên thị trường trong và ngoài nước. Thị trường KH&CN còn
chưa phát triển. Các sản phẩm KH&CN còn chưa được thương mại hoá. Do đó đã hạn
chế việc huy động nguồn tài chính nhằm bù đắp chi phí cần thiết phải bỏ ra để sản
xuất các sản phẩm KH&CN, cơ chế bao cấp nhà nước vẫn còn nặng nề trong lĩnh vực
này.

Việc ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn và đời sống còn ít. Nhiều công
trình khoa học không đưa vào cuộc sống được là do gặp trở ngại về vốn. Việc gắn kết
nghiên cứu với đào tạo và sản xuất còn chưa chặt chẽ, hiệu quả đầu tư cho KH&CN
còn thấp.

8


Do hạn chế về vốn đầu tư và công tác quản lý sử dụng vốn đầu tư cho phát
triển KH&CN còn kém hiệu quả nên nhìn chung cho đến nay nền KH&CN nước ta
vẫn còn trong tình trạng phát triển chậm, chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có. Trình
độ công nghệ, cơ sở vật chất kỹ thuật vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực. Đội
ngũ cán bộ KH&CN còn thiếu, nhất là các nhà khoa học có tài năng và trình độ cao.
Hiện nay, một số chính sách kinh tế - tài chính chưa có tác dụng khuyến khích
mà lại có những tác động phụ, làm triệt tiêu động lực phát triển và ứng dụng KH&CN.
Thí dụ: 1) Việc chú trọng phát triển và bảo hộ cao trong một số ngành công nghiệp có
sức cạnh tranh thấp như mía đường, xi măng, phân bón, giấy... đã tạo ra tư tưởng ỷ
lại, không thúc đẩy đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh; 2)
Chính sách thưởng xuất khẩu trên thực tế đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh
nghiệp phát triển sản xuất - kinh doanh, mở rộng thị trường xuất khẩu, tăng khả năng
cạnh tranh của hàng hoá. Tuy nhiên, chính sách này đồng thời cũng có những tác động
tiêu cực, không thúc đẩy doanh nghiệp nâng cao chất lượng và hiệu quả sản xuất. Để
tăng xuất khẩu và xâm nhập thị trường, trên thực tế đã có doanh nghiệp hạ giá bán.
Đối với doanh nghiệp, việc hạ giá bán không làm tổn hại gì vì doanh nghiệp được
nhận khoản tiền thưởng xuất khẩu, nhưng thực chất người hưởng lợi lại là các doanh
nghiệp nước ngoài. 3) Chính sách bảo hộ cao bằng ;thuế quan cũng có tác động làm trì
hoãn việc áp dụng công nghệ mới, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, nâng cao
sức cạnh tranh bằng chất lượng và giá cả sản phẩm.
Về quảng bá và tiếp thị sản phẩm KH&CN: Nếu như trong lĩnh vực ngoại
thương, chúng ta có Cục Xúc tiến thương mại nằm trong Bộ Thương mại, chịu trách

nhiệm về quảng cáo, tiếp thị hàng xuất khẩu, hỗ trợ tìm kiếm thị trường, giải quyết
đầu ra cho hàng hoá của các doanh nghiệp. Riêng về số kinh phí dành cho hoạt động
này, năm 2003 Cục Xúc tiến thương mại quản lý xấp xỉ 400 tỷ đồng (xác định theo
công thức số kinh phí xúc tiến thương mại hàng năm bằng 0,25% kim ngạch xuất
khẩu của năm trước, không kể kim ngạch xuất khẩu dầu thô). Thế nhưng trong lĩnh
vực KH&CN đến nay vẫn thiếu vắng một định chế có quy mô xứng đáng nhằm nhanh
chóng đưa KH&CN vào ứng dụng trong sản xuất của doanh nghiệp. Trong năm 2003,
việc tổ chức Chợ thiết bị và công nghệ tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Tây
Nguyên với nhiều hợp đồng mua bán, chuyển giao công nghệ đã được ký kết giữa các
cơ sở nghiên cứu với các doanh nghiệp là một bước tiến mới và đúng hướng nhằm
tăng cường quảng bá và tiếp thị các sản phẩm KH&CN. Đây là một phương thức tốt,
cần được phát huy. Việc thành lập Quỹ phát triển KH&CN Quốc gia theo Nghị định
số 122/2003/NĐ-CP ngày 22.10.2003 là bước ngoặt trong việc tăng cường phát triển
và ứng dụng KH&CN vào sản xuất, nhưng trong các chức năng của Quỹ này vẫn chưa
có qui định đối với việc quảng bá các kết quả, sản phẩm KH&CN.
Những đổi mới về cơ chế, chính sách tài chính trong thời gian tới.
Để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ phát triển KH&CN từ nay tới năm 2010 đòi
hỏi phải hoàn thiện các cơ chế, chính sách tài chính theo định hướng sau đây:

9


Thứ nhất, tăng chi ngân sách nhà nước để đảm bảo kinh phí hoạt động cho các
tổ chức KH&CN thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu lý luận, khoa học
xã hội và nhân văn và các nhiệm vụ trọng điểm khác theo yêu cầu của Đảng và Nhà
nước. Nâng tỷ lệ đầu tư từ ngân sách nhà nước cho KH&CN lên bằng mức các nước
trong khu vực.
Đi đôi với tăng chi ngân sách nhà nước cho KH&CN cần phải thực hiện sắp
xếp lại các cơ quan KH&CN nhằm giảm và tiến tới xoá bao cấp đối với các tổ chức
KH&CN hoạt động nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ. Từng bước chuyển

các tổ chức KH&CN không phục vụ việc quản lý nhà nước về KH&CN ra khỏi cơ
quan bộ/ngành, thực hiện quy chế tự trang trải kinh phí, hoạt động theo cơ chế doanh
nghiệp đối với các tổ chức khoa học này nhằm tạo điều kiện phát triển nhanh các
doanh nghiệp công nghệ và đòi hỏi doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh phải gắn với
hoạt động nghiên cứu. Việc ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học, tiến bộ
KH&CN phải do các doanh nghiệp thực hiện.
Thứ hai, Nhà nước hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc ứng dụng kết quả nghiên
cứu khoa học vào sản xuất thông qua các biện pháp tài chính như miễn, giảm thuế,
cho vay tín dụng, bảo lãnh tín dụng. Nhà nước khuyến khích giảm,miễn thuế cho các
doanh nghiệp sử dụng công nghệ tiên tiến, đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm.
Thực hiện ưu tiên cho doanh nghiệp vay vốn đổi mới công nghệ, ứng dụng tiến bộ
KH&CN. Đồng thời có biện pháp đánh thuế môi trường đối với các hoạt động gây ô
nhiễm nhằm tạo áp lực buộc các doanh nghiệp phải đổi mới thiết bị, máy móc, sử
dụng công nghệ tiên tiến. Thuế nhập khẩu cần được điều chỉnh trên nguyên tắc bảo hộ
sản xuất trong nước có trọng điểm, có điều kiện, có thời hạn nhằm thúc đẩy các doanh
nghiệp phải ứng dụng tiến bộ KH&CN vào sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh
trên thị trường trong nước và quốc tế.
Thứ ba, thực hiện kết hợp nhiều chương trình ngành lại thành một chương trình
đồng bộ nhằm đạt được một số mục tiêu trọng điểm của từng địa bàn trên cơ sở
nghiên cứu luận chứng kinh tế - kỹ thuật, ứng dụng các công nghệ mới đã được thử
nghiệm, từ đó cân đối và huy động các nguồn lực. Thực hiện phương châm “Nhà
nước và nhân dân cùng làm”. Nhà nước hỗ trợ chủ yếu bằng vốn vay ưu đãi.
Thứ tư, mở rộng áp dụng nhiều hình thức tổ chức hợp tác, liên kết về kinh tế
của các doanh nghiệp từ nghiên cứu, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm (nghiên cứu thị
trường, lựa chọn công nghệ, lập dự án sản xuất - kinh doanh, ký hợp đồng tiêu thụ).
Thứ năm, có cơ chế chính sách thúc đẩy phát triển thị trường KH&CN. Cho
phép các cơ sở nghiên cứu KH&CN được sản xuất và kinh doanh sản phẩm do mình
tạo ra. Đồng thời thúc đẩy các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, ứng dụng KH&CN
vào sản xuất bằng việc ưu đãi miễn, giảm thuế, cho vay tín dụng, thực hiện khấu hao
nhanh, cho phép các doanh nghiệp được hạch toán các khoản chi về nghiên cứu, phát

triển công nghệ mới, cải tiến kỹ thuật, chi phí đào tạo có liên quan đến sử dụng công

10


nghệ mới vào chi phí sản xuất. Biện pháp này sẽ tạo ra nhu cầu, kích thích thị trường
KH&CN phát triển.
Thứ sáu, nghiên cứu thành lập và đưa vào hoạt động Quỹ đầu tư mạo hiểm trên
cơ sở có sự đóng góp một phần của ngân sách nhà nước và của các nhà đầu tư trong
và ngoài nước nhằm tài trợ cho các hoạt động nghiên cứu KH&CN có độ rủi ro cao.
Thứ bảy, xoá bỏ dần chính sách thưởng xuất khẩu cho các doanh nghiệp. Đồng
thời coi trọng việc quảng bá, tiếp thị các sản phẩm KH&CN như các hàng hoá khác
và thậm chí phải được coi trọng hơn hàng hoá khác.
Đất nước ta đang có nhiều bước chuyển đổi trong nhiều lĩnh vực. Chắc chắn,
việc đổi mới thể chế QLNN về khoa học, công nghệ sẽ có những kết quả tốt, kích
thích mạnh mẽ được hoạt động khoa học- công nghệ và những chuyên gia, trí thức,
những người lao động trong môi trường này phát huy được sức mạnh của khoa họccông nghệ, làm cho Việt Nam cất cánh được trong thế kỷ này.

11



×