Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

skkn hiệu trưởng chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm (GVCN) phối hợp với cha mẹ học sinh (CMHS) ở trường THPT xuân mỹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.21 KB, 41 trang )

1

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
Trường THPT Xuân Mỹ
Mã số………………………………

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI: HIỆU TRƯỞNG CHỈ ĐẠO
GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM PHỐI HỢP VỚI
CHA MẸ HỌC SINH Ở TRƯỜNG THPT XN MỸ

Người thực hiện: Đỗ Huy Khánh
Lónh vực nghiên cứu: Lý luận giáo dục
Năm học: 2011 - 2012


2

MỤC LỤC
CHƯƠNG I : PHẦN MỞ ĐẦU
I. Tên đề tài

Trang 1

II. Lý do chọn đề tài
1. Lý do khách quan
2. Lý do chủ quan

Trang 1
Trang 2


III. Mục đích nghiên cứu

Trang 3

IV. Nhiệm vụ nghiên cứu

Trang 3

V. Giới hạn đề tài

Trang 5

VI. Ý nghĩa của đề tài

Trang 6

CHƯƠNG II : PHẦN NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý của đề tài
1. Cơ sở lý luận
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.2. Vai trò của gia đình trong giáo dục thế hệ trẻ
1.3. Vai trò và nhiệm vụ của Ban đại diện CMHS
1.4. Hiệu trưởng chỉ đạo GVCN
phối hợp với cha mẹ học sinh
2. Cơ sở pháp lý của đề tài
II. Thực trạng về công tác phối hợp với gia đình và Ban …
1. Đặc điểm tình hình nhà trường
2. Thực trạng và phân tích thực trạng về công tác chỉ đạo
GVCN phối hợp với gia đình và Ban đại diện CMHS
2.1. Hiệu trưởng chỉ đạo GVCN lớp xây dựng kế hoạch

phối hợp với CMHS
2.2. Hiệu trưởng chỉ đạo GVCN tổ chức
hội nghị CMHS lớp
2.3. Nâng cao năng lực công tác của GVCN
2.4. Biện pháp hiệu trưởng chỉ đạo GVCN phối hợp …

Trang 6
Trang 6
Trang 6
Trang 7
Trang 9
Trang 13
Trang 15
Trang 15
Trang 19
Trang 19
Trang 23
Trang 29
Trang 32

CHƯƠNG III : PHẦN KẾT LUẬN
1. Nhận định chung
2. Bài học kinh nghiệm
3. Kiến nghị

Trang 35
Trang 36
Trang 37



3

CHƯƠNG I : PHẦN MỞ ĐẦU
I/ TÊN ĐỀ TÀI :
“Hiệu trưởng chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm (GVCN) phối hợp với cha mẹ học sinh
(CMHS) ở trường THPT Xuân Mỹ”.
II/ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI :
1. Lý do khách quan :
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng khẳng định : “Giáo
dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng
và động lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Luật giáo dục tại điều 2 đã nêu: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người
Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề
nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ; hình thành
và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc”.
Ngành GD – ĐT là ngành chịu trách nhiệm chính trong việc đào tạo thế hệ
trẻ có trình độ, có năng lực để lĩnh hội những tri thức khoa học, làm chủ bản thân,
làm chủ xã hội. Nhà trường là nơi thực hiện các nhiệm vụ giáo dục, đào tạo và
hình thành nhân cách cho học sinh. Trọng trách của nhà trường là trang bị cho học
sinh có tri thức, có đạo đức, có kĩ năng sống, được phát triển nhân cách nhằm đáp
ứng nguồn nhân lực cho đất nước.
Bác Hồ đã khẳng định : Giáo dục trong nhà trường chỉ là một phần, còn cần
có sự giáo dục ngoài xã hội, để giúp việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn.
Như vậy, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo, tạo ra được những con
người có ích cho đất nước, nhà trường cần phải biết tổng hòa sức mạnh của các
đoàn thể xã hội, đặc biệt biết cách tập hợp và phát huy sức mạnh của giáo dục gia
đình, gia đình là lớp học đầu tiên hình thành nhân cách trẻ, dạy cho trẻ những bài
học làm người. Cùng với nhà trường, gia đình là lực lượng giáo dục, là môi trường
đảm bảo sự giáo dục toàn diện cho học sinh, là môi trường đẻ các em thực hành

những điều các em đã đuọc học ở trường. Bác đã viết : “Hiền dữ phải đâu là tính


4

sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên”, học sinh trở thành người tốt hay người xấu,
thiện hay ác phần lớn là do được giáo dục tốt hay không tốt, vì vậy chúng ta cần
nhận thức đúng đắn vai trò quan trọng của giáo dục ở trường, ở nhà và ở xã hội.
“Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng, là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn quân,
toàn dân”.
2. Lý do chủ quan :
Trong thời kỳ bùng nổ thông tin, nhiều tụ điểm Internet với nhiều trò chơi
game trực tuyến, các trang web đen, các quán nhậu, bia ôm, ... xuất hiện xung
quanh trường. Sự thiếu gương mẫu của người lớn trong cách cư xử, cách sống, …
đã làm cho nhiều học sinh coi thường những tiêu chuẩn về đạo đức như bất hiếu
với cha mẹ, hỗn hào với thầy cô, khinh bạc đối với người có tuổi, lừa đảo bạn bè,
còn bản thân thì đua đòi, ăn chơi, lười học, thậm chí còn vi phạm pháp luật. Từ đó
công tác học tập giảm sút, chán học, dẫn đến bỏ học.
Với 5 năm làm công tác quản lý, đúc kết kinh nghiệm của bản thân và từ
đồng nghiệp, tôi nhận thấy được vai trò quan trọng của giáo viên chủ nhiệm, là cầu
nối của việc kết hợp 3 môi trường giáo dục: Gia đình – Nhà trường – Xã hội, nhất
là khi nhận nhiệm vụ làm công tác Hiệu trưởng phụ trách công tác quản lý chung
của trường, tôi càng nhận thấy rõ sự cần thiết của việc chỉ đạo GVCN phối hợp tốt
với CMHS, đó là giải pháp chiến lược cho công tác quản lý của nhà trường nhằm
góp phần đưa chất lượng giảng dạy và giáo dục của nhà trường được nâng lên.
Thực tế cho thấy GVCN hợp tác tốt với CMHS sẽ tạo môi trường thuận lợi,
thống nhất trong việc giáo dục toàn diện cho học sinh, học sinh có đủ điều kiện để
học tập, vui chơi và tất nhiên kết quả học tập sẽ cao hơn, việc phối hợp tốt giữa
GVCN và CMHS góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy – giáo dục của nhà
trường, nhưng thực tế của nhà trường hkông phải GVCN nào cũng phối hợp tốt với

CMHS, đã có rất nhiều trường hợp do thiếu quản lý, thiếu quan tâm, thiếu mối liên
hệ giữa nhà trường và gia đình đã dẫn đến ngày càng nhiều học sinh cá biệt, lười
học, mê chơi, chán học và bỏ học.
Từ những bức xúc ở đơn vị trong năm học vừa qua và thông qua tiếp thu
những kinh nghiệm thực tế, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Hiệu trưởng chỉ đạo giáo
viên chủ nhiệm phối hợp hoạt động với cha mẹ học sinh ở trường THPT Xuân


5

Mỹ”, để có điều kiện phân tích và tìm ra các giải pháp cho công tác chỉ đạo GVCN
phối hợp hoạt động với CMHS nhằm huy động có hiệu quả các nguồn lực hỗ trợ
cho hoạt động của nhà trường, tạo điều kiện cho tất cả học sinh của trường luôn
được nâng niu, giúp đỡ, hoàn thành tâm nguyện của Bác: “…Đồng bào ta ai cũng
có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.
III. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU :
Tìm hiểu và phân tích thực trạng công tác chỉ đạo GVCN phối hợp với
CMHS ở đơn vị, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm và đề xuất một số biện pháp cải
tiến công tác phối hợp với gia đình và Ban đại diện cha mẹ HS, góp phần nâng cao
hơn nữa chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh của nhà trường.
IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU :
Nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý của công tác phối hợp với gia
đình và Ban đại diện cha me HS.
Phân tích thực trạng về công tác chỉ đạo GVCN phối hợp với gia đình và
Ban đại diện cha mẹ HS tại trường THPT Xuân Mỹ – huyện Cẩm Mỹ – tỉnh Đồng
Nai năm học 2011 – 2012.
Rút ra bài học kinh nghiệm và đề xuất một số biện pháp để cải tiến công tác
chỉ đạo GVCN phối hợp với gia đình và Ban đại diện cha mẹ HS tại trường THPT
Xuân Mỹ trong các năm học tiếp theo.
V. GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI :

Trong khuôn khổ giới hạn về thời gian và trình độ nhận thức của bản thân,
đề tài “Hiệu trưởng chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm phối hợp với cha mẹ học sinh”, tôi
chỉ phân tích và đề ra các giải pháp chính để GVCN chủ động phối hợp hoạt động
tốt với cha mẹ học sinh ở trường Xuân Mỹ có thể thực hiện được, trong đó có nêu
lên một cách sơ nét về các hoạt động phối hợp của giáo viên chủ nhiệm với cha mẹ
học sinh ở đơn vị từ năm học 2007 – 2008 đến nay (tức là bắt đầu từ năm tôi nhận
công tác quản lý), từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cũng như những giải
pháp cụ thể để áp dụng cho điều kiện thực tế của nhà trường.


6

VI. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI :
Thực thi được đề tài này, trước hết góp một phần để nhà trường có thể hoàn
thành tốt nhiệm vụ chính trị mà UBND tỉnh Đồng Nai, Sở Giáo dục và Đào tạo
tỉnh Đồng Nai cũng như của Bộ Giáo dục Đào tạo đã giao cho nhà trường, mặt
khác tạo điều kiện thắng lợi cho công cuôc nâng cao mặt bằng dân trí, làm nền tảng
cho công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước mà Đảng, và Nhà nước ta
đã đề ra.

CHƯƠNG II : PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA ĐỀ TÀI :
1. Cơ sở lý luận :
1.1. Một số lý luận cơ bản :
- Phối hợp là hoạt động cùng nhau của hai hay nhiều cá nhân, tổ chức để hỗ
trợ cho nhau thực hiện một công việc chung.
- Gia đình là một thiết chế xã hội, là cơ sở của xã hội, là tế bào tự nhiên của
xã hội, một môi trường xã hội vi mô.
- Ban đại diện cha mẹ HS là một tổ chức tự nguyện của cha mẹ HS, được tổ
chức trong mỗi năm học, do cha mẹ hoặc người giám hộ HS từng lớp, từng trường

cử ra để phối hợp với nhà trường thực hiện các hoạt động giáo dục.
1.2. Vai trò của gia đình trong giáo dục thế hệ trẻ :
Cha ông ta thường nói “Con nhà tông, không giống lông cũng giống cánh”,
điều đó cho thấy sự ảnh hưởng rất lớn đến nhân cách của trẻ qua nhân cách của
từng thành viên trong gia đình. Cha mẹ là “người thầy” đầu tiên dạy cho trẻ và
cũng chính là những “người thợ” đạt những viên gạch đầu tiên để xây dựng nền
móng nhân cách cho trẻ. Gia đình, cha mẹ là những người gần gũi và hiểu biết nhất
về con em mình, Vì vậy, gia đình và cha mẹ đã có vai trò trung tâm và có hiệu quả
nhất trong việc giáo dục học sinh.


7

Cùng với nhà trường, gia đình là lực lượng giáo dục, là môi trường đảm bảo
sự giáo dục, truyền lại cho thế hệ sau những giá trị văn hóa truyền thống, đồng thời
cũng là môi trường để các em thực hành những điều các em đã được học, rèn luyện
hành vi, thái độ, cách cư xử, …, góp phần hoàn thiện quá trình hình thành và phát
triển nhân cách học sinh.
Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, Đảng ta đã chỉ rõ: “Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi thân yêu nuôi
dưỡng cả đời người, là môi trường quan trọng giáo dục nếp sống và hình
thành nhân cách”. Gia đình là nên tảng của xã hội. Gia đình lành mạnh có tầm
quan trọng trong sự phát triển của mỗi quốc gia, “Nhiều gia đình cộng lại mới
thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt ; gia đình tốt thì xã hội mới tốt” .
(Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội).
1.3. Vai trò và nhiệm vụ của Ban đại diện cha mẹ học sinh :
1.3.1. Vai trò của Ban đại diện cha mẹ học sinh :
Ban đại diện CMHS hoạt động giáo dục theo quy định của Điều lệ Ban đại
diện CMHS và Điều lệ nhà trường. Quan hệ giữa nhà trường và Ban đại diện
CMHS là bình đẳng, hợp tác.

Thông qua Ban đại diện CMHS, gia đình tham gia công tác giáo dục một
cách có tổ chức, tiếng nói của gia đình với nhà trường càng làm tăng “trọng lượng”
trong việc giáo dục đạo đức học sinh, đồng thời phát huy sức mạnh tập thể của
CMHS tham gia vào các hoạt động giáo dục và xây dựng nhà trường. Ban đại diện
CMHS không chỉ là lực lượng gần gũi, gắn bó, thường xuyên phối hợp với nhà
trường, là cầu nối giữa gia đình và nhà trường mà còn là mối liên kết quan hệ giữa
nhà trường với các lực lượng xã hội khác ngoài nhà trường.
1.3.1. Nhiệm vụ của Ban đại diện cha mẹ học sinh :
Theo Điều lệ: “Ban đại diện cha mẹ học sinh” (Ban hành kèm theo Thông
tư số 55/2011/TT-BGDĐT ngày 22 /11 /2011 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo) đã qui định rõ (Điều 4):
1. Nhiệm vụ của Ban đại diện cha mẹ học sinh lớp:


8

a) Phối hợp với giáo viên chủ nhiệm lớp và các giáo viên bộ môn tổ chức các
hoạt động giáo dục học sinh;
b) Phối hợp với giáo viên chủ nhiệm lớp chuẩn bị nội dung của các cuộc họp
cha mẹ học sinh trong năm học;
c) Tham gia giáo dục đạo đức cho học sinh; bồi dưỡng, khuyến khích học sinh
giỏi, giúp đỡ học sinh yếu kém, vận động học sinh đã bỏ học trở lại tiếp tục học
tập; giúp đỡ học sinh nghèo, học sinh khuyết tật và học sinh có hoàn cảnh khó
khăn khác.
2. Quyền của Ban đại diện cha mẹ học sinh lớp:
a) Quyết định triệu tập các cuộc họp cha mẹ học sinh theo quy định tại Điều 9
của Điều lệ này (trừ cuộc họp đầu năm học cử Ban đại diện cha mẹ học sinh lớp)
sau khi thống nhất với giáo viên chủ nhiệm lớp;
b) Tổ chức lấy ý kiến cha mẹ học sinh của lớp về biện pháp quản lý giáo dục
học sinh để kiến nghị cụ thể với giáo viên chủ nhiệm lớp, giáo viên bộ môn về biện

pháp nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức, chất lượng dạy học;
c) Phối hợp tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, giáo dục truyền
thống, hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể thao để thực hiện mục tiêu giáo dục toàn
diện cho học sinh sau khi thống nhất với giáo viên chủ nhiệm lớp.
Theo Điều lệ nhà trường, Điều lệ Ban đại diện CMHS và quy chế thực hiện
dân chủ trong nhà trường thì Ban đại diện CMHS có các nhiệm vụ :
Phối hợp với nhà trường tổ chức thực hiện nhiệm vụ theo nghị quyết của cuộc
họp đầu năm học, thực hiện các hoạt động giáo dục trong từng thời gian do Ban đại
diện CMHS trường đề ra.
Hướng dẫn, tuyên truyền, phổ biến pháp luật, chủ trương, chính sách về giáo
dục đối với CMHS nhằm nâng cao trách nhiệm chăm sóc, bảo vệ, giáo dục HS.
Phối hợp với nhà trường giáo dục HS hạnh kiểm yếu kém tiếp tục rèn luyện
trong hè.
Vận động CMHS và các lực lượng xã hội hỗ trợ nhà trường trong công tác
quản lý việc học của con cái khi ở nhà ; tác động đến gia đình, hạn chế lưu ban, bỏ
học và chăm lo việc giáo dục đạo đức, nề nếp HS , bồi dưỡng, khuyến khích HS
giỏi, giúp đỡ HS yếu kém ; giúp đỡ HS nghèo, HS khó khăn, HS khuyết tật, tàn


9

tật ; vận động HS đã bỏ học trở lại tiếp tục đi học ; động viên cán bộ, giáo viên,
nhân viên tích cực nâng cao chất lượng dạy học và giáo dục toàn diện.
Vận động CMHS và các lực lượng xã hội hỗ trợ việc tu bổ, bảo vệ cơ sở vật
chất, thiết bị của trường ; góp phần cải thiện đời sống tinh thần cho thầy cô giáo ;
khen thưởng HS giỏi, giúp đỡ HS nghèo.
Đóng góp ý kiến với nhà trường về các chủ trương, biện pháp giảng dạy, biện
pháp giáo dục đạo đức và chăm sóc HS nhằm thực hiện có hiệu quả các văn bản
luật có liên quan đến công tác giáo dục và đào tạo.
Hướng dẫn về công tác tổ chức và hoạt động cho các Ban đại diện CMHS lớp.

1.4. Hiệu trưởng chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm phối hợp với cha mẹ
học sinh :
1.4.1. Các nội dung chỉ đạo của hiệu trưởng :
a/ Bảo đảm cho giáo viên nắm vững nhiệm vụ của họ trong công tác phối hợp
với gia đình :
- Để công tác chỉ đạo có hiệu quả trước tiên hiệu trưởng cần phải tác động đến
GVCN và CMHS nhận thức được tầm quan trọng của mối quan hệ nhà trường và
gia đình.
- GVCN phải làm cho CMHS nắm được mục đích giáo dục chung, mục tiêu giáo
dục, các chuẩn kiến thức HS cần đạt.
- Nắm chắc đối tượng HS của lớp mình chủ nhiệm như: hoàn cảnh kinh tế gia đình
của các em, cá tính của từng em, những vi phạm thường xuyên, kết quả xếp loại 2
mặt, … của HS để báo kịp thời cho CMHS.
- Hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng, hoàn cảnh, khả năng của các bậc CMHS làm tiền
đề cho các việc :
+ Giáo dục HS.
+ Tổ chức tốt các buổi họp CMHS có nội dung thiết thực, tạo niềm tin của CMHS
vào thầy cô và nhà trường.
+ Trao đổi với CMHS các biện pháp hướng dẫn HS sử dụng hợp lý thời gian ở
nhà, quan tâm hợp lý từng đối tượng học sinh, kinh nghiệm nuôi dạy con cái, …
+ Thu hút CMHS tham gia tổ chức các hoạt động ngoại khóa của lớp (giáo dục
truyền thống, giáo dục dân số - sức khỏe sinh sản vị thành niên, phòng chống ma
túy, dạy nghề truyền thống, …)


10

- Biết định hướng, gợi ý hoạt động của Ban đại diện CMHS lớp ; biết thực hiện các
biện pháp phối hợp với Ban đại diện CMHS theo phương hướng và kế hoạch
chung của trường.

- Giao tiếp có văn hóa với CMHS; đánh giá học sinh công bằng.
b/ Làm cho giáo viên chủ nhiệm nắm vững các yêu cầu sư phạm của các hình
thức phối hợp với gia đình học sinh :
- Ghi sổ liên lạc nhà trường – gia đình (Chú ý ghi số điện thoại của phụ
huynh học sinh từng em để tiện liên lạc nhanh nhất khi cần thiết).
- Gửi thư mời để mời CMHS đến trường:
+ Trao đổi về các vi phạm của HS: khi HS chưa ngoan, bỏ học, học giảm sút,
hoắc có vấn đề gì đó (chỉ mời khi thật cần thiết, nếu mời 2 – 3 lần mà họ không tới
thì phải kết hợp cùng với Ban đại diện CMHS đến thăm họ, có thể liên hệ bằng
điện thoại để trao đổi kịp thời với cha mẹ của học sinh cá biệt).
+ Hỗ trợ tổ chức các hoạt động ngoại khóa (cần tổ chức nhiều hơn).
- Thăm gia đình học sinh nhằm tìm hiểu học sinh và qua trao đổi, bàn bạc
giúp cha mẹ các em làm tốt việc giáo dục con cái. Công việc này đòi hỏi phải được
thực hiện có kế hoạch và chủ động. GVCN có thể thăm gia đình học sinh cùng với
đại diện CMHS.
- Tổ chức các cuộc họp CMHS theo kế hoạch của nhà trường, có thể kết hợp
tổ chức tọa đàm, nội dung họp phải thiết thực, phải tập trung bàn sâu, bàn kỹ về
biện pháp giáo dục học sinh, mỗi cuộc họp phải có nội dung mới tránh đơn điệu
(năm sau cũng như năm trước, hoặc CMHS đi họp chỉ để biết đóng bao nhiêu tiền).
c/ Nâng cao năng lực công tác của giáo viên chủ nhiệm để họ có khả năng vận
động, thuyết phục CMHS và biết gợi ý, định hướng hoạt động của Ban đại
diện CMHS lớp.
Hiệu trưởng có kế hoạch nâng cao năng lực của GVCN giúp họ có khả năng
vận động, thuyết phục CMHS, biết gợi ý, định hướng hoạt động cho Ban đại diện
CMHS của lớp :
- Tham gia vào một số buổi sinh hoạt dưới cờ đâu tuần, buổi sinh hoạt lớp,
qua đó Ban đại diện có thể hỗ trợ cho GVCN thúc đẩy việc học tập của học sinh,
giáo dục học sinh.



11

- Phối hợp thực hiện tốt công tác duy trì sĩ số học sinh , chống bỏ học, hạn chế
lưu ban, giúp đỡ học sinh có hoàn cảnh khó khăn, học sinh nghèo, góp phần đảm
bảo hiệu quả giáo dục.
- Phối hợp giáo dục học sinh cá biệt, học sinh có sai phạm.
- Trao đổi với CMHS tìm hiểu các nguyên nhân ảnh hưởng đến các tồn tại của
học sinh, để thống nhất cách giáo dục học sinh.
- Kiến nghị với chính quyền địa phương xây dựng môi trường lành mạnh,
ngăn ngừa tệ nạn xã hội xâm nhập vào trường học.
- Phối hợp với các tổ chức xã hội ngoài nhà trường, hỗ trợ nhà trường trong
công tác giáo dục ngoài giờ lên lớp, giáo dục đạo đức lối sống, giáo dục thẩm mỹ,
…, tuyên truyền, cổ động về dân số, phòng chống tệ nạn xã hội, , học sinh có sai
phạm.
- Trao đổi với CMHS tìm hiểu các nguyên nhân ảnh hưởng đến các mặt tồn
tại của học sinh, để thống nhất cách giáo dục học sinh.
- Kiến nghị với chính quyền địa phương xây dựng môi trường lành mạnh,
ngăn ngừa tệ nạn xã hội xâm nhập vào trường học.
- Phối hợp với các tổ chức xã hội ngoài nhà trường, hỗ trợ nhà trường trong
công tác giáo dục ngoài giờ lên lớp, giáo dục đạo đức lối sống, giáo dục thẩm mỹ,
…, tuyên truyền, cổ động về dân số, phòng chống tệ nạn xã hội, …
d/ Hiệu trưởng chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm tổ chức hội nghị CMHS lớp
+ Phổ biến cho tập thể giáo viên về kế hoạch, yêu cầu của việc tổ chức hội
nghị CMHS ở các lớp nhằm làm cho hội nghị CMHS ở các lớp có kết quả như :
đảm bảo số lượng tham dự, khai thác được các tiềm năng sẵn có của các Chi hội.
+ Làm cho GV nhận thức được tầm quan trọng của hội nghị CMHS lớp. Đó
là cơ sở, điều kiện thuận lợi để GVCN có thể tìm ra những biện pháp giáo dục
thích hợp đối với lớp mình, động viên CMHS tích cực tham gia công việc giáo dục
ở trường và ở gia đình, giúp CMHS phương pháp giáo dục và theo dõi con cái ở
nhà, giúp CMHS hiểu rõ công việc giảng dạy và giáo dục của nhà trường và việc

học tập, rèn luyện của con cái họ để họ tổ chức cho học sinh học tập, lao động, vui
chơi giải trí và các hoạt động ngoài giờ lên lớp.
+ Chỉ rõ các nội dung, thủ tục của hội nghị CMHS lớp:


12

- Thông báo cho CMHS biết về quỹ hội năm học trước; tình hình học tập
của học sinh đầu năm ; yêu cầu về kiến thức bộ môn cần đạt; những biện pháp cụ
thể của trường như kế hoạch phụ đạo cho học sinh yếu kém, nhất là các lớp cuối
cấp; mức độ và thời gian thu các khoản học phí, xây dựng; thời gian học chính
khóa ở trường, (cần cho phụ huynh nắm được thời khóa biểu cụ thể của các em để
có kế hoạch theo dõi, quản lý); các lần họp CMHS định kỳ trong năm học; các chủ
trương của nhà trường, của lớp; nội quy của nhà trường ; quy định của Bộ Giáo
dục và đào tạo về xếp loại hạnh kiểm, văn hóa, lao động cho học sinh.
- Nêu rõ những hình thức, biện pháp phối hợp giữa nhà trường và gia đình.
Đây là dịp GCVN có thể đưa ra những lời khuyên cần thiết cho CMHS trong cách
giáo dục con em ở nhà.
- Nhắc lại những nhiệm vụ và quyền hạn của CMHS trong việc giáo dục con
em, trong quan hệ với nhà trường theo quy định của pháp luật chứ không phải là
khoán trắng cho nhà trường.
- Tổ chức thảo luận để CMHS góp ý kiến, thống nhất chương trình công tác.
- Bầu ra Ban đại diện cha mẹ học sinh của lớp.
- GVCN mời CMHS của học sinh cá biệt ở lại gặp riêng ở cuối buổi họp.
- Gửi biên bản cho lãnh đạo trường tập hợp và xử lý ý kiến của hội nghị
CMHS lớp.
+ Bảo đảm cho GVCN thực hiện các nhiệm vụ cụ thể như: Chuẩn bị tư tưởng
cho học sinh để các em mời được cha mẹ đến dự; ghi và gửi giấy mời họp kịp thời,
không quá trễ, nội dung giấy mời họp do nhà trường phát hành thống nhất, giấy
mời họp nên có nội dung chính của cuộc họp; chuẩn bị cuộc họp có nội dung

phong phú, thiết thực, hấp dẫn và tiến hành khéo léo; nắm được tình hình lớp, hiểu
sâu sắc tập thể học sinh; ghi các ý kiến đóng góp, các yêu cầu, nguyện vọng của
CMHS của lớp trong hội nghị để nhà trường tổng hợp, xem xét.
1.4.2. Biện pháp hiệu trưởng chỉ đạo đội ngũ giáo viên phối hợp với gia đình
và Ban đại diện CMHS:
+ Đề ra những quy định cụ thể, thống nhất nhằm đảm bảo thực hiện các hình
thức phối hợp có nề nếp.


13

+Tổ chức trao đổi kinh nghiệm giữa GVCN và Ban đại diện CMHS như
kinh nghiệm giao tiếp, biện pháp quản lý học sinh, biện pháp giáo dục học sinh.
+ Chỉ dẫn trực tiếp trong quá trình công tác :
- Chẳng hạn như cách ghi lời phê của giáo viên khi thông báo cho CMHS
sao cho rõ ràng, thiết thực và tế nhị.
- Đề ra nội dung chính của các kỳ họp CMHS (đầu năm học, cuối học kỳ I,
giữa kỳ II hoặc cuối năm) cho GVCN, từ đó từng GVCN sẽ cụ thể nội dung cho
phù hợp với tình hình của lớp mình.
- Tư vấn cho GVCN cách giao tiếp với từng thành phần CMHS giải
quyết những trường hợp giáo dục học sinh cá biệt.
+ Hiệu trưởng kiểm tra công tác phối hợp với gia đình học sinh của GVCN
qua việc xem xét hồ sơ chủ nhiệm, lắng nghe ý kiến của CMHS, theo dõi việc thực
hiện các nhiệm vụ phải làm, các yêu cầu cần đạt, các quy định cần tuân theo …
nhằm làm cho GVCN ý thức được vai trò, trách nhiệm của mình đối với việc phối
hợp với CMHS, từ đó tự giác thực hiện nghiêm túc các nhiệm vụ, các yêu cầu, các
quy định của trường trong công tác phối hợp với CMHS.
2. Cơ sở pháp lý của đề tài :
+ Khoản 2, điều 3, Luật Giáo dục năm 2005 đã nêu : “Hoạt động giáo dục
phải được thực hiện theo nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao

động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với
giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”.
+ Điều 93, khoản 1, Luật Giáo dục năm 2005:
Nhà trường có trách nhiệm chủ động phối hợp với gia đình và xã hội để thực
hiện mục tiêu, nguyên lý giáo dục.
+ Điều 95, Luật Giáo dục quy định quyền của cha mẹ hoặc người giám hộ
của học sinh :
Cha mẹ hoặc người giám hộ học sinh có những quyền sau:
1) Yêu cầu nhà trường thông báo về kết quả học tập, rèn luyện của con em hoặc
người được giám hộ.
2) Tham gia các hoạt động giáo dục theo kế hoạch của nhà trường; tham gia các
hoạt động giáo dục của CMHS trong nhà trường.


14

3) Yêu cầu nhà trường, cơ quan quản lý giáo dục giải quyết theo pháp luật những
vấn đề có liên quan đến việc giáo dục con em hoặc người được giám hộ.
+ Điều 45, Điều lệ Trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông
và trường phổ thông có nhiều cấp học (Ban hành kèm theo Thông tư số:
12/2011/TT-BGDĐT ngày 28/3 /2011 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo)
có quy định rõ trách nhiệm của nhà trường :
Nhà trường phải chủ động phối hợp thường xuyên và chặt chẽ với gia đình
và xã hội để xây dựng môi trường giáo dục thống nhất nhằm thực hiện mục tiêu
nguyên lý giáo dục.
+ Điều 46, Điều lệ Trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông
và trường phổ thông có nhiều cấp học (Ban hành kèm theo Thông tư số:
12/2011/TT-BGDĐT ngày 28/3 /2011 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) có
quy định về Ban đại diện cha mẹ học sinh như sau:
1) Mỗi lớp có một Ban đại diện CMHS tổ chức theo từng năm học gồm các

thành viên do cha mẹ, người giám hộ học sinh cử ra để phối hợp với GVCN lớp.
GV bộ môn trong việc giáo dục học sinh.
2) Mỗi trường có một Ban đại diện CMHS được tổ chức trong mỗi năm học
gồm một số thành viên do các Ban đại diện CMHS từng lớp bầu ra để phối hợp với
nhà trường thực hiện các quy định tại điều 45 của Điều lệ này.
3.Nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và hoạt động của Ban đại diện CMHS từng lớp,
từng trường trung học thực hiện theo điều lệ Bân đại diện CMHS.
+ Điều 47. Quan hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội
Nhà trường phối hợp với chính quyền, đoàn thể địa phương, Ban đại diện
cha mẹ học sinh, các tổ chức chính trị - xã hội và cá nhân có liên quan nhằm:
1. Thống nhất quan điểm, nội dung, phương pháp giáo dục giữa nhà trường,
gia đình và xã hội để thực hiện mục tiêu giáo dục.
2. Huy động mọi lực lượng và nguồn lực của cộng đồng chăm lo cho sự
nghiệp giáo dục, góp phần xây dựng cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục của nhà
trường; xây dựng phong trào học tập và môi trường giáo dục lành mạnh, an toàn,
ngăn chặn những hoạt động có ảnh hưởng xấu đến học sinh; tạo điều kiện để học


15

sinh được vui chơi, hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao lành mạnh phù hợp với
lứa tuổi.
II. THỰC TRẠNG VỀ CÔNG TÁC PHỐI HỢP VỚI GIA ĐÌNH VÀ BAN
ĐẠI DIỆN CHA MẸ HỌC SINH Ở TRƯỜNG THPT XUÂN MỸ – HUYỆN
CẨM MỸ – TỈNH ĐỒNG NAI:
1. Đặc điểm tình hình nhà trường :
1.1. Địa bàn:
Trường THPT Xuân Mỹ là một trường thuộc diện vùng sâu, vùng xa của
huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai, trường được thành lập năn 2004 trên cơ sở tách ra
từ trường cấp 2,3 Xuân Mỹ.

Tổng số phòng học: 17 phòng, phòng bộ môn: 4, tuy nhiên các phòng bộ
môn chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế vì còn tận dụng các phòng học do trường
xây theo mô hình cũ chưa thiết kế các phòng bộ môn, trang thiết bị cơ sở vật chất
đã đáp ứng được một phần nhu cầu đổi mới hiện nay; địa bàn trường đứng trên địa
bàn 1 xã vùng sâu, vùng xa vùng kinh tế còn nhiều khó khăn, …nhiều học sinh nhà
cách trường trên 30km , phải đi học bằng xe đưa rước học sinh; đối tượng học sinh
diện chính sách rất nhiều (diện xóa đói giảm nghèo, con thương binh, 100% học
sinh của trường thuộc vùng kinh tế khó khăn được miễn giảm học phí …). Các em
học sinh đa số là con em công nhân cao su, nông dân…nên sự quan tâm của phụ
huynh học sinh đến con em mình còn nhiều hạn chế.
1.2. Chất lượng đầu vào :
Trường thực hiện xét tuyển vào lớp 10, do trường đóng chân trên địa bàn
vùng sâu vùng xa nên chất lượng tuyển vào không đạt chỉ tiêu đề ra ( tuyển 100%
học sinh nộp hồ sơ xét tuyển) do đó học sinh trúng tuyển vào trường đa số là các
em có học lực yếu, TB, …tính cách hiếu động, nghịch ngợm, không thích học và tu
dưỡng dạo đức trong các năm học ở cấp II vì các em mang tư tưởng dù sao cũng
trúng tuyển, sau năm học lớp 10, trường phải sắp xếp danh sách lớp lại cho phù
hợp với thực chất, vì đầu năm lớp 10 khi xếp lớp thì phải dựa vào đăng ký chọn
ban của học sinh và phải dựa vào điểm số sau năm học lớp 10 nhà trường mới có
cơ sở để phân loại, chon ban học cho các em dưa vào lực học cuối năm.


16

Công tác tư vấn chọn ban ở các trường THCS chưa tốt, cũng như CMHS
chưa nắm được năng lực và sở thích của học sinh, luôn thích cho con chọn ban
KHTN hoặc ban cơ bản nâng cao toán, lý, hóa trong khi các em học rất yếu những
môn này. Nhiều học sinh vì sỹ diện với bạn bè không chiu theo học ban C trong
khi học rất yếu các môn tự nhiên.
Kết quả sau năm lớp 10 phải săp xếp lại, nhà trường phải tiếp tục tư vấn cho

học sinh để các em chuyển đổi ban cho phù hợp hơn, nhưng chưa tác động đến
CMHS nên hiệu quả tư vấn chưa đạt yêu cầu, tình trạng học sinh học trung bình
yếu nhưng vẫn học chương trình nâng cao, kết quả học tập giảm sút nhiều.
1.3. Về phía Ban đại diện CMHS và gia đình học sinh :
a/ Ban địa diện CMHS :
Ban đại diện CMHS gồm 1 trưởng ban, 1 thư ký, 3 thành viên đại diện cho 3
khối. Mỗi lớp cũng có Ban đại diện, nhưng chủ yếu chỉ có Ban đại diện của trường
hoạt động, chưa huy động được lực lượng CMHS từng lớp, ở lớp một số GVCN
cũng chỉ liên hệ từng CMHS khi cần. Ban đại diện CMHS của lớp có, nhưng
không hoạt động, sự phối hợp giữa GVCN và CMHS chưa tốt, việc giáo dục học
sinh gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ học sinh bỏ học, học yếu còn cao.
b/ Gia đình học sinh :
Gia đình học sinh ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển và hình thành nhân
cách của HS. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều gia đình chưa thật sự là môi trường phát
triển và hình thành nhân cách tốt cho con em mình, điều đó thể hiện như sau:
-

Do CMHS nhận thức chưa đầy đủ về việc học của con em mình, chưa am

hiểu về kế hoạch hoạt động của nhà trường.
-

Trong một số gia đình, học sinh còn là lao động chính, khi gặp khó khăn

về kinh tế, cha mẹ sẵn sàng cho con cái nghỉ học hoặc không tạo điều kiện thuận
lợi cho con em học tập. Gia đình chưa tạo đủ thời gian cho con em tự học và rèn
luyện ở nhà, chưa xây dựng được thói quen sinh hoạt và học tập ở nhà (như thời
gian, không gian, vị trí học tập), hoạt động học tập thiếu khoa học nên mất thời
gian mà hiệu quả không cao.
-


Đa số gia đình các em là công nhân cao su nên thời gian đi làm nhiều

(sáng đi từ 3, 4 giờ sáng, chiều 15 giờ 30’ mới về đến nhà, khi về thì mệt mỏi


17

không còn thời gian quan tâm con cái nữa). Chính vì vậy cha mẹ học sinh thường
buông lỏng việc quản lý con cái khoán trắngviệc quản lý giáo dục con cái cho nhà
trường, chưa tích cực và chủ động phối hợp với nhà trường, với GVCN để cùng
nhau giáo dục con em mình; một số gia đình quá quan tâm gây sức ép tâm lý ảnh
hưởng đến sức khỏe, tinh thần, thể chất của học sinh. Cha mẹ quá nuông chiều con
thì luôn che giấu những hành vi sai trái của con, khi con mắc sai phạm còn bất hợp
tác tỏ thái độ bênh vực con.. .
-

Một số gia đình buôn bán, đi làm xa nhà…. con cái không người chăm

sóc, không quản lý được con cái hoặc một số gia đình buôn bán, kinh doanh những
nghề mà xã hội đang bài trừ như: “bia ôm”, “nhà chứa”, tụ điểm giải trí không
lành mạnh… từ đó cũng làm ảnh hưởng đến lối sống của con cái.
-

Trong gia đình thì vợ chồng thường xuyên bất đồng ý kiến, nặng lời với

nhau, đôi khi còn dùng bạo lực hành hung nhau, ly thân hoặc ly dị nhau. Từ đó con
cái mất tình yêu thương, đùm bọc của cha mẹ dẫn đến mất phương hướng trong
cuộc sống và thiếu điều kiện tốt nhất để học tập.
-


Có thể nói rằng cha, mẹ thiếu gương mẫu, xử sự thiếu văn hóa, không

phù hợp (trong lời nói và hành động) đối với con cái sẽ làm mất lòng tin ở con nên
khó giáo dục được con.
1.4. Về phía nhà trường :
Tổng số CB – GV – NV của trường gồm 54 người, trong đó CBQL: 2, giáo
viên: 44, Công nhân viên: 8.
Tổng số học sinh toàn trường: 960 học sinh, chia làm 26 lớp (lớp 12: 4 lớp;
lớp 11: 10 lớp, lớp 10: 12 lớp).
Công tác sắp xếp phân công lực lượng giáo viên làm công tác chủ nhiệm
cũng gặp khó khăn, như: một số giáo viên nhiệt tình, có kinh nghiệm trong công
tác chủ nhiệm không nhiều, một số giáo viên có con nhỏ, thiếu nhiệt tình, hoặc quá
lớn tuổi thì làm công tác chủ nhiệm không tốt.
a. Học sinh : Còn nhiều học sinh có học lực yếu, kém bởi lý do:
- Nhà trường phải xét tuyển 100% hồ sơ xét tuyển vào lớp 10.
- Ý thức học tập của học sinh chưa tốt, mất căn bản nhiều năm nên chán học
khi bị gây sức ép phải học thì bỏ học.


18

- Do sự phát triển nhanh của công nghệ thông tin, của các tụ điểm ăn chơi
không lành mạnh như: Internet, karaoke, game, caffe…trong khi đó các em lại
thiếu sự quan tâm quản lý chặt chẽ của gia đinh – nhà trường – xã hội dẫn đến tình
trạng nhiều học sinh thích chơi bời, trốn học…
- Mặt khác do sự phát triển không ngừng của các khu công nghiệp lớn trên
địa phương, quá trình tuyển dụng lao động của các công ty luôn thiếu và dễ, chỉ
cần tuyển lao động phổ thông một số thanh niên không có trình độ học vấn vẫn đi
làm và có tiền đã rủ rê học sinh nghỉ học đi làm, hoặc một số học sinh sau khi tốt

nghiệp vẫn không có việc làm, không có điều kiện học tiếp thường đi làm ở khu
công nghiệp, đã tác động đến học sinh học trung bình, yếu, kém nghĩ rằng học
nhiều cũng chẳng được gì, nghỉ học đi làm để sớm có tiền không phụ thuộc vào gia
đình.
Tỷ lệ bỏ học các năm học vừa qua:
Năm học
Tỉ lệ %

2008 - 2009

2010 – 2011

12/879

5/895

(1.3%)

(0.55%)

2011 – 2012 (Tính đến ngày
25/05/2012)
4/960 (0.4%)

Trong đó chủ yếu là: do lực học yếu, kém dẫn tới chán học, nghỉ học đi làm,
hoặc học yếu nên mặc cảm với bạn bè.
b. Giáo viên bộ môn : Gặp khó khăn trong giảng dạy và tổ chức kiểm tra
với lý do sau :
- Đối tượng học sinh có lực học phân hoá nhiều giáo viên bộ môn không thể
theo sát đối tượng, khó tìm phương pháp phù hợp cho từng đối tượng ở mỗi hoạt

động.
- Một số giáo viên còn lúng túng trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy,
chưa tích cực học tập trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp.
- Một số giáo viên bộ môn chưa phối hợp tốt với GVCN trong công tác giáo
dục học sinh cá biệt, học sinh yếu kém.
c. Giáo viên chủ nhiệm :


19

- Chưa nhiệt tình, chưa chịu khó bám sát lớp, một số giáo viên còn thiếu
kinh nghệm trong công tác chủ nhiệm, còn lúng túng trong cách tổ chức lớp, cách
giải quyết các vấn đề có liên quan đến học sinh cá biệt còn khô cứng đôi khi ứng
xử chưa thật tế nhị, tạo mặc cảm cho các em.
- Chưa xây dựng được môi trường tập thể lớp tốt cho giáo viên bộ môn
giảng dạy để đạt hiệu quả cao.
- Kế hoạch chủ nhiệm và biện pháp thực hiện còn nhiều thiếu sót hoặc chưa
phù hợp.
- Thiếu sự phối hợp thường xuyên đến CMHS, chưa định hướng được hoạt
động của ban đại diện CMHS của lớp.
1.5. Chính quyền địa phương :
- Đời sống kinh tế, văn hoá xã hội đang phát triển, nhiều gia đình bắt đầu
quan tâm đến vấn đề giáo dục, tuy nhiên một bộ phận không nhỏ phụ huynh mải lo
làm ăn, ít quan tâm đến việc học hành của con cái, thậm chí còn khoán trắng cho
nhà trường, tạo ra nhiều bất lợi cho việc phối hợp giữa gia đình và nhà trường
nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục.
- Chưa quản lý chặt chẽ những tụ điểm vui chơi không lành mạnh, các đoàn
thể xã hội chưa làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục thanh thiếu niên tham gia
hoạt động giáo dục tốt.
- Địa phương còn thiếu nhiều khu vui chơi giải trí phù hợp với lứa tuổi học

sinh để lôi cuốn các em tham gia vào hoạt động xã hội.
2. Thực trạng và phân tích thực trạng việc chỉ đạo GVCN phối
hợp với gia đình và Ban đại diện cha mẹ học sinh ở Trường THPT
Xuân Mỹ:
2.1. Hiệu trưởng chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm lớp xây dựng kế
hoạch phối hợp với CMHS:
2.1.1. Thực trạng:
Từ trước năm học 2007 – 2008 tình hình học sinh của trường đã có nhiều
biểu hiện vi phạm nội qui của trường, chưa chấp hành tốt về nề nếp tác phong,
hàng năm đều có kỷ luật ở mức buộc thôi học 2 đến 3 học sinh, một số cha mẹ học
sinh có thái độ xem thường thầy cô giáo, tổ chức kiện cáo gây mất đoàn kết trường


20

học. Trước tình hình đó từ năm học 2007-2008 hiệu trưởng nhà trường có quan
tâm hơn về công tác chỉ đạo GVCN phối hợp với cha mẹ học sinh giáo dục nhân
cách đạo đức cho các em, và trong quá trình phối hợp làm việc hiệu trưởng nhà
trường đã nhận thấy rằng: trong công tác chủ nhiệm một công việc không thể thiếu
và yếu được đó là công tác phối hợp với CMHS.
Trong quá trình chỉ đạo bên cạnh việc vừa theo dõi hoạt động của một số
GVCN, phân tích những việc đã làm và chưa làm của từng GCVN, Hiệu trưởng
trường THPT Xuân Mỹ đã đúc kết được một số công việc chính trong quá trình chỉ
đạo như sau:
Đầu năm học hiệu trưởng chỉ đạo cho GVCN, xây dựng kế hoạch phối hợp
với CMHS.
+ Chỉ đạo GVCN lớp tiến hành điều tra để phân tích tình hình cụ thể
của từng lớp:
- Nội dung điều tra:
Nội dung điều tra ở đầu năm: (lưu vào hồ sơ chủ nhiệm).



Diện chính sách: Diện xoá đói giảm nghèo, cận

nghèo, dân tộc, mồ côi (cha hoặc mẹ, hoặc cả hai), thương binh (loại gì?).


Nghề nghiệp cha, mẹ, anh chị em trong gia đình

(Công chức, công nhân, buôn bán, làm rẫy…).


Các em ở trọ hay ở nhà (lưu ý rõ có người quản lý

hay không).


Công việc thường làm ở nhà.



Sở thích năng khiếu.



Bạn gần nhà, bạn cùng đường.



Số điện thoại cha, mẹ.


- Số ngày nghỉ (phép hay không phép), số lần cúp giờ, không thuộc bài hay
một số vi phạm khác, … ở năm học trước (công việc này GVCN có thể xem trong
học bạ của các em).
- Kết quả học tập từng môn.
- Nhận xét của chủ nhiệm năm qua.


21

Đây là những dữ liệu cần thiết trong quá trình chủ nhiệm học sinh, thông qua
đó giáo viên nắm đầy đủ các thông tin của học sinh và từ kinh nghiệm, phán đoán
có thể hiểu được cách giáo dục của cha mẹ học sinh trong thời gian qua, hiểu được
nguyên nhân dẫn đến những tồn tại của học sinh, từ đó GVCN vạch ra kế hoạch
phối hợp với CMHS.
- Nội dung điều tra trong năm: (lập sổ thi đua của từng tổ trong lớp) để nắm
nề nếp học tập, kết quả học tập, rèn luyện đạo đức, sức khoẻ, tâm tư tình cảm, yêu
cầu, nguyện vọng, … của học sinh.
- Biện pháp điều tra:
Xem học bạ học sinh năm trước để nắm rõ tình hình phấn đấu, rèn luyện và
học tập của từng em trong lớp; cho học sinh ghi phiếu lý lịch trích ngang, nắm kết
quả kiểm tra văn hoá đầu năm; quan sát hoạt động của học sinh trong trường, trong
giờ học, trao đổi, trò chuyện với học sinh … .
Trao đổi với CMHS về những nội dung cần tìm hiểu (lập phiếu hỏi ý kiến
cha mẹ học sinh về những nội dung cần tìm hiểu).
Trao đổi với GVCN năm trước, GVBM, với ban cán sự lớp.
+ Hiệu trưởng đề ra các yêu cầu xây dựng kế hoạch phối hợp như:
- Lập sổ kế hoạch (trong sổ chủ nhiệm có dành riêng các trang để ghi kế
hoạch phối hợp).
- Yêu cầu GVCN xây dựng cụ thể những công việc chính cần phối hợp.

- Số lần hội nghị, thời gian hội nghị, xây dựng kế hoạch, nội dung cụ thể
trước khi hội nghị.
- Quy định trường hợp nào thì mời CMHS đến trường, khi nào nhất thiết phải
đến thăm nhà học sinh, … .
- Ghi nhận kết quả cuộc tiếp xúc, theo dõi kết quả tiến bộ của học sinh sau khi
tiếp xúc với CMHS.
- Lập dự trù kinh phí đóng góp của CMHS: xây dựng các tiêu chuẩn khen
thưởng học sinh, xây dựng kế hoạch tổ chức ngoại khoá, tham quan du lịch, … .
2.1.2. Phân tích thực trạng:
Tuy hiệu trưởng có hướng dẫn cho GVCN xây dựng kế hoạch, nhưng do
hiệu trưởng hướng dẫn thông qua buổi họp GVCN đầu năm, nên GVCN nắm chưa


22

đầy đủ, một số GVCN chưa có kinh nghiệm phân tích vấn đề, một số GVCN thiếu
nhiệt tình trong việc tìm hiểu học sinh, nên việc nắm tình hình lớp rất lỏng lẻo, có
những chuyện xảy ra người khác biết nhưng GVCN chưa biết.
Nhiều GVCN xây dựng kế hoạch còn chung chung (chủ yếu mời CMHS khi
học sinh vi phạm), chưa có kế hoạch mời CMHS để hỗ trợ giáo dục học sinh cá
biệt, nên hiệu quả phối hợp chưa cao, chưa huy động sức thu hút của CMHS trong
lớp để tác động đến những CMHS chưa nhận thức đầy đủ về việc giáo dục con em
mình.
Đa số kế hoạch phối hợp của GVCN với CMHS các khối 10, 11 đạt hiệu quả
chưa cao, ảnh hưởng đến việc phối kết hợp của GVCN khối 12.
Công tác giáo dục hướng nghiệp cho học sinh đã được Hiệu trưởng quan
tâm và chỉ đạo trong việc xây dựng kế hoạch phối hợp với CMHS để tuyên truyền,
hướng nghiệp hoặc tổ chức các hoạt động ngoại khóa cho các em nhưng nhiều phụ
huynh không quan tâm hoặc nhà trường chưa có giáo viên chuyên trách công tác
giáo dục hướng nghiệp mà chủ yếu dựa vào giáo viên chủ nhiệm các lớp nên kết

quả giáo dục hướng nghiệp cho các em chưa cao.
Việc xây dựng tiêu chuẩn thi đua khen thưởng của từng lớp chưa đạt hiệu
quả, chưa mang tính khích lệ thúc đẩy học sinh ngày càng tiến bộ để từ đó các em
cảm thấy hãnh diện và thấy cần phải phấn đấu hơn nữa.
2.1.3. Đề xuất :
+ Để việc xây dựng kế hoạch phối hợp với CMHS tốt hơn, trước tiên hiệu
trưởng phải tác động đến GVCN hiểu được tầm quan trọng của mối quan hệ nhà
trường và gia đình, trong kế hoạch phải xây dựng được việc tuyên truyền cho
CMHS nắm được mục đích giáo dục chung, mục tiêu giáo dục, các chuẩn kiến
thức cần đạt của học sinh nhất là việc thực hiện chủ đề năm học.
Hiệu trưởng chỉ đạo cho GVCN tùy tình hình hoạt động của trường mỗi
năm, xây dựng kế hoạch phối hợp với CMHS thiết thực hơn, cụ thể hơn. Hiệu
trưởng nên quy định bằng văn bản những việc cần phải làm, những yêu cầu cụ thể
(đưa thành dạng biểu bảng, văn bảng, …) để GVCN thực hiện một cách thống
nhất, thuận lợi hơn và hiệu trưởng kiểm tra dễ dàng hơn.


23

+ Để việc phân tích tình hình đầu mỗi năm học được dẽ dàng và có cơ sở để
xây dựng kế hoạch phối hợp với CMHS trong năm thì hiệu trưởng cần chỉ đạo lập
sổ theo dõi học sinh (mỗi học sinh có một sổ lưu giữ suốt cấp học, nội dung cần
thể hiện rõ những ý trên và dùng làm phiếu liên lạc với CMHS) như vậy GVCN
năm sau tìm hiểu học sinh dễ dàng và chính xác hơn.
Từ năm học 2011 – 2012 nhà trường đã sử dụng phần mềm quản lý học
sinh (Smas), để CMHS mỗi tháng có thể nắm tình hình học sinh qua mạng, hoặc
gửi qua tin nhắn điện thoại. nếu CMHS nào chưa có điều liện thì GVCN sẽ gửi
bằng sổ liên lạc. Như vậy CMHS sẽ nắm được tình hình con em mình hàng tháng
một cách rõ ràng chi tiết, GVCN chỉ cần tập trung phối hợp với CMHS ít quan
tâm.

+ Quan tâm chỉ đạo GVCN phối hợp với Ban đại diện chi hội CMHS lớp
tham gia tổ chức hoạt động giáo dục học sinh, ví dụ như :
- Mỗi tháng một lần, Ban đại diện chi hội có thể dự giờ sinh hoạt lớp để nắm
được tình hình lớp, hoặc trực tiếp tham gia tổ chức tiết học này.
- GVCN có thể huy động sự hỗ trợ của CMHS thông qua Ban đại diện chi hội
về kinh phí tổ chức hoạt động, đặc biệt là sự tham gia trực tiếp của CMHS cùng
với GVCN tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp trong và ngoài nhà
trường cho học sinh của lớp, ví dụ như: thông qua các buổi họp làm cho CMHS
nhận thức rõ ý nghĩa của việc hướng nghiệp đối với sự thành đạt nghề nghiệp của
con em họ sau này, cũng có thể nhờ CMHS thành đạt, doanh nghiệp, … nói về
nghề nghiệp tương lai cho học sinh, cũng như vấn đề tuyên truyền phòng chống
các tệ nạn xã hội, tổ chức các hoạt động phòng chống ma túy nhằm “miễn dịch”
cho học sinh trước tệ nạn ma túy,
- Xây dựng quỹ khuyến học của lớp, chính Ban đại diện CMHS của lớp quản
lý và tự thu chi. Như vậy cần xây dựng tiêu chuẩn khen thưởng của lớp sao cho
kích thích được học sinh ham muốn tiến bộ một cách có ý nghĩa, chia thành từng
giai đoạn ngắn (có thể tiến hành khen hàng tuần) tiêu chuẩn khen thưởng phải làm
sao cho học sinh nào cũng có thể đạt được nếu có cố gắng (đừng để chỉ có học sinh
giỏi của lớp mới được khen thưởng), hàng tháng CMHS tham dự sinh hoạt lớp
phát thưởng và treo giải cho tháng sau.


24

2.2. Hiệu trưởng chỉ đạo GVCN tổ chức hội nghị CMHS lớp :
2.2.1. Thực trạng việc chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm tổ chức hội nghị cha mẹ
học sinh :
+ Thời điểm tổ chức :
Thông thường ở trường hàng năm có 3 lần tổ chức họp CMHS :
Lần 1: Hội nghị CMHS đầu năm – đây là lần quan trọng nhất

Vào trung tuần tháng 9 khi nhà trường đã có điểm kiểm tra chất lượng đầu
năm và giáo viên chủ nhiệm đã sơ bộ nắm được tình hình của học sinh lớp mình
phụ trách. Hiệu trưởng sẽ cho tiến hành tổ chức họp phụ huynh đầu năm, nội dung
chính là báo cáo chất lựơng kiểm tra đầu năm học để phụ huynh nắm được lực học
của con em mình, sau đó GVCN tiến hành phổ biến nội qui, yêu cầu của nhà
trường đối với việc học tập của học sinh, trao đổi giữa giáo viên và CMHS để
thống nhất việc giúp đỡ các em học tập ở nhà và ở trường. Thông qua cho CMHS
biết được qui chế đánh giá xếp loại học lực-hạnh kiểm học sinh của Bộ Giáo dục
và Đào tạo để tiện đánh giá xếp loại cho các em ở cuối năm.
Lần 2:
Vào cuối học kỳ I để thông báo kết quả học tập, ưu khuyết điểm của từng
em, chú ý những em yếu kém và những vấn đề đòi hỏi gia đình cần phối hợp với
nhà trường giúp các em học tốt hơn trong học kỳ II.
Lần 3: (Chỉ tổ chức cho khối 12)
Vào trung tuần tháng 4, sau khi có kết quả kiểm tra giữa kỳ II và biết môn
thi tốt nghiệp, thông báo kết quả học tập của 6 môn thi tốt nghiệp, phân tích kết
quả cho CMHS nắm được thế mạnh, yếu của học sinh để tạo điều kiện bồi dưỡng
giúp đỡ học sinh học tập tốt hơn, đặc biệt là tìm biện pháp tổ chức ôn thi tốt nghiệp
cho học sinh, kế hoạch phụ đạo những học sinh học yếu, kém.
Ngoài các đợt tổ chức Hội nghị toàn thể CMHS, GVCN có thể mời gặp
riêng CMHS khi cần thiết như: học sinh vắng không phép nhiều ngày; học sinh
cúp tiết bỏ giờ nhiều lần, học tập giảm sút (thường xuyên không thuộc bài, đi trễ,
hút thuốc, ngủ gật, không chép bài …), học sinh có biểu hiện bất thường, nghi vấn
khác, … .
+ Nội dung chỉ đạo của Hiệu trưởng :


25

- Hiệu trưởng phổ biến với GVCN về nội dung và thời gian tổ chức hội nghị

CMHS lớp thông qua buổi họp hội đồng sư phạm, yêu cầu GVCN cho HS gửi giấy
mời họp về CMHS.
- Hiệu trưởng gợi ý nội dung (có thể soạn thảo), từ đó yêu cầu giáo viên chủ
nhiệm chuẩn bị nội dung họp cụ thể bằng văn bản (từ chương trình, nội dung,
chuẩn bị các biểu mẫu).
Về chương trình:
- Thư ký thu nhận thư mời và ghi nhận danh sach CMHS dự họp.
- GVCN giới thiệu thành phần tham dự và nêu yêu cầu của cuộc họp.
- GVCN báo cáo sơ bộ kết quả hoạt động của nhà trường, lớp trong thời gian
qua; thông báo cụ thể kết quả học tập và hạnh kiểm của học sinh, đặc biệt lưu ý
đến các học sinh cá biệt và học sinh yếu kém. Nếu là buổi họp đầu năm GVCN
có thể thay mặt nhà trường báo cáo kết quả thi tốt nghiệp năm vừa qua, tỷ lệ
đậu vào các trường đại học, cao đẳng của học sinh khối 12.
- GVCN lần lượt đi vào từng nội dung cuộc họp.
- Gợi ý cho CMHS nêu ý kiến đóng góp, thảo luận.
- GVCN giải thích, trao đổi các ý kiến đóng góp của CMHS.
- Thư ký thông qua biên bản, đại diện CMHS ký tên, nộp biên bản cho lãnh đạo
nhà trường tổng hợp và tổ chức hội nghị CMHS cấp trường.
Về nội dung :
Mỗi lần họp, ngoài những nhiệm vụ chung cần có nội dung mới riêng, phù
hợp với từng thời điểm họp; tránh đơn điệu, không cần thiết, giúp cho CMHS cảm
nhận được sự cần thiết khi đến họp và mong muốn nhà trường tổ chức họp nhiều
hơn nữa:
Ví dụ (nội dung họp lần 1): GVCN thông qua kế hoạch hoạt động trọng tâm.
Mục tiêu chủ yếu của trường, lớp; sinh hoạt nội quy học sinh cho CMHS nắm ; nêu
những quy định về xếp loại hạnh kiểm và học tập.
GVCN thông báo cụ thể các khoản thu – chi, và thời hạn thu, chế độ miễn
giảm đối với từng trường hợp cụ thể.



×