Tải bản đầy đủ (.docx) (55 trang)

hình ảnh người phụ nữ trong văn học trung đại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.58 KB, 55 trang )

GVHD: LÊ VĂN LỰC

NHÓM 6

PHẦN 1: LỜI NÓI ĐẦU
Nhà thơ Huy Cận từng viết:
“Chị em tôi tỏa nắng vàng lịch sử
Nắng cho đời nên cũng nắng cho thơ”
Có thể nói, ngày nay vị trí của người phụ nữ đã được đề cao, tôn vinh. Hình
ảnh người phụ nữ Việt Nam hiện diện ở nhiều mặt trong cuộc đời và đã để lại
nhiều hình ảnh bóng sắc trong thơ văn hiện đại. Nhưng đáng tiếc thay, trong xã
hội cũ người phụ nữ lại phải chịu một số phận đầy bi kịch và đáng thương:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
(Nguyễn Du)
Nói về hình ảnh người phụ nữ thời xưa người ta thường hay chú ý đến thân
phận của họ, thế nhưng kèm theo chính điều đó là những phẩm chất đáng quý mà
họ có được. Trên hành trình số phận của người phụ nữ các nhà thơ đã dành cho
họ một tình cảm chân thành nhất, đó chính là tấm lòng nhân đạo sâu sắc. Đặt biệt
phải kể đến là giai đoạn thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX, nhờ văn học,
người phụ nữ Việt Nam càng được tôn vinh và hiện hữu ngày một đậm nét. Qua
những áng thơ văn bất hữu, những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng như Hồ Xuân
Hương, Nguyễn Du, Đặng Trần Côn, Nguyễn Gia Thiều v.v… đã khắc họa sâu
sắc hình ảnh người phụ nữ đương thời như một điển hình của tạo hóa, của mọi sự
chịu đựng, lam lũ, cần cù, tấm lòng yêu thương tha thiết cũng như số phận khắc
nghiệt mà họ luôn là người chịu đựng. Qua đó, ta càng trân trọng hơn những gì
họ đã mang đến cho cuộc đời này. Tạo hóa vốn dĩ tạo ra người phụ nữ là để tô
hồng cho cuộc sống, để chính những sự mềm yếu, chịu dựng của họ tạo tiền đề

1



GVHD: LÊ VĂN LỰC

NHÓM 6

cho những sự trỗi dậy mãnh liệt, kiên cường vượt qua muôn ngàn khó khăn, thử
thách cũng như để tôn vinh giá trị làm người của họ - lớp người luôn được xem
là tay yếu chân mềm. Có lẽ thấu hiểu cho nỗi thống khổ trong số phận của người
phụ nữ lúc bấy giờ mà những tác phẩm văn học hay những áng thơ của các tác
gia nổi tiếng đã dễ dàng đi sâu vào lòng người đọc bởi sự chan chứa yêu thương
và bao dung, chia sẻ. Thân phận lênh đênh như đám lục bình, trôi dạt đi đâu khi
ngoài kia bầu trời còn xa xăm, mờ mịt hay gánh nặng ưu hoài trên đôi vai trơ
gầy, trần trụi. Khi biết bao nỗi niềm chất chứa còn chưa được giãi bày, văn học
đã là chất xúc tác, là tiếng nói đưa người phụ nữ đến gần hơn với sự thấu hiểu và
cảm thông. Văn học lay động người ta đến từng câu chữ và giúp con người biết
hành động hơn để bảo vệ chính mình cũng như nâng cao giá trị hiện hữu mà
mình vốn dĩ xứng đáng có được.

PHẦN 2: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1.Vị trí của người phụ nữ trong văn học trung đại từ
thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX
Ở giai đoạn văn học thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX, vấn đề vận
mệnh dân tộc không còn là yêu cầu bức thiết nữa, mà vấn đề chính là vận mệnh
nhân dân, là số phận con người, số phận cá nhân. Như vậy, từ những biến thiên
lớn trong xã hội, từ sự bất bình đẳng sâu sắc và nỗi khát khao cháy bỏng được
sống làm người với đúng nghĩa của nó, ý thức xã hội có chiều hướng vươn lên
những cái tốt đẹp hoàn thiện. Cũng từ đó nảy sinh ra những luồng tư tưởng khác
nhau với những đặc điểm cơ bản như: vạch trần cái thói nát, tham tàn vô luân
của giai cấp thống trị, sự sụp đổ một cách thảm hại của các tín điều Nho giáo, tố
cáo mạnh mẽ mọi tội ác áp bức bất công đối với nhân dân hay vấn đề khẳng định


2


GVHD: LÊ VĂN LỰC

NHÓM 6

con người cá nhân, khẳng định đời sống trần tục với thế giới nội tâm phong phú,
phức tạp của con người. Đặc biệt là bày tỏ lòng thương yêu con người nhất là
người phụ nữ.
Từ cuộc đời bước vào thơ văn, hình ảnh người phụ nữ mang một dáng dấp,
hình hài nhỏ bé mà vô cùng đáng thương, đáng quý. Nên không phải vô tình mà
lịch sử văn học trung đại, giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XX
là giai đoạn phát triển rực rỡ nhất. Bởi mỗi nhà văn nhà thơ trong giai đoạn này,
thông qua các tác phẩm của mình, họ đã phản ánh trung thực và đầy đủ về hiện
thực xã hội mà họ đang sống, bộ lộ mối quan tâm sâu sắc đến số phận con người,
nhất là số phận của những người phụ nữ. Vì thế hình tượng người phụ nữ đẹp đẽ
mà đau đớn nổi bật trong hơn nửa thế kỉ văn học qua những tác phẩm ưu tú.
Có đọc “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn, ta mới có thể đồng cảm và
thấu hiểu cho lời tâm sự của người chinh phụ khi chờ đợi, ngóng trông, lo lắng
cho sinh mạng của người chồng nơi chiến trường xa chốn mù khơi:
“Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phụ trăng dõi dõi soi”
Hình ảnh người chinh phụ trong tác phẩm này là cả một tâm hồn đắm chìm trong
buồn nhớ, lo lắng, giận hờn đồng thời cũng mong mỏi:
“Thiếp xin chàng chớ bạc đầu
Thiếp thì giữ mãi lấy màu trẻ trung”
Nếu “Chinh phụ ngâm” đã vẽ nên một người phụ nữ đau khổ trong cơn gió
bụi chiến tranh, thì “Cung oán ngâm” của Nguyễn Gia Thiều đã góp thêm hình

ảnh người phụ nữ nhan sắc mà chán chường mệt mỏi cho thân phận mình. Đó là
hình ảnh người cung nữ bị bỏ rơi nơi cung cấm: đau khổ và tuyệt vọng. Nàng
bộc lộ nỗi thê thảm trong sự cô đơn, tù túng:
“Đêm năm canh lần nương vách quế
3


GVHD: LÊ VĂN LỰC

NHÓM 6

Cái buồn này ai dễ giết nhau
Giết nhau chẳng cái lưu cầu
Giết nhau bằng cái ưu sầu độc chưa”.
Ở Truyện Kiều Nguyễn Du đã nói lên tất cả những tiếng lòng đau đớn của
bao kiếp đời phụ nữ trong xã hội phong kiến đương thời nói chung và của nàng
Kiều nói riêng. Thật vậy, cuộc đời Thúy Kiều trong toàn bộ tác phẩm là chuỗi
ngày dài đau khổ và bất hạnh mà nguyên nhân không gì khác hơn là những bất
công, ngang trái do xã hội phong kiến này gây ra. Vì xã hội đó mà một người
con gái “Một hai nghiêng nước nghiêng thành/ sắc đành đòi một tài đành họa
hai” đã phải: “thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”. Ta thấy hình ảnh của những
cô gái thanh lâu hay những ca kĩ không chỉ được đề cập đến một lần trong
“truyện Kiều”, mà còn được Nguyễn Du nhắc đến trong “Văn chiêu hồn” hay
“Long thành cầm giả ca” với tấm lòng xót xa, thương cảm tột độ. Tự trong thâm
tâm, chính tác giả cũng đang rên xiết với nỗi đau khổ, bất hạnh với nỗi đau bất
hạnh của những người con gái tài sắc một thời, vậy mà giờ đây họ bị bỏ rơi giữa
cuộc đời gió bụi, không một mái nhà, không kẻ đoái hoài, thậm chí đến khi chết,
liệu có mấy ai thắp cho một nén nhang như Thúy Kiều đã từng thắp lên mộ Đạm
Tiên?. “Khách má hồng” đau thương, buồn thảm, nhưng không gì có thể bắt họ
đánh mất đi tấm lòng son sắt, trinh bạch của mình, như lời Kim Trọng đã từng ca

ngợi Thúy Kiều mười lăm năm lăn lóc ô nhục:
“Bụi nào cho đục được mình ấy vay”
Cũng một kiếp người được sinh ra, nhưng thương thay họ trót phải mang
thân phận nữ nhi. Họ là những con người yếu đuối, đáng trân trọng nhưng lại
luôn bị vùi dập dưới vũng bùn xã hội phong kiến đen tối. Họ có chống trả, nhưng
càng chống trả thì dường như lại càng bị nhấn sâu hơn vào vũng bùn lầy lội ấy,

4


GVHD: LÊ VĂN LỰC

NHÓM 6

những lề thói phong kiến khắc nghiệt, bạo tàn vẫn bủa vây lấy họ, không cho họ
tự định đoạt hạnh phúc đời mình.
Còn đến với thơ Hồ Xuân Hương, ta thấy chưa bao giờ hình ảnh người phụ
nữ hiện ra mạnh mẽ đến như vậy và chưa bao giờ vấn đề thân phận người phụ nữ
trong đời thường được nêu một cách thống thiết, mạnh mẽ đến như vậy. Hình
ảnh người phụ nữ trong thơ bà là người bình dân với đủ tài giỏi, khôn khéo,
mạnh mẽ, chua cay của họ. Con người ấy dù “bảy nổi ba chìm” vẫn quyết giữ
tấm lòng son thắm đẹp, con người ấy có lúc dám vượt qua điều “cấm kị”:
“Cả nể cho nên mới dở dang
Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng”.
Con người ấy còn nguyền rủa cả kiếp sống lẻ mọn:
“Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”
Và thông cảm với nỗi “đèo bồng” của nữ giới:
“Một bên con khóc, một bên chồng
Tất cả những là thu với vén,

Vội vàng vào những bống cùng bông”
Phải chăng đó là đại diện cho tiếng nói của bao phụ nữ đang quằn quại
trong bóng tối nặng nề của xã hội phong kiến? Và phải chăng từ trong thâm tâm,
họ ước ao nếu người đàn ông và người phụ nữ cùng ở một địa vị ngang hàng
trong một thế giới công bằng thì thật hạnh phúc biết bao!
Hơn sáu thế kỉ dài đã trôi qua, xã hội phong kiến Việt Nam chỉ còn là quá
khứ chìm đắm trong dĩ vãng xa xăm, u uất một thời. Những nàng Kiều, nàng
chinh phụ, cung nữ... đã nằm lại trong nỗi đau đớn, cảm thông của toàn nhân
loại. Nhưng ước mơ, khát khao cháy bổng một thời của những người con gái ấy
đã trở thành sự thật. Phụ nữ hôm nay đã có được quyền bình đẳng, đã có quyền

5


GVHD: LÊ VĂN LỰC

NHÓM 6

được thể hiện, khẳng định bản thân mình, đã cùng nhau góp nên những vẻ đẹp
truyền thống, dịu dàng cho phụ nữ Việt Nam

CHƯƠNG 2.Một số đặc điểm tiêu biểu của người phụ nữ Việt
Nam trong văn học trung đại thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ
XIX
2.1 Nhan sắc, tài năng, đức hạnh
2.1.1 Nhan sắc, tài năng
Nhan sắc và tài năng là hai vấn đề cùng tồn tại song song trong các tác
phẩm văn học thuộc thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX. Nhưng những người
phụ nữ có nhan sắc và tài năng lại thường gắn liền với số phận éo le, nghiệt ngã,
hay nói cách khác là “tài hoa bạc mệnh”, điều đó ta có thể thấy rõ trong tác phẩm

“Truyện Kiều” của Nguyễn Du.
Kiều là hiện thân của vẻ đẹp và tài hoa, nàng không chỉ mang vẻ đẹp hình thức
mà còn mang cả vẻ đẹp tâm hồn và vẻ đẹp tài năng. Để làm nổi bật vẻ đẹp đó,
Nguyễn Du đã mô tả vẻ đẹp của Thúy Vân trước, đó như là một thủ pháp nghệ
thuật đắc dụng góp phần làm hoàn chỉnh bức chân dung Thúy Kiều.
“Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.”
Chỉ những câu thơ như thế, đã đủ cho chúng ta hình dung Thúy Vân đẹp đến
nhường nào. Chỉ vài nét chấm phá, bức chân dung của Thúy Vân hiện lên thật
nghiêm trang, đứng đắn và phúc hậu. Gương mặt của nàng đầy đặn như mặt
trăng tròn. Chân mày của nàng đẹp như mày của con bướm tằm. Đuôi mắt của
nàng đẹp như mắt phượng. Miệng của nàng nở nụ cười tươi như đóa hoa đang
6


GVHD: LÊ VĂN LỰC

NHÓM 6

khoe sắc, tỏa hương. Tiếng nói của nàng trong như ngọc. Những làn mây trên
không trung vẫn không đẹp bằng mái tóc mượt mà của nàng. Tuyết là biểu tượng
của màu trắng nhưng không nhường màu cho da mịn màng, trắng trẻo của nàng.
Bằng cách phối hợp các biện pháp nghệ thuật ước lệ, tượng trưng, ẩn dụ, nhân
hóa, liệt kê, đối ngữ, thậm xưng và cách dùng các từ láy, từ Hán Việt một cách
điệu luyện, Nguyễn Du không những miêu tả được vẻ đẹp ưa nhìn của Thúy Vân
mà còn dự báo được tương lai của nàng. Đặc biệt, các từ "thua", "nhường" cho
chúng ta thấy số phận bình an, tốt lành của Thúy Vân trên những chặng đường
đời.

Tiếp đến, Nguyễn Du đã nêu lên bức chân dung của nàng Kiều.Hai câu thơ đầu
đã nói rõ lên vẻ đẹp hình thức của nàng.
“Làn thu thuỷ nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”
Kiều có vẻ đẹp sắc sảo mặn mà. Tả Kiều Nguyễn Du sử dụng bút pháp đặc tả đôi
mắt để qua đó nói lên vẻ đẹp trong thế giới tâm hồn của nhân vật. Kiều đẹp đến
mức hoa ghen liễu hờn, thiên nhiên cũng sinh lòng đố kị, vì thế mà số phận long
đong cực khổ. Điều này cho thấy sắc đẹp Kiều đã đạt đến độ hoàn thiện, hoàn
mĩ. Hình ảnh “Làn thu thuỷ, nét xuân sơn” là hình ảnh mang tính ước lệ, đồng
thời cũng là hình ảnh ẩn dụ, gợi lên một đôi mắt đẹp trong sáng, long lanh, linh
hoạt như làn nước mùa thu, đôi lông mày thanh tú như nét núi mùa xuân, rất đẹp
và quyến rũ. Vẻ đẹp ấy của Kiều làm cho hoa ghen, liễu hờn, nước nghiêng
thành đổ. Hoa và liễu là tương trưng cho những vẻ đẹp chuẩn mực của tạo hóa,
tạo hoá thế nhưng vẻ đẹp của nàng Kiều lại vượt lên trên cả vẻ đẹp ấy làm cho
''hoa ghen, liễu hờn'', thiên nhiên, tạo hoá cũng phải ghen ghét, đố kị trước vẻ
đẹp đó. "Hoa" và "liễu" là những loài vô tri, vô giác, vậy mà còn phải "ghen",
"hờn", tức giận trước vẻ đẹp "sắc sảo mặn mà", "mười phân vẹn mười" của
7


GVHD: LÊ VĂN LỰC

NHÓM 6

nàng.Nhìn chung, Nguyễn Du có dụng ý rất rõ trong việc nhấn mạnh tài sắc của
Thúy Kiều, nhà thơ đã cực tả Thúy Vân, tưởng như sắc đẹp của Thúy Vân không
ai hơn được nữa, để rồi sau đó, Thúy Kiều xuất hiện thì Thúy Vân trở thành một
cái nền làm tôn sắc đẹp của Thúy Kiều là tuyệt đỉnh.
Nếu như ở Thúy Vân, Nguyễn Du chỉ miêu tả sắc đẹp thì ở Thúy Kiều, nhà thơ
vừa miêu tả nhan sắc, vừa ca ngợi tài năng:

“Sắc đành họa một, tài đành hoạ hai”
Như vậy, về sắc thì đành chỉ có một mình Thúy Kiều về tài thì may ra, họa hoằn
lắm mới có người thứ hai. Thứ nhất là trí thông minh sẵn có do tạo hóa ban tặng:
“Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương lầu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”
Kiều rất mực thông minh và đa tài. Tài của Kiều đạt đến mức lý tưởng theo quan
niệm thẩm mỹ phong kiến, hội đủ cầm, kỳ, thi, hoạ. Đặc biệt tài đàn của nàng đã
là năng khiếu (nghề riêng) của nàng. Vẻ đẹp chân dung Thuý Kiều là bức chân
dung mang tính cách và số phận khi cho tạo hoá phải ghen ghét, các vẻ đẹp khác
phải đố kị, tài hoa trí tuệ thiên bẩm, cả cái tâm hồn đa sầu đa cảm khiến Kiều
không thể tránh khỏi định mệnh nghiệt ngã, số phận éo le, gian khổ. Ta thấy
trong các tác phẩm văn hoc thời kì này, những con người tài sắc vẹn toàn như
nàng Kiều thường gắn với số phận gian truân, hay nói cách khác là “tài hoa bạc
mệnh”.
Kiều không chỉ đẹp về hình thức và tài năng, ở nàng còn nổi bật vẻ đẹp phẩm
chất tâm hồn. Nàng là một người có tâm hồn trong sáng và trái tim đa sầu, đa
cảm.Kiều luôn luôn hiểu và cảm nhận được nỗi đau khổ của người khác và tìm
cách giải quyết. Đặc biệt nàng còn là một người con hiếu thảo,vì khi gia đình
8


GVHD: LÊ VĂN LỰC

NHÓM 6

mắc oan Kiều đã hi sinh bản thân mình, hi sinh hạnh phúc của cá nhân mình để
cứu cha, cứu em và chữ hiếu của Kiều đặt cao hơn tất cả và được thể hiện bằng
hành động.Trong suốt quãng đời lưu lạc, lúc nào Kiều cũng sống trong băn

khoăn day dứt vì không làm tròn trách nhiệm của người con đối với cha mẹ. Khi
bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, Kiều cũng không nguôi nhớ về cha mẹ. Trong
tình yêu, nàng là một người có trái tim chung thủy, ý thức vị tha. Nàng có một
tình yêu rất đẹp với Kim Trọng- tình yêubắt nguồn từ hai trái tim, rất chung thuỷ
nhưng cũng rất biết hi sinh.Mối tình Kim - Kiều chính là biểu tượng cho khát
vọng hạnh phúc của con người.
Nói đến tài năng và nhan sắc của người phụ nữ, ngoài tác phẩm Truyện
Kiều còn có tác phẩm “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều. Đây là tác
phẩm thơ trữ tình trường thiên, đã xoáy trúng vào một vấn đề nghiêm trọng,
nhức nhói, đã và thậm chí vẫn đang còn tồn tại trong xã hội loài người. Đó là số
phận bi kịch của người phụ nữ có nhân phẩm cao quý bị vùi dập thảm thương
bởi những thể chế, tập tục của một xã hội phi nhân đạo. “Cung oán ngâm khúc”
là bài ca ai oán của người cung nữ có tài sắc. Nàng cung nữ là một sinh linh
thượng đẳng. Trước hết, nàng là một người con gái tài sắc vẹn toàn:
“Hương trời đắm nguyệt say hoa
Tây Thi mất vía, Hằng Nga giật mình.
Cầu cẩm tú đàn anh họ Lý,
Nét đan thanh bật chị chàng Vương…
Dẫu mà miệng hát tay dang,
Thiên tiên cũng ngảnh nghê thường trong trăng…”
Nàng được bao người trân trọng, một tương lai đầy hứa hẹn hạnh phúc đang chờ
đón nàng:

9


GVHD: LÊ VĂN LỰC

NHÓM 6


“Làng cung kiến rắp ranh bắn sẻ,
Khách công hầu gấm ghé mong sao…”
Thế rồi bỗng đâu áng mây đen chụp xuống, ông vua háu sắc thấy tài sắc của
nàng bèn xuống lệnh tuyển nàng vào cung làm cung phi, thực chất là tàn phá
cuộc đời nàng. Vì nhân bản của cung nữ rất lành mạnh nên bất chập tất cả những
sự trớ trêu của tấn trò đời, những phẩm chất thiên chân và nữ tính tuyệt đẹp của
nàng về tình yêu, về đức hạnh…vẫn cứ thể hiện trọn vẹn ngay trong hoàn cảnh
nàng bị lừa dối. Nàng ngộ nhận rằng tình yêu của vua với nàng là một tình yêu
có thực:
“Hạt mưa đã lọt miền đài các,
Những mừng thầm cá nước duyên may…”
2.1.2 Đức hạnh
2.1.2.1 Đức hi sinh
Sự hi sinh vì gia đình và người mình yêu càng góp phần làm cho hình ảnh
của người phụ nữ trong giai đoạn này đẹp đẽ và cao thượng hơn.
Các tác phẩm như Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều), Chinh phụ
ngâm khúc (Đặng Trần Côn – Đoàn Thị Điểm), thơ Nôm Hồ Xuân Hương và
đặc biệt hơn là Truyện Kiều của Nguyễn Du đều cho ta thấy sự hi sinh cao cả
của người phụ nữ Việt Nam vốn không được coi trọng trong giai đoạn này.
Dân gian ta có câu:
“Ơn cha nặng lắm ai ơi
Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang”
Công ơn cha mẹ như núi cao biển rộng, dù dã bán thân để cứu cha nhưng Kiều
vẫn day dứt vì chưa thể có thời gian phụng dưỡng cha mẹ khi về già. Lần nào khi
10


GVHD: LÊ VĂN LỰC

NHÓM 6


nhớ tới cha mẹ Kiều cũng nhớ ơn chín chữ cao sâu và luôn ân hận mình vẫn
chưa đền đáp được công ơn dưỡng dục của đấng sinh thành.
“Nhớ ơn chín chữ cao sâu,
Một ngày một ngả bóng dâu tà tà.
Dặm ngàn, nước thẳm, non xa,
Nghĩ đâu thân phận con ra thế này.
Sân Hòe đôi chút thơ ngây,
Trân Cam, ai kẻ đỡ thay việc mình.”
Tuy đang đất khách quê người Kiều vẫn lo lắng nơi quê nhà không biết ai sẽ thay
mình ngày đêm chăm sóc mẹ cha. Thúy Vân và Vương Quan vẫn còn “đôi chút
thơ ngây” Kiều vẫn chưa thể yên tâm, dù khoảng cách địa lý giữa Kiều và gia
đình bây giờ là “dặm ngàn, nước thẳm, non xa” nhưng tâm trí Kiều lúc nào cũng
thương nhớ gia đình, khoảng cách tâm hồn là trong gang tấc.
Khi Kiều bị Tú Bà giam lỏng ở lầu Ngưng Bích (với lời hứa hẹn là tìm một chốn
nhà lành để gửi thân, nhưng thực chất là để chờ cơ hội bày mưu bán Kiều.)
“Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.”
Nếu ở trên là tâm trạng Kiều là nhớ mẹ, thương cha thì đến đây nổi nhớ ấy trở
thành niềm xót thương mãnh liệt. Nàng thương cha mẹ từ bấy lâu vẫn sớm hôm
tựa cửa chờ tin của đứa con lưu lạc. Nàng xót thương da diết và day dứt khôn

11


GVHD: LÊ VĂN LỰC

NHÓM 6


nguôi vì không thể quạt nồng, ấp lạnh, phụng dưỡng song thân khi già yếu.
Thành ngữ “quạt nồng, ấp lạnh” và điển cố “Sân Lai”, “gốc tử” đều nói lên tâm
trạng nhớ thương, hiếu thảo của Kiều. Nàng tưởng tượng nơi quê nhà tất cả đã
đổi thay. Cha mẹ thì mỗi người một thêm già yếu mà nàng chẳng thể bên cạnh
lúc này để chăm sóc. Giờ đây khoảng cách giữa nàng và gia đình là cách mấy
nắng mưa. Thiên nhiên không chỉ tàn phá cảnh vật mà còn tàn phá cả tâm hồn
con người. Kiều xót xa nhìn cảnh mà thương nhớ quê nhà, nổi nhớ ấy của nàng
được gửi vào chiều dài thời gian và chiều sâu không gian bởi vậy mà càng thêm
da diết sâu sắc.
“Xót thay huyên cỗi xuân già,
Tấm lòng thương nhớ biết là có nguôi.
Chốc đà mười mấy năm trời,
Còn ra khi đã da mồi tóc sương.”
Đã mười mấy năm tha phương lưu lạc nơi quê người, Kiều xót xa tưởng nhớ về
quê hương, nơi có cha mẹ gia cùng hai người em thân thương đang ngày đêm
trông ngóng mình, nơi mà ngày xưa Kiều đã từng có cuộc sống “ êm đềm
trướng rủ màn che.” Kiều ngậm ngùi thương nhớ, một nổi nhớ khôn nguôi, Kiều
nghẹn lòng “xót thay huyên cỗi xuân già”, khi nghĩ rằng cha mẹ già giờ đã “ da
mồi tóc sương.” Nàng như tự trách mình, chẳng thể ở bên Người khi ốm yếu.
Một phẩm chất cao đẹp thể hiện một tình cảm bền vững của nàng đối với gia
đình.
Thân phận nàng Kiều cũng chính là thân phận chung cho những người phụ
nữ trong xã hội lúc bấy giờ, thân phận bạc mệnh, đau đớn, tủi nhục…trong xã
hội phong kiến thối nát, với những lễ giáo khe khắt, cổ hủ nhưng sâu trong tâm
hồn họ vẫn tiềm ẩn vẻ đẹp sáng ngời, Thúy Kiều dù bị đầy đọa, bị chà đạp, lăng
12


GVHD: LÊ VĂN LỰC


NHÓM 6

chạ trong cuộc sống bùn nhơ, nhưng nàng vẫn một lòng khát khao được đoàn tụ
với gia đình, luôn tưởng nhớ đến quê hương, đến cha mẹ già và hai đứa em vẫn
còn thơ dại.
Ta trân trọng Kiều, trân trọng đức hi sinh của nàng biết mấy, vì gia đình, vì một
chữ “hiếu” nàng đã phải để tuổi xuân mình trôi đi một cách nhạt nhẽo, đánh đổi
cả cuộc đời và mối tình chưa trọn vẹn với chàng Kim:
“Duyên hội ngộ đức cù lao
Bên tình, bên hiếu bên nào nặng hơn?”
Và “Chinh phụ ngâm khúc” cũng có những người phụ nữ như thế. Chiến
tranh khiến bao gia đình chia ly, vợ xa chồng, con phải xa cha, những người
chinh phu ra đi để lại những người chinh phụ phải sầu nhớ, phải cô đơn, phải
mòn mỏi ngóng chồng về. Người phụ nữ có thể hi sinh hạnh phúc của bản thân,
mặc dù rất sợ cảnh chia ly nhưng vẫn vui vẻ để chồng yên tâm ra trận. Dẫu biết
rằng rồi đây mình sẽ cô đơn bên phòng đơn gối chiếc:
“Nỗi lòng biết ngõ cùng ai
Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây”
để rồi nhan sắc tàn phai theo thời gian mà chồng không biết khi nào mới trở về:
“Thoi đưa ngày tháng ruổi mau
Người đời thắm thoát theo màu xuân xanh”
“Mỗi năm một nhạt màu son phấn”
“Nghĩ mệnh bạc tiếc niên hoa
Gái tơ mây chốc sảy ra nạ lòng”
Người chồng ra trận, nghĩa là đôi vai yếu mềm của người phụ nữ phải gánh thêm
biết bao gánh nặng. Chăm mẹ già, nuôi con nhỏ, cả những lo toan cuộc sống
hằng ngày
13



GVHD: LÊ VĂN LỰC

NHÓM 6

“Một thân nuôi già, dạy trẻ
Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân”
Ca dao Việt Nam cũng đã từng nhắc đến:
“Anh đi em ở lại nhà
Hai vai gánh vác mẹ già con thơ
Lầm than bao quản muối dưa
Anh đi anh liệu chen đua với đời”
Người phụ nữ trong xã hội xưa đều có chung một số phận, đều mang tên chung
là bất hạnh. Dù họ có sắc đẹp, có tâm hồn cao thượng đều bị phong tục cổ hủ, lễ
nghi khắc nghiệt ràng buộc. Họ có thể vùng dậy mạnh mẽ nhưng họ không thể
chiến thắng được các thế lực đen tối tàn bạo của xã hội bất công. Dù bị chà đạp,
bị đè nén nhưng ở họ luôn toát lên những vẻ đẹp, không chỉ đẹp ở ngoại hình mà
còn mang vẻ đẹp của nội tâm.
2.1.2.2 Chung thủy trong tình yêu và đợi chờ ngày hạnh phúc
Phụ nữ Việt Nam là những người chung thủy, luôn sống trọn tình vẹn
nghĩa. Hình ảnh hòn vọng phu – đá trông chồng là biểu tượng cảm đông nhất về
phẩm chất rạng ngời của người phụ nữ Việt Nam. Từ ngàn xưa, quan niệm về
một tình yêu đẹp, trọn vọn không thể thiếu lòng thủy chung – thước đo giá trị
tình cảm của những người yêu thương nhau. Thời phong kiến lòng chung thủy
của người phụ nữ còn được gắn với ước mong đợi chờ ngày hạnh phúc. Hoàn
cảnh lịch sử đã đưa người phụ nữ rơi vào thế bị đông khi mà họ phải chịu nhiều
đau thương, sự chèn ép của xã hội. Nhưng cũng chính những khó khăn ấy lại là
động lực tạo nên sức mạnh để họ có thể vững tin vào tình yêu và hướng đến
hạnh phúc trong tương lai
14



GVHD: LÊ VĂN LỰC

NHÓM 6

“ Thiên thu ghi tạc tình sông núi
Hạnh phúc muôn đời nghĩa phu thê”
Hay:
“Yêu anh cốt rũ xương mòn
Yêu anh đến thác vẫn còn yêu anh”
“Chừng nào muối ngọt chanh thanh
Em đây mới dám bỏ anh lấy chồng”
(Ca dao)
Đã yêu thì không hối hận mà dù đã có “trót” gắn nghĩa cau trầu với ai thì cũng
một lòng một dạ với chồng, giữ vẹn trinh tiết như “Trai thời trung hiếu làm đầugái thời tiết hạnh làm câu răn mình”. Và trong thơ Hồ Xuân Hương cũng không ít
hơn một lần người phụ nữ này mượn lời riêng mình như để nói đến lời chung của
người mà bộc bạch đầy tự hào trước xã hội trước những đấng nam nhi:
“Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặng
Mà em vẫn giữ tấm lòng son”
(Bánh trôi nước)
“Vẫn giữ” một thái độ kiên định, bền vững giữa sóng gió cuộc đời mà vẫn giữ
“tấm lòng son” để tượng trưng cho phẩm chất sắc son, thủy chung, chịu thương,
chịu khó của người phụ nữ đối với chồng, với xã hội dù ngược chiều theo nó lại
là sự bất công, xô đẩy của cái “bất công bằng” từ lâu đã trở thành hiển nhiên lúc
bấy giờ. Chữ “sắc”dẫu có phai tàn nhưng “tâm” của người vẫn cứ còn đây, đậm
nét không phai. Thái độ trân trọng, yêu mến và đâu đó vẫn là xót xa cảm thông
cho người và cũng là cho mình của Hồ Xuân Hương.

15



GVHD: LÊ VĂN LỰC

NHÓM 6

Yêu thương, chung thủy với chồng không những khi đang chung sống bên
nhau một dạ sắc son mà khi người chồng ra đi biền biệt, bỏ lại sau lưng ruộng
đồng, nhà cửa, gánh nặng gia đình “nuôi dạy con thơ, phụng dưỡng mẹ già” để
làm ra trận đầu tuyến binh lửa.Sợ chia ly nhưng vẫn quyến luyến giây phút ly
biệt:
“Áo chàng đỏ tựa ráng pha
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in”
(Chinh phụ ngâm)
Rồi sau đó, một mình người phụ nữ vẫn can đảm vượt mọi khó khăn, chồng đánh
giặc ngoài, thân mình gánh vác việc nhà, chung thủy chờ chồng trở về trong
ngày chiến thắng.
“ Một thân nuôi già nuôi dạy trẻ”
“Dạy con đèn sách thiếp là phụ thân”
( Chinh phụ ngâm)
Làm tròn trách nhiệm dù vẫn bẽ bàng không thể tưởng tượng ra cảnh xa chồng
khi còn rất trẻ mà đối với nàng đó chỉ là một điều rất xa chưa hề có ý niệm:
“ Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ
Chàng há từng là lũ vương tôn?
Cớ sao cách trở nước non
Khiến người thôi sớm thì hôm những sầu”
Thái độ và cách ứng xử của nàng trong nghịch cảnh vượt xa những hạng đàn bà
tầm thường như vợ Tô Tần ngày xưa:

16



GVHD: LÊ VĂN LỰC

NHÓM 6

“Thiếp chẳng dại như người Tô phụ…
Trên khung cửi dám rẫy ruồng làm cao.
Xin vì chàng xếp bào cởi giáp,
Xin vì chàng rũ lớp phong sương,
Vì chàng tay chuốc chén vàng,
Vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng…”
Dù phải đau khổ khôn cùng, nàng vẫn tỏ ra là một người có bản lãnh cả về tâm
hồn lẫn đức hạnh, không hề mang thói “nhi nữ thường tình” mà giận hờn, oán
trách chồng. Thậm chí nàng còn cố gắng dung hoà với “lí tưởng” của chồng:
“Non Yên tạc đá đề danh,
Triều thiên vào trước cung đình dâng công.
Ơn trên tử ấm thê phong,
Hiển vinh thiếp cũng đượm chung hương trời…”
Tình yêu và phẩm chất chung thủy sắt son, người phụ nữ ấy đã chịu đựng, chấp
nhận, tha thứ hết cho chồng và cho cái cuộc đời đã làm mình đau khổ, chỉ mong
chồng quay trở về.
“Tìm chàng thưở Dương Đài lối cũ
Gặp chàng nơi Tương Phố bến xưa”
Hay sự xem thường vinh hoa, chỉ một lòng giữ nghĩa với chồng như nàng Ngọc
Hoa trong truyện “Phạm Tải Ngọc Hoa” khi Trang Vương cho binh lính đến bắt
nàng về làm vợ. Ngọc Hoa đã dứt khoát cự tuyệt:
“Dù vua xử ức má hồng
Thời tôi tự vẫn khỏi lòng bội phu”
17



GVHD: LÊ VĂN LỰC

NHÓM 6

Thủy chung với chồng, thủy chung với tình yêu, sống “trọn tình trọn nghĩa”
thì dù cho đã lỡ bước “gian truân” thì người phụ nữ vẫn mong giữ gìn một tình
yêu đẹp, cực chẳng đã như Thúy Kiều ( Truyện Kiều- Nguyễn Du) một thân lỡ
bước vào nơi lưu lạc vì cứu cha, thương em phải bán mình mà lỡ hẹn với Kim
Trọng, đành phải đau đớn “trao duyên” cho em. Sau những cuộc vui, lòng nàng
lại thổn thức:
“Đem tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình, mình lại thương mình xót xa
Khi sao phong gấm lư lò
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường”
Đau đớn của nàng trở thành tiếng kêu khẩn khiết, hướng về một tình yêu duy
nhất, một người đã trọn câu thề:
“Ôi! Kim Lang! Hỡi Kim Lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”
Hay sẵn sàng hi sinh mạng sống để giữ lòng trinh bạch :
“Nàng rằng: “Trời thẳm đất dày!
Thân này đã bỏ những ngày ra đi
Thôi thì thôi có tiếc gì”
Cuộc đời như một lần sống “dở”, sống chưa trọn kiếp người bị đày đọa, ức hiếp
giữa “cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia” nhưng vẫn không nguôi nhớ về Kim
Trọng, mong ngày đoàn tụ:

18



GVHD: LÊ VĂN LỰC

NHÓM 6

“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ”
Để rồi sau mười lăm năm, trải qua biết bao thân phận “thanh lâu hai lượt, thanh y
hai lần”, trước mặt người yêu, Kiều vẫn có thể tự hào mà khẳng định về mình,
vẫn “tấm lòng son” nhuộm chẳng thấm bụi đời sáng trong và đáng quý:
“Chữ trinh còn một chút này
Chẳng cầm cho vững, lại giày cho tan”
Sự chờ đợi hạnh phúc, khát khao hạnh phúc của những phụ nữ như một nhu cầu
tất yếu, dẫu chăng không biết có được hay không nhưng vẫn hiện lên rất rõ ràng
và đậm nét. Theo những tâm trạng khắc khoải, ngóng trông chồng nơi biên thùy
xa xôi, mặc cho tuổi xuân hoa mòn vẫn một lòng vò võ chờ chồng:
“Lá màn lay ngọn gió xuyên
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm
Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông”
(Chinh phụ ngâm)
Buồn nhớ lắm, đợi chờ mãi rồi có khi tự vẽ ra hạnh phúc bằng ảo giác “Trên hoa
dưới nguyệt trong lòng xiết bao” và đành ngậm ngùi:
“Đành muôn kiếp chữ tình đã vậy
Theo kiếp này hơn thấy kiếp sau
Thiếp xin chàng chớ bạc đầu
Thiếp thì giữ mãi lấy màu trẻ trung”

19



GVHD: LÊ VĂN LỰC

NHÓM 6

( Chinh phụ ngâm)
Trong tấn bi kịch của cung nữ trong Cung oán ngâm của Đặng Gia Thiều,
trước được vua sủng ái “ Cái đêm hôm ấy đêm gì,/ Bóng dương lồng với bóng
đồ mi trập trùng”; “ Dẫu mà tay có nghìn vàng/ Đố ai mua được một tràng mộng
xuân” sau lại bị lãng quên vứt bỏ, vẫn không nguôi tha thiết nguyện cầu về hạnh
phúc, chờ đợi từ người “chồng” chưa chết nhưng hầu như không tồn tại:
“Hoa này bướm nỡ thờ ơ
Để gầy hoa thắm, để xơ nhụy vàng”
Vẫn là vô vọng, chỉ như phí hoài, biết nhưng phải cố hi vọng để sống, tựa vào để
trông đợi:
“Bóng câu thoáng bên mành mấy nỗi,
Những hương sầu phấn tủi sao xong!
Phòng khi động đến cửu trùng
Giữ sao cho được má hồng như xưa”
( Cung oán ngâm)

2.2 Đời sống nội tâm
2.2.1 Tâm trạng cô đơn
Người phụ nữ trong thế kỉ XVIII-XIX không chỉ là những người có nhan
sắc, đức hạnh, hi sinh, hết lòng chung thủy và yêu thương gia đình, mà khi
nghiên cứu hình ảnh của họ điều nổi bật cần phải đồng cảm đó là tâm trạng cô
đơn. Phụ nữ là thế giới nhạy cảm với nội tâm vô cùng phức tạp.Những giá trị cao
cả mà những người phụ nữ mang lại cho đời sống thế kỉ này thì đáng ra họ phải
20



GVHD: LÊ VĂN LỰC

NHÓM 6

được hưởng hạnh phúc nhưng ngược lại họ đã phải chịu nhiều đắng cay đau khổ
trong tâm trạng cô đơn buồn tủi, xót xa.
Khi nói đến tâm trạng cô độc của người phụ nữ trong xã hội lúc bấy giờ thì
trước tiên phải nhắc đến “Chinh phụ ngâm”. Chính xã hội loạn lạc và binh đao
khói lửa đã gây ra bao nhiêu cảnh chia li tàn khốc cho những kiếp hồng nhan mà
ta thấy rất rõ trong chinh phụ ngâm. Nỗi buồn của thiếu phụ quả là quá cay đắng
bởi chồng của họ trong thời kì này không ra chiến trường với khí thế hào hùng
như những người lính thế kỉ XV. Họ lên đường tham gia trận chiến với sự bảo
thủ quyền lực của xã hội phong kiến mục ruỗng. Xã hội ấy ẩn chứa một thế lực
đen tối của vua quan hủ bại, bảo thủ. Bảo dân đi dân phải đi, bảo dân chết dân
phải chết. Thế đó, không phải tiễn chồng trong niềm tự hào to lớn mà nói đúng
hơn thì người chinh phụ đang phải đối mặt với nỗi đau chia cắt không biết có
được đoàn viên hay không, bởi ra đi ai có mong ngày trở lại, không ai trả lời
được rằng sự chia cắt ấy sẽ kéo dài trong bao lâu, hay là mãi mãi chia lìa. Người
đi kẻ ở khiến cho tâm trạng thiếu phụ thêm co thắt cô đơn trong quằn quoại xót
xa khi phải chứng kiến bước chân dần xa của người chồng:
“Giữa nhà treo bức chiến bào
Thét roi cầu vị ào ào gió thu”
Vì thế trong chinh phụ ngâm khó tránh khỏi luôn xuất hiện hình ảnh người ở hậu
phương mong nhớ kẻ ở biên thùy, người trong cánh cửa luôn sầu nhớ kẻ ở chân
mây.
Tháng ngày dần trôi, người chinh phụ vẫn sống trong cô đơn, mong mỏi, đợi
chờ. Hết xuân sang hạ,thu tàn, đông qua cứ thế lặp đi lặp lại nhưng hình bóng
người thương vẫn mãi xa không trở lại. Sự chờ đợi ấy có góp mặt của buồn tủi,
của chia phôi cho nên cái buồn mỗi ngày một tăng và khó tránh khỏi nhan sắc

21


GVHD: LÊ VĂN LỰC

NHÓM 6

người thiếu phụ tàn phai, gầy guộc. Thời gian trôi đi có chờ đợi cái gì, không
chờ đợi tuổi xuân cũng không đem lại hạnh phúc cho chinh phụ, nó cứ trôi mau
không tiếc nuối, không xót thương hồng nhan của nàng.
“Thoi đưa ngày tháng ruổi mau
Người đời thấm thoát qua màu xuân xanh.”
Biết phải làm sao khi thực tế không ai níu được thời gian cũng không xoay
chuyển được tạo hóa. Thời gian vô tình mãi làm cho nỗi cô đơn người con gái
ngày càng sâu thẳm đến nỗi” mỗi năm một nhạt màu son phấn”. Nhưng người
chinh phụ không vì thế nà bội bạc, nàng luôn ngóng trông, mong đợi khao khát
niềm vui đoàn tụ đến với mình. Có thể nói sự chung thủy chờ đợi không làm họ
nản lòng dù cho đôi lúc nhìn lại vẫn là cảnh phòng không gối chiếc, lạnh lẽo.
Trong những ngày xuân ấm áp mà lẽ ra đôi lứa hẹn hò, hạnh phúc thì những
ngày vui ấy lại trôi qua trong nỗi buồn tủi thân một cách âm thầm lặng lẽ.
Và không chỉ một đoạn trong Chinh phụ ngâm mới nói lên tâm trạng buồn tủi
chung của những kiếp bẽ bàng duyên phận mà hầu như xuyên suốt tác phẩm thì
hình ảnh người chinh phụ cô đơn luôn ẩn hiện. Ai chẳng từng xúc động khi nghe
những lời thì thầm sâu lắng “Thiếp xin chàng chớ bạc đầu” còn “ Thiếp thì giữ
mãi lấy màu trẻ trung”. Trong cái cô đơn của mình thì người chinh phụ vẫn thể
hiện sự cố gắng, luôn hi vọng một tình yêu hạnh phúc sẽ trở lại dù cho thực tế
nàng biết rằng không có gì khó chịu bằng sự chờ đợi, sống trong mong nhớ. Đợi
chờ ở đây không phải là một phút, một năm mà có lẽ là mãi mãi, không có câu
trả lời.Thử hỏi một gia đình mất đi sự gánh vác to lớn của người chồng thì đôi
vai người thiếu phụ sẽ như thế nào? Thật! quả thật chỉ còn là sự yếu đuối trên đôi

vai gầy guộc đáng thương cô độc. Đôi lúc sự mạnh mẽ vẫn nổi lên trong họ tuy
nhiên nỗi buồn vẫn lấn át sự mạnh mẽ ấy. Chinh phụ vẫn thường khắc khoải âu

22


GVHD: LÊ VĂN LỰC

NHÓM 6

sầu, vì nàng không thể làm thay đổi hoàn cảnh mình đang sống. Nàng buộc phải
làm việc để quên đi sự nhớ nhung, quên đi cái cô đơn nhưng có lẽ càng làm thì
nỗi nhớ chồng càng dâng trào mãnh liệt, đến nỗi nàng phải buông xuôi “biếng
cầm kim, biếng đưa thoi”. Gặp được chồng thì họa chăng cũng chỉ là trong giấc
mộng mà chính naàng lại thấu hiểu hơn ai hết rằng “tình trong giấc mộng muôn
vàn cũng không”. Sự bế tắc trong chờ đợi vô vọng đã lên đến đỉnh điểm và trở
thành bi kịch của chinh phụ. Hình ảnh người phụ nữ trong Chinh phu ngâm là
tâm điểm đưa tâm trạng cô đơn của người phụ nữ trong xã hội thế kỉ XVIII đến
nửa đầu thế kỉ XIX lên đến tận cùng của bi kịch, đồng thời bộc lộ bản chất
cường quyền đen tối của thế lực vua chúa thời kì này.Đặng Trần Côn đã cất lên
tiếng kêu đau đớn cho những người chinh phụ “trước hoa dưới nguyệt trong lòng
xót đau”.
Có thể nói, không riêng gì “Chinh phụ ngâm” mà ngay cả “Truyện Kiều”
của Nguyễn Du cũng đem lại những quan niệm mới mẻ về thân phận và nỗi đau
của người phụ nữ, xóa tan những giáo điều cứng nhắc của xã hội phong kiến.
Trong truyện Kiều, hình ảnh người phụ nữ cũng mang tâm trạng buồn cô đơn. Ta
thấy phụ nữ là đối tượng được tạo hóa phú bẩm cho vẻ đẹp “hồng nhan” đồng
thời cũng bị tạo hóa “ đánh ghen”, đọa đày số phận
“Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”
Tác giả cho thấy nổi bật lên trên tất cả cảm xúc có nhuốm màu bi kịch “những

điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Nguyễn Du không chỉ có cái nhìn sắc xảo
“trông thấy cả sáu cõi mà còn có trái tim nhân hậu”.Nhà thơ nhìn thấy thân phận
những người phụ nữ bị chà đạp, vùi dập. Mà Kiều trong tác phẩm của ông là
hình ảnh không thể không nói đến. Thân phận rơi vào bi kịch và tâm trạng cô
đơn của Kiều là một hình mẫu mà tác giả muốn gửi gắm để cất lên tiếng nói

23


GVHD: LÊ VĂN LỰC

NHÓM 6

đồng cảm cho những người phụ nữ xã hội phong kiến. Kiều đã phải chịu sự trôi
nổi qua dòng đời éo le khi phải vào chốn lầu xanh cũng như khi phải chia cắt
mối tình của nàng.
“Người lên ngựa, kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san
Dặm hồng bụi cuốn chinh an,
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh.
Người về chiếc bóng năm canh
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi
Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường!”
Đoạn thơ trên nói lên tình li biệt của Thúc Sinh với Thúy Kiều. Mặc dù Thúc
Sinh không “tài mạo tót vời” như Kim Trọng và cũng chẳng phải là anh hùng
hào kiệt như Từ Hải. Nhưng là con nười đã cứu vớt Thúy Kiều ra khỏi cuộc sống
đáng sợ nơi lầu xanh. Trải qua nhiều trắc trở, họ đã được sống những ngày tháng
hạnh phúc bên nhau “từng cay đắng mặn mà hơn xưa”. Sự li biệt ấy có kẻ ở có
người đi. “Màu quan san” người li biệt mà cảnh cũng nhuốm mảu tâm trạng,

màu quan san là màu của li biệt, một cảnh thiên nhiên với rừng phong đẹp như
thế cũng phải chuyển màu cô đơn. Vậy thử hỏi người ởlại còn buồn bã biết
nhường nào. Thúy Kiều lại phải chịu sự xa cách, cô đơn vì với Thúc Sinh, nàng
đã có một cuộc sống trong sạch, yên ấm, hòa thuận với người chồng đã say mê
nàng. Hai con người nhỏ bé trước thiên nhiên và như bất lực trước số phận. Đây
có thể xem là sự chấm dứt của tình duyên, một kiểu chia lìa bởi rồi đây họ sẽ
không bao giờ có thể tái hợp mặc dầu còn gặp nhau. Thúy Kiều một lần nữa lại
rơi vào tâm trạng cô đơn, thân cô thế yếu nơi tha hương không một người thân
thích. Đoạn thơ Thúc Sinh từ biệt Kiều ngang giá với một thiên phú biệt li. Đẩy
24


GVHD: LÊ VĂN LỰC

NHÓM 6

tình cảnh cùng tâm trạng cô đơn đau xót của Kiều lên cao trào mạnh mẽ. Và có
lẽ đỉnh cao hơn nữa cho tâm trạng cô đơn trong truyện Kiều là lúc nàng ở lầu
Ngưng Bích.
“Bốn bề bát ngát xa trông
……………………..
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ dàu dàu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Âm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Chung quanh những nước non người

Đau lòng lư lạc nên vài bốn câu.”
Sau khi trải qua liên tiếp nhiều tai biến thì lầu Ngưng Bích là khoảnh khắc yên
thân trong giây lát của Kiều. Lúc này nàng đối diện với cảnh vật thiên nhiên và
đối diện với lòng mình trong đất khách quê người, trước một tương lai mờ mịt.
Bi kịch nội tâm đang dần lan tỏa trong một khung cảnh thiên nhiên vắng lặng
không một bóng người, trong dư vị đau khổ vừa trải qua “bẽ bàng mây sớm đèn
khuya”. Một khung cảnh thiên nhiên “ bát ngát xa trông” thâu gồm cả ngọn núi
xa trông và và ánh trăng gần gũi vào bầu trời vô tận.Cái vắng lặng của thiên
nhiên và cái mênh mông của vũ trụ khắc sâu thêm cảm giác cô đơn trong tâm
hồn Kiều và dồn tới lớp lớp những nỗi niềm chua xót đau thương.Nỗi nhớ của
nàng lúc này là hướng về Kim Trọng và song thânvới Kim Trọng thì “tấm son
gột rửa” còn với song thân thì “quạt nồng ấp lạnh”, “sân lai”, “gốc tử”. Tâm
25


×