Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

ảnh hưởng của phật giáo đến văn học campuchia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.86 KB, 31 trang )

Môn: Văn học Đông Nam Á

ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN VĂN HỌC
CAMPUCHIA CỔ

Trường: ĐH Sư Phạm TPCHM
(2013 - 2014 )


LỜI MỞ ĐẦU
Lev Tolstoi – một nhà văn vĩ đại của đất nước Nga đã từng nói: “Tôi sáng tác
dưới ánh sáng của Chúa”, tức là ông sáng tác văn học dựa trên sự soi sáng, chiếu
rọi đầy quyền năng của đấng tối cao. Hay nói cách khác, trong quá trình sáng tác
văn học, tôn giáo và ông không thể tách rời. Đây là một hiện tượng có tính phô
biến toàn nhân loại. Có thể thấy, tôn giáo và văn học nghệ thuật đều là những hình
thái ý thức xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng. Chúng tồn tại song song nhau, đi
sóng đôi với nhau, đan xen và ảnh hưởng lẫn nhau. Do vậy không có gì lạ khi văn
học chịu ảnh hưởng của tôn giáo. Trên góc độ sáng tạo nghệ thuật thì tôn giáo là
mảnh đất tốt, là nguồn cảm hứng dạt dào và vô tận để sáng tạo nghệ thuật. Nghiên
cứu ảnh hưởng của tôn giáo đối với văn học nghệ thuật là tìm đến những bến bờ
mới sinh động, mênh mông vô tận của dòng cảm hứng sáng tạo (Nghiên cứu văn
học cổ trung đại trong mối quan hệ khu vực, Đặng Thanh Lê).
Trong thời cô trung đại, bất kỳ nền văn học nào cũng phải chịu sự tác động và ảnh
hưởng của triết học và tôn giáo. Tôn giáo tồn tại song song với văn học và chính
nó là mảnh đất gợi cảm hứng cho văn học. Đất nước Campuchia với những con
người hiền hậu đã sản sinh và lưu giữ nền văn hóa, văn học tốt đẹp mà mỗi khi
nhắc tới ta không thể nào quên được những câu chuyện kể, những bài trường ca
giàu chất trữ tình và mang đậm dấu ấn Phật giáo. Mặc dù có sự vay mượn những
tác phẩm của Ấn Độ, song nó đã Khơ me hóa để những tác phẩm ấy mang hơi thở
của Phật giáo – một Phật giáo của Campuchia, một tôn giáo gần gũi, gắn bó mật
thiết với đời sống con người. Phật giáo, nhất là Phật giáo tiểu thừa đã ảnh hưởng


đến văn học, nhắn nhủ với người đọc những bài học quý báu về giá trị sống, giá trị
làm người. Đặc biệt chính những tác phẩm ảnh hưởng Phật giáo đó đã phần nào


giúp người đọc hiểu được tư tưởng Phật giáo ở đất nước chùa tháp này, một đất
nước mộ đạo và thành tâm với Phật pháp, với cõi Phật huyền diệu và linh thiêng.

PHẦN NỘI DUNG
Sự du nhập của Phật giáo Ấn Độ sang đất nước Campuchia
Lịch sử Phật giáo đã có từ trên 2500 năm. Lúc đầu Phật giáo được triển khai từ
Ấn Độ, rồi dần dần lan tràn ra hai ngả Bắc phương và Nam phương. Bắc phương là
các nước Tây Tạng, Mông Cô, Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên và Nhật Bản,
cùng các nước thuộc địa vực Tiểu Á Tế Á. Nam phương là những nước Tích Lan,
Miến Điện, Thái Lan, Ai Lao, Cao Miên, đảo Java, Sumatra trong Nam Dương
quần đảo và hiện nay Phật giáo đã được phô cập hầu khắp các nước trên thế giới.
Có thể nói, Ấn Độ là một đất nước “xuất phát mọi mô hình tôn giáo của thế
giới” (Cao Nam Thuận và Mộc Miên Thái Hiền), đặc biệt là Phật giáo. Phật giáo
đã có một quá trình lịch sử phát triển lâu dài ở Ấn Độ trước khi du nhập vào Đông
Nam Á. Thuở ban đầu, Ấn Độ rơi vào khủng hoảng, đất nước loạn lạc, thời kỳ này
chưa có sự xuất hiện của Phật giáo, mà chỉ có sự chiếm lĩnh của tầng lớp Bà La
Môn. Bởi lẽ họ được coi là những người có học thức cao, có khả năng giảng dạy
đạo lí và cúng tế thần linh. Ngoài ra còn có giai cấp Kasatriya (Sát đế lợi) gồm các
tầng lớp vua chúa, thống lĩnh… chiếm vị thế cao nhưng luôn chèn ép người dân,
khiến cho họ lâm vào cảnh bần hàn, thiếu thốn và dẫn đến mâu thuẫn tột độ giữa
các giai cấp. Đời sống tinh thần xã hội lúc này bị thống trị bởi quan điểm duy tâm,
tôn giáo trong thánh kinh Veda và đạo Bàlamôn. Nhưng cũng trong chính lúc đó
“Phật giáo xuất hiện đã đáp ứng nhu cầu tinh thần của nhân dân, nó phản ánh nỗi
đau khổ của con người, chống lại chế độ phân biệt đẳng cấp và sự áp bức, bất
công, chống lại giáo lý truyền thống của kinh Veda và đạo Bà la môn, bác bỏ uy
quyền thần thánh, xây dựng niềm tin vào chính con người. Với mục đích giải thoát

con người bằng chính cuộc sống đức độ của con người, Phật giáo đã nhanh chóng
chiếm được tình cảm và niềm tin của đông đảo quần chúng lao động.” (Nguyễn
Quỳnh Anh)


Sau khi Phật nhập Niết bàn, Phật giáo được các vị đại đệ tử của Ngài truyền bá
đi khắp nơi trên xứ Ấn Độ. Đặc biệt là vào thế kỷ thứ III trước công nguyên, dưới
triều đại của vua Asoka, vị Hoàng đế này có công rất lớn trong sự nghiệp hoằng
dương thánh giáo. Asoka gởi các đoàn truyền giáo đi khắp nơi, trong ấy có đại đức
Mahinda-con của ông cùng với bốn vị tu sĩ khác được gởi sang Tích Lan truyền bá
Phật giáo. Đến thế kỷ thứ II trước công nguyên, vua Kanishaka cũng nhiệt tình ủng
hộ Phật giáo. Ông đã ra lệnh cho khắc tam tạng kinh điển lên lá đồng và cho người
bảo quản một cách cẩn thận. Nhưng khi Ấn Độ bắt đầu cải tô lại thì đạo Phật có
dấu hiệu suy giảm. Tuy nhiên, trong thời gian đó thì các tín đồ bắt đầu truyền đạo
pháp ra bên ngoài, ở các nước Sri Lanca, Myanmar, Thái Lan, Trung Quốc, Triều
Tiên, Tây Tạng, Nhật Bản sang cả Ai Cập và nhiều địa phương khác ở Địa Trung
Hải. Phật giáo từ đó trở nên phô biến rộng khắp trên nhiều khu vực lãnh thô, trong
đó có Campuchia ở khu vực Đông Nam Á.
Có rất nhiều ý kiến về mốc thời gian Phật giáo du nhập vào Campuchia. Một số
thuyết cho rằng đạo Phật đã du nhập vào xứ Campuchia vào thế kỉ thứ 3 trước
công nguyên do kết quả của các nhà truyền đạo Phật giáo được vua Asoka cử đi
khắp nơi. Bên cạnh đó cũng có người cho rằng đạo Phật đã du nhập cùng lúc với
đạo Bà La Môn qua việc mở rộng giao thương với Ấn Độ sớm nhất là vào thế kỷ
thứ 1 trước Công Nguyên. Các nhà buôn từ các vùng biển Ấn Độ là những người
truyền bá các luồng văn hóa này tới các thương cảng dọc bờ biển trong vịnh Thái
Lan, sau đó được chế độ quân chủ của vương quốc Phù Nam tiếp nhận và phát
triển. Nhưng lúc đó, trong suốt thời gian dài của vương quốc Phù Nam, đạo Bà La
Môn đã hưng thịnh hơn đạo Phật. Đến thế kỷ 12, vua Jayavarman II đã cho xây
dựng ngôi đền Hindu không lồ Angkor để thờ thần Vishnu. Đền này mở rộng
thành Angkor Wat. Nhưng đến triều vua Jayavarman VII, trị vì từ 1181 đến 1215,

Phật giáo đã gần như thay thế hoàn toàn vai trò của Ấn Độ giáo, Angkor Wat
chuyển sang thờ Phật và vua Jayavarman VII đã xây nhiều đền thờ Phật khác trong
thành Angkor Thom (ở gần Angkor Wat) mà nôi tiếng nhất đền Bayon. Ngoài ra
còn có thuyết cho rằng Phật giáo từ Ấn Độ truyền vào Campuchia rất sớm, bắt đầu
từ vua A Dục, nhà vua phái hai vị sư truyền giáo là Sona và Uttara sang đất Kim
Địa (Suvannabhumi) hoằng pháp. Vị trí của Kim Địa là phiếm chỉ vùng đất từ
Miến Điện cho tới Mã Lai Á. Theo sự khảo chứng của các học giả, người Ấn Độ
khoảng năm 400-500 trước Công Nguyên, đã tới buôn bán vùng Đông Nam Á
nhưng đến đầu công nguyên, di dân Ấn Độ mới bắt đầu tràn vào Đông Nam Á với


quy mô lớn. Họ kinh doanh, buôn bán và truyền bá cả văn hóa, tôn giáo của mình
vào các nước này, trước hết là Bà la môn giáo; đến thế kỷ VI trước Công Nguyên
đạo Phật xuất hiện.
Có rất nhiều nguồn thông tin xoay quanh vấn đề thời điểm ra đời của Phật giáo
tại Campuchia, tuy nhiên có thể xác định rằng thời gian Phật giáo bắt đầu chiếm ưu
thế ở đất nước “chùa tháp” này là vào khoảng cuối thế kỷ XII, với sự xuất hiện của
phái Đại thừa, trở thành đạo của hoàng gia. Sang thế kỷ XIII, với sự thúc đẩy của
Thái Lan, đạo Phật Tiểu thừa phát triển và trở thành tôn giáo chính của
Campuchia, cũng giống như Lào, Thái Lan, Miến Điện và Xây Lan đều theo đạo
Phật Tiểu thừa. Và cho đến ngày nay, đạo Phật tiểu thừa trở thành tôn giáo chính
của đất nước Campuchia. Đạo Phật mang hơi hướng của Ấn Độ không chỉ ảnh
hưởng mạnh mẽ đến đời sống tinh thần của người dân Campuchia mà còn ảnh
hưởng đến nền văn hóa- nghệ thuật của Campuchia, đặc biệt là văn học. Sự tác
động của Phật giáo góp phần làm phát triển và thay đôi bộ mặt của văn học
II. Nội dung
2.1.Triết lí Phật giáo
Phật giáo Tiểu Thừa( Phật giáo nguyên thủy) cho rằng Phật chỉ là cỗ xe nhỏ,
chỉ có người tu hành mới giải thoát mình khỏi đau khô “tự độ tự tha”. Phái Tiểu
Thừa chủ trương tuân theo kinh Phật, làm đúng với lời Phật. Giáo lý căn bản của

Phật giáo Tiểu Thừa về phương diện nhận thức gồm trong ba chủ thuyết, gọi là
Tam pháp ấn: chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, niết bàn tịch tịnh. Còn về
phương diện hành đạo là đi theo con đường Trung đạo (không xuôi theo dục lạc
thấp hèn, thô bỉ, phàm tục nhưng cũng không thiết tha gắn bó trong lối tu khô
hạnh) là con đường đem lại nhãn quan, tri kiến và đưa đến an tịnh, trí tuệ cao siêu,
giác ngộ và Niết Bàn. Con đường ấy chính là Bát Chánh Đạo. Ngoài ra còn có 4
chân lý gọi là “Tứ diệu đế” của nhà Phật… Đạo Phật Tiểu thừa chủ trương an phận
tự giác, từ bi bác ái, chú trọng đến giới quy (những điều răn cấm) đối với bậc tu
hành. Ngoài ra còn có một số nền tảng khác của đạo Phật cũng ảnh hưởng đến văn
học Campuchia:
Nhân Quả:


Mọi sự việc đều có lý do từ Nhân Quả. Nghĩa là mọi sự việc đều là kết quả từ
nguyên nhân trước đó. Và sự việc đó chính nó lại sẽ là một nguyên nhân của kết
quả sau này. Nhân có khi còn gọi là Duyên hay Nghiệp, và một khi đã gieo Duyên
hay Nghiệp thì ắt sẽ gặt Quả
Dù con người không thể thấy được toàn bộ, không thể lý giải được hoàn toàn
nhân quả này thì mối quan hệ Nhân Quả vẫn là một quy luật tự nhiên khách quan.
Con người dù không thể hiểu hết, thấy hết, thậm chí có thể họ không tin Nhân Quả,
nhưng quy luật này vẫn vận hành và chi phối vạn vật. Thời gian giữa Nhân và Quả
là xuyên suốt thời gian vũ trụ chứ không chỉ trong một kiếp sống. Việc này dẫn
đến một khái niệm là Luân hồi.
Luân hồi:
Luân hồi là sự chuyển sinh liên tục, là sự chết đi và sống lại của một đối tượng.
Hình thức của 1 kiếp sống là khác nhau, có thể chuyển đôi giữa các loài, các thế
giới (cõi ngạ quỷ, cõi súc sinh, cõi địa ngục, cõi trời, cõi người, cõi a-tu-la…).
Quan hệ Nhân Quả quyết định cách thức Luân hồi, hay nói cách khác tùy theo
Duyên hay Nghiệp đã tạo mà sẽ Luân hồi tương ứng để nhận Quả. Luân hồi khẳng
định cho quy luật Nhân Quả là không bao giờ tránh được Quả một khi đã gieo

Nhân.
Để thoát khỏi luân hồi con người ta phải tu tâm dưỡng tánh, một trong những
cách là kiên trì tu tập bát chính đạo. Theo quan niệm của nhà Phật thì căn nguyên
của khô chính là dục. Muốn diệt khô thì phải diệt dục. Dục có ba cái : tham, sân si.
Muốn điệt chúng thì phải có con đường chính đạo
Bát chính đạo:
Chánh kiến là tri kiến về Pháp thân, hiểu biết đúng đắn. Chánh tư duy là từ bỏ
mọi chấp trước suy nghĩ chân chính. Chánh ngữ là thấu hiểu rằng pháp vượt trên
mọi ngôn ngữ, lời nói chân chính trung thực. Chánh nghiệp là tránh mọi hành động
tạo nghiệp, kể cả thiện nghiệp, hành động chân chính không làm viêc giả dối.
Chánh mạng là tri kiến rằng, tất cả các Pháp (sa.dharma, pi dhamma) không hề
sinh thành biến hoại sống chân chính, không tham lam, vụ lợi xa rời nhân nghĩa.
Chánh tinh tấn là an trú trong tâm thức vô sở cầu, cố gắng nô lực chân chính.
Chánh niệm là từ bỏ mọi thắc mắc về có-không (hữu - vô), suy niệm chân chính.
Chánh định là giữ tâm vô phân biệt bằng cách vô niệm, kiên định tập trung tâm tư


vào con đường chân chính không để bất cứ điều gì lai chuyển làm thoái chí, phân
tâm.
Từ bi:
Đạo Phật nhấn mạnh đến từ bi. Từ là yêu thương, bác ái, có lòng tốt, nhẫn nhục
và các đức tính khác của tâm hồn. Bi là biết rung cảm trước cái khô của người khác
và ra công cứu giúp họ. Cả hai từ này ghép lại, chỉ lòng yêu người và yêu vật. Phật
dạy : “tâm từ phải được rải khắp cho chúng sinh, phải bao trùm vạn vật, phải sâu
rộng và đậm đà như tình thương của một từ mẫu đối với đứa con duy nhất, săn sóc
và bao bọc, dù nguy hiểm đến tính mạng cũng vui lòng”
Tóm lại, Đạo Phật là con đường giải thoát dành cho tất cả chúng sinh, không
phân biệt ai. Đạo Phật nói lên sự thật, là một con đường khách quan để đi tới chân
lý. Giáo lý của Đạo Phật không phải do Phật sáng tạo ra mà là chân lý khách quan.
Phật chỉ là người phát hiện, dấn thân và chứng đắc để rồi truyền dạy lại cho chúng

sinh cách giải thoát với lòng từ bi vô lượng. Sự cao quý của Phật ở chỗ xem tất cả
chúng sinh là bình đẳng và hoàn toàn có thể thành Phật. Hơn thế, khi hiểu Đạo
Phật sẽ thấy các đức Thế tôn thậm chí không coi Phật là một quả vị, là chứng đắc...
mà chỉ là sự quay về với bản nguyên của vũ trụ
Trong quá trình phát triển, nền văn học Campuchia được hình thành theo ba
mạch chính: mạch thứ nhất là những tác phẩm trực tiếp bàn giải về triết học, về lý
thuyết Phật giáo; mạch thứ hai là những khái niệm, những nội dung triết học sâu
sắc của đạo Phật như những gợi ý, những luồng ánh sáng tiếp dẫn giúp cho thi sĩ
Campuchia cảm hứng sáng tác văn học; mạch thứ ba là các tác phẩm mượn vỏ tôn
giáo song tuyệt nhiên không mang nội dung Phật giáo. Và như vậy, mỗi mạch tác
phẩm đều có đối tượng, nội dung, thủ pháp nghệ thuật riêng.
2.2.
2.2.1.

Ảnh hưởng của triết lý Phật giáo trong văn học Campuchia
Sự bàn giải triết lí Phật giáo trong văn học

Từ khi đạo Bà la môn bị suy thoái thì đạo Phật ở Campuchia chiếm ưu thế và
được xem như là quốc giáo, nên đạo Phật với những tư tưởng, những khái niệm
mang nội dung triết học sâu sắc được xem như là nguồn ánh sáng tiếp dẫn cho văn
học Campuchia trong suốt giai đoạn văn học trở về sau. Vì vậy mà trong các tác
phẩm văn học ở Campuchia, ta thường dễ nhận thấy sự có mặt ít nhiều của Đạo
Phật. Và từ đó đến nay đạo Phật ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống người dân
Campuchia và trong đó có văn học.


Nền văn học xem Phật giáo là kim chỉ nam mở đầu cho những tác phẩm mới
viết về những triết lý nhà Phật cũng là khởi nguồn cho mạch văn học lấy triết lí nhà
Phật làm cốt lõi phát triển, đó là khoảng thế kỷ XV. Lấy đề tài Phật giáo, các tác
phẩm văn học thời kỳ này chủ yếu nói vể triết lý Phật giáo, nhằm giải thích những

kinh nghiệm, những lẽ sống trên cõi thế, cõi nhân sinh để hướng con người tới
những cái thiện, cái tốt. Đó chính là ưu điểm mà quản điểm nhà Phật muốn gửi
gắm. Nếu như các tác phẩm của các thời kỳ trước khi mà đạo Bà la môn còn chiếm
ưu thế, thì chỉ ca ngợi những vị thần với sức mạnh siêu nhiên sáng tạo ra trời đất,
thiên nhiên và con người, đó được xem như là những thể loại truyền thuyết. Ngoài
3 thần tượng trưng cho sức mạnh của tạo hóa (còn gọi là 3 ngôi) là thần Brâhma
(đấng tạo sinh), thần Vishnou (đấng bảo tồn), thần Cava (đấng phá hoại), còn có
nhiều vị thần khác như thần lndra (Ngọc hoàng thượng đế), thần Yama (thần pháp
luật), thần Ganeca (thần cứu người), thần Kâma (thần tình yêu) thần Kubera (thần
giàu sang), thần Têvođa (thần giữ nhà), thần Deva (thần giúp đời), thần Surya (thần
Mặt trời), thần Skanda (thần coi về binh thư), thần Vicvakarman (thần phát minh ra
mỹ nghệ và công nghệ)..Các tác phẩm chủ yếu giải thích về sức mạnh của thần linh
sáng tạo ra trời đất mà chưa đề cập đến khía cạnh con người. Còn trong các tác
phẩm mang triết lý Phật giáo lại hướng đến con người nhiều hơn, hướng đến cuộc
sống của con người. Thông qua những kinh nghiệm, những đạo lý sâu sắc của nhà
Phật mà lí giải về cuộc sống của con người, về những kiếp nhân sinh trong cuộc
sống.
Vào khoảng thế kỷ XV trở đi, ở các tác phẩm tác giả thường bàn cãi về những
nguyên lý căn bản của triết học Phật Giáo, phần lớn mang tính vũ trụ quan. Khác
với đạo Phật Đại thừa là sự tận tuỵ với Bodhisatv Lokecvara hay Avolokitecvara,
đạo Phật Tiểu thừa để sang một bên mọi sự trừu tượng. Nó là sự thông thái và đạo
đức. Cả cuộc đời của người Campuchia thấm nhuần học thuyết này, họ rất mộ đạo
và thành tâm .
Đạo Phật Tiểu thừa tin rằng tất cả đàn ông và đàn bà đều bình đẳng. Mỗi con
người đều phải chịu trách nhiệm về chính hành động của mình. Không có sự tha
thứ cho những ngu xuẩn dốt nát. Mọi cá nhân phải khôn ngoan trong việc sử dụng
lý trí trước khi hành động. Đạo Phật Tiểu thừa chủ trương an phận tự giác, từ bi
bác ái, chú trọng đến giới quy.
Tam Tạng Kinh Điển (Tripitaka) gồm có Tạng Luật (Vinaya Pitaka), Tạng Kinh
(Sutta Pitaka) và Tạng Luận (Abhidhamma Pitaka). Tạng Luật được xem là cái neo



vững chắc để bảo tồn con thuyền Giáo Hội Tăng Già trong những cơn phong ba
bão táp của lịch sử. Phần lớn Tạng Luật đề cập đến giới luật và nghi lễ trong đời
sống xuất gia của các vị tỳ kheo và tỳ kheo ni. Tạng Kinh gồm những bài Pháp của
đức Phật khuyên dạy tăng ni về giáo lý, các phương pháp tu tập để đi đến giác ngộ
và giải thoát, và khuyên dạy cư sĩ về cách xây dựng hạnh phúc trong gia đình và
ngoài xã hội. Một vài bài giảng của các vị đại đệ tử như các ngài Sàriputta,
Moggallàna, Ànanda cũng được ghép vào tạng Kinh và cũng được tôn trọng như
chính lời đức Phật, vì đã được đức Phật chấp nhận. Tạng Luận hay Vi Diệu Pháp,
còn gọi là Thắng Pháp, là tinh hoa của Phật Giáo. Tạng Kinh chứa đựng những lời
dạy thông thường (vohara desana), còn Tạng Luận gồm các giáo lý cùng tột
(paramattha desana) của đạo Phật, nhằm biện luận, phân tích, xếp loại các hiện
tượng về tâm lý, vũ trụ và siêu hình trong đạo Phật cho người tu học dễ hiểu ý
nghĩa thâm sâu của giáo lý.
Mở đầu là tác phẩm Traiphum là một tác phẩm bao quát những tư liệu về các
quan điểm tôn giáo, triết lý và khoa học của các tín đồ đạo Phật. Cuốn sách trình
bày có hệ thống giáo lý của đạo Phật, là cơ sở sự hình thành thế giới quan trung
đại của người dân Campuchia. Mục đích của Traiphum là khuyến khích con người
sống phù hợp với lý tưởng của đạo Phật, tránh điều ác, làm điều thiện... Xu hướng
đạo lý rõ ràng của Traiphum không phải là kết cấu của sự suy xét sâu xa của tác
giả về đạo Phật, mà là sự phản ánh những tâm trạng yếm thế chung điển hình cho
đạo Phật ở 15 thế kỷ đầu sau Công nguyên, khi bắt đầu xuất hiện vô số các giáo
phái và khuynh hướng khác nhau, và đạo Phật không còn là một học thuyết nhất
quán nữa.
Lokaneyyajataka (nhập môn vào nguồn gốc những cuộc đời của Phật) là tác
phẩm nhằm đề cao lý tưởng Phật giáo. Đây là tác phẩm của Prê Khleng Nong- nhà
thơ nôi tiếng dưới triều vua Ang En và Ang Đuông. Là một nhà sư, trông coi một
ngôi chùa ở kinh đô Uđông và ông giữ một vai trò quan trọng về chính trị và hành
chính, Nong viết rất nhiều, phần lớn những tác phẩm của ông đều bắt nguồn từ

Kinh Phật (Dhamma Sutra), từ những bài văn giáo quy Phật giáo, từ những Jataka
(lịch sử cuộc đời của Phật). Năm 1798, Nong viết tác phẩm Chuyện Ponha Sarak
Seraksa (Phunnã sara sira sâ) mục đích khuyên răn con người tìm ý nghĩa cuộc
sống trong Phunnã, nghĩa là trong tư cách đạo đức và trong những việc làm tốt.
2.2.2. Những tác phẩm văn học lấy cảm hứng từ triết lí, nội dung Phật
giáo:


Sự du nhập và phát triển của đạo Phật ở Campuchia còn được thể hiện rõ nét,
sâu đậm ngay trong văn học. Các khái niệm, triết lí của Phật giáo như những gợi ý,
những luồng ánh sáng tiếp dẫn giúp cho những thi sĩ Campuchia tìm đến những
nguồn cảm hứng sáng tác văn học một cách mạnh mẽ.
Có thể coi thế kỷ XIX- đầu XX là một giai đoạn mà ở đó tính nhân bản nôi trội
lên như một nét đặc sắc nhất. Tạo nên nét đặc sắc này có nhiều nguyên nhân nhưng
trong đó tư tưởng Phật giáo với những triết lí về nhân sinh vũ trụ đóng vai trò quan
trọng nhất.
Những tác phẩm trong giai đoạn này không đả động tới Jakata nhưng lại mang
dư vị về quan điểm triết lý Phật giáo về quy luật nhân-quả. Các tác giả văn học, kể
cả các nhà sư sáng tác các tác phẩm dù không nói về Bồ Tát, về Phật nhưng đã
dùng ảnh hưởng của Phật giáo, chủ yếu là luật nhân quả tham gia vào các chi tiết
để chi phối mọi sự diễn tiến của tác phẩm. Cái phong vị thiên về bi kịch, về phiêu
lưu tình ái, về cái kỳ ảo thực sự đã tạo nên một sợi dây liên kết toàn bộ câu chuyện.
Những tác phẩm văn học đại diện cho hướng tiếp cận này không nhiều nhưng có
một tác phẩm nôi trội hơn cả là tác phẩm Môranăc Miada (1877) của nhà sư Prê
Thom Panha Uc thì không đề cập đến các kiếp luân hồi của Jakata, mà chỉ nói về
những ảnh hưởng của Phật giáo mà đại diện là luật nhân-quả tác động đến đời sống
con người.
Văn học Campuchia giống như hầu hết các văn học của các nước Đông Nam Á
đều tách thành hai bộ phận đó là: văn học viết và văn học truyền miệng. Cả hai bộ
phận này đều chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của các triết lí Phật giáo. Tư tưởng Phật

giáo đi vào trong văn học giai đoạn này chủ yếu được cảm nhận dưới dạng cụ thể
của đời sống hiện thực. Vì thế những khái niệm triết học, trừu tượng, khó hiểu của
đạo Phật đã trở nên gắn bó gần gũi với những niềm vui trần thế và được minh
chứng bằng những biến cố, sự việc thường nhật của cuộc đời. Người Campuchia
đã đưa triết lý đạo Phật vào trong truyện cô như để răn dạy con người luôn phải
vươn tới chân- thiện- mỹ ở đời.
Truyện cô Campuchia đã chịu ảnh hưởng nhiều của triết lý nhà Phật với căn
nguyên và quy luật nhân quả ở đời. Gieo nhân nào thì gặt quả ấy, Đức Phật luôn từ
bi hỷ xả trước con người biết vươn lên và khát khao cuộc sống. Dù cho đó có thể
chỉ là một điều không tưởng, một cái gì đó thuộc về tâm linh không có thật nhưng
nó lại làm cho con người có niềm tin và thêm yêu cuộc sống hơn. Đơn giản Phật ở
ngay trong tâm của mỗi con người chứ không phải đi tìm nơi đâu xa lạ. Và chỉ có


truyện cô mới có thể ru con người vào một thế giới mà ở đó chính luôn thắng tà,
điều ác luôn bị trừng trị, điều mà triết lý đạo Phật luôn nhắc nhở con người phải
biết sống sao cho cuối cùng con người không phải xót xa, ân hận về những gì đã
qua.
Riêm Kê là một tác phẩm có nguồn gốc từ sử thi Ramayana. Ramayana vốn là
một tác phẩm Bà la môn giáo nhưng khi vào Campuchia thì nó đã được ‘Khơ me
hóa” hay nói cách khác nó đã được Phật hóa cho phù hợp với hoàn cảnh
Campuchia. Qua Riêm Kê, chúng ta thấy được tác phẩm không chỉ mang đậm màu
sắc dân tộc mà còn mang những nội dung triết lí của Phật giáo. Đó là hình ảnh
trong sáng, đẹp đẽ của nàng Xêđa, đó là sự khoan dung của nhà Phật khi Xêđa có
lòng vị tha, thông cảm với những sai lầm mang đầy tính người của Riêm. Lúc đầu
nàng không hề có biểu hiện tha thứ qua những lời trách móc Riêm khi Riêm hiểu
rõ mọi chuyện và đến xin lỗi và mong muốn đưa nàng về cung nhưng tận sâu trong
trái tim nàng thì vẫn luôn tràn đầy sự vị tha. Đó cũng là tình yêu chung thủy của
Xêđa dành cho Riêm.
Có thể nói nhà sư Otum Mathexom là tác giả đầu tiên trong văn học

Campuchia đã có sáng tạo liên quan đến những cảm hứng bắt nguồn từ triết lí Phật
giáo. Điều đó được thể hiện trong tác phẩm Tum Tiêu.
Tum Tiêu là tác phẩm đánh dấu một bước tiến mới trong văn học Campuchia
giữa tình yêu và tôn giáo. Con người mất tỉnh táo đã để con người tình cảm lấn át
lý trí và dẫn tới bi kịch đau lòng. Và BôTum MăcThôXôm như muốn nói tới
nghiệp căn của giáo lí đạo Phật, có những quan niệm của đạo Phật, ảnh hưởng đến
đạo Phật, có nhiều thuật ngữ đạo Phật như luân hồi, nghiệp chướng, quả báo. Có
thể do tác giả này là một nhà sư theo đạo Phật cho nên tác phẩm ít nhiều mang màu
sắc bi quan của Phật giáo. Tác giả cũng giải thích rất rõ căn nguyên bi kịch của
Tum và Tiêu đó là nghiệp. Ông đã quan tâm và đề cập đến nỗi khô đau của con
người với tư cách là một cá thể. Ông đã mở ra một hướng mới, mà về sau, từ thế
kỷ XX văn học sẽ tiếp nối với những “gam màu” đậm hơn, nhức nhối hơn.
Tác phẩm kể về một câu chuyện tình có thật xảy ra vào thế kỉ 16 tại kinh đô
Campuchia khi còn đóng ở Long Vek (1336-1593), đây là một sự kiện thương tâm
làm day dứt người dân Campuchia mấy thế kỉ qua. Tum là một chàng trai tuấn tú,
hát hay. Khi đi tu ở chùa Vhia Thom, một hôm Tum cùng bạn Pếch đi bán mâm
bồng ở tỉnh Thông Khmum, gặp nàng Tiêu xinh đẹp, hai người yêu nhau. Ngay
trong đêm hò hẹn đầu tiên, họ đã hiến dâng cho nhau tất cả và nguyện suốt đời


sống chết có nhau, đợi ngày nên duyên vợ chồng. Nhưng khi Tum trở về, mẹ Tiêu
vì ham tiền bạc phú quý đã nhận lời gả cô cho Mơn Nguôn, con một viên quận
trưởng. Trong khi đó Tum được vua chọn là ca sĩ cung đình và chàng ở trong cung,
phải xa Tiêu. Ít lâu sau, Tiêu được chọn là cung phi. Trong một buôi ca hát, Tum
ngạc nhiên nhìn thấy Tiêu. Chàng Tum mạnh dạn kể về câu chuyện tình của hai
người cho vua nghe. Ban đầu vua nôi giận, nhưng khi hỏi ra ngọn ngành, biết đúng
là sự thật, vua đồng ý làm lễ cưới cho hai người. Mẹ Tiêu mừng hụt vì tưởng Tiêu
có thể kiếm được chỗ giàu sang, ai dè nàng vẫn lẫy anh chàng nghèo khô. Lấy
cớ ốm, bà gọi Tiêu về rồi ép gả cho Mơn nguôn. Tiêu vội vã viết thư cho Tum.
Tum bèn tâu lên vua. Vua liền ra sắc chỉ không cho làm đám cưới. Khi Tum mang

thánh chỉ của vua về đến nơi thì đám cưới đã cử hành. Tum và Tiêu gặp nhau đàng
hoàng như vợ chồng, bất chấp sự ngăn cản của bà mẹ. Tiêu nguyện ước theo Tum
đi cùng trời cuối đất, không chịu tham vàng bỏ ngãi. Bà mẹ Tiêu tức giận, bảo
Mơn nguôn bắt Tum đem đi giết hại. Nghe tin Tum chết, Tiêu lẳng lặng đến bên
xác chàng và cắt cô chết theo. Cô hầu gái Nô cũng chết theo chủ. Sự việc được tâu
lên vua, vua liền đem quân lính đến trừng trị tất cả những người có tội.
Tum Tiêu chịu ảnh hưởng tư tưởng của Phật giáo Tiểu thừa khá rõ rệt. Phật giáo
Tiểu thừa bắt đầu du nhập vào Campuchia từ thời Indravarman III (1295 - 1307) và
đã bắt rễ sâu rộng trong quần chúng. Là thứ tôn giáo dân chủ, gần gũi, dễ hiểu với
quần chúng và có ảnh hưởng lớn tới sáng tác của nhân dân Khơme. Trong truyện
thơ Tum Tiêu thì tác giả đã cảm nhận nỗi đau thân phận con người qua những triết
lí về Nghiệp căn Quả báo. Đó là sự thuyết giảng những ý tưởng răn dạy của chính
tác giả:
“Thế mới biết tình là khốc hại
Kiếp này vinh hoa khổ kiếp sau
Nay đã khổ đầu thai kiếp sướng
Pháp vô thường: pháp chẳng bền lâu”
Ở đây tác giả đề cập đến luật tái sinh, luân hồi ở kiếp người “kiếp này vinh hoa,
khô kiếp sau” đồng thời cũng thuyết giảng về sự uyên thâm của Phật pháp “pháp
vô thường: pháp chẳng bền lâu”. Tác giả Otum Mathexom cũng không thoát khỏi
con đường triết luận về bể khô của nhà Phật. Khi nói về căn nguyên đã đưa đến thế
trầm luân của Tum sư thầy Prêh Vihia Thôm đã nói:
“Cửa Phật rộng lòng thầy chẳng hẹp ?


Đã đi tu sao chẳng đuôi đầu?”
“Khoác áo Phật là không giới tính
Nay con đà nặng nỗi trần ai”
Lời quở mắng của sư thầy và lời tiên đoán về số phận của Tum đã báo trước một
điều gở, một sự trừng phạt đối với con người chạy theo cám dỗ.

Trong truyện Tum Tiêu ta có thể bắt gặp các triết lý Nghiệp báo, Quả báo có
màu sắc siêu hình trong triết lí Phật giáo. Phật giáo khuyên con người không nên
chạy theo công danh phú quý, chạy theo tình dục. Đó là một trong mười điều răn
dạy của nhà Phật: Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói bậy,
không uống rượu, không ăn sau giờ ngọ, không đến nơi hát xướng, không dùng
nước thơm và trang sức, không ngồi trên cao và nằm trên giường rộng, không cầm
tiền bạc. Nhưng Tum đã phạm vào thuyết “diệt dục” của nhà Phật. Rơi vào những
khát vọng mong muốn có nghĩa là rơi bể khô:
“Pháp thuật dạy: không không sắc sắc
Tuy là cởi hết mọi dây tình
Làm nên tội có đà diệt dục
Tới bến lỡ diệt dục tái sinh”
Con người trong cách nhìn nhận của Otum Mathexom là bị đày đoạ trong cõi
trần và mang theo suốt cuộc đời nỗi đau khô nghiệp chướng. Nó sẽ được giải thoát
khi đến với triết học Phật giáo. Nghĩa là, khi sống họ chìm nôi trong “bể khô”, và
khi chết họ được về cõi vĩnh hằng. Tum và Tiêu, hai nhân vật chính của Truyện
Tum Tiêu trước khi chết, đã cầu nguyện Tam Bảo phù hộ cho họ được lên cõi
Thiên Đàng. Phật giáo yêu cầu tín đồ phải khắc phục Tham, Sân, Si thì Bô Tum
Thêrát Xom chấp nhận sự “nôi giận” của Tum. Tum, một chàng trai thông minh,
khôi ngô, có tài, dù đã được nghe thuyết giáo về Nghiệp, về Tâm, vẫn không tìm
được sự giải thoát khi quy y đầu Phật. Những ngày “nương náu” nơi cửa Phật đối
với chàng chỉ là vô vọng. Cuộc đời tu hành đơn điệu, buồn bã, giam hãm chí trai
trong cảnh chùa nghiêm nghị và thanh bạch với những điều răn của Phật giáo đã
làm cho Tum không sao chịu đựng được, chàng chỉ muốn hoàn tục vì nhớ người
yêu. Tum Tiêu đề cập đến vấn đề bi kịch của đôi trai tài gái sắc xuất thân từ tầng
lớp lao động bình dân; là tiếng hát ngợi ca hạnh phúc đích thực, chân chính của
con người; là tiếng ca của niềm tin vào chính nghĩa, vào nghĩa tình, vào cái đẹp,


cái thiện và là lời kêu gọi đấu tranh chống lại tất cả những gì chà đạp lên hạnh

phúc xứng đáng của con người.
“Cửa phật từ bi” xuất hiện trong Tum Tiêu còn thông qua hình tượng sư thầy
chùa Prêh Vihia Thôm. Ở Campuchia, nhà sư là mẫu hình tiêu biểu của con người
dưới trần thế, có đầy đủ những đức tính trung thực, bác ái, trầm tĩnh, kiên nhẫn,
đức độ, thông minh, thiện tình, thân tình và công bằng. Sư thầy trong Tum Tiêu
cũng vậy, sư mặc dù rất tức giận nhưng cũng đã thông cảm cho Tum khi chàng có
nguyện vọng được hoàn tục để sống bên người mình yêu
“Khoác áo Phật là không giới tính
Nay con đà nặng nỗi trần ai
Thì đáng lẽ mình con phải chịu
Nhưng cũng thương, vậy chớ ưu hoài”
Otum Mathexom tự trói buộc trong giới luật nhà chùa, tu được quả phúc, cho
đến tận lúc qua đời ông vẫn là một nhà sư. Câu chuyện ông viết ra mang ý đồ răn
dạy của Phật giáo, ông nói đến Nghiệp chướng, Thiện căn, Tam bảo, Luân hồi quả
báo, Kiếp sau….nhằm làm rõ thêm những nỗi khô đau, bất trắc của mọi số phận.
Con người tìm đến cửa Phật không phải với tư thế tích cực, chủ động “Kiến tín
thành Phật”, mà là tìm đến một đấng siêu phàm để cầu xin sự cứu rỗi, để tìm đến
sự thoát ly dù đó chính là điều không thể đạt được. Ý nghĩa khách quan của tác
phẩm đã vượt ra ngoài ý đồ của tác giả.
“Muôn dân thấy luật hình nghiêm ngặt
Bảo nhau sống lấy đức cho toàn
Chớ học thói bất nhân bạc ác
Lưỡi gươm kia kết tội chẳng oan”
Hay trong việc nói sự anh minh của nhà vua:
“Người vì nước vì dân trị nước
Luật 10 điều nghiên cứu thêm sâu
Thân sinh ra ban đầu đã khổ
Thì phải đầu thai sướng kiếp sau”



Có thể nói, Bô Tum Thêrát Xom đã phát hiện ra con người với sự phong phú
của bản sắc cá nhân song từ “những điều trông thấy” của hiện thực đời sống, ông
lại càng nhận ra một điều khác: những tài hoa, những bản lĩnh cứng cỏi không
được thể chế xã hội chấp nhận. Họ, hoặc là từ bỏ cái “tôi” bướng bỉnh biết ý thức
về mình, hoặc suốt đời chịu khô đau, đày đoạ. Con người trẻ đẹp, tài hoa thuở ấy
chưa tìm ra lối thoát kể cả việc tìm đến cửa Phật.
Hay trong truyện “Kiếp luân hồi của chim đa đa”, tác giả cũng lấy cảm hứng từ
Jakata, cùng với luật “Nghiệp Căn, Qủa Báo” để nói về sự đầu thai, chuyển kiếp
của vợ chồng người thợ săn. Người thợ săn sau khi đốt rừng đã đốt chết cặp chim
đa đa và các con của nó. Sau khi chết thì kiếp sau vợ chồng thợ săn đầu thai thành
cặp chim đa đa, còn cặp chim đa đa lại đàu thai thành người thợ săn. Tại kiếp này,
người thợ săn cũng đặt bẫy đốt rừng khiến chim con chết cháy, chim mái hứa chết
chung với các con, chim đực thấy các con chết cũng hứa chết cùng nhưng khi bay
xuống thì thấy lửa nóng quá lại bay lên. Chim mái thấy chim đực không giữ lời
hứa trước khi chết đã van vái Đức Phật tránh cho kiếp sau gặp lại người chồng
không giữ lời hứa sau đó nhảy vào đống lửa chết. Chim trống thấy vợ chết rồi hối
hận cũng nhảy vào lửa chết theo. Trước khi chết chim trống cũng van vái Đức Phât
rằng kiếp sau cho gặp lại được vợ trước. Lời nguyền của cặp chim trở thành sự
thật. Kiếp sau chim trống đầu thai thành con trai người nghèo khô nhất vùng, đầu
óc ngu dốt, toàn thân lở loét. Chim mái đầu thai thành công chúa con của quốc
vương, nàng càng lớn càng xinh đẹp nhưng đặc biệt nàng chỉ nói chuyện với đàn
bà không nói chuyện với bất kỳ người đàn ông nào kể cả vua cha. Công chúa lớn
lên ngày càng xinh đẹp, vua cha lo lắng cho xây một cái tháp với điều kiện người
đàn ông nào làm công chúa nói được sẽ lấy được nàng làm vợ. Chàng trai nghèo
khô do chim trống đầu thai thành đã khiến công chúa nói được và cuối cùng chàng
lấy được nàng làm vợ.
Triết lí “Nghiệp căn Quả báo” , kiếp luân hồi được thể hiện rõ trong truyện.
Mặc dù truyện không nói về đề tài Phật giáo nhưng lại được tác giả lấy nguồn cảm
hứng từ Phật giáo, các kiếp luân hồi trong truyện mang màu sắc của Phật giáo, cặp
chim đa đa khi chết đã được đầu thai thành người thợ săn, vợ chồng người thợ săn

vì làm điều ác mà kiếp sau đầu thai thành cặp chim đa đa, rồi lại đầu thai thành
người. Triết lí “ Nghiệp căn Quả báo” cũng được tác giả đưa vào trong tác phẩm
của mình. Điều đó thể hiện ở chỗ vợ chồng người thợ săn làm điều ác đã đốt cháy
rừng làm chết cặp chim đa đa, sau khi chết liền bị đầu thai thành cặp chim đa đa và


cũng bị chết cháy do chính người thợ săn (cặp chim đa đa bị chết cháy ở kiếp
trước) gây ra. Đức Phật dạy rằng: “ có vay thì phải có trả” vợ chồng người thợ săn
vì làm điều ác hại chết cặp chi đa đa kiếp này đã bị trả lại. Hay trong tình tiết vì giữ
lời hứa với các con chim mái đã chết cùng con kiếp sau được đầu thai thành công
chúa xinh đẹp, chim trống lúc đầu vì không giữ lời hứa kiếp sau đã bị đầu thai
thành người con trai nghèo khô, ngu đần, xấu xí. Đó cũng thể hiện triết lí “nghiệp
căn, quả báo” một cách rõ ràng nhất. Ngoài ra cũng lấy cảm hứng từ trong Phật
giáo, tác giả đã dùng hình thức “truyện lồng trong truyện” – hình thức quen thuộc
của Jataka
Những điểm trên cũng chính là những yếu tố nôi bật tạo nên ưu điểm cho dòng
văn học giai đoạn này. Mặc dù trong một số tác phẩm vẫn có nói đến triết lý Phật
giáo, nói về Đức Phật nhưng bên cạnh đó nội dung của tác phẩm còn hướng đến
phần nhân bản hơn (nghĩa là tính người) và đặc biệt là các nhà văn, nhà thơ cũng
đã chú ý đến khía trong cuộc sống như là tình yêu, về những bi kịch xảy ra đối với
con người và cuộc sống của họ. Nhưng xuyên suốt toàn bộ nội dung các tác phẩm
văn học này, nội dung tư tưởng của các tác phẩm đó cũng vẫn là chủ đề quan trọng
mà đa số tác giả văn học muốn làm nôi bật.
Tư tưởng Phật giáo đi vào văn học thế kỷ XVIII- đầu XIX được cảm nhận dưới
dạng thức cụ thể của đời sống hiện thực. Vì thế những khái niệm triết học khô
khan, trừu tượng, khó hiểu của đạo Phật đã trở nên gắn bó gần gũi với những niềm
vui trần thế và được minh chứng bằng những biến cố, sự việc thường nhật của cuộc
đời. Và cũng chính vì vậy, chúng có đời sống bền lâu trong thời gian và ảnh hưởng
rộng lớn trong quần chúng. Một điều chắc chắn rằng tư tưởng triết học Phật giáo
đã góp một phần quan trọng làm nên giá trị bất tử của những tác phẩm này, đặc

biệt là tác phẩm nôi tiếng Tum Tiêu
2.2.3. Các tác phẩm mượn vỏ tôn giáo song tuyệt nhiên không mang nội
dung Phật giáo:
Văn học Campuchia những thế kỉ XVI - XX bao gồm những tác phẩm bằng văn
xuôi và văn vần, viết bằng tiếng Pali và tiếng Khơme. Các thể loại văn học truyền
thống của Campuchia như Chơbắp (thể thơ giáo huấn), truyền thuyết, cô tích,
truyện thơ…đều đã xuất hiện. Thời kì này diễn ra quá trình Phật hóa văn học
Campuchia. Trong khi đại bộ phận các tác giả văn học viết sáng tác theo những
khuôn mẫu thời đại được định hình trong nền văn học chính thống, bên cạnh đó
còn xuất hiện những tác giả vượt ra ngoài ranh giới định sẵn, họ đi tìm đề tài trong


đời sống xã hội, trong lịch sử Campuchia. Văn học Campuchia thời kì này còn có
xu hướng Jatarka hóa các truyện cô.
Thành tựu lớn nhất và thể loại tiêu biểu của văn học truyền thống Campuchia ở
giai đoạn này là truyện thơ. Truyện thơ Campuchia, ngay từ đầu đã xuất hiện với
tư cách là một thể loại trung tâm của nền văn học viết truyền thống dân tộc. Nguồn
đề tài chủ yếu của nó lấy từ văn học nước ngoài, văn học dân gian và đời sống hiện
thực của dân tộc. Những tác phẩm truyện thơ có lớp vỏ tôn giáo nhưng đã vượt ra
khỏi ranh giới của Phật giáo, tiêu biểu như truyện thơ Nàng Ka Kây do vua Ang
Duong sáng tác – tác phẩm đã đem lại một màu sắc mới lạ cho nền văn học viết
Campuchia.
Vua Ang Duong là người có tên tuôi lớn trong lịch sử Campuchia, ông vừa là
nhà văn, nhà bác học, người khai hóa đất nước và văn học Campuchia. Ông chịu
tác động của văn học Phật giáo Xiêm. Truyện thơ nàng Ka Kây được tác giả viết
vào năm 1813 ở Băng Cốc ngay sau những xúc động khi đọc trường ca Kaki của
Pkhara Kkhalang. Truyện thơ Nàng Ka Kây được viết nên dựa trên những cảm
hứng đó, tác giả một mặt tiếp thu cốt truyện, lời văn, mặt khác ông còn tăng thêm
tính bi kịch cho câu chuyện. Nội dung tác phẩm Nàng Ka Kây không còn mang
đậm dấu vết ảnh hưởng của văn học chính thống. Về hình thức, truyện có những

tình tiết giống như các bà nàng, bà chúa trong Jatarka. Nhưng về mặt nội dung nó
không dừng lại ở mức độ phản ánh những bi kịch của loài người nói chung, phát
sinh từ những cọ xát giữa cái thiện và cái ác, Nàng Ka Kây là một bi kịch tính
cách, nó phản ánh những chuyển biến mạnh mẽ của tâm lí xã hội Campuchia bước
vào thế kỉ XIX.. Chế độ phong kiến bắt đầu phát sinh những mâu thuẫn và mang
những dấu vết của sự rạn vỡ. Lúc này ngôi vua không còn mang ý nghĩa vua –
thần, Phật giáo không còn là triết lí độc tôn thống trị tinh thần người Campuchia
như trước.
Truyện thơ Nàng Ka Kây lấy đề tài từ trong Jataka nhưng câu chuyện về người
vợ phản bội trong truyện thơ không giống như ở Jatarka. Ở đây người đàn bà đẹp
có tính cách đặc biệt với một trái tim tràn đầy tình yêu. Nàng Ka Kây là hình tượng
nhân vật độc đáo, là hiện tượng “kì lạ” trong truyền thống thơ Khơme, bởi lẽ từ
trước đến nay chưa hề có một tác phẩm nào miêu tả sự không chung thủy của
người đàn bà mà lại được công chúng tỏ ra thông cảm đến như vậy. Nàng Ka Kây,
một người đàn bà đẹp như tiên nữ, sống theo bản năng, không chung thủy với
chồng, bị tác giả lên án nghiêm khắc, thật ra chỉ là nạn nhân của cuộc sống tồi tệ


trong cung đình. Nàng sinh ra để yêu và được yêu, nhưng hạnh phúc của nàng bấp
bênh và ngắn ngủi. Nàng không chịu bó mình sống trong cung đình mà táo bạo phá
vỡ mọi thành kiến xã hội, luật lệ của triều đình phong kiến, đi tìm tự do cá nhân
theo tiếng gọi tình yêu, dục vọng. Cuối cùng nàng bị trừng phạt – đó là lẽ đương
nhiên. Vì nàng đã vượt qua những khuôn khô quy định của xã hội lúc bấy giờ. Tác
giả đã lấy cái chết của Ka Kây để kết thúc câu chuyện: một trận gió lớn khiến
thuyền bị lật và Ka Kây bị nhấn chìm dưới nước. Qua nhân vật nàng Ka Kây ta
nhận thấy bi kịch con người, cuộc đời và bi kịch thời đại ngày một rõ nét qua
những hành động và quá trình phát triển tâm lí, tính cách nhân vật. Số phận của các
nhận vật được định đoạt sẵn bởi quá khứ của họ và họ không thể thoát khỏi vòng
dục vọng. Ở đây không có nhân vật điển hình Bồ tát như các truyện theo kiểu
Jataka. Các nhân vật đều phải chịu đau khô, họ bị dày vò vì dục vọng giam hãm

họ. Các nhân vật: nàng Ka Kây, Promolot, Krud (thần Chim), Konthoan đều phải
chịu sự trừng phạt. “Chỉ nhớ tới ý muốn của riêng mình, mà quên nghĩ về một tình
yêu chân chính, họ (những người đàn ông) đã liên kết lại để kết tội Ka Kây bằng
một cái chết cô đơn từ từ trên một con thuyền nhỏ giữa đại dương mênh mông”.
Nhà văn và cũng là nhà ngôn ngữ học cũng nhận xét như vậy.
So sánh với trường ca của Pkhara Kkhalang, truyện thơ nàng Ka Kây mang
màu sắc ảm đạm, bi thảm hơn, nhờ điều đó mà tác phẩm sâu sắc hơn, tiến gần hơn
tới vấn đề đạo đức trong văn học Campuchia. Vua Ang Duong vượt ra khỏi giới
hạn của những bài học đạo đức thông qua những cốt truyện Jataka thường gặp, qua
những câu truyện cô Campuchia. Các nhân vật trong tác phẩm không có những
phẩm chất của các nhân vật trong văn học thời kì Ăngco, không phải là hiện thân
của các thánh thần, không phải là những ông vua chinh chiến mà là những con
người có cuộc sống cũng như mọi người, cũng theo đuôi tình yêu, cũng muốn được
hạnh phúc.
Những nhân vật mượn ở Jataka tuy rõ ràng cũng phản ánh tấn kịch con người,
nhưng phần nhiều là vua, là hoàng tử, là thần thánh bị truất giáng. Những truyện
như Chàng Rôthisen và Nàng Koongrê; Sudhanna Kumara; Cơrông Xôphẹ Mứt;
Phôcaculcộma….chỉ để minh chứng “bằng mọi giá” triết lý nhân quả của Phật
giáo. Còn truyện Nàng Ka Kây lại là một tấn kịch tâm lý, miêu tả tình yêu đắm say
muôn thuở. Các nhà văn Khơme, cũng như công chúng của họ, rất thích những cái
cụ thể, hiện thực. Sau khi “thôi” tính người vào tính thần kỳ , hay ngược lại, sau
khi trộn lẫn ảo thuật vào triết lý nhà Phật, sau khi tạo ra những nhân vật và những


vị nửa thần nửa người để ném họ vào tấn kịch con người trong cái kỳ ảo kề bên cái
hiện thực, các nhà văn Khơme thế kỷ XIX đã làm cho thơ Khơme bước từ trên trời
xuống! Hơn nữa công chúng Khơme rất coi trọng đời sống tâm linh, họ mệt vì
những biến cố của các đế vương, sự sa sút của các ông hoàng, những cảnh nên thơ
của cái kỳ ảo, những cái đó không phải là thế giới của họ, nên họ quay ngay về tấn
kịch con người nạn nhân của chính mình, bị bỏ rơi không phương cứu chữa trong

sự cô quạnh của cuộc sống hàng ngày và phải đương đầu với những thành kiến xã
hội. Vì vậy, truyện Nàng Ka Kây - kẻ không chung thuỷ - được công chúng
Khơme đặc biệt chú ý. Sự không chung thuỷ của nàng, bị tác giả lên án nghiêm
khắc, chỉ là tấn kịch của một người đàn bà không thích nôi với sự tồi tệ của vương
triều. Đó cũng là tấn kịch muôn thuở, trong thời gian và trong không gian. Garuđa,
người yêu của nàng Ka Kây, phải chăng là biểu tượng, là sự thể hiện những chàng
trai cường tráng, đầy sinh lực, được đàn bà ưa thích. Dù sao, nhân danh luân lý, thi
phẩm đó vẫn là lời trừng giới, lời răn đe đối với những phụ nữ Khơme giàu dục
tình và ảo tưởng. Truyện thơ Nàng Ka Kây mượn vỏ tôn giáo để nói về cuộc sống
thực, chứng tỏ truyện thơ Khơme đã bắt đầu lóe lên nhu cầu thể hiện tình cảm của
con người cận hiện đại.
Ngoài truyện thơ nàng Ka Kây còn có những truyện thơ khác như: truyện Hans
Yant truyện Chau Sratốp Chek của Yos Nghin... cũng là những tác phẩm mang vỏ
bọc tôn giáo nhưng tuyệt nhiên không mang nội dung tôn giáo. Tuy vậy đây đều là
những sáng tác đặc sắc của nền văn học thành văn Campuchia, nói lên những khát
vọng, nhu cầu tình cảm cá nhân của những con người Campuchia cận hiện đại. Từ
thế kỷ XIX- đầu thế kỷ XX là giai đoạn văn học chịu sự ảnh hưởng lớn của tư
tưởng Phật giáo về triết lý nhân sinh, nhưng truyện thơ Khơme đã xuất hiện những
biểu hiện tính cách con người một cách rõ rệt, không dừng lại ở việc phản ánh các
kiếp luân hồi của con người mà truyện còn thể hiện sâu sắc tình cảm cá nhân. Về
mặt nội dung nó không chỉ phản ánh những bi kịch của loài người nói chung, mà
còn phản ánh những chuyển biến mạnh mẽ của tâm lí xã hội.
Nhìn lại một cách tông quát, ta thấy các tác phẩm trong dòng văn học mang
đậm dấu ấn Phật giáo có những đặc điểm khác nhau. Mỗi tác phẩm, dù thiên về
triết lý cao thâm hay cuộc sống đời thường đều đạt đến độ sâu sắc, có thể xếp vào
hàng danh tác. Điều đó chứng tỏ Phật giáo đã trở thành một thành tố tâm hồn
Campuchia, tự nó không tồn tại độc tôn, không hình thành một dòng văn thơ riêng
biệt dù trong một giai đoạn hay suốt chiều dài lịch sử văn học Campuchia. Tư



tưởng từ bi bác ái, phi danh lợi, đầy tính nhân bản của Phật giáo đã thôi một làn
gió làm dịu bớt tư tưởng khoa trương thái quá của Ấn Độ giáo.
III.
So sánh một số nét chính trong văn học Phật giáo Campuchia va
Việt Nam giai đoạn cổ-trung đại
Phật giáo Việt Nam chịu ảnh hưởng và lan truyền chủ yếu là từ Trung Quốc,
trong khi đó Phật giáo Campuchia lại tiếp nhận chủ yếu từ Ấn Độ, nhất là ở hai lần
bị Ấn hóa. Sử liệu đã khẳng định rằng, sự hiện hữu và việc đồng hành mật thiết của
Phật giáo với dân tộc Việt Nam đã trải qua suốt chiều dài lịch sử hơn 2.000 năm.
Còn ở Campuchia Phật giáo mới có mặt vào khoảng thế kỷ VI, ban đầu, Phật giáo bao gồm cả Phật giáo Đại thừa (Mahayana) và Tiểu thừa (Hinayana) tích hợp với
Bà la môn giáo, như là một tôn giáo - tín ngưỡng hơn là tôn giáo triết học. Có lẽ,
phải đến thế kỷ XII, dưới thời Jayavarman VII, trở thành tôn giáo phát triển mạnh
mẽ nhất... Chính tinh thần hòa nhập nhuần nhuyễn của Phật giáo trong đời sống
của người dân đã tạo thành mô hình Phật giáo có sắc thái độc đáo, tràn đầy sức
sống.
3.1.
Một số điểm giống nhau trong văn học Phật giáo Việt Nam và
Campuchia:
Văn học Phật giáo Việt Nam và Campuchia chiếm một vị trí đặc biệt quan
trọng trong nền văn học mỗi nước, nội dung đều nhấn mạnh về lòng từ bi và sự
nhẫn nhục, chú trọng giới quy, về luật nhân quả, khuyến thiện trừng ác,… thuần
túy về giáo lý và tu hành. Cả hai nền văn học Phật giáo đều hướng con người tới
những điều tươi đẹp nhất của cuộc sống. Coi cuộc đời vô thường đầy những sự
chuyển biến chỉ là hư vô, không phải là cuộc sống mãi mãi sau này của con người.
Triết lý đạo phật quan niệm rằng con người sống ở thế giới này chỉ là thế giới
mượn tạm còn thế giới sau khi mất đi mới chính là thế giới thực sống của con
người. Vì vậy con người không nên gò bó cứng nhắc bản thân trong cuộc sống hư
ảo, vô thường này. Vậy nên trong các tác phẩm văn học Phật giáo của hai hệ thống
văn học Campuchia và Việt Nam đều mang nội dung ẩn ý là đề cập đến những
khái niệm sâu sắc của triết lý nhà Phật về những quan niệm nghiệp căn, quả báo,

kiếp sau hay kiếp luân hồi... Ở Campuchia có truyện Tum Tiêu, truyện Nàng Ca
Cây... nhẳm ngụ ý cho việc đưa ra ý niệm của tác giả về những hệ thống triết lý sâu
xa của nhà Phật. Còn ở Việt Nam, có thể kể đến là tác phẩm Truyền kì mạn lục của
Nguyễn Dữ hay trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Trong Truyền kỳ mạn lục,


Nguyễn Dữ đứng trước thực tại của xã hội nhiễu nhương, không lối thoát đã sử
dụng những triết lý Phật giáo về nghiệp duyên, quả báo, kiếp sau để tìm đường giải
thoát cho những nhân vật của mình.
Nhiều truyện của Campuchia ảnh hưởng của văn học Ấn như Riêm Kê chịu
ảnh hưởng của bộ Ramyana. Ngoài ra, tuy nhận xét rằng Phật giáo Việt Nam chịu
ảnh hưởng chủ yếu từ Trung Quốc nhưng có nhiều tác phẩm, đặc biệt là truyện cô
về loài vật của Việt Nam cũng ảnh hưởng từ văn học Phật giáo Ấn Độ như Thầy
bói xem voi, Mèo lại hoàn mèo, Cua và cò,… Dạ Thoa Vương cũng mang dấu vết
của Ramayana,…
Văn học Phật giáo Việt Nam tuy không có ranh giới rõ ràng để phân thành
ba mạch chính như văn học Phật giáo Campuchia. Nhưng nhìn chung dù là những
kinh Phật thuần túy (mạch thứ nhất), minh họa cho giáo lí nhà chùa như chuyện
nghiệp căn (mạch thứ hai) hay thậm chí mượn cái vỏ Phật giáo để chứa đựng nội
dung khác (mạch thứ ba) trong văn học Phật giáo Campuchia thì văn học Phật giáo
Việt Nam đều có. Và như vậy, mỗi mạch tác phẩm đều có đối tượng, nội dung, thủ
pháp nghệ thuật riêng.
Ở mạch thứ nhất: Nhìn chung kinh văn được chia thành ba loại theo nội
dung là Kinh, Luật và Luận, còn được gọi chung là Tam Tạng (Tripitaka) mà ta đã
phân tích khá kĩ ở phần đầu bài. Và mạch này chính là nền tảng cơ bản để tạo ra
những mạch sau.
Ở mạch thứ hai: Nôi bật với Kinh Bôn Sinh hay Jataka. Jataka vào
Campuchia cuối thời Ăngco, ngày càng trở thành nguồn đề tài quan trọng của văn
học. Tư tưởng Phật giáo trong Jakata có ảnh hưởng sâu đậm trong các tác phẩm
của Campuchia, xu hướng Jakata ngày càng rõ nét trong truyện kẻ, ngụ ngôn. Các

nhân vật phần nhiều là hiện thân của Đức Phật,… Trong Tuyển tập văn học
Campuchia, Vũ tuyết Loan phân tích quá trình Phật giáo văn học Campuchia sâu
đến mức “Văn học Campuchia thời kỳ này (thế kỷ XVI, XVII) nhiều lúc chỉ làm
việc minh họa đơn giản cho giáo lý nhà chùa, bởi lẽ quan niệm nghiệp căn (Karma)
của Phật giáo chi phối hầu hết các tình tiết cốt truyện”. Quan niệm nghiệp báo luân
hồi chi phối tình tiết cốt truyện, nhiều tác phẩm văn học chỉ đơn giản là minh họa
cho giáo lí nhà Phật. Như Sự tích con tằm, Kiếp luân hồi của cặp chim đa đa, Tình
mẫu tử,… ở Campuchia hay Khổng Lồ đúc chuông, Quan Âm thị Kính,… ở Việt
Nam.


Ở mạch thứ ba: Nôi bật là truyện Nàng Ka Kây mượn vỏ tôn giáo nói về
cuộc sống thực, chứng tỏ truyện thơ Campuchia đã bắt đầu loé lên nhu cầu thể hiện
tình cảm của con người cận hiện đại, từ đó bộc lộ những suy tư, trăn trở của m ình
về nhiều khía cạnh khác của đời sống. Chẳng hạn như tác phẩm Nàng Ka Kây
(1815) của vua Ang Đuông kể về người vợ không chung thủy Ka Kây. Qua tác
phẩm tác giả đã đã lên án nghiêm khắc sự không chung thủy của nàng Ka Kây
đồng thời cũng nêu lên tấn bi kịch của nàng khi không thích ứng được với cuộc
sống trong cung cấm của vương triều. Garuđa, người yêu của nàng Ka Kây, phải
chăng là biểu tượng, là sự thể hiện những chàng trai cường tráng, đầy sinh lực,
được đàn bà ưa thích. Dù sao, nhân danh luân lý, thi phẩm đó vẫn là lời trừng giới,
lời răn đe đối với những phụ nữ Khơme giàu dục tình và ảo tưởng. Ngoài ra, thể
hiện cho mạch văn học này còn có một số tác phẩm khác như: truyện Hans Yant
( Thiên Nga bằng máy), truyện Chau sratôp Chek (Người tự trang điểm bằng
những bẹ lá chuối), truyện Kyah Sankh ( Ốc biển)... Ở Việt Nam thì mạch thứ ba
này thể hiện ở truyện cô tích dân gian, phản ánh cuộc sống của một xã hội có giai
cấp như truyện Tấm Cám và nó phát triển mạnh hơn khi tiếng nói cá nhân bắt đầu
xuất hiện.
Văn học Phật giáo phát triển mạnh ở những giai đoạn mà Phật giáo lên ngôi,
như thời Lý – Trần ở Việt Nam hay thời Jayavarman VII của Campuchia. Ta sẽ

phân tích và nói cụ thể hơn ở phần so sánh đặc điểm khác nhau.
Tôn giáo tồn tại song song và là mảnh đất gợi cảm hứng cho văn học. Như
Tam tạng kinh điển của Phật giáo, kinh thánh Tân ước, Cựu ước của Thiên chúa
giáo, kinh Coran của Hồi giáo, Đạo đức kinh của Lão Tử, Nam hoa kinh của Trang
Tử lại giàu hình tượng văn học, đầy chất thơ, đậm tính văn chương. Ở đó, chúng ta
có thể tìm thấy một nguồn vô tận của mỹ từ pháp. Phật giáo vốn là tôn giáo vì con
người và về con người, thôi truyền ngọn lửa lạc quan, yêu đời, nhân văn và nhân ái
cho mọi người, hướng con người vươn tới tình thương yêu bao la, mênh mông, với
tư tưởng từ bi hỷ xả; và đặc biệt chú trọng đến những con người đau khô và nó rất
gần với tư tưởng của dân tộc. Ngoài ra, tư duy Phật giáo gần gũi với tư duy văn
học ở tính trực cảm, trực giác, cảm tính và hướng nội. Kiểu tư duy này lại phù hợp
với yêu cầu sáng tạo nghệ thuật hơn là tư duy của tôn giáo khác như Nho giáo,
Thiên Chúa giáo hay Bà La Môn giáo. Tư duy Phật giáo như đã nêu trên, chú trọng
đến chữ “Tâm”, khai thác tận cùng các yếu tố thuộc về tâm chứ không đơn thuần
chỉ là tìm hiểu để khai thác mặt tâm lý xã hội. Tâm yên lặng tịch tĩnh là Phật “Tâm
tịch, nhi tri thị danh chân Phật” (Trần Thái Tông, Thiền tông chỉ nam tự). Thiền


tông coi trọng cái tâm, coi trọng trực giác trong phương pháp tu hành. Vì vậy, rất
nhiều tác phẩm văn học Đông Nam Á nói chung và văn học Việt Nam, Campuchia
nói riêng được sáng tác dưới ánh sáng của tôn giáo, nhất là Phật giáo. Phật giáo có
thể chính là đề tài, là triết lý ẩn sau tác phẩm hay đôi khi chỉ là cái vỏ để hàm chứa
một nội dung khác. Nhưng có một điều không thể phủ nhận rằng Phật giáo hay nói
đúng hơn là triết lý Phật giáo luôn thu hút các tác giả văn học cô trung đại quan
tâm.
3.2.
Một số điểm khác nhau trong văn học Phật giáo Việt Nam và
Campuchia
“Cũng tiếp nhận từ Ấn Độ, nhưng cách người Thái Lan, người Lào, người
Campuchia, Myanma và Việt Nam tiếp nhận có khác nhau. Trong khi người Lào,

Thái Lan, Campuchia và Myanma đã tiếp nhận nguyên vẹn những yếu tố đặc
trưng của vũ trụ văn hóa Ấn Độ, thì người Thái ở Việt Nam đã tím cách biến đổi
hoặc tước bỏ chúng đi…”. Phật giáo là một tôn giáo lớn, có mặt ở hầu hết các
nước trên thế giới. Nhưng đạo Phật khi bước vào mối quốc gia khác nhau lại được
chuyển biến cho phù hợp với nền văn hóa của quốc gia đó. Đó là lý do rõ nét nhất
khi so sánh văn học Phật giáo Campuchia với văn học Phật giáo Việt Nam.
Tuy nhiên, văn học Phật giáo Việt Nam bị ảnh hưởng rất lớn từ Trung Quốc,
khác với Campuchia chủ yếu từ Ấn Độ. Nếu như một tác tác phẩm văn học Phật
giáo Campuchia như Jakata, Panchatantra… đều có nguồn gốc từ Ấn Độ hay một
số khác ảnh hưởng từ hai bộ sử thi Ấn Độ là Ramayana, Mahabrrahata và lực
lượng sáng tác chủ yếu là các nhà văn, nhà thơ, nhà sư,… thì ở Việt Nam các tác
phẩm về đề tài Phật giáo này đại đa số là do các nhà sư sáng tác. Những tác phẩm
văn học thành văn của giai đoạn này còn lại đến nay là một số bài thơ chữ Hán của
các nhà sư Đỗ Pháp Thuận, Ngô Chân Lưu, Vạn Hạnh, Mãn Giác, Viên Thông,
Huyền Quang,… Các Tăng sĩ đều là hàng thượng tầng trí thức, có ảnh hưởng lớn
đến nền văn hóa đương thời và đóng góp nhiều nhất về sáng tác thi ca. Văn thơ đời
Lý còn được lưu giữ trong sách Thiền uyển tập anh và các văn bia... Các thiền sư
luôn thể hiện là mẫu người tài giỏi và hay chữ nhất trong xã hội. Trên văn đàn Việt
Nam thế kỷ X-XII, các nhà sư là lực lượng nòng cốt sáng tác thơ văn. Việc sáng
tác thơ văn của họ đã quyết định hướng đi của văn đàn. Ông D.G.E Hall - học giả
Anh Quốc nói: “Sự phát triển của văn hoá Việt Nam với sự thúc đẩy của Phật giáo
đã trở thành một đặc trưng của ý thức hệ dân tộc”. Việc các vị thiền sư Phật giáo


trong các triều đại Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần tham gia giải quyết công việc chính trị,
ngoại giao và văn hoá giáo dục không những đã đóng góp lớn vào việc xây dựng
chế độ xã hội, quản lý công việc nhà nước, phát triển văn hoá giáo dục mà còn thúc
đẩy sự hình thành của văn học cô điển Việt Nam. Tiến sĩ Hồ Huyền Minh nói:
“Các nhà sư Việt Nam học vấn uyên bác, hiểu sâu về thi học, giỏi thơ văn và sáng
tác thơ văn. Vì vậy, họ đã trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến tư tưởng văn học

cũng như nghệ thuật văn học Việt Nam đương thời”. Thành tựu văn học của họ đã
thể hiện trình độ văn học lúc bấy giờ. Trong 50 thi sĩ đời Lý thì có đến 41 người là
Tăng sĩ. Đến thời nhà Trần, các vị minh vương đã anh dũng dẹp tan giặc Nguyên
Mông, mang lại một nền thái bình thịnh trị cho dân tộc, các ngài lại đưa ra những
tư tưởng trong sáng của những bậc chân tu ngộ đạo, tạo thành một dòng Thiền nôi
tiếng - Trúc Lâm Yên Tử. Phật giáo Trúc Lâm thể hiện rõ nét sinh hoạt nhập thế,
phục vụ tích cực cho đời sống xã hội tốt đẹp cũng như đời sống tâm linh thăng hoa
tuyệt đỉnh. Với tinh thần bao dung và uyển chuyển hài hòa của văn hóa đời Trần,
Phật giáo đã là chất keo gắn bó tốt đẹp giúp vua quan và dân chúng đồng tâm hợp
sức trong việc chống giặc ngoại xâm và xây dựng đất nước. Văn học đời Trần thật
rực rỡ, thể hiện nét đẹp của tinh thần hòa đồng và sự thanh cao giải thoát của đạo
Phật. Tinh thần ấy dĩ nhiên không phải là sự yếu đuối, chán đời mà trái lại, nó đã
song hành với tinh thần tự chủ, tự lực, tự cường và bảo vệ sắc thái của người dân
Việt. Ngoài văn học thời Lý - Trần hưng thịnh, phần nhiều các nhà thơ cô điển
Việt Nam đều chịu ảnh hưởng đạo Phật. Nhất là qua những tác phẩm của các tác
giả tiêu biểu như Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu
Trác, Lê Quý Đôn, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Du…Khi bàn về tình trạng văn học
đương thời, Lê Quý Đôn đánh gia cao thơ và từ của Đỗ Pháp Thuận và Ngô Chân
Lưu: “Câu thơ của sư Thuận làm cho sứ thần nhà Tống phải kinh phục, văn từ
Chân Lưu vang tiếng trong một thời”.
Thơ Trần Nhân Tông ý cảnh thanh thoát, điềm nhiên, trong sáng, câu thơ cầu
kỳ, thủ đoạn nghệ thuật thơ ca điêu luyện, nặng tình cảm hướng Phật, chứa chan ý
thiền.
Thuỵ khởi khải song phi,
Bất tri xuân dĩ quy.
Nhất song bạch hồ điệp,
Phách phách sấn hoa phi.
(Ngủ dậy ngỏ song mây,



Xuân về vẫn chửa hay.
Song song đôi bướm trắng,
Phấp phới quyện hoa bay)
(Xuân hiểu)
Trần Nhân Tông viết nhiều bài thơ có giá trị nghệ thuật cao: Đề Phổ Minh
tự Thuỷ Tạ; Hựu sơn phòng mạn hứng, v.v... Phan Huy Chú (1782~1840) nhận xét
thơ của Trần Nhân Tông “khoáng dật thanh nhã”. Học giả nhà Trần Hồ Nguyên
Trừng (?~?) đánh giá cao thơ của Trần Nhân Tông trong Nam Ông mộng lục rằng:
“Ở đây có cái trong trẻo tuyệt vời, một màu bát ngát, tình thơ thanh thoát, ý thú
siêu quần”. “Cái tươi mới, chắc khoẻ ở đây vượt xa khuôn khô người thường. Vị
quốc quân nghìn xe mà hứng cảm như vậy, ai bảo là người cùng khô thì thơ mới
hay?”
Ngoài ra việc phát triển dòng văn học nhà chùa của Campuchia đã kéo theo
việc phát triển cho chữ viết Campuchia, các tác phẩm văn học đến gần hơn với
công chúng, vì nó ngày càng gần gũi với đời sống hơn. Đối với Việt Nam, văn học
Phật giáo không những góp phần lớn vào sự hình thành và phát triển của văn học
chữ Hán Việt Nam, mà còn thúc đẩy sự hình thành và phát triển của văn học chữ
Nôm Việt Nam. Hầu như tất cả tác phẩm chữ Nôm trong thời kỳ ban đầu của văn
học chữ Nôm bây giờ vẫn giữ được đều là do các đại sư phật học sáng tác. Ví dụ
như: Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca của Trần Nhân Tông,
Vịnh Hoa Yên Tự Phú của Huyền Quang. “Cho đến nay, chúng ta vẫn chưa thấy
được một tác phẩm Nôm chắc chắc thuộc đời Trần mà lại không phải là của nhà
chùa”.
Tóm lại, các vị thiền sư, các vị minh vương, cùng nhiều Phật tử hoặc những
người có cảm tình với Phật giáo từ thời kỳ dựng nước cho đến thế kỷ XVIII, XIX,
đã sáng tác rất nhiều tác phẩm thi ca chữ Hán, chữ Nôm chuyển tải nhiều mảng đề
tài liên quan đến tư tưởng Phật giáo, hay cảnh đẹp của thiền môn, hoặc nếp sống
thanh cao của người tu Phật, v.v... Tất cả đã đặt nền móng cho văn học Việt Nam
cũng như làm phong phú thêm sự nghiệp văn chương của người dân Việt chúng ta.
Và những tác phẩm thi ca được tiếp nối hiện hữu qua chiều dài lịch sử khá lâu, tạo

thành những giá trị rất riêng của văn học Việt Nam. Đồng thời, tất cả những bài thi
ca mang đậm nét Phật giáo đều toát lên giá trị triết lý sống một cách tốt đẹp cho


×