Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Giáo dục so sánh khái niệm và định nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.87 KB, 18 trang )

GIÁO DỤC SO SÁNH
1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM VÀ ĐỊNH NGHĨA VỀ GIÁO DỤC SO SÁNH
Giáo dục so sánh là một ngành khoa học có lịch sử đúng 175 năm từ ngày danh từ
ấy ra đời. Giáo dục so sánh được quan niệm khác nhau theo từng thời gian.
Năm 1954 theo giáo sư Isaac Kandel làm việc tại Khoa Sư phạm trường Đại học
Tổng hợp Columbia ở Mỹ, trong cuốn sách “Thời đại mới trong giáo dục” đã viết về khái
niệm giáo dục so sánh như sau: “Giáo dục so sánh phân tích và so sánh các nguồn lực tạo
nên sự khác nhau giữa hệ thống giáo dục quốc của các nước” (to analyse and compare the
forces which make for differences between national systems of education). 1
Năm 1960, Goerge Bereday, một nhà nghiên cứu về giáo dục so sánh của Khoa Sư
phạm trường Đại học Tổng hợp Columbia ở Mỹ, trong cuốn sách “Phương pháp so sánh
trong giáo dục” đã viết: “Giáo dục so sánh nghiên cứu phân tích các hệ thống giáo dục
nước ngoài” (the analytical study of foreign educational systems). 2
Năm 1969, hai tác giả Harold Noah và Mã Eckstein ở trường Đại học Tổng hợp
New York trong cuốn sách “Tiến tới một khoa học giáo dục so sánh” đã viết: “Giáo dục
so sánh nằm ở chỗ giao thoa giữa các môn khoa học xã hội, giáo dục và nghiên cứu xuyên
quốc gia” (Comparative education is at the intersection of the social sciences, education
and cros-national study).3
Năm 1976, Allan Robert Trethewey ở trường Đại học Victoria ở Ôxtrâylia, trong
cuốn sách “Nhập môn giáo dục so sánh” đã viết: “Giáo dục so sánh bao giờ cũng hướng
sự chú ý vào các tư tưởng, quá trình và thực tiễn trong các xã hội khác” (Comparative
education has always directed attention to educational ideas, processes and practices in
other societies).4
Năm 1978, M. A. Xôcôlôva ở trường Đại học Sư phạm Quốc gia Matxcơva trong
sách giáo khoa “Giáo dục so sánh” cho sinh viên các trường đại học sư phạm Liên Xô đã
viết: “Giáo dục so sánh nghiên cứu những nét chung và riêng biệt và xu thế phát triển lý
luận cũng như thực tiễn dạy học và giaó dục trong thế giới hiện đại bao gồm các cơ sở
kinh tế, chính trị xã hội, triết học, và cả những đặc điểm dân tộc”. 5
Isaac Kandel: The New Era in Education. . Harrap, London, 1954, p. 8.
George Bereday: Comparative Method in Education. Holt, Rinehart and Winston, New York, p. 9.
3


Harold Noah, Max Eckstein: Toward a Science of Comparative Education. Macmillan, Toronto, 1969, p. 184.
4
Alan Robert Trethewey: Introducing Comparative Education. Pergamon Press, Australia, 1976, p. 2.
5
Sokolova, M. A., Kuzmina E. H., Rodionov, M. L.: Sravnitel’naja pedagogika. Prosvetshnije, Moskva, 1978, str. 21.
1
2

1


Năm 1981, ông Lê Thành Khôi, giáo sư trường Đại học Paris, trong cuốn sách
“Giáo dục so sánh” đã viết: “Giáo dục so sánh không chỉ còn liên quan đến việc so sánh
các hệ thống giáo dục, mà còn nói đén mối quan hệ của các hệ thống đó với môi trường
xung quanh trong phạm vi quốc gia và quốc tế”.6
Năm 1982, Philip Altbach ở Đại học Tổng hợp bang New York ơ Buffalo cùng các
đồng nghiệp của mình trong cuốn sách “Giáo dục so sánh” đã viết như sau: “Giáo dục so
sánh tiến hành so sánh hệ thống giáo dục các nước nhằm một mục đích nhiều mặt: hiểu
biết quốc tế; cải tiến hoặc cải cách giáo dục ở nước mình hoặc nước ngoài và/hoặc giải
thích sự khác nhau giữa các nước”.7
Năm 1990 W. D. Halls cùng nhiều tác giả khác đã viết một cuốn sách do UNESCO
xuất bản có tên là “Giáo dục so sánh: các vấn đề và xu thế hiện nay” đã viết như sau:
“Giáo dục so sánh mô tả và phân loại các loại hình giáo dục khác nhau; xác định các mối
quan hệ và sự tương tác tồn tại giữa các khía cạnh và nhân tố khác nhau của giáo dục và
giữa giáo dục và xã hội; phân biệt các điều kiện cơ bản làm đổi thay giáo dục và tính kế
tục của giáo dục”.8
Khi mới phát triển giáo dục so sánh người ta quan niệm đơn vị của so sánh là hệ
thống giáo dục ở cấp quốc gia, tức là so sánh hệ thống giáo dục của nước này với nước
khác hoặc vài nước khác. Hiện nay đơn vị so sánh đã thay đổi, có thể mở rông lớn hơn mà
cũng có thể thu hẹp nhỏ hơn và một số tác giả đã phân loại giáo dục so sánh theo phạm vi

của nó.
Theo tác giả Lê Thành Khôi có 3 loại từ rộng đến hẹp là so sánh siêu quốc gia
(comparaison supra-nationale); so sánh quốc tế hay so sánh giữa các quốc gia
(comparaison internationale) và so sánh quốc nội hay trong một quốc gia (comparaison
intra-nationale). Theo Harold Noah và Max Eckstein thì lại có 4 loại từ rộng đến hẹp bao
gồm cả không gian và thời gian, đó là so sánh toàn cầu (global comparison); so sánh khu
vực nhiều quốc gia (regional multinational comparison); so sánh vùng trong một quốc gia
(regional intranational comparison) và so sánh xuyên thời gian (cross-temporal
comparison).

Le Thanh Khoi: L’éducation comparée. Armand Colin Editeur, Paris, 1981, p. 10.
Philip Altbach, Robert Arnove, Gail Kelly: Comparative Education. Macmilan Publishing Co., Inc. New York,
1982.
8
W. D. Halls: Sciences de l’éducation: L’éducation comparée - questions et tendances contemporaines. Unesco,
Paris, 1990, p. 20.
6
7

2


Theo phân loại mới của giáo dục so sánh thì việc so sánh với đơn vị là toàn bộ hệ
thống giáo dục của quốc gia này so với một quốc gia khác không còn là thích hợp nữa.
Bởi lẽ mục đích của giáo dục so sánh mà Philip Altbach đã nêu trong quan niệm của ông
là so sánh không chỉ để biết, để hiểu, mà còn để làm, để hành động, trong lĩnh vực giáo
dục có nghĩa là để cải tiến và để cải cách.
Nếu lấy đơn vị so sánh là toàn bộ các vấn đề của hệ thống giáo dục quốc dân thì
môn giáo dục so sánh chỉ cần thiết cho đối tượng là những người làm giáo dục ở tầm vĩ
mô trong một quốc gia. Nếu lấy đơn vị so sánh là bất kỳ vấn đề gì đang gay cấn trong một

phạm vi nhỏ hẹp của hệ thống giáo dục như mục tiêu, nội dung, phương pháp, dạy học và
giáo dục, số lượng, chất lượng đào tạo và dạy học, thậm chí chỉ của một môn học, thì có
thể thấy môn giáo dục so sánh là cầng thiết cho tất cả mọi người làm công tác trong ngành
giáo dục, kể cả giáo viên dạy một môn học hoặc cán bộ quản lý giáo dục một sơ sở nhỏ.
Một quan niệm mới hơn về giáo dục so sánh là lấy tình trạng có vấn đề trong giáo
dục ở nơi mình làm xuất phát điểm. Hiện nay khái niệm bao quát về giáo dục so sánh là:
“Giáo dục so sánh là một môn học nghiên cứu việc so sánh các vấn đề giáo dục xảy ra ở
một nơi với vấn đề đó ở một (hoăc vài) nơi khác để biết được tình hình phát triển giáo
dục, phân tích và giải thích nguyên nhân sự giống nhau và sự khác biệt và tìm ra cách giải
quyết vấn đề, sau đó có thể rút ra được kinh nghiệm thực tế cũng như đóng góp về lý luận
cho sự phát triển giáo dục”.
Như vậy giáo dục so sánh là một môn khoa học xã hội có lịch sử hình thành
riêng. Mục đích của môn học này là nhằm hiểu biết tốt hơn nền giáo dục nước mình,
phát triển, cải tiến hoặc cải cách giáo dục trong nước và nước ngoài, phát triển kiến
thức, lý thuyết và nguyên tắc về giáo dục nói chung và về mối quan hệ giữa giáo dục
và xã hội, đồng thời nhằm hiểu biết và hợp tác quốc tế để giải quyết các vấn đề về giáo
dục, cũng như các vấn đề khác có liên quan mang tính quốc tế. Đối tượng phục vụ của
môn học này là sinh viên các trường sư phạm, học viên các viện nghiên cứu giáo dục,
giáo viên, cán bộ nghiên cứu giáo dục, cán bộ quản lý giáo dục các cấp, cán bộ hợp tác
quốc tế, các nhà hoạch định chính sách giáo dục, cán bộ của các cơ quan hoạt động giáo
dục trong và ngoài nước. Hệ thống các loại hình giáo dục so sánh được biểu diễn trong Sơ
đồ 1.

3


Sơ đồ 1: Hệ thống các loại hình giáo dục so sánh
GIÁO DỤC SO SÁNH

Nghiên

cứu
so sánh

Giáo
dục học
so sánh

Giáo
dục
nước
ngoài

Giáo
dục
quốc tế

Phân tích
giáo dục và
văn hoá
một nước

Giáo
dục học
quốc tế

Giáo dục
về sự phát
triển

Nghiên cứu

công việc
của các cơ
sở giáo dục
quốc tế

Khái niệm về “giáo dục so sánh” và “so sánh giáo dục” được phân biệt rõ bởi
“giáo dục so sánh” là một môn khoa học xã hội có lịch sử hình thành riêng, còn “so sánh
giáo dục” là việc thực hiện nghiên cứu so sánh về giáo dục.
2. SỰ PHÁT TRIỂN VÀ CÁC XU HƯỚNG CỦA GIÁO DỤC SO SÁNH
Theo Sôcôlova sự phát triển của giáo dục so sánh đã được chia làm ba giai đoạn
chính, không kể giai đoạn khởi đầu. Cách phân chia này đã dựa trên các căn cứ cơ bản là
sự hình thành và phát triển của giáo dục chịu tác động của những biến động về kinh tế-xã
hội và chính trị, đòi hỏi phải có sự thay đổi trong hệ thống giáo dục. Các giai đoạn phát
triển của Giáo dục so sánh có thể được tóm tắt như sau:
- Giai đoạn thứ nhất: Từ cách mạng tư sản phương Tây đến Cách mạng xã hội chủ
nghĩa tháng 10 ở nước Nga (cuối thế kỷ 18 đến năm 1917);
- Giai đoạn thứ hai: Từ Cách mạng tháng 10 đến khi thiết lập hệ thống xã hội chủ
nghĩa thế giới (1917-1945);
- Giai đoạn thứ ba: Từ khi thiết lập hệ thống xã hội chủ nghĩa.
Giai đoạn phát triển thứ nhất của giáo dục so sánh được đánh dấu bằng thời điểm
ra đời tác phẩm của Marc Antoine Jullien năm 1817. Theo ông Giáo dục so sánh là một
trong các con đường quan trọng để cải tiến lý luận và thực tiễn giáo dục và dạy học, khởi
4


thảo ra một lý luận giáo dục và đào tạo chung cho tất cả các nước châu Âu, tạo điều kiện
thúc đẩy quá trình phát triển văn hoá chung và tăng cường đoàn kết giữa các dân tộc.
Ngoài việc thu thập tình hình, phân tích và so sánh về giáo dục, ông cho rằng phải xuất
bản tạp chí giáo dục bằng nhiều thứ tiếng và thực hiện một cách có hệ thống sự trao đổi ý
kiến bằng văn bản giữa các đại biểu của các trung tâm khoa học và văn hoá quan trọng

nhất của châu Âu về các vấn đề giáo dục.
Vào cuối thế kỷ 19, vấn đề hoàn thiện hệ thống giáo dục được quan tâm ở nhiều
quốc gia, do đó việc nghiên cứu so sánh các loại hình trường là cần thiết. Trong bối cảnh
đó một số cơ sở lý luận và nhiệm vụ thực tiễn của Giáo dục so sánh đã được xác định: đó
là thu thập, biên soạn và công bố các tài liệu về kinh nghiệm giáo dục nước ngoài, phát
hiện các mắt tích cực của các hệ thống giáo dục khác nhau nhằm mục đích rút ra những
kinh nghiệm bổ ích để hoàn thiện hệ thống giáo dục nước mình.
Năm 1900, người ta quan niệm mỗi hệ thống giáo dục như một chỉnh thể mà mọi
yếu tố có quan hệ với nhau và hệ thống đó phải được nghiên cứu trong mối quan hệ với
bối cảnh xã hội. Các vấn đề của nhà trường phải được xem xét trong bối cảnh thực tế của
nó, nghĩa là trong mối quan hệ với các hình thức khác của nền văn hoá xã hội với sự ra
đời của những cơ quan nghiên cứu quốc gia và quốc tế về giáo dục so sánh nhằm thu
thập, biên soạn và phổ biến một cách hệ thống những tài liệu thông tin, số liệu thống kê
về giáo dục của nước mình và trên thế giới
Giai đoạn phát triển thứ hai của Giáo dục so sánh thời kỳ từ năm 1917 với cuộc
Cách mạng tháng 10 ở Nga đến năm 1945. Giáo dục so sánh thời kỳ này phản ảnh mâu
thuẫn kinh tế-xã hội và chính trị không những giữa các nước có chế độ xã hội khác nhau,
mà cả giữa các nước tư bản chủ nghĩa.
Giai đoạn phát triển thứ ba của Giáo dục so sánh tính từ cuối những năm 40 của
thế kỷ 20, đặc điểm của giai đoạn này là sự biến động về tình hình chính trị của thế giới,
và sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cánh mạng khoa học và kỹ thuật.
Từ năm 1945, tổ chức UNESCO đã đề ra các nhiệm vụ phát triển giáo dục ở quy
mô thế giới, đặc biệt là tiến hành thu thập tư liệu cần thiết cho việc nghiên cứu trong lĩnh
vực Giáo dục so sánh, xuất bản niên giám và sổ tay về tình hình giáo dục ở các nước trên
thế giới, tổ chức các hội nghị quốc tế về các vấn đề giáo dục và các vấn đề về Giáo dục so
sánh. Các ấn phẩm về Giáo dục so sánh hơn nửa thế kỷ qua có thể chia làm hai nhóm:

5



(i) Các ấn phẩm nghiên cứu về các vấn đề lý luận của Giáo dục so sánh (đối tượng,
nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu; mô tả và phân tích hệ thống giáo dục và đào tạo
trong các nước hoặc phân tích so sánh các vấn đề giáo dục và dạy học riêng biệt.
(ii) Các ấn phẩm về nghiên cứu so sánh các hệ thống giáo dục và những vấn đề
giáo dục và giảng dạy riêng biệt.
Như vậy, trong giai đoạn phát triển thứ ba Giáo dục so sánh tiếp tục phát triển lý
luận, hình thành nhiều tổ chức quốc tế và quốc gia, xuất bản các tạp chí quốc tế và quốc
gia, nghiên cứu so sánh định hướng đi sau vào việc phân tích so sánh các vấn đề riêng
biệt; phát triển những phương pháp, kỹ thuật, tiêu chuẩn, quy trình để nghiên cứu.
Nếu xét toàn bộ quá trình phát triển của Giáo dục so sánh từ khi hình thành cho tới
ngày nay có thể rút ra các xu hướng chủ yếu sau đây: (i) Phát triển khởi đầu từ so sánh
giáo dục giữa hai nước, đến về sau nhiều nước hơn; (ii) Phát triển khởi đầu với mục đích
thực dụng trong thực tiễn, đến về sau mang nhiều mục đích nâng cao hơn trình độ lý luận;
(iii) Phát triển khởi đầu từ việc lấy phạm vi so sánh là cả hệ thống giáo dục một nước so
với nước khác, về sau đến từng vấn đề nhỏ, từng tỷ lệ và chỉ số thuộc về giáo dục hoặc
liên quan đến giáo dục, nói cách khác, khởi đầu từ phạm vi vĩ mô về sau đến phạm vi vi
mô; (iv) Phát triển khởi đầu từ việc lấy đơn vị so sánh từ vấn đề giáo dục giữa các nước
(international=quốc tế), về sau một mặt theo chiều hướng mở rộng đến vấn đề giáo dục
giữa các giữa các khu vực hoặc các châu lục trên toàn thế giới (supernational=siêu quốc
gia), mặt khác theo chiều hướng thu hẹp đến vấn đề giáo dục giữa các địa phương hoặc cơ
sở đào tạo khác nhau trong một nước (intranational=quốc nội); (v) Phát triển khởi đầu từ
nghiên cứu so sánh thiên về định tính, về sau đến nghiên cứu so sánh thiên về định lượng
bằng các chỉ số và tỷ lệ với sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật hiện đại.
3. MỤC ĐÍCH CỦA GIÁO DỤC SO SÁNH
Theo quan niệm mới nhất hiện nay, Giáo dục so sánh có 4 mục đích sau đây:
- Mục đích thứ nhất của Giáo dục so sánh là Hiểu biết tốt hơn về giáo dục của
địa phương mình: Mục đích trên được thể hiện trong quan điểm của nhiều tác giả như
Michael Sadler đã từng phát biểu: “Nghiên cứu giáo dục nơi khác sẽ nâng cao hiểu biết về
giáo dục ở địa phương mình” .9 Isaac Kandel lại viết “Nghiên cứu hệ thống nước ngoài
nghĩa là một sự tiếp cận có phê phán và một thách thức đối với triết lý giáo dục của bản

thân nước mình, và vì thế đó chính là sự phân tích rõ hơn bối cảnh và cơ sở của hệ thống
9

Michael Sadler: Guildford lecture. London, 1900.

6


quốc gia mình”10. Khi đó, người ta coi phạm vi so sánh là cả hệ thống giáo dục của quốc
gia.
Khi chuyển sang thời kỳ mà phạm vi so sánh từ vĩ mô sang vi mô, từ quốc tế sang
quốc nội, đối tượng so sánh có thể là một vấn đề nhỏ của hệ thống giáo dục xảy ra ở một
nơi, một địa phương, một cơ sở đào tạo, cho nên có thể suy ra rằng Giáo dục so sánh có
một mục đích phổ biến hơn, đó là nghiên cứu giáo dục ở nơi khác để nâng cao sự hiểu
biết nơi mình, không kể các nơi đó nằm ở nhiều nước hay trong một nước, có phạm vi to
hay nhỏ. Như vậy Giáo dục so sánh trở nên cần thiết đối với tất cả những người làm công
tác giáo dục và dạy học ở mọi vị trí, chứ không phải chỉ dành riêng cho những người làm
chính sách giáo dục ở cấp quốc gia.
- Mục đích thứ hai của Giáo dục so sánh là Phát triển, cải tiến hoặc cải cách
giáo dục ở nơi mình và nơi khác, ở trong và ngoài nước: Nicolas Hans đã từng viết:
“Lĩnh vực Giáo dục so sánh có đặc tính năng động với mục đích tận dụng, nhìn vào tương
lai với một dự định kiên quyết cải cách” 11. Với quan niệm của một thời cho rằng đối
tượng nghiên cưú là hệ thống giáo dục ở phạm vi quốc gia, George Bereday đã viết:
“Giáo dục so sánh liệt kê các phương pháp xây dưng nền giáo dục vượt qua biên giới các
nước và trong sự liệt kê này mỗi nước xuất hiện như một phương án trong kho tàng chung
các kinh nghiệm giáo dục của nhân loại. Nếu có cách sắp xếp tốt bảng liệt kê đó, ta có thể
thấy các màu sắc tương phản và giống nhau của viễn cảnh thế giới, và sẽ làm cho mỗi
nước có nhiều khả năng tiếp thu được các bài học về phát triển giáo dục” 12. Theo Brian
Holmes “Giáo dục so sánh là một môn của khoa học giáo dục cho ta sức mạnh chỉ đạo để
phát triển, ta có thể dụng nó với một sự chính xác và chặt chẽ hơn trong công cuộc cải

cách và phát triển giáo dục một cách có kế hoạch”13.
Với quan niệm đối tượng nghiên cứu có phạm vi nhỏ hơn là nhà trường, Arnold
Anderson đã viết: “ Chẳng có gì tự nhiên hơn là tin rằng những sai sót của nhà trường
chúng ta đã từng được tránh ở một nước nào đó” 14. Với ý đó nghiên cứu Giáo dục so sánh
có thể giúp chúng ta những suy nghĩ đổi mới để khắc phục những sai sót đó, bằng cách
cải tiến, cải cách để phát triển nhà trường của chúng ta. Cũng với quan niệm ấy Edmund
Isaac Kandel: Comparative Education. Houghton Mifflin, Boston, 1933, p.20.
Nicolas Hans: English Pioneers of Comparative Education. British Journal of Comparative Educational Studies,
London, 1952, pp 56-59.
12
George Bereday: Comparative Method in Education. Holt, Rinehart and Winston, New York, 1964, p.5.
13
Brian Holmes: Problems in Education, A Comparative Approach. Routledge and Kegan Paul, London, 1965, p.3.
14
Arnold Anderson: The Methodology of Comparative Education. International Review of Education vii, Hamburg,
1961-1962, p.1.
10
11

7


King viết: “Gắn với mọi nghiên cứu so sánh giáo dục là cải cách. Điều quan trọng nhất là
cần biết rằng sự đề xuất cuối cùng của nghiên cứu so sánh là ý đồ cải cách. Cải cách
không phải là đặc biệt chỉ ở ý nghĩa đổi mới một cái gì khác trước, mà đặc biệt hơn ở ý
nghĩa thách thức đối với tư duy cố hữu của bản thân chúng ta, đối với những gì chúng ta
coi như là dĩ nhiên về mặt xã hội và nghề nghiệp”15.
- Mục đích thứ ba của Giáo dục so sánh Phát triển lý kiến thức, lý luận, nguyên
tắcvà quy luật về giáo dục nói chung và về mối quan hệ giữa giáo dục và xã hội: Giáo
dục so sánh ngoài mục đích cải tạo thực tiễn vừa kể ở trên còn có mục đích nâng cao lý

luận về giáo dục, cụ thể là từ kết quả so sánh có thể đóng góp vào việc đề xuất những điều
khái quát hoá để trở thành những kiến thức phổ biến, những lý luận, những nguyên tắc và
những quy luật trong giáo dục. Để thực hiện được mục đích thứ ba này Giáo dục so sánh
phải xây dựng thành một khoa học thực sự, phải nghiên cứu có hệ thống, có điều khiển,
có thực nghiệm, và nơi nào có thể sẽ nghiên nghiên cứu định lượng để chứng minh rõ
ràng các giả thuyết đã lập ra.16
- Mục đích thứ tư của Giáo dục so sánh là hiểu biết và hợp tác quốc tế, giải
quyết các vấn đề giáo dục cũng như các vấn đề khác có liên quan thuộc phạm vi quốc
tế: Giáo dục so sánh đóng góp vào sự phát triển một tinh thần quốc tế không dựa trên xúc
cảm hoặc tình cảm, mà nảy sinh từ sự hiểu biết trân trọng các nước khác cũng như bản
thân nước mình, với ý nghĩa là mọi quốc gia thông qua hệ thống giáo dục của mình đang
đóng góp, mỗi nước bằng con đường riêng của mình, vào công việc chung và sự tiến bộ
của thế giới, và với ý nghĩa thực hiện những tham vọng và lý tưởng mà mỗi quốc gia nỗ
lực đạt được thông qua nhà trường của mình. Như vậy, về phương diện mục đích giáo dục
so sánh đã trải qua ba giai đoạn chính:
- Giai đoạn I là tìm hiểu các nền giáo dục quốc tế trên cơ sở mô tả các hệ thống
giáo dục, cách tổ chức trường học, chương trình học với mục đích "vay mượn" những cái
người ta cho là hay nhất của nước ngoài để áp dụng tại nước mình.
- Giai đoạn II là giai đoạn tiếp theo giai đoạn "vay mượn", người ta trải quá trình
chuẩn bị để tìm hiểu những yếu tố xã hội, văn hoá ảnh hưởng ảnh hưởng đến hệ thống
giáo dục của mỗi quốc gia.

15
16

Edmund King: Other Schools and Ours. Holt and Rinehart and Winston, New York, 1973, p.42.
Harold Noah, Max Eckstein: Toward a Science of Comparative Education. Macmillan, Toronto, 1969, p.189.

8



- Giai đoạn III là giai đoạn "Hợp tác quốc tế " nhằm tạo nên sự hiểu biết lẫn nhau
giữa các quốc gia. Trong giai đoạn này, người ta tìm hiểu các nền giáo dục nước ngoài để
học tập những gì được coi là thành công ở nước ngoài.
Với quan điểm và mục đích của giáo dục so sánh, ta thấy rằng nền giáo dục thê
giới là một bức tranh nhiều màu sắc, không nhất thiết phải giống nhau mà nhiều khi
tương phản với nhau, từ đó ta có thể phân loại, đánh giá các nền giáo dục khác nhau một
cách khách quan và cũng từ đó có thể rút ra những bài học cho chính mình. Tìm hiểu các
nền giáo dục quốc tế không chỉ nhằm mục đích "hợp tác quốc tế" để giải quyết vấn đề
chung, mà nó còn là phương tiện đề "hiểu người" và "hiểu mình".
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU GIÁO DỤC SO SÁNH
Về phương diện phương pháp nghiên cứu, giáo dục so sánh đã trải 2 giai đoạn là
giai đoạn mô tả các hệ thống giáo dục, văn hoá, kinh tế của từng nước hoặc nhiều nước so
sánh với nhau và hiện nay đang tiến đến giai đoạn phân tích toàn bộ nền giáo dục thế giới,
tìm hiểu tác động bao trùm của giáo dục trên xã hội theo quan điểm quốc tế, hầu hết cố
tìm ra các quy luật, các "loại hình" giáo dục và xác định mối liên hệ phưc stạp giữa giáo
dục và quần chúng mà nó phục vụ. Việc tìm hiểu giáo dục quốc tế được thực hiện qua ba
phương tiện chủ yếu là: (i) các tài liệu giáo dục nước ngoài; (ii) các báo chí nước ngoài;
(iii) các cuộc du hành , quan sát ngắn hạn.
Nghiên cứu so sánh giáo dục các quốc gia đòi hỏi phải tiến hành theo ba giai đoạn:
(i)

Nghiên cứu hệ thống giáo dục của từng quốc gia riêng rẽ hay của một
vùng bao gồm một số quốc gia có điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội
tương tự;

(ii)

Nghiên cứu so sánh các nền giáo dục khác nhau quanh một số vân sđề
giáo dục được lựa chọn có liên hệ mật thiết đến những vấn đề đang được

đặt ra tại nước mình;

(iii)

Phân tích tổng thể các nền giáo dục.

Về phương diện phương pháp, lịch sử của giáo dục so sánh cho thấy một nghiên
cứu thường được tiến hành theo bốn bước:
(i)

Mô tả các dữ kiện giáo dục;

(ii)

Nghiên cứu các sự kiện, dữ kiện giáo dục, sư phạm và giải thích trong bối
cảnh lịch sử, văn hoá, xã hội, kinh tế của từng quốc gia riêng rẽ;

9


(iii)

Nghiên cứu các sự kiện, dữ kiện giáo dục, sư phạm và giải thích trong bối
cảnh lịch sử, văn hoá, xã hội , kinh tế của từng quốc gia nhưng đặt một số
các quốc gia cạnh nhau để nêu ra những sự giống nhau và khác biệt, từ đó
đưa ra những giả thuyết để so sánh;

(iv)

So sánh một số các quốc gia quanh một số vấn đề chung, đặc biệt là những

vấn đề đang được xem xét là mối quan tâm tại nước mình.

Như vậy, trước khi áp dụng phương pháp tiếp cận vấn đề, tức là lựa chọn một số
vấn đề và nghiên cứu vấn đề ấy xuyên qua nhiều quốc gia, không được bỏ qua giai đoạn I,
tức là thực hiện những cuộc nghiên cứu từng quốc gia hay từng nhóm quốc gia có ít nhiều
mối tương đồng về phương diện lịch sử, văn hoá, xã hội hay kinh tế. Việc nghiên cứu
giáo dục của từng nước không chỉ là sự mô tả các hệ thống giáo dục, cách tổ chức chương
trình các cấp học kèm theo các dữ kiện thống kê về học sinh, giáo viên, trường học, quan
trọng hơn là việc giải thích các sự kiện và dữ kiện giáo dục trong mối quan hệ của các
ngành khoa học xã hội và nhân văn, bởi vì hầu như mọi chuyển biến trong giáo dục của
mỗi quốc gia đều có liên hệ đến giai đoạn lịch sử.
Để thực hiện những cuộc nghiên cứu nhằm tìm hiểu từng quốc gia hay từng vùng
nhỏ, kinh nghiệm của các nhà giáo dục so sánh cho thấy có bốn điều kiện căn bản đòi hỏi
các nhà nghiên cứu, đó là:
(i) Đọc tài liệu liên quan đến quốc gia hay vùng mà mình muốn nghiên cứu;
(ii) Hiểu biết ngôn ngữ của quốc gia ấy, hay thứ ngôn ngữ phổ biến nhất mà quốc
gia ấy sử dụng;
(iii) Cư trú tại quốc gia ấy hay thực hiện những cuộc du hành nghiên cứu có chuẩn
bị chu đáo;
(iv) Biết kiềm chế những thành tích, thiên vị của cá nhân hay tư tưởng văn hoá - xã
hội của riêng quốc gia mình. Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông
tin, việc khai thác thông tin qua mạng đã giúp cho các nhà nghiên cứu tìm kiếm đựoc
nhiều thông tin bổ ích, trên cơ sở các thông tin đó, các nhà nghiên cứu đã bổ túc, kiểm tra,
đánh giá lại thông qua các cuộc quan sát và điều tra.
5. CÁC CHỈ SỐ GIÁO DỤC - CÔNG CỤ ĐỂ THỰC HIỆN GIÁO DỤC SO SÁNH
5.1 Khái niệm về chỉ số giáo dục
Theo định nghĩa, các chỉ số giáo dục được xây dựng nhằm mục đích phản ánh, đo
đạc các sự kiện hoặc những thay đổi của các cơ quan trong toàn bộ hệ thống giáo dục.
10



Các chỉ số này phản ánh mục tiêu đặt ra mà các hoạt động giáo dục đã tiến hành để đạt
được các mục tiêu đó. Chỉ số giáo dục (educational indicator) là một công cụ để phản ánh
về hoạt động của hệ thống giáo dục quốc dân nhằm báo cáo với Chính phủ và xã hội . Chỉ
số giáo dục không phải là một thành tố cơ bản của thông tin mà là thông tin được xử lý để
nghiên cứu các vấn đề về giáo dục. Chỉ số giáo dục là số liệu thống kê đơn lẻ hay tập hợp
thường có liên quan đến một vấn đề cơ bản của giáo dục và cho biết sự hoạt động của nó
như thế nào. Hệ thống chỉ số không chỉ là một tập hợp các số liệu thống kê đo lường các
thành tố khác nhau của một hệ thống giáo dục, mà còn phản ánh sự phối hợp giữa các
thành tố đó.
Theo phân loại của Tổ chức Hợp tác kinh tế để phát triển (OECD) về các chỉ số giáo
dục thì chúng được chia thành 3 nhóm chính: các chỉ số đơn giản (simple indicators), các
chỉ số thực hiện (performance indidcators) và các chỉ số chung (general indicator). Các
chỉ số này được định nghĩa như sau:
(i)
Các chỉ số đơn giản thường được sử dụng để diễn tả dưới dạng các minh họa
tuyệt đối và được dùng để miêu tả thực tế không thiên vị một tình huống, một quá trình.
(ii)
Các chỉ số thực hiện khác với các chỉ số đơn giản là trong chúng bao hàm
một điểm lưu ý tham khảo, ví dụ một tiêu chuẩn, một đối tượng, một sự đánh giá, một sự
so sánh của trường... và do vậy chúng có đặc điểm tương đối hơn là tuyệt đối. Ví dụ số
học sinh tốt nghiệp là một chỉ số đơn giản còn tỉ lệ học sinh tốt nghiệp trên số học sinh
nhập học và năm nào trước đó là một chỉ số thực hiện. Chỉ số đơn giản có tính trung lập
hơn trong hai loại chỉ số. Mặc dù vậy cũng có thể nói rằng chỉ số đơn giản có thể trở
thành chỉ số thực hiện nếu xem xét giá trị có liên quan.
Hệ thống các chỉ số giáo dục có thể cung cấp thông tin về đầu vào (các nguồn tài
chính, cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên, hoàn cảnh học sinh...); về quá trình dạy và học
(cấu trúc và tổ chức trường học, chất lượng chương trình học, chất lượng giảng dạy, chất
lượng đào tạo); về sản phẩm đầu ra của giáo dục (thành quả học tập của học sinh, sưk
tham gia vào xã hội hay việc làm, thái độ và nguyện vọng khi làm việc). Có thể mô tả sự

tương tác giữa các chỉ số giáo dục trong hệ thống giáo dục qua sơ đồ (xem Sơ đồ 2)

11


Sơ đồ 2: Sự tương tác giữa các chỉ số giáo dục trong hệ thống giáo dục
ĐẦU VÀO

QUÁ TRÌNH

ĐẦU RA

Tài chính và
vật chất khác

Chất lượng
chương trình

Kết quả
học tập

Chất lượng
trường lớp

Chất lượng
đào tạo

Chất lượng
giáo viên


Tham
gia
Chất lượng
giảng dạy

Hoàn cảnh
học sinh

Thái độ,
nguyện
vọng

Việc sử dụng các chỉ số giáo dụng thay đổi ở mỗi nước và tuỳ thuộc vào bối cảnh
giáo dục cụ thể và mục đích nghiên cứu. Chẳng hạn như khi phân tích hoạt động thì sử
dụng các chỉ số giáo dục phân theo các nhóm sau: giá thành giáo dục, các hoạt động, kết
quả đầu ra và bổ sung thêm các các chỉ số minh hoạ về môi trường văn hoá- xã hội. Nếu
muốn phân tích các đầu vào khác nhau thì sử dụng chỉ số giáo dục theo các nhóm: nhà
trường, học sinh, giáo viên và giá thành. Ngoài ra còn có cách phân nhóm các chỉ số theo
chủ đề như: trình độ học sinh, sự chuẩn bị cho thị trường lao động, sự chuẩn bị cho cuộc
sống xã hội, bình đẳng hoặc dân chủ trong giáo dục.
5.2 Khái niệm và định nghĩa một số các chỉ số giáo dục cơ bản
Trong các tài liệu thống kê, số liệu về giáo dục hoặc liên quan đến giáo dục thường
xuất hiện dưới ba dạng sau đây:
- Các con số tổng cộng (total), thí dụ như số trường, số giáo viên và số học sinh
(chung là tổng số hoặc riêng cho nam hoặc nữ);
- Các số tỷ lệ (rate, ratio), thông thường có thể tính ra phần trăm, phần ngàn, phần
vạn hoặc phần mười vạn, tùy theo trị số đó lớn hay nhỏ; thí dụ như tỷ lệ biết chữ, tỷ lệ trẻ
em học đến lớp 5, tỷ lệ đi học và tỷ lệ sinh viên trên dân số, tỷ lệ nữ trong tổng số hoặc nữ
so với nam của giáo viên hay học sinh, sinh viên, tỷ lệ chi tiêu cho giáo dục công cộng
12



trên tổng sản phẩm quốc gia GNP hoặc trên tổng chi tiêu của Chính phủ hay còn gọi là
ngân sách Nhà nước. Cũng có một số trường hợp cụ thể, tỷ lệ không viết dưới dạng phần
trăm mà dưới dạng phân số, thí dụ như tỷ lệ giáo viên/học sinh.
- Các chỉ số (index, indicator) về giáo dục, bao gồm chỉ số giáo dục được tính ra từ
một vài số tỷ lệ về giáo dục, và các chỉ số khác liên quan đến giáo dục, trong đó chứa
đựng nhiều thành phần, nhưng có ít nhất một thành phần thuộc về giáo dục, thí dụ như chỉ
số phát triển con người, chỉ số phát triển về giới và chỉ số nghèo của con người.
a. Định nghĩa số tỷ lệ về giáo dục
♦ Tỷ lệ biết chữ của người lớn (adult literacy rate): là số phần trăm người trong tổng
số dân từ 15 tuổi trở lên có thể hiểu (bao gồm cả đọc và viết) những điều ngắn gọn và đơn
giản về cuộc sống hàng ngày của họ. Tỷ lệ này có thể tính chung cho cả nam lẫn nữ,
nhưng cũng có thể tính riêng cho nam hoặc nữ. Tỷ lệ biết chữ của thanh niên cũng được
định nghĩa tương tự, chỉ khác là số phân trăm người trong tổng số thanh niên từ 15 đến 24
tuổi biết đọc và viết.
♦ Ngoài ra còn có một tỷ lệ về giáo dục cũng thường được nói đến là tỷ lệ mù chữ
(illiteracy rate) được tính bằng lấy 100% trừ đi số phần trăm tỷ lệ biết chữ. Các nước phát
triển thường tính tỷ lệ người lớn mù chữ chức năng ở độ tuổi từ 16 đến 56 tuổi.
♦ Tỷ lệ đi học (enrolment ratio) gồm hai loại: tỷ lệ đi học chung (gross) và tỷ lệ đi
học riêng (net).
♦ Tỷ lệ đi học chung là số học sinh đi học ở một cấp bậc học, kể cả trong độ tuổi và
ngoài độ tuổi của cấp bậc học, tính theo phần trăm dân số trong độ tuổi của cấp bậc học
đó.
♦ Tỷ lệ đi học riêng là số học sinh đi học trong độ tuổi ở một cấp bậc học, tính theo
phần trăm dân số trong độ tuổi của cấp bậc học đó.
♦ Tỷ lệ đi học có thể tổng hợp cả tiểu học, trung học và đại học (combined first-,
second- and third-level enrolment ratio), có thể gọi tắt là tỷ lệ đi học các cấp, tính chung
cho cả nam và nữ, cũng có thể tính riêng cho nam hoặc nữ, có thể tính nữ so với nam,
cũng có thể tính riêng cho từng cấp bậc học như tiểu học, trung học, đại học.

♦ Tỷ lệ số sinh viên nữ trên số sinh viên nam, tỷ lệ số sinh viên toán và kỹ thuật
trên tổng số sinh viên, là các số tỷ lệ về giáo dục có thể tính ra phần trăm.

13


♦ Số sinh viên trên mười vạn dân, số sinh viên nữ trên mười vạn nữ, số cán bộ khoa
kỹ thuật nghiên cứu và triển khai trên mười vạn dân là các số tỷ lệ thường tính ra phần
mười vạn, nếu tính ra phần trăm thì trị số sẽ quá nhỏ.
♦ Tỷ lệ chí phí cho giáo dục công cộng là số phần trăm thường tính theo GNP hoặc
theo tổng ngân sách Nhà nước, cũng có thể tính riêng cho cho các cấp bậc học, thí dụ như
cho mẫu giáo cộng tiểu học, riêng cho trung học hoặc cho đại học cộng cao đẳng.
b. Định nghĩa chỉ số giáo dục và các chỉ số liên quan đến giáo dục
Chỉ số (index, indicator) là các con số không mang đơn vị, thường được tính bằng
số thập phân biến đổi từ 0 đến 1, trong đó 0 là mức độ thấp nhất và 1 là mức độ cao nhất.
Công thức chung để tính các chỉ số nằm trong thang số từ 0 đến 1 là:
Trị số thực tế xi - trị số nhỏ nhất xi min
Chỉ số =

.
Trị số lớn nhất xi max - trị số nhỏ nhất xi min

Bằng công thức trên người ta có thể chuyển một trị số hoặc một tỷ lệ bất kỳ thành
một chỉ số nằm trong thang số từ 0 đến 1. Thí dụ, tuổi thọ bình quân của Việt Nam theo
số liệu của năm 1999 là 67,8, trị số tuổi thọ bình quân thấp nhất và cao nhất trên thế giới
theo quy ước chung là 25 và 85, chỉ số tuổi thọ của người Việt Nam tính ra sẽ là 0,71. 17
Các chỉ số giáo dục và liên quan đến giáo dục, bao gồm: Chỉ số giáo dục, được
tính ra từ một vài số tỷ lệ về giáo dục, và các chỉ số khác liên quan đến giáo dục, trong đó
chứa đựng nhiều thành phần, nhưng có ít nhất một thành phần thuộc về giáo dục.


Chỉ số giáo dục (EI - Education index) hoặc còn gọi là chỉ số thành tựu
giáo dục (education attainment index): được tính ra từ tỷ lệ biết chữ của người lớn và tỷ lệ
đi học chung tiểu học, trung học và đại học phối hợp. Người ta lấy số tỷ lệ thứ nhất nhân
với hệ số 2 cộng với số tỷ lệ thứ hai nhân với hệ số 1 rồi chia cho 3 để được một số tỷ lệ
mới, sau đó chuyển thành chỉ số theo quy ước chung với tỷ lệ thấp nhất và cao nhất là 0%
và 100%. Ở Việt Nam theo số liệu của năm 1999, tỷ lệ biết chữ của người lớn là 93,1%,
tỷ lệ đi học tổng hợp các cấp là 67%, số tỷ lệ mới tính ra là 84% và chỉ số giáo dục của
Việt Nam là 0,84.

Chỉ số phát triển con người (HDI - Human development index): được tính
dưa trên ba chỉ số: một là chỉ số tuổi thọ, hai là chỉ số giáo dục và ba là chỉ số mức sống
17

Human Development Report 2001. UNDP, New York, Oxford/ Oxford University Press, 2001.

14


đo bằng GDP thực tế của một nước chuyển đổi ra đôla Mỹ trên cơ sở sự tương đương sức
mua (PPP$-purchasing power parity in US dollars) của đồng tiền trong nước. Sự tương
đương này của đồng tiền một nước là số đơn vị tiền tệ đòi hỏi để mua cùng một giỏ hàng
hoá và dịch vụ tượng trưng (hoặc một giỏ hàng tương tự) mà một đôla Mỹ (tiền tham
khảo) có thể mua được ở Hoa Kỳ. Chỉ số thành phần thứ ba thường gọi tắt là chỉ số GDP
(GDP index).
Để lập nên chỉ số phát triển con người, người ta xác định các trị số nhỏ nhất và lớn
nhất của các yếu tố thành phần như sau: tuổi thọ là 25 và 85 tuổi, số tỷ lệ về giáo dục 0%
và 100% và GDP thực tế theo sự tương đương sức mua là 100 và 40.000 đôla Mỹ. Để tính
chỉ số GDP, người ta lấy trị số GDP thực tế cao nhất không phải là 40.000 mà lấy trị số đã
điều chỉnh là 6.311.
Hai chỉ số thành phần đầu tiên được tính đơn giản và đã có các thí dụ minh hoạ dễ

hiểu về Việt Nam đã nêu ở trên. Chỉ số thành phần thứ ba tính toán phức tạp hơn nhiều,
và phương pháp tính toán đã thay đổi nhiều lần để ngày càng trở nên chính xác hơn. Dưới
đây trình bày hai phương pháp tính gần đây nhất.
Theo số liệu của năm 1995 mà Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc công bố
năm 1998, phương pháp tính toán như sau: Thu nhập bình quân trên thế giới 5.990 đôla
Mỹ theo sự tương đương sức mua vào năm 1995 được lấy làm mức ngưỡng (y’), và các
thu nhập cao hơn ngưỡng này sẽ phải giảm bớt đi bằng cách tính sau đây theo công thức
của Arkinson về tính hữu dụng của thu nhập:
W(y) = y’

đối với 0 < y < y’

= y’ + 2(y - y’)1/2

đối với y’ < y < 2y’

= y’ + 2(y’1/2) + 3(y - 2y’)1/3 đối với 2y’ < y < 3y’
Để tính trị số đã giảm bớt của thu nhập lớn nhất là 40.000 đôla Mỹ, công thức
Arkinson có dạng như sau:
W(y) = y’ + 2(y’1/2) + 3(y’1/3) + 4(y’1/4) + 5(y’1/5) + 6(y’1/6) + 7(40.000 - 6y’)1/7
bởi vì 40.000 đôla Mỹ nằm giữa 6y’ và 7y’.
Theo phương pháp tính kể trên, GDP thực tế theo sự tương đương sức mua của
Việt Nam năm 1995 là 1.236, chỉ số GDP là 0,18, và chỉ số phát triển con người tính ra là
0,560. Đạt được chỉ số này nước ta đã được xếp vào bậc thứ 122 về chỉ số phát triển con
người trong số 174 nước trên thế giới.

15


Theo số liệu của năm 1997 mà Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc công bố

năm 1999, công thức tính về tính hữu dụng của thu nhập do Arnand và Sen nêu ra như
sau:
log y - log ymin
W(y) =

.
log ymax – log ymin

Chỉ số phát triển con người của Việt Nam tính theo công thức mới này với số liệu
của năm 1999 chỉ số GDP là 0,49 và chỉ số phát triển con người tính ra là 0,682, và nước
ta đã được xếp vào bậc thứ 101 trong số 102 nước trên thế giới.

Chỉ số phát triển về giới (GDI-gender-related development index): cũng
dựa trên ba thành phần giống hoặc tương tự như chỉ số phát triển con người HDI là chỉ số
giáo dục, chỉ số tuổi thọ và chỉ số thu nhập. Sự khác nhau là ở chỗ chỉ số phát triển về
giới điều chỉnh lại các trị số bình quân của mỗi nước về giáo dục, tuổi thọ và thu nhập tuỳ
theo mức độ đạt được khác biệt giữa nữ và nam. Khi tính chỉ số tuổi thọ, người ta quy
ước tuổi thọ thấp nhất và cao nhất của nữ là 27,5 và 87,5 và của nam là 22,5 và 82,5. Khi
xét về thu nhập, người ta tìm tiền lương bình quân của nữ và nam để tính chỉ số.
Ba chỉ số thành phần được chuyển đổi thành chỉ số phân bố bình đẳng giữa nữ và
nam theo công thức chung sau đây:
Tỷ lệ dân số nữ
Chỉ số phân bố bình đẳng =

Tỷ lệ dân số nam
+

Chỉ số của nữ

.

Chỉ số của nam

Chỉ số phát triển về giới là trung bình cộng của ba chỉ số phân bố bình đẳng về
giáo dục, tuổi thọ và thu nhập.
Chỉ số phát triển về giới ở Việt Nam của năm 1995 là 0,559, xếp vào bậc thứ 108
và của năm 1997 là 0,664, xếp vào bậc thứ 91 trong số 174 nước trên thế giới, như vậy
qua 2 năm nước ta về mặt này có sự tiến bộ 17 bậc.

Chỉ số nghèo của con người (HPI-human poverty index) bao gồm hai loại:
chỉ số nghèo của con người ở các nước đang phát triển ký hiệu là HPI-1 và chỉ số nghèo
của con người ở các nước công nghiệp ký hiệu là HPI-2.
- Chỉ số nghèo của con người ở các nước đang phát triển HPI-1 tập trung thể hiện
sự thấp kém về ba mặt cơ bản của đời sống con người đã được phản ánh trong trong chỉ

16


số phát triển con người HDI, đó là giáo dục, tuổi thọ và mức sống. Sự thấp kém về giáo
dục là tỷ lệ người mù chữ của người lớn ký hiệu là P1; sự thấp kém về tuổi thọ là tỷ lệ dân
số không sống được đến tuổi 40 ký hiệu là P2; sự thấp kém về mức sống là tỷ lệ thiếu thốn
trong sự cung cấp nói chung cho sinh hoạt kinh tế ký hiệu là P3. Tỷ lệ P3 gồm ba thành
phần: tỷ lệ dân số không có được nước sạch, ký hiệu là P31; tỷ lệ dân số không có được
dịch vụ y tế, ký hiệu là P32 và tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng thông thường và nghiêm trọng
dưới 5 tuổi, ký hiệu là P33. Tỷ lệ thiếu thốn về mức sống tính theo công thức:
(P31 + P32 + P33)
P3 =

.
3


Chỉ số nghèo của con người ở các nước đang phát triển tính theo công thức:
HPI-1 = [1/3(P13 + P23 + P33)]1/3
Chỉ số nghèo của con người tính ra bằng con số phần trăm, về lý thuyết có thể biến
đổi từ 0% đến 100%. Nước nào có con số phần trăm càng nhỏ thì nước đó càng ít nghèo.
Chỉ số nghèo ở Việt Nam của năm 1999 là 29,1% xếp vào bậc thứ 45 trong số 62 nước
đang phát triển.
- Chỉ số nghèo của con người ở các nước công nghiệp HPI-2 tập trung thể hiện sự
thấp kém về bốn mặt của đời sống con người đã được phản ánh tương tự trong chỉ số phát
triển con người HDI, đó là giáo dục, tuổỉ thọ, mức sống và sự tham gia trong xã hội.
Để lập nên chỉ số nghèo của con người HPI-2, người ta tính sự thấp kém về giáo
dục là tỷ lệ phần trăm dân số mù chữ chức năng, ký hiệu là P1; sự thấp kém về tuổi thọ là
số phần trăm dân số không sống được đến tuổi 60, ký hiệu là P2; sự thấp kém về mức
sống là tỷ lệ thiếu thốn trong sự cung cấp nói chung cho sinh hoạt kinh tế tính bằng con số
phần trăm dân số sống thấp hơn mức thu nhập nghèo tương đương với 50% thu nhập bình
quân của người lao động, ký hiệu là P3, và sự thấp kém về tham gia trong xã hội đo bằng
tỷ lệ thất nghiệp dài hạn (từ 12 tháng trở lên) không tham gia vào lực lượng lao động, ký
hiệu là P4.
Chỉ số nghèo của con người ở các nước công nghiệp tính theo công thức:
HPI-2 = [1/4(P13 + P23 + P33 + P43)]1/3.

17


18



×