SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NĂM HỌC 2011 - 2012
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
TRƯỜNG PTDT NỘI TRÚ TỈNH
Mã số: ................................
SẢN PHẨM
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“VẬN DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC TRONG DẠY VÀ
HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN Ở BẬC THPT”
Người thực hiện : HÀ CÔNG CHÍNH
Lĩnh vực nghiên cứu:
Quản lý giáo dục : …………………………………………
Phương pháp dạy học bộ môn: Giáo dục công dân
Phương pháp giáo dục : …………………………………..
Lĩnh vực khác: ..................................................................
Sản phẩm đính kèm:
Mô hình
Phần mềm
Phim ảnh
Hiện vật khác
Năm học 2011 - 2012
Giáo viên: Hà Công Chính
1
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NĂM HỌC 2011 - 2012
VẬN DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC
TRONG DẠY VÀ HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN
Ở BẬC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
A. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Định hướng đổi mới phương pháp Dạy - Học đã được xác định trong Nghị
quyết TW 4 Khóa VII (Tháng 1/1993) chỉ ra yêu cầu đổi mới phương pháp, quan
điểm này được nhấn mạnh trong Nghị quyết TW 2 Khóa VIII (Tháng 12–1996)
“Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một
chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học”, được thể chế hóa trong
Luật Giáo dục (2005); được cụ thể hóa trong các văn bản của Bộ Giáo dục và Đào
tạo.
Luật Giáo dục; Điều 28.2 năm 2005 đã ghi: “Phương pháp giáo dục phổ
thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp
với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học , khả năng
làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động
đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.
Đổi mới giáo dục phổ thông nước ta hiện nay hơn bao giờ hết là đổi mới toàn
diện trong đó đổi mới phương pháp giữ vai trò chủ yếu: “Đổi mới phương pháp dạy
học theo hướng dạy học tích cực, giúp học sinh biết cách tự học và hợp tác trong học
tập, tích cực, chủ động, sáng tạo trong phát hiện và giải quyết vấn đề để tự chiếm
lĩnh tri thức mới, hướng tới hoạt động học tập chủ động, chống lại thói quen học tập
thụ động”.
Theo một nghĩa chung nhất thì: Đổi mới PPDH là sử dụng các PPDH theo
cách mới, trong những điều kiện mới nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy
học. Nói một cách cụ thể thì: Đổi mới PPDH là sử dụng các PPDH một cách tích
cực và hiệu quả, phát huy được tính tich cực, chủ động, sáng tạo của HS; phù hợp
với đặc điểm HS và đặc điểm của từng lớp học, môn học.
II. VỀ THỰC TIỄN
Xã hội hiện đại đang biến đổi nhanh chóng với sự bùng nổ thông tin, khoa
học, kỹ thuật, công nghệ phát triển như vũ bão, đòi hỏi giáo viên cần sử dụng linh
hoạt các phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học sao cho đạt hiệu quả cao
nhất. Vì vậy, dạy học chỉ bằng phương pháp thông báo những kiến thức có sẵn và
học theo kiểu thụ động không còn phù hợp nữa mà phải dạy để học sinh hình thành
năng lực tự thu nhận, xử lí, sử dụng thông tin để giải quyết tình huống đa dạng trong
cuộc sống. Dạy cho học sinh biết cách tìm ra chân lí.
Đất nước ta đang trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa với nền kinh tế
nhiều thành phần định hường XHCN. Để thích ứng với cơ chế thị trường, chuẩn bị
cho cuộc sống và có việc làm ngày càng tốt hơn, đòi hỏi học sinh phải có sự chuyển
biến mạnh mẽ về mục đích, động cơ, thái độ học tập. Xã hội phát triển nhanh đòi hỏi
con người phải thích ứng với những yêu cầu:
Giáo viên: Hà Công Chính
2
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
- Khả năng thu nhận và xử lý thông tin.
NĂM HỌC 2011 - 2012
- Tự học suốt đời.
- Năng động sáng tạo.
- Tự lực giải quyết những vấn đề của cuộc sống.
Đặc thù bộ môn GDCD trong chương trình THPT được xây dựng dựa trên các
môn khoa học cơ bản như: Triết học, Đạo đức học, Pháp luật, Kinh tế chính trị... và
các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, của Nhà nước Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay. Bên cạnh đó còn có thể tích hợp nhiều nội dung giáo dục xã hội cần
thiết cho các công dân trẻ tuổi như: giáo dục quyền trẻ em, giáo dục kỹ năng sống,
văn hóa, môi trường, giới tính – sức khỏe sinh sản vị thành niên... Vì vậy, quá trình
dạy – học môn GDCD là quá trình khai thác tiềm năng và phát triển trí lực, tính tích
cực hoạt động nhận thức và năng lực tự hoàn thiện của học sinh. Cho nên quá trình
dạy học một bài GDCD phải là quá trình học sinh được cuốn hút vào các hoạt động
học tập do giáo viên thiết kế, tổ chức và hướng dẫn, qua đó các em có thể tự khám
phá và chiếm lĩnh nội dung bài học. Học sinh sẽ hứng thú, thông hiểu và ghi nhớ
những gì các em nắm được qua hoạt động chủ động, tích cực của chính mình.
Thực hiện công cuộc đổi mới giáo dục phổ thông cũng như yêu cầu chuyên
môn về tổ chức triển khai, phát huy các kinh nghiệm Dạy – Học theo theo hướng
tích cực, từ sự tích lũy kinh nghiệm của mình trong những năm qua, tôi đã cố gắng
nghiên cứu, vận dụng và thực hiện cải tiến, đổi mới trong dạy học tích cực nhằm
giúp học sinh có thể chủ động, sáng tạo, phát huy tính tích cực, tự giác, khả năng
hợp tác để cùng giải quyết một vấn đề đưa ra và từ đó đã đem lại sự ham thích, hứng
thú học tập cho các em. Một số phương pháp mà tôi thường sử dụng đã đạt được
hiệu quả nhất định trong quá trình giảng dạy đó là:
1. Phương pháp nêu vấn đề.
2. Phương pháp thảo luận nhóm.
3. Phương pháp tình huống (nghiên cứu trường hợp điển hình).
4. Phương pháp đóng vai.
5. Phương pháp động não.
6. Phương pháp dự án.
Xin được trao đổi và chia sẻ cùng đồng nghiệp.
B. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN NỘI DUNG ĐỀ TÀI
I. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN KHI VẬN DỤNG PHƯƠNG
PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC
Đổi mới chương trình giáo dục phổ thông nước ta hiện nay là cuộc đổi mới
toàn diện, đổi mới từ mục tiêu, nội dung, phương pháp đến phương tiện giáo dục,
kiểm tra đánh giá chất lượng giáo dục... Trong đó đổi mới phương pháp là nhiệm vụ
hàng đầu và bắt đầu từ người thầy. Phương pháp dạy học tích cực làm cho học sinh
được hoạt động nhiều hơn, thực hành nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn và quan trọng
là được suy nghĩ nhiều hơn trong giờ học, tiến tới rèn luyện cho học sinh thói quen
Giáo viên: Hà Công Chính
3
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NĂM HỌC 2011 - 2012
tự học, tự nghiên cứu, tự chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng. Trong thực tế vận dụng các
hoạt động theo tổ, nhóm hoặc cá nhân trên lớp học và tự nghiên cứu đặt kế hoạch là
việc làm còn tương đối mới. Do vậy trong quá trình thực hiện sẽ gặp những thuận
lợi và không ít khó khăn như sau:
1. Thuận lợi
- Đã có các Chỉ thị, Nghị quyết về đổi mới nội dung chương trình, phương pháp
và Sách giáo khoa đã và đang được tiến hành đồng bộ, thực hiện chương trình phân
ban trên cả nước đòi hỏi mỗi giáo viên cải tiến, vận dụng các phương pháp dạy học
(phương pháp dạy học tích cực, phương pháp dạy học truyền thống) một cách hài
hòa nhằm đạt hiệu quả cao nhất để giúp học sinh nắm vững tri thức là yêu cầu cấp
bách trong tình hình hiện nay.
- Nhà nước cùng các Bộ, ban, ngành luôn quan tâm và đầu tư nguồn kinh phí
lớn cho việc trang bị các phương tiện, thiết bị dạy và học giúp học sinh tăng cường
thực hành, vận dụng kỹ năng... Hàng năm giáo viên lại được tập huấn bồi dưỡng
thường xuyên nâng cao kiến thức chuyên môn và vận dụng phương pháp mới trong
dạy và học. Từ đó thôi thúc người dạy phải linh hoạt hơn, thích ứng hơn trong việc
giảng dạy.
- Học sinh được chia sẻ các băn khoăn mà nếu chỉ riêng mình thì khó giải quyết
được vấn đề do giáo viên đặt ra. Từ đó hình thành ở học sinh khả năng giao tiếp đặc
biệt là dùng ngôn ngữ diễn đạt, khả năng hợp tác và khả năng thích ứng cùng khả
năng độc lập suy nghĩ, làm cho học sinh cảm thấy tự tin và không còn ỷ lại hoàn
toàn vào thầy cô.
- Phát huy được tính tích cực của học sinh, sự thi đua giữa các cá nhân và trong
các tổ nhóm sẽ tạo cho học sinh phát huy hết khả năng tư duy và kỹ năng ứng xử của
mình bởi có khi giáo viên sẽ chấm điểm, động viên cho cá nhân hoặc nhóm nào có
kết quả hay nhất, chính xác nhất, nhanh nhất.
2. Khó khăn:
- Điều kiện cơ sở vật chất hiện nay chưa đáp ứng được hết các yêu cầu để có
thể thực hiện được một số phương pháp dạy học tích cực như đồ dùng dạy học, thiết
bị đèn chiếu, băng hình ... còn thiếu với số lượng được cấp còn hạn chế , sĩ số học
sinh trong lớp nhiều (40 – 45 học sinh trong một lớp học).
- Nhiều giáo viên và nhất là học sinh còn chưa thích ứng với một số phương
pháp mới nên còn ngại trong việc thể hiện và phát biểu thảo luận. Đối với giáo viên,
để tổ chức tốt giờ học cần phải có sự chuẩn bị đầu tư và thiết kế bài soạn với một
hướng mở. Bởi vì đối tượng học sinh có khả năng nhận thức khác nhau và cách biểu
đạt khác nhau, khí chất và tính cách của mỗi người là khác nhau... Chính vì điều đó
mà rất nhiều tình huống có thể nảy sinh trong quá trình thực hiện các phương pháp
tích cực. Do vậy giáo viên cần phải có những dự đoán về phương án mà học sinh có
thể trả lời để hướng giờ học, bài học vào chủ đề chính của bài, tránh không bị sa đà
không kiểm soát được bài dạy.
- Tâm lý học sinh nói chung chỉ chú trọng đến các môn học mà các em sẽ phải
thi tốt nghiệp và thi đại học nên sự đầu tư, chuẩn bị cho bài học ở nhà trước khi đến
Giáo viên: Hà Công Chính
4
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NĂM HỌC 2011 - 2012
lớp của học sinh còn sơ sài, không được chú trọng và đầu tư thích hợp cho môn học
này.
- Để có một giờ dạy, bài dạy nhằm phát huy khả năng tìm tòi, sáng tạo của học
sinh và cuốn hút học sinh vào các hoạt động do giáo viên thiết kế, đòi hỏi người giáo
viên phải có sự đầu tư cho bài dạy. Do đó thời gian tìm tòi, nghiên cứu để đưa ra các
tình huống và sử dụng phương pháp nào cho phù hợp cũng là một khó khăn mà giáo
viên có thể ngại vì tốn nhiều thời gian.
- Một số phương pháp khi thực hiện yêu cầu học sinh cần phải có thời gian và
kinh phí nhất định, cho nên đối với những nơi và những gia đình học sinh có hoàn
cảnh còn khó khăn cũng bị hạn chế khi vận dụng những phương pháp này.
II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN MỘT SỐ PPDH TÍCH CỰC
1. Cơ sở lý luận
Trong giảng dạy cũng như trong thực tế, không có một phương pháp dạy học
độc tôn (chỉ một phương pháp được tôn sùng) trong giờ dạy nhất định. Với ý nghĩa
phương pháp dạy học là con đường, là cách thức để đạt được mục tiêu dạy học, mà
quá trình tổ chức một bài dạy, một giờ dạy là một hệ thống các việc làm, các thao
tác, một chỉnh thể gồm nhiều yếu tố, nhiều thành phần cho nên việc giáo viên lựa
chọn, sử dụng các phương pháp dạy học cho phù hợp là đòi hỏi có tính tất yếu.
Hiện nay chúng ta đang thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, kiên quyết
loại bỏ kiểu dạy học đọc chép, áp đặt, truyền thụ kiến thức một chiều bởi vì phương
pháp dạy học đó tạo cho người học cách học tập thụ động, hạn chế việc phát triển
các phẩm chất linh hoạt, độc lập, sáng tạo của tư duy và khả năng ứng dụng những
kiến thức cũng như kỹ năng thực hành vào thực tiễn. Do vậy lựa chọn phương pháp
dạy học nhằm khơi gợi sự suy nghĩ độc lập của người học nhằm đem lại niềm vui,
hứng thú và trách nhiệm cho học sinh đòi hỏi người dạy phải có sự lựa chọn phương
pháp dạy tích cực phù hợp.
2. Cơ sở thực tiễn
Trong quá trình thực hiện có những yêu cầu đối với cả giáo viên và học sinh
để mục tiêu của bài học đạt được sau khi kết thúc bài. Do vậy có một số yêu cầu sau:
a) Đối với giáo viên:
- Giáo viên thiết kế, tổ chức hướng dẫn học sinh thực hiện các hoạt động học
tập với các hình thức đa dạng, phong phú, có sức hấp dẫn phù hợp với đặc trưng bài
học, với đặc điểm và trình độ học sinh, với điều kiện cụ thể của lớp, trường, địa
phương.
- Động viên, khuyến khích, tạo cơ hội và điều kiện cho học sinh được tham gia
một cách tích cực, chủ động, sáng tạo vào quá trình khám phá và lĩnh hội kiến
thức ... tạo niềm vui, hứng khởi, nhu cầu hành động và thái độ tự tin trong học tập
cho học sinh.
- Giáo viên cần thiết kế các dạng câu hỏi, bài tập phát triển tư duy và rèn luyện
kỹ năng, hướng dẫn học sinh có thói quen vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết
các vấn đề thực tiễn.
Giáo viên: Hà Công Chính
5
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
b) Đối với học sinh:
NĂM HỌC 2011 - 2012
- Học sinh tích cực suy nghĩ, chủ động tham gia các hoạt động để khám phá và
lĩnh hội kiến thức, rèn luyện kỹ năng, xây dựng thái độ và hành vi đúng đắn.
- Biết vận dụng kiến thức đã học để phân tích, đánh giá, giải quyết các tình
huống và các vấn đề đặt ra từ thực tiễn, xây dựng và thực hiện các kế hoạch học tập
phù hợp với khả năng và điều kiện.
- Học sinh cần mạnh dạn trình bày và bảo vệ ý kiến, quan điểm cá nhân, tích
cực thảo luận, tranh luận, đặt câu hỏi cho bản thân, cho bạn, cho thầy. Biết tự đánh
giá và đánh giá các ý kiến, quan điểm của bản thân và của bạn bè...
III. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN MỘT SỐ PPDH TÍCH CỰC
Trong quá trình giảng dạy, tuỳ theo nội dung yêu cầu của bài học tôi đã lựa
chọn kết hợp các phương pháp dạy học truyền thống (Thuyết trình, vấn đáp, giảng
giải...) với các phương pháp dạy học tích cực (Động não, thảo luận nhóm, tình
huống, dự án,...) nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Sau đây là một số phương pháp dạy
học tích cực tôi đã vận dụng trong một số bài cụ thể. Xin được trao đổi và chia sẻ
cùng đồng nghiệp.
1. Phương pháp động não:
Là phương pháp giúp cho học sinh trong một thời gian ngắn nảy sinh được
nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một vấn đề nào đó. Đây là một phương pháp có ích
để lôi ra một danh sách các thông tin.
Cách tiến hành:
- Giáo viên nêu câu hỏi cần tìm hiểu trước lớp.
- Yêu cầu học sinh đưa ra các đáp án trả lời. Khích lệ tất cả học sinh tham gia,
mỗi em chỉ nêu một đáp án, càng nhiều ý kiến càng tốt.
- Liệt kê mọi ý kiến lên bảng, trừ những ý kiến trùng lặp.
- Phân loại ý kiến (có thể giáo viên yêu cầu học sinh lên phân loại).
- Làm sáng tỏ ý kiến chưa rõ ràng, bổ sung, tổng hợp.
- Rút ra nội dung cần tìm hiểu.
Ví dụ:
Trong chương trình sách giáo khoa GDCD 10, có thể áp dụng phương pháp
động não ở một số bài, một số nội dung sau:
• Bài 1: Thế giới quan và phương pháp luận biện chứng. Trong phần 1/ Thế giới
quan và phương pháp luận, Mục a) Vai trò thế giới quan, phương pháp luận của
Triết học. Để tạo không khí sinh động, thoải mái, sau khi đặt vấn đề: “Để nhận thức
và cải tạo thế giới, nhân loại đã xây dựng nên nhiều môn khoa học” ... tôi có thể đưa
ra câu hỏi: Vậy em hãy kể ra một số môn khoa học mà em biết?. Học sinh sẽ đưa ra
hàng loạt câu trả lời, yêu cầu mỗi em chỉ nêu một ngành khoa học (Toán học, Lý
học, Sinh học, Sử học, Thiên văn học...). Từ đó sẽ tạo được không khí học tập sôi
nổi và giáo viên sẽ chuyển tiếp sang nội dung tiếp theo yêu cầu nêu lên đối tượng
Giáo viên: Hà Công Chính
6
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NĂM HỌC 2011 - 2012
nghiên cứu của một số ngành khoa học, rút ra Triết học là gì và vai trò của Triết học
một cách nhẹ nhàng, tạo sự hứng khởi, tích cực học tập của học sinh.
• Bài 4: Nguồn gốc vận động, phát triển của sự vật và hiện tượng. Trong phần 1/
Thế nào là mâu thuẫn? Sau khi đặt vấn đề: “Với quan niệm thông thường, mâu thuẫn
được hiểu là trạng thái xung đột, chống đối nhau, trái ngược nhau, đối lập nhau...”
và đưa ra câu hỏi: Vậy em hãy nêu lên những mặt đối lập, trái ngược mà các em
biết? Học sinh mỗi em sẽ đưa ra một cặp đối lập (Trắng – Đen, To – Nhỏ, Cao –
Thấp, Biến dị - Di truyền, Đồng hóa – Dị hóa, Thống trị - Bị trị, Địa chủ - Nông
dân, ...). Giáo viên có thể liệt kê hoặc yêu cầu 1 đến 2 em học sinh lên bảng liệt kê
các đáp án của các bạn nêu lên. Sau đó đưa ra yêu cầu tiếp: Trong các mặt đối lập
này, hãy phân loại đâu là hai mặt đối lập thông thường, đâu là hai mặt đối lập
ràng buộc nhau trong một kết cấu ( một chỉnh thể)? Giáo viên giúp các em làm
sáng tỏ những ý kiến chưa rõ ràng. Từ đó học sinh hiểu rõ và rút ra khái niệm mâu
thuẫn đầy đủ theo quan niệm Triết học.
Trong chương trình GDCD 12, có thể áp dụng ở một số nội dung trong các
bài học sau:
• Bài 1: Pháp luật và đời sống. Phần 1/ Khái niệm pháp luật. Mục a) Pháp luật là
gì? Để tạo không khí sôi nổi, cuốn hút, không bị khô cứng bởi các kiến thức về pháp
luật, có thể đặt câu hỏi sau: Hãy kể tên một số Luật mà em được biết? Mỗi học sinh
kể tên một luật, liệt kê lên bảng. Đặt tiếp câu hỏi: Những Luật đó do cơ quan nào
ban hành? Việc ban hành luật đó nhằm mục đích gì? Qua đó học sinh tiếp nhận kiến
thức dễ dàng, rút ra pháp luật là gì, chủ thể ban hành và bảo đảm thực hiện.
• Bài 9: Pháp luật với sự phát triển bền vững của đất nước. Phần 2/ Nội dung cơ
bản của pháp luật về sự phát triển bền vững của đất nước. Mục a) Một số nội dung
cơ bản của pháp luật về phát triển kinh tế. Giáo viên có thể chia lớp thành hai dãy,
mỗi dãy cử một đại diện lên bảng để ghi nhanh ý kiến của dãy mình. Một bên sẽ liệt
kê các quyền của công dân khi tham gia kinh doanh, một bên là nghĩa vụ của công
dân khi tham gia kinh doanh. Hai bên liên tục đưa ra câu trả lời cho người đại diện
ghi lại, mỗi học sinh chỉ được đưa ra một câu trả lời. Như vậy các em sẽ được lôi
cuốn vào các hoạt động và lớp học sôi nổi, không bị nhàm chán, đơn điệu.
Với phương pháp động não có thể thấy rõ những ưu điểm như dễ thực hiện,
không tốn kém, huy động tối đa trí tuệ của tập thể, tạo cơ hội cho tất cả các thành
viên tham gia. Phương pháp động não giúp học sinh trong một thời gian ngắn nảy
sinh được nhiều ý tưởng mới mẻ, độc đáo về một chủ đề nào đó. Các thành viên
được cổ vũ tham gia một cách tích cực, không hạn chế các ý tưởng. Do vậy, phương
pháp động não thường được dùng trong giai đoạn giới thiệu vào một chủ đề hoặc sử
dụng để tìm ra các phương án giải quyết vấn đề, hoặc dùng để thu thập các khả năng
lựa chọn và suy nghĩ khác nhau...
Lưu ý: Khi đặt câu hỏi phải phù hợp với các chủ đề ít nhiều học sinh đã quen
thuộc trong thực tế cuộc sống, các ý kiến đưa ra phải ngắn gọn và có nhiều cách suy
nghĩ, nhiều cách giải quyết, nhiều đáp án...
2. Phương pháp thảo luận nhóm:
Giáo viên: Hà Công Chính
7
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
a) Về tổ chức:
NĂM HỌC 2011 - 2012
Cần phải chia nhóm trước khi tiến hành thảo luận. Việc phân nhóm cần chú ý
đến trình độ của học sinh sao cho vừa đảm bảo sự đồng đều về năng lực, vừa khích
lệ sự tương trợ lẫn nhau.
b) Về phương pháp:
Thảo luận là một hình thức tổ chức dạy học, trong quá trình thực hiện có thể
tiến hành theo các bước cơ bản sau:
Bước 1: Giáo viên và học sinh xác định nội dung (chủ đề) thảo luận, giao
nhiệm vụ cho học sinh và yêu cầu các nhóm chuẩn bị. Nội dung cần chuẩn bị để tiến
hành thảo luận trong giờ học có thể học sinh tìm hiểu trong bài học, có thể tìm hiểu
ngoài thực tế xã hội.
Ví dụ: GDCD 11 – Bài 7 – Thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần và tăng
cường vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước; giáo viên tổ chức chia lớp thành 5
nhóm từ tiết trước; yêu cầu mỗi nhóm có nhiệm vụ tìm hiểu, quan sát, ghi chép, thu
thập thông tin … về hoạt động của một hoặc một số Doanh nghiệp, Công ty …
thuộc một thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay. Học sinh có thể trực tiếp tìm hiểu
hoạt động của một Công ty ở ngay địa phương mình hoặc có thể tìm hiểu trên mạng,
báo …
Bước 2: Giáo viên kiểm tra tình hình chuẩn bị của học sinh, nêu mục đích,
yêu cầu thảo luận cho mỗi nhóm, giao câu hỏi, công bố tiến trình, quy định thời gian
thảo luận, sắp xếp thứ tự các vấn đề cần trình bày.
Bước 3: Các nhóm tiến hành thảo luận. Mỗi nhóm cần chọn một trong những
thành viên trong nhóm làm nhóm trưởng. Nhóm trưởng điều khiển thảo luận. Trong
nhóm cần một người ghi biên bản, ghi lại những điểm chính của cuộc thảo luận để
trình bày trước lớp. Kết quả thảo luận có thể được trình bày dưới nhiều hình thức
như bằng lời, đóng vai, viết trên giấy trong (khi lớp có sử dụng đèn chiếu) hoặc trên
giấy A0 để gắn trên bảng và so sánh, đối chiếu với các nhóm khác hoặc với nội dung
yêu cầu của giáo viên … Trong quá trình học sinh thảo luận, giáo viên cần thỉnh
thoảng đi vòng quanh các nhóm lắng nghe ý kiến, quan sát và nhắc nhở những học
sinh không tập trung tham gia thảo luận, có thể giúp đỡ nếu cần thiết.
Bước 4: Mỗi nhóm cử đại diện của nhóm trình bày kết quả thảo luận của
nhóm. Các nhóm khác nghe, có thể chất vấn, trao đổi, bổ sung ý kiến. Giáo viên
định hướng cho học sinh tập trung vào các vấn đề trọng tâm.
Bước 5: Giáo viên tổng kết các ý kiến, đánh giá những ý kiến đúng, sai, kết
luận, nhấn mạnh những nội dung đạt được trong buổi thảo luận. Có thể cho điểm và
nêu các vấn đề tiếp tục suy nghĩ trong các buổi thảo luận sau.
Lưu ý: Trong quá trình cho học sinh thảo luận nhóm có thể gây ồn ào, giáo
viên cần nhắc nhở để các em ý thức được việc thảo luận không gây ảnh hưởng nhiều
đến lớp và các nhóm xung quanh; nói đủ nghe trong mỗi nhóm. Để đạt kết quả đúng
với yêu cầu thảo luận, giáo viên cần tập cho học sinh hình thành kỹ năng điều hành
thảo luận nhóm, đó là: cách trình bày vấn đề thảo luận cần rõ ràng, chỉ định người
Giáo viên: Hà Công Chính
8
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NĂM HỌC 2011 - 2012
phát biểu, không nhất thiết phải là nhóm trưởng mà học sinh trong nhóm có thể thay
phiên nhau trả lời hoặc giáo viên chỉ định bất kỳ học sinh nào trong nhóm nhằm phát
huy tính mạnh dạn của học sinh, rèn luyện khả năng trình bày vấn đề, khả năng diễn
đạt … Bên cạnh đó cần quy định thời gian trình bày tránh gây mất thời gian chung
của lớp, biết lắng nghe và ghi chép lại những ý kiến cơ bản, biết tổng hợp ý kiến …
c) Nội dung câu hỏi thảo luận
Đối với hệ thống câu hỏi – yếu tố quan trọng, mang tính định hướng của giờ
thảo luận nhóm, giáo viên cần đầu tư xây dựng một cách chu đáo, nghiêm túc, vừa
đảm bảo nguyên tắc khoa học, vừa phải đảm bảo nguyên tắc vừa sức, những câu hỏi
đặt ra không nên quá dễ và cũng không nên quá khó.
Ví dụ: GDCD11 – Bài 1 – Công dân với sự phát triển kinh tế - Phần 1/ Sản
xuất của cải vật chất – Mục a) Thế nào là sản xuất của cải vật chất? Nếu đưa ra
thảo luận thì đó là một câu dễ. Giáo viên chỉ cần đặt câu hỏi, yêu cầu học sinh lấy ví
dụ, các em sẽ tự giải quyết được vấn đề. Ở Bài 8 – Chủ nghĩa xã hội – Phần 2/ Quá
độ lên CNXH ở nước ta – Mục a) Tính tất yếu đi lên CNXH ở Việt Nam, nếu giáo
viên đưa ra câu hỏi “Em hiểu thế nào về quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN?”
để học sinh thảo luận thì đó là một câu khó vì đối với học sinh kiến thức lý luận
cũng như hiểu biết về thực tiễn xã hội ở các em còn rất hạn chế, cần phải có sự giúp
đỡ, gợi ý, hướng dẫn của giáo viên (như gợi ý cho các em thấy bỏ qua chế độ TBCN
là bỏ qua hoàn toàn hay bỏ qua cái gì, cái gì không bỏ qua; vì sao phải bỏ qua những
yếu tố đó; giúp học sinh nhớ lại kiến thức cơ bản về các yếu tố trong một PTSX
phần triết học, qua đó học sinh thấy dễ dàng hơn và nắm vững bài học sâu sắc).
Vấn đề đặt ra để thảo luận phải là vấn đề kích thích tính tư duy của học sinh,
khả năng phán đoán và lựa chọn nhất quán. Câu hỏi thảo luận có nhiều dạng như:
- Câu hỏi suy luận nhằm mục đích khắc sâu và mở rộng kiến thức cho học sinh,
vì vậy đòi hỏi học sinh phải biết tổng hợp và di chuyển linh hoạt kiến thức theo quy
luật của nhận thức: từ cái đã biết đến cái chưa biết, từ biết ít đến biết nhiều. Đây là
dạng câu hỏi được sử dụng chủ yếu trong buổi thảo luận. Qua thảo luận, học sinh sẽ
khắc sâu hơn kiến thức và mở rộng vốn hiểu biết của mình trong thực tế.
- Câu hỏi liên hệ thực tiễn đời sống kinh tế, xã hội. Đây là dạng câu hỏi giúp
học sinh bước đầu biết vận dụng những kiến thức của môn học để giải thích các hiện
tượng trong đời sống xã hội. Khi xây dựng câu hỏi này, giáo viên cần phải lựa chọn,
nêu tình huống, sự kiện điển hình, khích lệ học sinh giải quyết vấn đề một cách tự
giác, tích cực. Ví dụ: GDCD11 – Bài 12: Chính sách tài nguyên và bảo vệ môi
trường – Phần 1/ Tình hình tài nguyên, môi trường ở nước ta hiện nay. Sau khi cho
học sinh xem một số hình ảnh về tài nguyên và môi trường hiện nay, giáo viên giao
câu hỏi thảo luận như: 1) Đánh giá thực trạng tình hình tài nguyên, môi trường
nước ta hiện nay. 2) Nguyên nhân nào dẫn đến thực trạng trên? 3) Công dân chúng
ta phải làm gì để bảo vệ tài nguyên, môi trường? 4) Trách nhiệm bản thân em với
việc bảo vệ tài nguyên, môi trường? Qua những tình huống, sự kiện điển hình trong
thực tế, học sinh giải thích được các hiện tượng trong đời sống xã hội, nguyên nhân
do đâu và từ đó các em sẽ giải quyết vấn đề một cách tự giác, tích cực.
Giáo viên: Hà Công Chính
9
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NĂM HỌC 2011 - 2012
- Câu hỏi dùng để củng cố bài: Yêu cầu của câu hỏi này học sinh phải tái hiện–
nhớ lại tri thức đã học. Do đó câu hỏi đặt ra phải ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu. Loại
câu hỏi này chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ. Ví dụ: sau khi học xong Bài 9: Nhà nước xã hội
chủ nghĩa (GDCD11), để củng cố bài, giáo viên có thể cho học sinh thảo luận câu
hỏi: 1) Theo em, mỗi công dân phải làm gì để góp phần xây dựng và bảo vệ Nhà
nước pháp quyền XHCN? 2)Em hãy nêu một số ví dụ thể hiện Nhà nước ta là Nhà
nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân ... qua đó học sinh tái hiện lại tri
thức đã được học và biết liên hệ vào thực tế đời sống xã hội cũng như trách nhiệm
của bản thân.
Với phương pháp thảo luận nhóm, kiến thức của học sinh sẽ bớt phần chủ
quan, phiến diện, làm tăng tính khách quan khoa học, kiến thức trở nên sâu sắc, bền
vững do được giao lưu, học hỏi giữa các thành viên trong nhóm. Từ đó giúp học
sinh dễ hòa nhập vào cộng đồng nhóm, tạo cho các em sự tự tin, hứng thú trong học
tập và sinh hoạt.
3. Phương pháp tình huống (nghiên cứu trường hợp điển hình)
a) Ý nghĩa của phương pháp tình huống
Phương pháp tình huống là một phương pháp dạy học, trong đó học sinh tự
lực nghiên cứu một tình huống thực tiễn và giải quyết các vấn đề của tình huống đặt
ra. Phương pháp này giúp học sinh rèn luyện kỹ năng, xây dựng thái độ và hành vi
đúng đắn. Học sinh biết vận dụng kiến thức đã học để phân tích, đánh giá, giải quyết
các vấn đề đặt ra từ thực tiễn một cách phù hợp với khả năng trong từng điều kiện và
hoàn cảnh cụ thể. Đồng thời học sinh có thể mạnh dạn trình bày, bảo vệ ý kiến cá
nhân, biết tự đánh giá và đánh giá các ý kiến, quan điểm của người khác. Có thể
thấy phương pháp này giúp học sinh rèn luyện kỹ năng sống.
b) Nội dung và yêu cầu của phương pháp tình huống
Nội dung:
- Tình huống đưa ra là hoàn cảnh thực tế, trong đó có chứa đựng những mâu
thuẫn, xung đột.
- Tình huống cũng có thể là một hoàn cảnh gắn với các chuyện có cốt truyện,
nhân vật, có chứa đựng mâu thuẫn, xung đột, có tính phức hợp để minh chứng một
vấn đề hay một số vấn đề của cuộc sống.
- Tình huống là có thực hoặc được mô phỏng theo tình huống thực, được cấu
trúc hoá nhằm mục đích dạy học.
Yêu cầu:
- Khi đặt ra tình huống có chứa đựng mâu thuẫn, người ta phải đưa ra quyết
định trên cơ sở cân nhắc các phương pháp giải quyết khác nhau.
- Tình huống đặt ra có thể dài hay ngắn tuỳ theo nội dung vấn đề cần giải quyết.
- Tình huống phải được kết thúc bằng các vấn đề hoặc câu hỏi như: Điều gì sẽ
xảy ra tiếp theo? Bạn sẽ làm gì nếu bạn ở trong trường hợp này? Vì sao bạn làm như
vậy? …
Giáo viên: Hà Công Chính
10
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NĂM HỌC 2011 - 2012
- Sau khi đưa ra các phương pháp giải quyết khác nhau, vấn đề trả lời câu hỏi
phải được dùng để khái quát một tình huống rộng hơn, bao quát hơn.
- Tình huống cần liên hệ với kinh nghiệm hiện tại cũng như trong cuộc sống
hoặc nghề nghiệp trong tương lai của người học.
- Tình huống đặt ra phải mở ra nhiều hướng giải quyết.
- Tình huống phải chứa đựng mâu thuẫn, có thể liên quan đến nhiều phương
diện khác nhau.
- Trong các phương án giải quyết khác nhau, không phải khi nào cũng có giải
pháp duy nhất đúng.
- Tình huống cần vừa sức với học sinh và có thể giải quyết trong điều kiện cụ
thể.
c) Điều kiện để thực hiện phương pháp
Tình huống đưa ra có thể đọc (dạng chữ viết), xem (đoạn băng trên video)
hoặc nghe (trên catset). Nội dung dài hay ngắn tuỳ từng vấn đề nên có thể thực hiện
phương pháp này tuỳ theo điều kiện đang có như:
- Trình chiếu trên PowerPoint khi trường có trang bị phòng máy. Với phương
tiện dạy học hiện đại, giáo viên có thể lựa chọn tình huống ở nhiều dạng khác nhau
(chữ viết, đoạn băng video…).
- Viết trên giấy trong, khi sử dụng đèn chiếu.
- Viết trên bảng phụ để học sinh tiện theo dõi.
- Sử dụng giấy khổ to để đưa ra tình huống đã được chuẩn bị trước.
- Tóm tắt tình huống bằng ngôn ngữ nói và đưa ra câu hỏi.
d) Quy trình thực hiện phương pháp
Phương pháp tình huống được sử dụng giúp học sinh rèn luyện kỹ năng sống,
nên có thể thực hiện ở các phần của bài học (mở đầu, chuyển tiếp hoặc kết thúc bài
học). Các bước thực hiện phương pháp này như sau:
- Giáo viên chuẩn bị các tình huống phù hợp nội dung bài học.
- Cho học sinh đọc (hoặc xem, nghe) tình huống và suy nghĩ về nó.
- Giáo viên đưa ra câu hỏi hướng dẫn liên quan đến tình huống đã cho.
- Học sinh suy nghĩ, thảo luận và đưa ra cách giải quyết. Có thể có nhiều cách
giải quyết khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.
- Giáo viên tóm tắt trên bảng các cách giải quyết do học sinh đưa ra. Các
phương án trả lời trái ngược nhau giáo viên có thể đặt thêm câu hỏi như: theo em,
nếu giải quyết theo hướng này sẽ dẫn tới điều gì? Nếu xảy ra như vậy, em cần phải
làm gì để hạn chế, khắc phục hậu quả…?
- Sau khi học sinh đưa ra các cách giải quyết, giáo viên tổng hợp chung và khái
quát một tình huống rộng hơn trong cuộc sống. Khi gặp các trường hợp tương tự, sẽ
có nhiều cách giải quyết khác nhau tuỳ theo từng điều kiện và hoàn cảnh cụ thể. Nên
Giáo viên: Hà Công Chính
11
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NĂM HỌC 2011 - 2012
giải quyết theo những hướng nào, những cách giải quyết nào không nên… giúp học
sinh có thêm kinh nghiệm sống và khả năng thực hiện trong thực tế
e) Các điểm cần lưu ý khi sử dụng phương pháp tình huống
Tình huống được sử dụng là một hoàn cảnh thực tế có chứa đựng mâu thuẫn,
xung đột nên trong quá trình sử dụng cần lưu ý một số điểm sau:
- Tình huống cần vừa sức với học sinh và có thể giải quyết trong điều kiện cụ
thể. Nếu yêu cầu quá cao, học sinh sẽ không tìm được hướng giải quyết, không biết
xử lý. Còn nếu tình huống với những mâu thuẫn, xung đột đơn giản sẽ không có
nhiều cách lựa chọn giải quyết, không rèn luyện được kỹ năng phân tích, cân nhắc
trước những tình huống phức tạp và đa dạng trong thực tế.
- Với tình huống đưa ra, giáo viên cần có những dự kiến về phương án mà học
sinh có thể trả lời. Trong trường hợp các phương án trả lời trái ngược nhau, giáo
viên có thể đặt thêm câu hỏi phụ, qua đó giúp học sinh nâng cao khả năng phân tích,
đánh giá, lựa chọn các cách giải quyết phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của các
em khi có tình huống tương tự xảy ra trong cuộc sống.
- Khi lựa chọn trường hợp điển hình, cần tránh sự cá biệt, nhạy cảm.
- Các phương án trả lời khác nhau, trái ngược nhau không nên phê phán đúng –
sai, vì trong từng hoàn cảnh cụ thể suy nghĩ và nhìn nhận vấn đề của từng người là
khác nhau.
Ví dụ: Trong chương trình GDCD 11, tôi vận dụng cho Bài 14 – Chính sách
Quốc phòng và An ninh. Sau khi kết thúc đơn vị kiến thức : 2/ Những phương
hướng cơ bản nhằm tăng cường quốc phòng và an ninh, để chuyển tiếp sang đơn vị
kiến thức 3, giáo viên đưa ra 2 tình huống sau :
• Tình huống 1: Mai là học sinh THPT, một hôm đi học về Mai thấy có tờ rơi
được cài ở cổng nhà. Mai mở ra đọc thấy trong đó có nội dung xấu. Dòng cuối yêu
cầu sau khi đọc xong, hãy gửi cho những người mà Mai biết địa chỉ của họ, làm vậy
sẽ gặp nhiều điều may mắn, còn không sẽ gặp xui xẻo và bất hạnh sẽ đến.
Câu hỏi:
1. Theo em, Mai sẽ làm gì?
2. Nếu em gặp trường hợp này, em cần phải làm gì? Vì sao?
• Tình huống 2: Tuấn đã tốt nghiệp THPT nhưng chưa đỗ đại học, đợt này,
Tuấn có giấy gọi nhập ngũ. Bố đã tìm cách xin cho Tuấn ở lại.
Câu hỏi: Theo em, Tuấn cần phải làm gì? Vì sao?
Với các tình huống trên, cho học sinh suy nghĩ trong thời gian một phút và
nêu hướng giải quyết. Như đã nói ở trên, sẽ có nhiều đáp án vì mỗi hoàn cảnh cụ thể
khác nhau sẽ có cách suy nghĩ là khác nhau, giáo viên cũng cần phải có dự kiến về
các câu trả lời của học sinh như:
• Tình huống 1:
Dự kiến HS trả lời:
Giáo viên: Hà Công Chính
12
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Câu 1:
NĂM HỌC 2011 - 2012
- HS 1: Mai sợ hãi và làm theo yêu cầu vì không muốn gặp xui xẻo mà muốn
được may mắn.
- HS 2: Mai cho đó là một trò đùa và có thể xé bỏ, không quan tâm.
- HS 3: Mai có thể nói với người lớn có kinh nghiệm và hiểu biết (cha mẹ, hoặc
thầy cô, hoặc công an khu vực, hoặc dân phòng địa phương) nếu thấy nội dung có
tính chất kích động, tuyên truyền những điều không đúng sự thật.
- HS 4: Mai có thể nói với bạn bè để nhờ giúp đỡ.
- Ý kiến khác…
Câu 2: Nếu em gặp trường hợp này, em sẽ làm gì? Vì sao?
Dự kiến HS trả lời:
- HS 1: Nếu nội dung nhảm nhí, em sẽ xé bỏ. Vì…
- HS 2: Nếu thấy nội dung có tính chất phản động, em sẽ bí mật báo với người
lớn có kinh nghiệm và hiểu biết để ngăn chặn, phát hiện kẻ nào đã làm vậy, tránh
không mắc vào âm mưu phá hoại của kẻ địch.
- HS 3: Có thể em sẽ nói với các bạn vì biết đâu trong số các bạn cũng có người
nhận được tờ giấy như vậy, sau đó chúng em tìm cách để ngăn chặn không cho lan
truyền thêm trong cộng đồng…
- Ý kiến khác…
Đối với câu trả lời trái ngược nhau, giáo viên có thể đặt câu hỏi phụ như:
Theo em, nếu Mai sợ và làm theo yêu cầu trong tờ rơi đó thì hậu quả sẽ như
thế nào?
Dự kiến HS trả lời:
- HS 1: Mai đã vô tình tiếp tay làm lan truyền những thông tin xấu trong cộng
đồng, có thể làm cho nhiều người hoang mang, gây mất ổn định xã hội…
- HS 2: Nếu nội dung có tính chất phản động thì chính Mai đã mắc vào âm mưu
của kẻ thù nhằm phá hoại, gây rối loạn trật tự an toàn của xã hội…
- Ý kiến khác…
GV giảng: Trong cuộc sống có thể chúng ta sẽ gặp những trường hợp tương
tự như có người yêu cầu em chuyển giúp gói hàng hoặc tài liệu có nội dung xấu
cùng những lời đe doạ hoặc dụ dỗ, hoặc em vô tình biết được hành vi có thể gây rối,
phá hoại an ninh chính trị, làm mất ổn định trật tự xã hội… chúng ta sẽ có nhiều
cách lựa chọn giải quyết trong những hoàn cảnh cụ thể để đảm bảo an toàn và góp
phần ngăn chặn những hành vi phá hoại, làm mất ổn định xã hội. Chúng ta tin tưởng
vào chính sách QP và AN của Đảng và Nhà nước, đồng thời cần thường xuyên đề
cao cảnh giác trước những âm mưu, thủ đoạn tinh vi mà các thế lực phản động có
thể lợi dụng nhằm gây rối, phá hoại…
• Tình huống 2:
Giáo viên: Hà Công Chính
13
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Dự kiến HS trả lời:
NĂM HỌC 2011 - 2012
- HS 1: Tuấn nghe lời bố, vì thấy hoàn cảnh gia đình còn đang khó khăn nên có
thể ở nhà làm kinh tế một thời gian, đợt sau sẽ thực hiện nghĩa vụ quân sự.
- HS 2: Tuấn nghe lời bố ở nhà ôn thi đại học, vì bố mong muốn Tuấn phải đậu
được đại học.
- HS 3: Tuấn sẽ thực hiện đi nghĩa vụ quân sự đợt này và tìm cách thuyết phục
bố sau khi đi nghĩa vụ quân sự Tuấn sẽ tiếp tục thi đại học.
- HS 4: Tuấn thuyết phục bố để mình đi thực hiện nghĩa vụ quân sự vì đó là quy
định đối với mọi công dân nam từ 18 tuổi trở lên phải có trách nhiệm thực hiện
nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc.
- Ý kiến khác…
GV giảng: Vào đại học không chỉ là mong muốn của các bậc phụ huynh mà
đó còn là niềm mong ước của tất cả các bạn học sinh. Nhưng là công dân, mỗi chúng
ta đều phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc, chấp hành pháp luật về QP và AN. Đối
với nam công dân từ 18 đến 25 tuổi sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ quân sự. Đó vừa là
quyền, vừa là nghĩa vụ thiêng liêng, cao quý. Dù ở dâu, làm gì, chúng ta luôn tích
cực tham gia vào các hoạt động QP và AN tại địa bàn cư trú, góp phần giữ gìn trật
tự an ninh quốc gia và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ.
Câu hỏi rút ra nội dung: Vậy qua các tình huống trên, các em thấy công dân
cần phải có trách nhiệm gì đối với chính sách QP và AN của Nhà nước ta?
Trong chương trình GDCD 12, tôi đã vận dụng phương pháp tình huống trong
một số bài sau:
• Bài 3: Công dân bình đẳng trước pháp luật. Mục 2/ Công dân bình đẳng về
trách nhiệm pháp lý. Giáo viên đưa ra tình huống sau:
Một nhóm học sinh rủ nhau đua mô tô, A không đồng ý vì cho rằng chưa có giấy
phép lái xe, B cho rằng đã có bố làm trưởng CA quận, bố C làm thứ trưởng của một
Bộ. Nếu xảy ra tình huống xấu đã có Phụ huynh “lo” hết.
Câu hỏi :
1. Quan điểm và thái độ của em trước những ý kiến trên như thế nào ?
2. Nếu nhóm bạn đó là cùng lớp với em, em sẽ làm gì ?
HS phát biểu, đề xuất cách giải quyết.
GV nhận xét, đánh giá, giúp HS hiểu :
Mọi vi phạm pháp luật đều xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của các
chủ thể khác, làm rối loạn trật tự pháp luật ở một mức độ nhất định. Trong thực tế có
một số người do thiếu hiểu biết về pháp luật, không tôn trọng và không thực hiện
pháp luật hoặc lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vi phạm pháp luật, gây hậu quả
nghiêm trọng. Những hành vi đó cần phải được đấu tranh, ngăn chặn và xử lý
nghiêm.
Giáo viên: Hà Công Chính
14
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NĂM HỌC 2011 - 2012
• Bài 6: Công dân với các quyền tự do cơ bản. Mục 2/ Trách nhiệm của Nhà
nước và công dân trong việc bảo đảm thực hiện quyền tự do cơ bản của công dân;
phần b) Trách nhiệm của công dân. Giáo viên có thể cho học sinh thảo luận một số
tình huống sau:
• Tình huống 1:
Thông và Hoàn nhìn thấy một người hốt hoảng chạy rẽ vào khu vườn nhãn.
Khoảng 1 phút sau có 2 người công an rượt đuổi theo đến chỗ Thông và Hoàng đang
đứng. Không biết người kia chạy theo lối nào, 2 chú công an hỏi : Các cháu có thấy
thằng kẻ trộm chạy theo lối nào không ? Biết chắc người vừa rồi là tên ăn trộm,
Hoàng định chỉ cho 2 chú nhưng Thông nháy mắt ra hiệu không nên nói. Vậy là tên
ăn trộm tẩu thoát.
Câu hỏi
1. Em nhận xét thế nào về trách nhiệm công dân của Thông và Hoàng ?
2. Em sẽ xử sự như thế nào nếu ở vào trường hợp trên ?
• Tình huống 2 :
Biết Yến là người hay tung tin nói xấu làm hạ uy tín của bạn Lớp trưởng và
Lớp phó, Thu ấm ức lắm. Có lần Thu bàn với Hằng : chúng mình phải phê bình cái
tính hay tung tin nói xấu bạn của cái Yến, Hằng ạ. Nghe Thu nói, Hằng có ý lảng
tránh : mặc kệ nó, dây dưa với nó làm gì rồi lại cãi nhau thôi, mình không muốn thế.
Câu hỏi
1. Em có nhận xét gì về cách xử sự của 2 bạn Thu và Hằng ?
2. Em suy nghĩ thế nào về trách nhiệm của công dân trong việc thực hiện quyền
tự do cơ bản của công dân ?
Qua những tình huống trên, học sinh sẽ lựa chọn các cách giải quyết, mỗi
hoàn cảnh cụ thể, học sinh sẽ đưa ra phương án là khác nhau. Từ đó, giáo viên giúp
học sinh nắm được: Là công dân – Học sinh chúng ta cần thực hiện tốt những trách
nhiệm trên để thực sự là những người có ích cho XH, góp phần tích cực vào công
cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, thực hiện mục tiêu xây
dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Học sinh sẽ khắc sâu kiến thức về
trách nhiệm của công dân :
- Công dân cần học tập, tìm hiểu pháp luật.
- Có trách nhiệm phê phán, đấu tranh và tố cáo các hành vi vi phạm quyền tự
do cơ bản của công dân.
- Tích cực giúp đỡ cán bộ Nhà nước có thẩm quyền thi hành quyết định trong
trường hợp cần thiết mà pháp luật quy định.
- Rèn luyện nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng các quyền tự do cơ
bản của công dân....
4. Phương pháp dự án:
Giáo viên: Hà Công Chính
15
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NĂM HỌC 2011 - 2012
Phương pháp dự án được hiểu như là một phương pháp trong đó học sinh thực
hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự gắn kết giữa lý thuyết với thực tiễn, thực
hành. Nhiệm vụ này được học sinh thực hiện với tính tự lực cao trong toàn bộ quá
trình học tập, từ việc xác định mục đích, lập kế hoạch đến việc thực hiện dự án,
kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá quá trình và kết quả thực hiện dự án.
a) Đặc điểm
Phương pháp dự án có 3 đặc điểm cơ bản sau:
- Định hướng học sinh: Trong phương pháp này, học sinh tham gia tích cực và
tự lực vào quá trình học tập. Điều này đòi hỏi và khuyến khích tính trách nhiệm và
sáng tạo của người học. Giáo viên chủ yếu đóng vai trò tư vấn, giúp đỡ. Tuy nhiên
mức độ tham gia cần phù hợp với kinh nghiệm và khả năng của học sinh và mức độ
khó khăn của nhiệm vụ. Sử dụng phương pháp này cần chú ý đến hứng thú của học
sinh như học sinh được tham gia chọn đề tài, nội dung học tập phù hợp với khả
năng. Trong khi xây dựng và thực hiện dự án cần có sự hợp tác làm việc theo nhóm.
Phương pháp dự án đòi hỏi và rèn luyện tính sẵn sàng và kỹ năng hợp tác của học
sinh.
- Định hướng hoạt động thực tiễn: Phương pháp dự án kết hợp giữa lý thuyết
và thực hành, vận dụng lý thuyết vào thực tiễn. Chủ đề của dự án gắn liền với các
vấn đề, tình huống thực tiễn. Nhiệm vụ cần phù hợp với trình độ và khả năng của
học sinh.
- Định hướng sản phẩm: Trong phương pháp dự án, các sản phẩm được tạo ra
không giới hạn trong những thu hoạch lý thuyết mà còn tạo ra những sản phẩm vật
chất của hoạt động thực tiễn, thực hành.
b) Quy trình thực hiện
- Chọn đề tài và xác định mục đích của dự án: Giáo viên có thể giới thiệu một
số hướng đề tài để học sinh lựa chọn và cụ thể hóa. Trong một số trường hợp, việc
đề xuất đề tài có thể từ học sinh.
- Xây dựng đề cương và kế hoạch thực hiện: Trong giai đoạn này, với sự hướng
dẫn của giáo viên, học sinh xây dựng đề cương, kế hoạch cho việc thực hiện dự án.
Trong kế hoạch cần xác định những công việc phải làm, thời gian thực hiện, cách
tiến hành, người phụ trách mỗi công việc...
- Thực hiện dự án: Các thành viên thực hiện công việc theo kế hoạch đã phân
công.
- Thu thập kết quả và công bố sản phẩm: Kết quả thực hiện dự án có thể được
viết dưới dạng thu hoạch, báo cáo. Sản phẩm cũng có thể là tranh ảnh, panô ... để
triển lãm; có thể là sản phẩm phi vật thể như diễn một vở kịch, biểu diễn văn nghệ,
tổ chức tuyên truyền, vận động thực hiện nếp sống văn minh trong cộng đồng dân cư
...
- Đánh giá dự án: Giáo viên và học sinh đánh giá quá trình thực hiện, kết quả
và kinh nghiệm đạt được. Rút kinh nghiệm cho các dự án tiếp theo.
Giáo viên: Hà Công Chính
16
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NĂM HỌC 2011 - 2012
Ví dụ: Trong chương trình GDCD 10, tôi đã vận dụng phương pháp dự án cho
một số bài với các nội dung sau:
• Bài 9: Con người là chủ thể của lịch sử, là mục tiêu phát triển của xã hội. Sau
khi học xong bài, tôi cho học sinh làm quen dần với việc lập kế hoạch điều tra thực
tế ở địa phương em về việc thực hiện một số chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước ta vì mục tiêu phát triển toàn diện con người như chính sách xóa đói giảm
nghèo, chính sách đối với giáo dục, chính sách định canh định cư, chính sách đối với
người tàn tật, cô đơn... Để học sinh có bước đầu làm quen với phương pháp này,
giáo viên giúp các em chọn đề tài đơn giản, dễ làm, vừa sức (ví dụ: điều tra chính
sách xóa đói giảm nghèo, chính sách đối với giáo dục tại cộng đồng dân cư nơi em
ở). Mục đích giúp các em hiểu đầy đủ và sâu sắc hơn về xã hội XHCN với sự phát
triển toàn diện của con người, mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta
đều vì sự phát triển toàn diện của con người. Sau khi đã lựa chọn đề tài để điều tra
và xác định mục đích của dự án, giáo viên hướng dẫn học sinh xây dựng đề cương,
kế hoạch như: phạm vi điều tra, đối tượng và số lượng thực hiện điều tra, thời gian
thực hiện, điều tra như thế nào, những ai tham gia vào công việc... với sự hướng dẫn
của giáo viên thì học sinh cũng có thể tự đề xuất kế hoạch và phân công các bạn phụ
trách các công việc để tiến hành thực hiện. Sau thời gian quy định (1 đến 2 tuần), cá
nhân hoặc các nhóm (theo sự phân công) viết một báo cáo thu hoạch ngắn về cuộc
điều tra đó. Giáo viên thu lại sản phẩm báo cáo của học sinh, lựa chọn một số bài
làm tốt và giao lại cho học sinh báo cáo trước lớp trong các giờ học tiếp theo để các
em khác học tập rút kinh nghiệm cho các dự án sau đó.
• Bài 13: Công dân với cộng đồng. Giáo viên có thể tổ chức cho học sinh thực
hiện dự án quyên góp, ủng hộ các bạn học sinh nghèo trong lớp, trong trường, ủng
hộ nhân dân các vùng bị thiên tai, bão lụt, những nạn nhân chất độc da cam... Với dự
án này, vừa gần gũi với các em, vừa gắn liền lý thuyết với việc thể hiện lòng nhân
ái, giúp đỡ, chia sẻ mà các em đã được học trong bài. Qua đó xây dựng thái độ đúng
đắn, suy nghĩ và hành động, việc làm đi đôi với nhau. Đối với dự án này học sinh đã
có thể tự chọn đề tài và xác định mục đích cũng như lập kế hoạch thực hiện, xây
dựng đề cương, thời gian thực hiện và công bố sản phẩm khi kết thúc dự án...
• Bài 15: Công dân với một số vấn đề cấp thiết của nhân loại. Có thể tổ chức cho
học sinh thực hiện dự án tuyên truyền về chính sách dân số trong cộng đồng dân cư.
Sản phẩm của các em có thể xây dựng một vở kịch ngắn nói về vấn đề dân số, có thể
là một buổi tọa đàm về sức khỏe sinh sản vị thành niên và một số bệnh có nguy cơ
lây lan qua quan hệ tình dục... Với dự án này học sinh đã có thể hoàn toàn xây dựng
được kế hoạch thực hiện, xây dựng kịch bản và phân công các thành viên tham gia
trong một vở kịch ngắn hoặc thực hiện một buổi tọa đàm.
Trong chương trình GDCD 12 tôi thực hiện ở một số bài với nội dung sau:
• Bài 2: Thực hiện pháp luật. Giáo viên yêu cầu học sinh thực hiện dự án khắc
phục tình trạng vi phạm an toàn giao thông của học sinh trường em sau giờ tan học.
Học sinh sẽ thực hiện những công việc sau:
Giáo viên: Hà Công Chính
17
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NĂM HỌC 2011 - 2012
- Chọn đề tài và xác định mục đích của dự án: Học sinh sẽ đề xuất xác định và
chọn cách đặt tên đề tài. Mục đích của đề tài nhằm góp phần giảm tình trạng ùn tắc
giao thông ở cổng trường sau giờ tan học.
- Xây dựng đề cương, kế hoạch: Học sinh sẽ lập kế hoạch, đưa ra những công
việc cần phải làm(quan sát, ghi chép những hành vi có thể dẫn đến tình trạng ùn tắc
tại cổng trường sau khi tan học, biện pháp nhằm khắc phục...), thời gian thực hiện
(tùy theo quy định của học sinh), cách tiến hành, phân công người phụ trách mỗi
công việc (do học sinh lập kế hoạch và thực hiện).
- Thực hiện dự án: Các thành viên được phân công thực hiện công việc theo kế
hoạch đã đề ra cho nhóm và cá nhân. Sau khi quan sát, thu thập số liệu, học sinh tìm
ra nguyên nhân dẫn đến tình trạng như vậy và đề xuất các biện pháp nhằm góp phần
khắc phục tình trạng đó. Với những biện pháp như vậy, sau khi áp dụng đã cải thiện
được tình trạng ùn tắc trước cổng trường sau giờ tan học như thế nào.
- Thu thập kết quả và công bố sản phẩm: Học sinh viết báo cáo với kết quả đạt
được qua các biện pháp có thể góp phần làm giảm bớt tình trạng học sinh tan học
hay đứng lại cổng trường gây ùn tắc giao thông.
- Đánh giá dự án: Qua việc lập kế hoạch, thực hiện công việc và đưa ra một số
biện pháp, học sinh có thể tự đánh giá kết quả đạt được và rút kinh nghiệm cho các
dự án tiếp theo....
IV. KẾT QUẢ THỰC HIỆN
Qua hoạt động ở trên lớp cũng như quá trình thực hiện và theo dõi, tôi nhận
thấy học sinh ngày càng tỏ ra hứng thú và tích cực tham gia học tập. Vận dụng linh
hoạt các phương pháp dạy học tích cực còn giải quyết một phần khó khăn, mâu
thuẫn giữa thời gian và dung lượng kiến thức trong một tiết học. Các phương pháp
này đã phát huy năng lực suy nghĩ, tính tích cực, động não của học sinh, từ đó chất
lượng dạy và học ngày càng được nâng cao. Kiến thức trong tiết học các em học
sinh lĩnh hội được chính là của các em vì những gì các em cùng tham gia, cùng giải
quyết được những vấn đề đặt ra giúp gây hứng thú học tập bởi đó là sản phẩm của
chính học sinh làm ra chứ không phải của thầy, cô.
Bên cạnh đó, sau mỗi giờ học, mỗi tiết học, sự nhận xét khen chê, động viên
kịp thời của giáo viên và thi đua học tập giữa học sinh với học sinh, giữa các nhóm
với nhau giúp học sinh ngày càng phải có sự cố gắng cố gắng và sự tự tin hơn trong
việc chiếm lĩnh tri thức. Tất nhiên giáo viên cũng phải thật chú ý đến các “sản
phẩm” ấy xem đã tốt chưa để tránh cho học sinh ngộ nhận. Từ đó, mỗi học sinh có
thể nhận rõ mức độ hiểu biết của mình về chủ đề nêu ra, khả năng nhận thức tri thức
bài học nói chung, thấy mình cần học hỏi thêm những gì. Tiết học trở thành quá
trình học hỏi lẫn nhau “ Học thầy không tày học bạn” chứ không phải chỉ là sự tiếp
nhận thụ động từ giáo viên.
Kết quả học kì I năm học 2011 - 2012
Lớp
SS
Loại Giỏi
SL
%
Giáo viên: Hà Công Chính
Loại Khá
SL
%
Loại T.Bình
SL
%
Loại Yếu
SL
%
Loại Kém
SL
%
18
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
12A1
12A2
12A3
12A4
Cộng
24
27
26
22
99
2
0
0
0
2
8,3
0
0
0
2,0
NĂM HỌC 2011 - 2012
7
8
7
4
26
29,2
29,6
26,9
18,2
26,3
13
13
16
13
55
54,2
48,2
61,5
59,1
55,6
2
6
3
5
16
8,3
22,2
11,5
22,7
16,0
0
0
0
0
0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
Kết quả học kì II năm học 2011 – 2012
Lớp
SS
12A1
12A2
12A3
12A4
24
27
26
22
99
Cộng
Loại Giỏi
SL
%
1
0
0
1
2
4,2
0,0
0,0
4,6
2,0
Loại Khá
SL
%
14
11
14
8
47
58,3
40,7
53,9
36,4
47,5
Loại T.Bình
SL
%
9
13
12
11
45
37,5
48,2
46,2
50,0
45,5
Loại Yếu
SL
%
0
2
0
2
4
0,0
7,4
0,0
9,1
4,0
Loại Kém
SL
%
0
0
0
0
0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
Kết quả cả năm năm học 2011 – 2012
Lớp
SS
12A1
12A2
12A3
12A4
24
27
26
22
99
Cộng
Loại Giỏi
SL
%
2
0
0
1
3
8,3
0,0
0,0
4,6
3,0
Loại Khá
SL
%
12
11
10
4
37
50,0
40,7
38,5
18,2
37,4
Loại T.Bình
SL
%
10
14
16
14
54
41,7
51,9
61,5
63,6
54,6
Loại Yếu
SL
%
0
2
0
3
5
0,0
7,4
0,0
13,6
4,0
Loại Kém
SL
%
0
0
0
0
0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
C. KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ
Để xây dựng một tiết học thành công, ngoài kiến thức chuyên môn, đòi hỏi
người giáo viên phải có năng lực sư phạm thể hiện thông qua phương pháp giảng
dạy, lao động của người thầy vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Mỗi bài dạy, tiết
dạy có nội dung và yêu cầu khác nhau. Nội dung sẽ quyết định việc lựa chọn
phương pháp dạy học phù hợp. Mục đích của dạy học là quá trình học sinh thực hiện
một nhiệm vụ học tập nhằm phát triển tính tự lực, sáng tạo. Dạy học nếu được tổ
chức tốt sẽ thực hiện được những chức năng và công dụng khác với dạy học toàn
lớp, do đó nó có tác dụng bổ sung cho dạy học toàn lớp.Việc sử dụng linh hoạt các
phương pháp dạy học sẽ giúp người giáo viên thực hiện tốt vai trò, chức năng dạy
học, giúp học sinh phát huy được tính tích cực, tự lực đồng thời phát triển được năng
lực cộng tác làm việc, năng lực giao tiếp, tính tự tin cho học sinh.
Trong phạm vi đề tài này, tôi chỉ đề cập đến một số phương pháp dạy học tích
cực trong dạy-học môn giáo dục công dân ở trường THPT mà bản thân đã áp dụng
qua nhiều năm để góp phần tạo nên một giờ học phong phú, sinh động nhằm phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh giúp hình thành năng lực tự học.
Song mỗi phương pháp như đã đề cập ở trên, giáo viên phải xuất phát từ mục tiêu,
nội dung của bài học, tùy theo yêu cầu cụ thể, tình hình của mỗi lớp học, điều kiện
cơ sở vật chất để lựa chọn phương pháp thích hợp, có hiệu quả. Song một điều
chúng ta không thể phủ nhận rằng: dù đổi mới bắt đầu từ những công việc của người
thầy, giáo viên có chuẩn bị kỹ càng đến đâu, sử dụng phương pháp nào … thì hiệu
Giáo viên: Hà Công Chính
19
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NĂM HỌC 2011 - 2012
quả giờ dạy vẫn phụ thuộc nhiều vào sự cộng tác làm việc của học sinh – đối tượng
chủ yếu trong quá trình dạy học. Cho nên, cách tổ chức giờ học của giáo viên để lôi
cuốn, hấp dẫn học sinh góp phần không nhỏ vào hiệu quả giờ dạy, vì học sinh là chủ
thể tích cực trong quá trình dạy học, giáo viên có vai trò là chủ đạo.
Và cũng phải nhận thấy, một phương pháp dạy học dù tốt đến đâu nhưng
người sử dụng không nắm vững bản chất của phương pháp đó, việc thiết kế, tổ chức
các hoạt động dạy học chỉ mang tính hình thức thì hiệu quả dạy học sẽ không đem
lại như mong muốn. Chỉ bằng quá trình lao động sư phạm tâm huyết và sáng tạo của
người thầy với tinh thần Bác đã dạy: “Dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi
đua dạy tốt và học tốt”, thì mới đổi mới, nâng cao được chất lượng dạy và học. Đây
là một nhiệm vụ trọng tâm, một yêu cầu khách quan, cấp thiết luôn mang tính thời
sự. Bởi lẽ đội ngũ Thầy cô là nhân tố, là động lực trực tiếp để nâng cao chất lượng
giáo dục.
Vận dụng một số phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của
học sinh trong chương trình Giáo dục công dân nói chung đã tạo cho học sinh nhu
cầu nhận thức, ham muốn tìm hiểu, tự lực tham gia các hoạt động học tập, có điều
kiện tranh luận, bảo vệ ý kiến của mình.
Như vậy, đổi mới phương pháp giảng dạy môn Giáo dục công dân bậc THPT
theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, đã tạo
cho sinh năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng ham mê học tập và ý chí vươn
lên, loại bỏ thói quen học tập thụ động theo kiểu: Thầy giảng – trò nghe, thầy hỏi học sinh trả lời, thầy đọc – trò ghi chép và học thuộc.
Dạy học theo hưóng đổi mới đã cuốn hút được các hoạt động học tập do giáo
viên thiết kế, giáo viên với vai trò là người tổ chức và hướng dẫn, qua đó học sinh có
thể tự khám phá và chiếm lĩnh nội dụng bài học.
Việc vận dụng và thiết kế bài dạy theo hướng đổi mới làm tăng tính hiệu quả
học tập và hợp tác giữa các cá nhân, nhất là lúc giải quyết những vấn đề gay cấn, lúc
xuất hiện thực sự nhu cầu phối hợp giữa các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung.
Trong hoạt động hợp tác theo nhóm nhỏ, tính cách, năng lực mỗi thành viên được
bộc lộ, uốn nắn, phát triển tình bạn, ý thức tổ chức, tinh thần tương trợ. Sự hợp tác
trong học tập sẽ giúp học sinh quen dần với sự phân công hợp tác trong lao động xã
hội và hình thành năng lực hợp tác rất cần thiết cho người công dân trong một thế
giới phát triển với sự hợp tác rất cần thiết đa dạng.
Trong quá trình vận dụng và thiết kế các bài giảng môn Giáo dục công dân,
chúng ta không được tuyệt đối hoá một phương pháp giảng dạy nào, mà phải kết
hợp cả phương pháp truyền thống với các phương pháp hiện đại gắn với nhiều hình
thức tổ chức dạy học theo lớp, theo nhóm và cá nhân, học ở trong lớp, ngoài lớp,
trong trường hay liên hệ thực tế địa phương có liên quan đến nội dung bài học.
Phương pháp dạy học theo hướng tích cực đã khắc phục được tình trạng học
sinh chỉ tiếp thu kiến thức một cách thụ động trước sự hướng của giáo viên, tạo cho
học sinh hoạt động nhiều hơn, thực hành nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn để giải
quyết những vấn đề đặt ra dựa trên kiến thức cũ, kinh nghiệm sống, qua sự dẫn dắt
của giáo viên tạo cho học sinh “nhu cầu bức xúc” để tự giải đáp thắc mắc.
Giáo viên: Hà Công Chính
20
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NĂM HỌC 2011 - 2012
Như vậy, đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cức đã thực sự kích
thích hoạt động tư duy của học sinh, hình thành ý thức ham muốn học tập, say mê
nghiêm cứu, có sự cố gắng trong việc nắm kiến thức, từ đó khắc sâu hơn nội dung
bài học.
Tuy nhiên, đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá các hoạt
động học tập của học sinh trong môn Giáo dục công dân là một quá trình khó khăn
và không dễ dàng. Việc phát triển các phương pháp tích cực đòi hỏi giáo viên phải
đổi mới mục tiêu bài học, đổi mới cách soạn bài, đổi mới cách kiểm tra đánh giá học
sinh.
Trên đây là một số phương pháp giảng dạy được sử dụng nhiều trong giảng
dạy môn Giáo dục công dân và tôi đã vận dụng trong thiết kế các hoạt động phát huy
tính tích cực của học sinh trong học tập môn Giáo dục công dân bậc THPT để đáp
ứng tốt nh cầu đổi mới phương pháp dạy học.
Đây là kinh nghiệm và ý kiến chủ quan của bản thân trong suốt quá trình
giảng dạy và công tác tại nhà trường. Vì lẽ đó không thể tránh những thiếu sót. Rất
mong được sự đóng góp ý kiến của các đồng nghiệp để tôi thực hiện tốt hơn đề tài
này. Xin chân thành cảm ơn./.
Trảng Bom, ngày
tháng 05 năm 2012
Người thực hiện
Hà Công Chính
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo viên: Hà Công Chính
21
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NĂM HỌC 2011 - 2012
1. Hướng dẫn thực hiện chương trình, SGK môn Giáo dục công dân 10, 11, 12 –
NXB Giáo dục năm 2008
2. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình, sách giáo khoa môn Giáo
dục công dân 11 NXB Giáo dục năm 2007.
3. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên dạy chương trình và sách giáo khoa lớp 11 thí
điểm - Viện nghiên cứu sư phạm - Đại học sư phạm Hà Nội năm 2005.
4. Lý luận dạy học môn Giáo dục công dân ở trường phổ thông trung học – NXB
Đại học quốc gia Hà Nội năm 1999.
5. Bồi dưỡng nội dung và phương pháp giảng dạy Giáo dục công dân 12 – NXB
Đại học quốc gia Hà Nội năm 1999. Vũ Hồng Tiến (chủ biên).
6. Phương pháp giảng dạy Giáo dục công dân - Trường Đại học sư phạm Hà Nội
I năm 1994. PTS Vương Tất Đạt (chủ biên).
Giáo viên: Hà Công Chính
22