Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

đầu tư, tăng trưởng và phát triển kinh tế.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.03 KB, 20 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Tăng trưởng và phát triển kinh tế luôn là mục tiêu hướng tới của mọi quốc gia.
Để thực hiện và duy trì được mục tiêu đó, mỗi nước sẽ có những chính sách và bước
đi phù hợp với hoàn cảnh cụ thể từng nước. Trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế
hiện nay, muốn tồn tại và phát triển được mỗi nền kinh tế đều phải phát huy nội lực
trong nước kết hợp với các nguồn lực bên ngoài. Đối với Việt Nam, Đảng và Nhà
nước ta luôn đặt mục tiêu phát triển kinh tế lên hàng đầu với định hướng đến năm
2020 nước ta sẽ cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Để đạt được mục tiêu trên
thì đầu tư là một yếu tố cực kỳ quan trọng vì đầu tư, nói rõ hơn là đầu tư phát triển,
không những làm gia tăng tài sản của cá nhân nhà đầu tư, mà còn trực tiếp làm gia
tăng tài sản vật chất cho nền kinh tế, có tác động rất mạnh mẽ đến phát triển kinh tế.
Đã có nhiều lý thuyết về đầu tư được nêu ra nhằm phân tích tác động của đầu tư đến
tăng trưởng và phát triển dưới nhiều khía cạnh khác nhau như lý thuyết số nhân đầu
tư, lý thuyết gia tốc đầu tư, mô hình Harrod – Domar… Mỗi lý thuyết đều có ưu,
nhược điểm riêng vì thế tùy thuộc vào tình hình cụ thể của nền kinh tế vĩ mô và các
mục tiêu kinh tế tại thời điểm đó mà các nhà hoạch định chính sách sẽ lựa chọn áp
dụng chính sách nào cho phù hợp. Dưới đây là phân tích về Lý thuyết gia tốc đầu tư
và đánh giá khả năng áp dụng lý thuyết trên tại Việt Nam.
Bài tiểu luận được chia làm 3 phần chính:
Phần I : Những khái niệm cơ bản về đầu tư, tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Phần này đề cập đến một số khái niệm về đầu tư, tăng trưởng và phát triển kinh
tế với mục đích tạo thuận lợi hơn cho quá trình nghiên cứu, đồng thời cũng đưa ra
một số tác động của đầu tư đến tăng trưởng và phát triển kinh tế tạo tiền đề cho việc
phân tích, nghiên cứư phần 2 & phần 3.
Phần II : Giải thích sự tác động của đầu tư đến tăng trưởng và phát triển kinh tế
thông qua lý thuyết gia tốc đầu tư.
Trong phần này chúng ta sẽ nghiên cứu cụ thể sự tác động của đầu tư đến tăng
trưởng và phát triển kinh tế thông qua lý thuyết gia tốc đầu tư
Phần III : Đánh giá khả năng áp dụng lý thuyết gia tốc đầu tư tại Việt Nam
PHẦN I: NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ, TĂNG TRƯỞNG VÀ
PHÁT TRIỂN KINH TẾ


1. Đầu tư và phân loại đầu tư.
1.1 Khái niệm về đầu tư.
Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt
động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực
đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Như vậy , mục tiêu của mọi công cuộc đầu tư là
đạt được các kết quả lớn hơn so với những hy sinh về nguồn lực mà nhà đầu tư phải
ghánh chịu khi tiến hành đầu tư.
Nguồn lực được nói đến ở đây có thể là tiền, tài nguyên, công nghệ, nhà
xưởng, sức lao động, trí tuệ… và các mục đích hướng tới chính là sự tăng lên về tài
sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường sá, bệnh viện, máy móc…),
tài sản trí tuệ (trình độ chuyên môn, kỹ năng tay nghề, năng suất lao động, trình độ
quản lý… ) trong nền sản xuất xã hội.
Trong những kết quả đạt được trên đây, những kết quả trực tiếp của sự hy sinh
các tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan trọng
trong mọi lúc , mọi nơi không chỉ đối với người bỏ vốn mà cả đối với toàn bộ nền
kinh tế. Những kết quả này không chỉ nhà đầu tư mà cả nền kinh tế xã hội được thụ
hưởng. Chẳng hạn, một nhà máy được xây dựng, tài sản vật chất của nhà đầu tư trực
tiếp tăng lên, đồng thời tài sản vật chất, tiềm lực sản xuất của nền kinh tế cũng được
tăng thêm.
Lợi ích trực tiếp do sự hoạt động của nhà máy này đem lại cho nhà đầu tư là lợi
nhuận, còn cho nền kinh tế là thoả mãn nhu cầu tiêu dùng (cho sản xuất và cho sinh
hoạt ) tăng thêm của nền kinh tế, đóng góp cho ngân sách, giải quyết việc làm cho
người lao động…
Trình độ nghề nghiệp, chuyên môn của người lao động tăng thêm không chỉ có
lợi cho chính họ (để có thu nhập cao, địa vị cao trong xã hội) mà còn bổ sung nguồn
lực có kỹ thuật cho nền kinh tế để có thể tiếp nhận công nghệ ngày càng hiện đại, góp
phần nâng cao dần trình độ công nghệ và kỹ thuật của nền sản xuất quốc gia.
1.2 Phân loại đầu tư.
Căn cứ vào các kết quả của hoạt động đầu tư, bản chất và lợi ích do đầu tư đem
lai chúng ta có thể chia đầu tư ra làm 3 loại : đầu tư tài chính, đầu tư thương mại và

đầu tư phát triển.
Đầu tư tài chính:
Đầu tư tài chính là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra cho vay hoặc mua
các giấy tờ có giá để hưởng lãi suất định trước, hay lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh của cơ quan phát hành. Đầu tư tài chính không tạo ra
tài sản mới cho nền kinh tế (Nếu không xét đến quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này)
mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của các tổ chức, cá nhân. Với sự hoạt động
của hình thức đầu tư này, vốn được lưu chuyển dễ dàng, khi cần có thể rút ra nhanh
chóng. Đây thực sự là một nguồn cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển.
Đầu tư thương mại:
Đầu tư thương mại là hình thức đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra mua
hàng hóa và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận chênh lệch do giá khi
mua và khi bán. Loại đầu tư này không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không
xét đến ngoại thương), mà chỉ làm tăng tài sản tài chính của nhà đầu tư trong quá
trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá giữa người bán với nhà đầu
tư và giữa nhà đầu tư với khách hàng của họ. Tuy nhiên đầu tư thương mại có tác
dụng thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất do đầu tư phát triển tạo ra. Từ đó
thúc đẩy đầu tư phát triển, tăng thu cho ngân sách, tăng tích luỹ vốn cho phát triển
sản xuất kinh doanh dịch vụ nói riêng và nền sản xuất xã hội nói chung.
Đầu tư phát triển :
Đầu tư phát triển là những hoạt động đầu tư tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế,
làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ
yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Nói cách
khác đầu tư phát triển là việc bỏ tiền ra để xây dựng, sửa chữa nhà cửa, kết cấu hạ
tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn
nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với hoạt động của các tài sản
này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới
cho nền kinh tế xã hội.
Ba loại đầu tư trên luôn tồn tại và có mối quan hệ tương hỗ với nhau, trong đó
đầu tư phát triển là cơ bản nhất, tạo tiền đề đề tăng tích lũy, phát triển hoạt động đầu

tư tài chính và đầu tư thương mại. Đầu tư phát triển là điều kiện tiên quyết cho sự ra
đời, tồn tại và tiếp tục phát triển của mọi cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ. Bên cạnh
đó, đầu tư tài chính và đầu tư thương mại hỗ trợ và tạo điều kiện để tăng cường đầu
tư phát triển. Tuy nhiên trong khuân khổ của đề tài này chúng ta chỉ đi sâu, tiềm hiểu,
xem xét các vấn đề kinh tế của đầu tư phát triển- loại đầu tư quyết định trực tiếp sự
phát triển của nền sản xuất xã hội, là điều kiện tiên quyết cho sự ra đời, tồn tại và tiếp
tục phát triển của mọi cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ.
2. Khái niệm về tăng trưởng kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một khoảng
thời gian nhất định (thường là một năm). Sự gia tăng này được thể hiện ở quy mô và
tốc độ tăng trưởng. Quy mô phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít còn tốc độ tăng trưởng
được dùng để so sánh sự gia tăng giữa các thời kỳ. Người ta thường xác định tăng
trưởng kinh tế thông qua các chỉ tiêu GDP (tổng sản phẩm quốc nội), GNP (tổng sản
phẩm quốc dân) và GNI (thu nhập bình quân đầu người).
Đầu tư là một trong những yếu tố được tính đến trong tăng trưởng kinh tế, dựa
vào công thức tính GDP sau:
GDP = S + I + G + (X – IM)
Trong đó: S: tổng tiết kiệm trong nền kinh tế
I: đầu tư
G: chi tiêu của chính phủ
X: xuất khẩu
IM: nhập khẩu.
Bản chất của tăng trưởng kinh tế là phản ánh sự thay đổi về lượng của nền kinh
tế còn đầu tư phát triển không những làm gia tăng tài sản của nhà đầu tư mà còn trực
tiếp làm tăng tài sản của nền kinh tế quốc dân, chẳng hạn khi nhà đầu tư xây dựng
một nhà máy thì nhà máy đó không những là tài sản của nhà đầu tư mà còn là tiềm
lực sản xuất của cả nền kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. Như
vậy đầu tư phát triển chính là một yếu tố không thể thiếu đối với quá trình tăng
trưởng của một nền kinh tế.
3. Khái niệm về phát triển kinh tế.

Phát triển kinh tế là quá trình lớn lên, tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế.
Phát triển kinh tế là một khái niệm rộng hơn tăng trưởng. Nếu tăng trưởng được xem
là quá trình biến đổi về lượng thì phát triển là quá trình biến đổi cả về lượng và chất
của nền kinh tế. Đó là sự kết hợp một cách chặt chẽ quá trình hoàn thiện của cả hai
vấn đề về kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia. Phát triển kinh tế bao gồm có tăng
trưởng, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo chiều hướng tiến bộ (thường xét đến sự
chuyển dịch cơ cấu ngành: sự gia tăng tỉ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ và giảm tỉ
trọng ngành nông nghiệp), sự biến đổi ngày càng tốt hơn trong các vấn đề xã hội (xóa
bỏ nghèo đói, suy dinh dưỡng, tăng tuổi thọ bình quân, tăng khả năng tiếp cận các
dịch vụ y tế, nước sạch của người dân, đảm bảo phúc lợi xã hội, giảm thiểu bất bình
đẳng trong xã hội…).
Một mặt trái của đầu tư phát triển, bên cạnh việc làm tăng sản lượng của nền
kinh tế, đầu tư phát triển còn gây nên một số tác động tiêu cực như ô nhiễm, suy thoái
môi trường, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, gây ảnh hưởng tới sức khỏe con người.
Hiện nay, ở nhiều quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, người ta đã chú ý tới
những ảnh hưởng tiêu cực đến tương lai do tăng trưởng nhanh gây ra. Trên thế giới
đã xuất hiện khái niệm mới về phát triển, đó là phát triển bền vững. Theo định nghĩa
của Ngân hàng Thế giới WB: “Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng các nhu
cầu hiện tại mà không làm nguy hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ
tương lai”. Nói cách khác, phát triển bền vững là sự kết hợp hài hòa, chặt chẽ, hợp lý
cả về ba mặt: tăng trưởng kinh tế, cải thiện các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường.
Đây là mục tiêu hướng tới của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam .
PHẦN II : PHÂN TÍCH LÝ THUYẾT GIA TỐC ĐẦU TƯ
Chúng ta đều biết rằng đầu tư là một yếu tố nằm trong tổng cầu của nền kinh
tế. Trong khi đầu tư nhỏ hơn rất nhiều so với tiêu dùng trong GDP, nhưng nó lại rất
quan trọng bởi vì đây là thành tố trong GDP biến động mạnh nhất và phản ánh rõ nét
nhất hình mẫu biến động theo chu kỳ mà các nền kinh tế thị trường phải đối mặt.
Trong bài tiểu luận này chúng ta phải nghiên cứu ảnh hưởng của đầu tư đến tăng
trưởng và phát triển kinh tế nhưng dưới góc độ vận dụng các lý thuyết kinh tế về đầu
tư để giải thích . Do đó chúng ta phải nghiên cứu vấn đề trên phương diện lý luận,

vận dụng các lý thuyết đầu tư là chủ yếu. Có rất nhiều lý thuyết kinh tế về đầu tư, mỗi
lý thuyết nghiên cứu một khía cạnh khác nhau của đầu tư đối với tăng trưởng và phát
triển kinh tế. Dưới đây là phân tích về lý thuyết gia tốc đầu tư.
1. Tư tưởng trung tâm của mô hình gia tốc đầu tư .
Nếu số nhân đầu tư giải thích mối quan hệ giữa việc gia tăng đầu tư với gia
tăng sản lượng hay việc gia tăng đầu tư có ảnh hưởng như thế nào đến sản lượng.
Như vậy đầu tư xuất hiện như một yếu tố của tổng cầu. Theo Keynes, đầu tư cũng
được xem xét dưới góc độ tổng cung, nghĩa là mỗi sự thay đổi của sản lượng làm
thay đổi đầu tư như thế nào. Các doanh nghiệp thực hiện các dự án đầu tư để đưa
mức tư bản đạt mức mong muốn. Lượng tư bản mong muốn phụ thuộc vào mức sản
lượng là điều dễ dàng chấp nhận được. Khi mức sản lượng cao hơn, các hãng có nhu
cầu lớn hơn về tư bản vì tư bản là một trong nhiều nhân tố để tạo ra sản lượng. Tư
tưởng trung tâm của mô hình gia tốc dựa trên mối quan hệ đơn giản này.
2. Nội dung của lý thuyết gia tốc đầu tư .
Mô hình gia tốc giả thiết rằng lượng tư bản mong muốn là bội số của mức sản
lượng :
K
d
t
= α .Y
t
α>0 (1)
Ở dạng đơn giản nhất của mô hình gia tốc, đầu tư ròng đúng bằng chênh lệch
giữa lượng tư bản mong muốn với lượng tư bản hiện có vào cuối thời kì trước. Nếu
tạm thời bỏ qua hao mòn tư bản trong quá trình sử dụng, chúng ta có mối liên hệ sau:
I
n,t
= K
d
t

- K
d
t -1
(2)
Lượng tư bản có được vào cuối thời kỳ trước chính là lượng tư bản mong
muốn phụ thuộc vào thu nhập của thời kỳ đó.
K
t-1
= K
t-1
d
=

α .Y
t-1
(3)
Vì vậy, chúng ta có thể viết l ại phương trình (2) như sau:
I
n,t
= K
d
t
- K
t-1
= α .Y
t
- α .Y
t-1
= α.( Y
t

- Y
t-1
)
I
n,t
= α.Δ Y
t
(4)
Mức đầu tư phụ thuộc vào sự thay đổi của sản lượng.
Dạng đơn giản này cho ta thấy một đặc điểm quan trọng của mô hình gia tốc.
Từ phương trình (1), α có thể được coi là tỷ lệ giữa mức tư bản mong muốn so với
sản lượng:
α =K
t
d
/ Y
t
(5)
Ví dụ, giả sử rằng tỷ lệ này là 2. Trong trường hợp này, cứ mỗi đồng sản lượng
thay đổi thì mức bổ sung tương ứng là 2 đồng. Trong bối cảnh đó, đầu tư sẽ biến
động rất mạnh trong chu kỳ kinh doanh. Theo mô hình giao điểm của Keynes cho
thấy sự thay đổi của đầu tư có tác dụng số nhân đến sản lượng. Vì vậy cùng với hiệu
ứng số nhân, lý thuyết gia tốc đơn giản chỉ có thể giải thích sự biến động theo chu kỳ
của sản lượng. Một cú sốc đối với sản lượng sẽ làm thay đổi mức đầu tư và sự thay
đổi này sẽ làm mức sản lượng cân bằng thay đổi thông qua hiệu ứng số nhân, và tác
động thêm vào đầu tư thông qua hiệu ứng gia tốc. Tuy nhiên cũng giống như lý
thuyết đơn giản về số nhân của Keynes, chúng ta cần phải điều chỉnh lý thuyết gia tốc
về đầu tư trước khi có thể sử dụng nó để giải thích cho quá trình đầu tư trong nền
kinh tế thực.
Điều chỉnh đầu tiên mà chúng ta cần làm để mô hình gia tốc đơn giản trở nên

thực tế hơn bằng cách cho rằng lượng tư bản thực tế sẽ điều chỉnh dần đến mức mong
muốn. Gỉa sử rằng chúng ta sử dụng mô hình cho một năm nào đó. Cũng giả sử rằng,
do sản lượng tăng lên nên lượng tư bản mong muốn cũng tăng theo. Các dự án đầu tư
sẽ được thực hiện nhằm đưa lượng tư bản tiến tới mức mong muốn. Bên cạnh những
chi phí mà ta gọi là chi phí trực tiếp của đầu tư, chúng ta cần tính đến những chi phí
điều chỉnh, và việc coi chi phí này tăng lên khi mức đầu tư tăng cũng là điều hợp lý.
Những ví dụ về chi phí điều chỉnh như phải đóng cửa nhà máy hoặc thuê thêm công
nhân làm việc ngoài giờ để lắp đặt thiết bị, chi phí tăng thêm do muốn tăng tiến độ
xây dựng nhà máy và hoạt động sản xuất có thể bị đình trệ do bộ máy quản lý phải
tập trung vào việc triển khai các dự án đầu tư. Nếu chi phí điều chỉnh tăng mạnh, thì
quyết định tối ưu đối với doanh nghiệp sẽ là điều chỉnh dần lượng tư bản thực tế đến
mức mong muốn. Khi đó chênh lệch giữa hai lượng tư bản này chỉ bị triệt tiêu một
phần trong từng thời kỳ.
Để phản ánh được độ trễ điều chỉnh này, chúng ta có thể viết (2) như sau:
I
n,t
= λ.( K
d
t
-K
t-1
) 0< λ<1 (6)
Sử dụng (1), có: I
n,t
= λ.( α.Y
t
- K
t-1
) (7)
Trong đó, thông thường, K

t-1
khác K
d
t -1
do lượng tư bản thực tế khác với lượng
tư bản mong muốn trong mỗi thời kỳ. Phương trình (7) xác định cơ chế điều chỉnh
một phần mà ở đó hệ số λ thể hiện phần của chênh lệch giữa lượng tư bản mong
muốn với lượng tư bản thực tế được thực hiện thông qua đầu tư. Do chỉ một phần sự
thay đổi của lượng tư bản mong muốn được thực hiện trong mội thời kỳ nên trong
một thời kỳ nhất định nào đó đầu tư sẽ phản ứng với những thay đổi của thu nhập

×