Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Mối quan hệ qua lại giữa đầu tư với tăng trưởng và phát triển kinh tế-word+slide phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325.73 KB, 46 trang )

Đề án kinh tế đầu tư Nhóm 3
LỜI MỞ ĐẦU
Sau hơn hai muơi năm đổi mới, Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc cả
về kinh tế, văn hoá và xã hội. Điều đó thể hiện con đường phát triển đúng đắn mà Đảng
và nhà nước ta đã lựa chọn. Thực hiện đường lối đổi mới, với mô hình kinh tế tổng quát
là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đến nay, có thể khẳng
định rằng Việt Nam đã bước đầu thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, nâng vị thế quốc gia lên một tầm cao mới trên trường khu vực cũng
như quốc tế.
Từ năm 2001 – 2007, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh
tế tương đối cao, đặc biệt năm 2007, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mức cao nhất trong
lịch sử: 8,5%. Một vấn đề cấp thiết được đặt ra là làm thế nào để duy trì tốc độ tăng
trưởng và phát triển kinh tế ấy trong một thời gian dài. Để tăng trưởng và phát triển kinh
tế xã hội một cách bền vững thì một trong những điều kiện quan trọng là phải mở rộng
đầu tư. Sau hơn một năm trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế
giới WTO, Việt Nam đã chứng tỏ được mình là một điểm thu hút đầu tư hấp dẫn đối
với các nhà đầu tư lớn trên thế giới. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài đổ vào Việt Nam
tăng lên hết sức ấn tượng. Nhưng đồng nghĩa với nó là nền kinh tế nước ta đang phải
đương đầu với bài toán lạm phát và thâm hụt cán cân thương mại.
Thực trạng này như một hồi chuông cảnh báo các nhà kinh tế Việt Nam cần có
một cái nhìn tổng quan và đánh giá đúng đắn về mối quan hệ qua lại giữa đầu tư với
tăng trưởng và phát triển, nhằm giải quyết bài toán trên. Nhận thức được tính chất quan
trọng của vấn đề, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Mối quan hệ qua lại giữa đầu tư với tăng
trưởng và phát triển kinh tế”, với mục đích làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
tác động của đầu tư đến TT&PT kinh tế và ngược lại. Trên cơ sở đó đưa ra một số giải
pháp nhằm phát huy tối đa mối quan hệ này để phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất
nước.
Trong quá trình thực hiện, bài viết của nhóm chúng tôi còn nhiều thiếu sót. Vì thế,
chúng tôi rất mong nhận được sự nhận xét và đóng góp của thầy cô cùng toàn thể các
bạn để đề tài được hoàn thiện hơn.
Tập thể nhóm xin chân thành cảm ơn PGS-TS Từ Quang Phương và TS Phạm


Văn Hùng đã giúp đỡ nhóm hoàn thành đề tài này.
Lớp Kinh tế đầu tư 48B
1
Đề án kinh tế đầu tư Nhóm 3
CHƯƠNG I :
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ QUA LẠI
GIỮA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG TRƯỞNG & PHÁT TRIỂN KINH TẾ
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM
1. Đầu tư
1.1. Khái niệm
Có nhiều khái niệm khác nhau về đầu tư, có thể nói rằng đầu tư nói chung
là sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm
thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để
đạt các kết quả đó. Như vậy mục tiêu của mọi công cuộc đầu tư là đạt được các
kết quả lớn hơn so với những hi sinh về nguồn lực mà người đầu tư phải gánh
chịu khi tiến hành đầu tư.
Trên góc độ kinh tế học vĩ mô: Đầu tư là hoạt động mua “tư bản hiện vật”
như máy móc, xây dựng nhà xưởng … nhằm thay thế một phần tài sản đã hao
mòn để nâng cao năng lực sản xuất của doanh nghiệp.
Tóm lại Đầu tư là việc sử dụng phối hợp các nguồn lực vào các hoạt động
nào đó nhằm đem lại lợi ích hoặc mục tiêu, mục đích của chủ đầu tư.
1.2. Phân loại
Có nhiều cách để phân loại đầu tư theo các tiêu chí khác nhau
Theo đối tượng đầu tư, theo chủ thể đầu tư, theo nguồn vốn đầu tư….Trong
phạm vi nghiên cứu của đề tài này chúng ta sẽ phân loại thành:
- Đầu tư phát triển : là đầu tư không chỉ trực tiếp làm tăng tài sản của người
chủ đầu tư mà cả của nền kinh tế là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chi dùng
vốn trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra
những tài sản vật chất (nhà xưởng thiết bị…) và tài sản trí tuệ (tri thức, kỹ
năng…), gia tăng năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm vì mục tiêu phát triển.

- Đầu tư tài chính: là đầu tư chỉ trực tiếp làm tăng tài sản chính của người
đầu tư, tác động gián tiếp đến làm tăng tài sản của nền kinh tế thông qua sự đóng
góp tài chính tích lũy của các hoạt động đầu tư này cho đầu tư phát triển, cung
cấp vốn cho hoạt động đầu tư phát triển và thúc đẩy quá trình lưu thông phân
phối các sản phẩm do các kết quả của đầu tư phát triển tạo ra.

Lớp Kinh tế đầu tư 48B
2
Đề án kinh tế đầu tư Nhóm 3
2. Tăng trưởng và phát triển kinh tế
2.1. Khái niệm
2.1.1. Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một
khoảng thời gian nhất định (thường là một năm). Sự gia tăng thể hiện ở quy mô
và tốc độ. Quy mô tăng trưởng phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít, còn tốc độ
tăng trưởng được sử dụng với ý nghĩa so sánh tương đối và phản ánh sự gia tăng
nhanh hay chậm giữa các thời kì. Như vậy, bản chất của tăng trưởng là phản ánh
sự thay đổi về lượng của nền kinh tế.
2.1.2. Phát triển kinh tế
Hiện nay mọi quốc gia đều phấn đấu vì mục tiêu phát triển và trải qua thời gian,
khái niệm về phát triển cũng đã đi đến thống nhất. Phát triển kinh tế được hiểu là quá
trình biến đổi cả về lượng và chất,nó là sự kết hợp chặt chẽ quá trình hoàn thiện của
hai vấn đề kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia. Theo cách hiểu như vậy, phát triển phải
là một quá trình lâu dài và do các nhân tố nội tại của nền kinh tế quyết định. Nội
dung của phát triển kinh tế được khái quát theo ba tiêu thức:
Một là, sự gia tăng tổng mức thu nhập của nền kinh tế và mức gia tăng thu
nhập bình quân trên đầu người.
Hai là, sự biến đổi theo đúng xu thế của cơ cấu kinh tế
Ba là, sự biến đổi ngày càng tốt hơn trong các vấn đề xã hội.
2.2. Mối quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển

Nói đến tăng trưởng kinh tế người ta thường liên tưởng đến việc gia tăng về
số lượng các chỉ tiêu kinh tế. Chẳng hạn như các chỉ tiêu về GDP, GNP, cán cân
thương mại, sản lượng sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu,...
Còn đề cập đến vấn đề phát triển kinh tế, ngoài các chỉ tiêu về số lượng
người ta còn quan tâm đến các chỉ tiêu về chất lượng như: công bằng xã hội,
khoảng cách giàu nghèo, trình độ dân trí, dịch vụ công ích,...
Tăng trưởng kinh tế chưa chắc đã là phát triển kinh tế. Ngược lại phát triển
kinh tế là đã bao hàm cả tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế là ngoại diện.
Còn phát triển kinh tế là nội hàm. Chỉ khi tăng trưởng kinh tế tích lũy được đến
một lượng nhất định sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất khi đó người ta xem như là
phát triển kinh tế. Điều này tuân theo quy luật vận động của sự phát triển. Phát
triển kinh tế là hình thức cao hơn của tăng trưởng kinh tế.
Lớp Kinh tế đầu tư 48B
3
Đề án kinh tế đầu tư Nhóm 3
Tăng trưởng chỉ đơn thuần là tăng về lượng (GDP; GNP; FDI.....)
Còn phát triển kinh tế là tăng trưởng kinh tế đi đôi với tăng trưởng xã
hội....hay nói cách khác là tăng cả chất và lượng.
Phát triển nhanh phải đi đôi với phát triển bền vững, hai mặt tác động lẫn
nhau, tăng trưởng được thể hiện ở cả tầm vĩ mô và vi mô, ở cả tầm ngắn hạn và
dài hạn. Về số lượng phải đi liền với nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh
tranh của nền kinh tế. Trong khi khai thác các yếu tố phát triển theo chiều rộng,
phải đặc biệt coi trọng các yếu tố phát triển theo chiều sâu. Phải gắn tăng trưởng
kinh tế với phát triển văn hoá, phát triển toàn diện con người, thực hiện dân chủ,
tiến bộ và công bằng xã hội, tạo nhiều việc làm, cải thiện đời sống, khuyến
khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói, giảm nghèo. Từng bước thu hẹp
khoảng cách phát triển giữa các vùng. Phải rất coi trọng bảo vệ và cải thiện môi
trường ngay trong từng bước phát triển, không gây ô nhiễm và huỷ hoại môi
trường. Phát triển kinh tế phải đi đôi với việc bảo đảm ổn định chính trị - xã hội;
ổn định chính trị - xã hội là tiền đề, điều kiện để phát triển nhanh và bền vững.

II. MỐI QUAN HỆ QUA LẠI GIỮA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG TRƯỞNG
& PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1. Tác động của đầu tư đến tăng trưởng & phát triển kinh tế
1.1. Đầu tư phát triển tác động đến tổng cung của nền kinh tế
1.1.1. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của trường phái cổ điển:
Các yếu tố cấu thành tổng cung của nền kinh tế: Theo Ricardo (1772-1823)
nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng nhất, từ đó ông cho rằng các yếu tố cơ
bản của tăng trưởng kinh tế là đất đai, lao động và vốn. Trong từng ngành và
phù hợp với trình độ với một trình độ kỹ thuật nhất định các yếu tố này kết hợp
với nhau theo một tỷ lệ nhất định, không thay đổi. Trong ba yếu tố này đất đai là
yếu tố quan trọng nhất.
Sự giới hạn tăng tổng cung của nền kinh tế: do đất đai là yếu tố quan trọng
nhất nhưng chính đất đai mới là giới hạn của tăng trưởng. Khi sản xuất nông
nghiệp ra tăng trên những đất đai màu mỡ hơn giá lương thực thực phẩm sẽ tăng
lên. Do đó tiền lương danh nghĩa của công nhân cũng tăng lên tương ứng, lợi
nhuận của nhà tư bản có xu hướng giảm. Nếu cứ tiếp tục như vậy cho đến khi
lợi nhuận hạ thấp, không thể bù đắp được rủi ro trong kinh doanh làm cho nền
kinh tế trở nên bế tắc.
Lớp Kinh tế đầu tư 48B
4
Đề án kinh tế đầu tư Nhóm 3
Đầu tư làm giảm sự giới hạn đó: Ricardo cho rằng muốn hạn chế giới hạn
đó thì chỉ có cách xuất khẩu hàng công nghiệp để mua lương thực rẻ hơn từ
nước ngoài, hoặc phát triển công nghiệp để rồi tác động vào nông nghiệp. Muốn
vậy, chúng ta phải đầu tư sang lĩnh vực công nghiệp để thúc đẩy tăng trưởng
ngành công nghiệp. Điều này thể hiện vai trò của đầu tư trong việc tăng trưởng
ngành nông nghiệp dẫn đến làm giảm sự giới hạn tăng trưởng chung.
Hạn chế của lý thuyết: các nhà kinh tế cổ điển cho rằng thị trường tự do
được một bàn tay vô hình dẫn dắt để gắn lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội. Thị
trường với sự linh hoạt của giá cả và tiền công có khả năng tự điều chỉnh những

mất cân đối của nền kinh tế để xác lập những cân đối mới. Như vậy Ricardo
chưa thấy vai trò của chính phủ cũng như các chính sách đầu tư phát triển của
nhà nước. Theo ông chính phủ không có vai trò gì trong tăng trưởng kinh tế
thậm chí hạn chế sự tăng trưởng.
1.1.2. Quan điểm tăng trưởng kinh tế của Marx (1818-1883):
Các yếu tố của quá trình tái sản xuất: Theo ông có bốn yếu tố tác động đến
quá trình tái sản xuất là: đất đai, lao động, vốn và tiến bộ khoa học kỹ thuật. Ông
đặc biệt quan tâm đến vai trò của lao động trong việc tạo ra giá trị thặng dư.
Sự cần thiết phải tích lũy tư liệu sản xuất cho tái sản xuất: Theo Mark, giữa
cung và cầu của thị trường luôn có một khoảng cách. Để giải quyết vấn đề này
cần phải có tích lũy sản xuất, tích lũy hàng hóa. Đây cũng là hoạt động đầu tư
hàng tồn trữ. Cũng theo ông, sau khi trải qua giai đoạn khủng hoảng có chu kỳ,
để tiếp tục phát triển, các nhà tư bản phải tiến hành đổi mới tư bản cố định với
quy mô lớn làm cho nền kinh tế tiến đến phục hồi, hưng thịnh. Để đổi mới được
tư bản cố định, các nhà tư bản cũng nhất thiết cần có hoạt động đầu tư đổi mới
công nghệ.
1.1.3. Lý thuyết tăng trưởng của trường phái tân cổ điển:
Các yếu tố cấu thành nền kinh tế: Các nhà kinh tế cổ điển đã giải thích
nguồn gốc sự tăng trưởng thông qua hàm sản xuất:
Y = f (K, L, R,T)
Trong đó Y- đầu ra; K: vốn sản xuất; L - lao động; R- tài nguyên; T- khoa
học công nghệ.
Yếu tố vốn qua hàm sản xuất Cobb-Douglas:
g = T + aK + bL + cR
Lớp Kinh tế đầu tư 48B
5
Đề án kinh tế đầu tư Nhóm 3
Trong đó:
g : tốc độ tăng trưởng;
a, b, c : tốc độ tăng trưởng của vốn, lao động, tài nguyên

Qua đó ta thấy sự tăng trưởng của các yếu tố vốn cũng như đầu tư tác động
đến sự tăng trưởng.
Hạn chế lý thuyết: Trường phái này cũng không thấy được vai trò của
chính phủ trong sự tăng trưởng kinh tế. Vai trò của chính phủ là mờ nhạt trong
phát triển kinh tế.
1.1.4. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của trường phái Keynes:
Keynes đã rất coi trọng đầu tư trong tăng trưởng kinh tế. Dựa vào tư tưởng
này của Keynes, vào những năm 40, hai nhà kinh tế học Harrod ở Anh và
Domar ở Mỹ đã đưa ra mô hình mối quan hệ giữa vốn với tăng trưởng.
Mô hình tăng trưởng của Harrod –Domar mà xuất phát điểm là đầu tư, thể
hiện mối quan hệ giữa đầu tư và sự gia tăng tổng sản phẩm bằng phương trình:
I = K.ΔP và I = S
Đẳng thức trên chính là điều kiện để đảm bảo cho sự tăng trưởng của tổng
sản phẩm.
Trong đó: I : toàn bộ nguồn vốn cung ứng cho đầu tư.
S : Vốn tiết kiệm hay phần tích luỹ trong tổng sản phẩm
ΔP : Phần tăng tổng sản phẩm do đầu tư mang lại
K: Hệ số đảm bảo sự cân bằng của nền kinh tế khi có tăng trưởng
K = I/ΔP
Hệ số k nói lên rằng cần phải đầu tư bao nhiêu đồng để tăng thêm được một
đồng tổng sản phẩm
Đặt s = S/P và p = Δ P/P do I = S
Đẳng thức trên có thể được viết lại dưới dạng khác là:
K = s/p Và p = s/K
Trong đó: S : tỷ trọng của tích luỹ trong tổng sảnphẩm
P : tốc độ tăng trưởng sản phẩm
Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm phụ thuộc vào tỷ trọng tích luỹ trong
tổng sản phẩm (s) và hệ số k.
Hệ số k là chỉ số thể hiện mối quan hệ giữa vốn đầu tư và sự gia tăng tổng
sản phẩm và thường được gọi là chỉ số ICOR hay chỉ số tư bản-đầu ra. Chỉ số

Lớp Kinh tế đầu tư 48B
6
Đề án kinh tế đầu tư Nhóm 3
ICOR thấp biểu hiện tình trạng đầu tư nghèo nàn. Chỉ số ICOR quá cao thể hiện
sự lãng phí vốn đầu tư.
Phương trình này có ý nghĩa quan trọng trong công tác xây dựng kế hoạch.
Nếu xác định được chỉ số k thì vấn đề còn lại của công tác xây dựng kế hoạch
đơn giản chỉ là việc hoặc là ấn định tốc độ tăng trưởng để xác định nguồn vốn
đầu tư cần có là bao nhiêu hoặc là từ nguồn vốn đầu tư có thể quy lại việc xác
định tỷ lệ tăng trưởng có thể đạt là bao nhiêu.
Mô hình Harrod–Domar có ý nghĩa quan trọng trong thời kỳ đầu của các
giai đoạn phát triển của bất kỳ một quốc gia nào. Quan điểm chủ yếu của mô
hình này là nhấn mạnh đến vai trò của yếu tố vốn-vốn là vấn đề chủ yếu nhất để
tăng trưởng kinh tế. Các tổ chức tài chính quốc tế như Ngân hàng thế giới, Quỹ
tiền tệ quốc tế… cũng dựa vào mô hình này để nhấn mạnh vai trò của viện trợ
trong việc bù đắp các chênh lệch về vốn và trao đổi ngoại thương.
Nhược điểm của mô hình Harrod-Domar:
Mô hình đơn giản trên được sử dụng nhiều trong thực tế vì quá đơn giản
nên tất cả vấn đề quy lại ở chỉ số ICOR, trong khi tăng trưởng là kết quả của rất
nhiều yếu tố như lao động, tay nghề, kỹ thuật,….mà mô hình này không đề cập
đến. Tóm lại,nhược điểm của mô hình Harrod-Domar là chỉ quan tâm đến vốn
mà bỏ qua vai trò của lao động, vai trò của kỹ thuật công nghệ và vai trò của
chính sách.
1.1.5. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của trường phái kinh tế hiện đại:
Trường phái kinh tế học hiện đại đã xây dựng một lý thuyết kinh tế hỗn
hợp trong đó thị trường trực tiếp xác định những vấn đề cơ bản của tổ chức kinh
tế nhà nước tham gia điều tiết có mức độ nhằm hạn chế những mặt tiêu cực của
thị trường. Thực chất nền kinh tế hỗn hợp là sự gần nhau của học thuyết kinh tế
Tân cổ điển và học thuyết của trường phái Keynes.
Lý thuyết hiện đại cũng thống nhất với mô hình kinh tế Tân cổ điển về xác

định các yếu tố tác động đến tổng cung nền kinh tế: lao động, vốn, đất đai, tài
nguyên, khoa học. Y = f (K, L, R, T). Tuy nhiên, Samuelson cho rằng tầm quan
trọng của các yếu tố là như nhau. Như vậy, trường phái hiện đại cũng cho rằng
vốn là một trong những yếu tố làm tăng trưởng kinh tế.
Yếu tố vốn qua hàm sản xuất Cobb-Douglas:
g = t + aK + bL + cR
Lớp Kinh tế đầu tư 48B
7
Đề án kinh tế đầu tư Nhóm 3
Trong đó:
g : tốc độ tăng trưởng
a, b, c : tốc độ tăng trưởng của vốn, lao động, tài nguyên
Như vậy tăng vốn đầu tư sẽ dẫn đến tăng trưởng kinh tế và khi kinh tế tăng
thì lại tăng quy mô vốn đầu tư.
Dựa vào mô hình Harrod Domar: g = s/k với k là hệ số ICOR chỉ ra được
quan hệ của vốn đầu tư đối với vốn sản xuất và tăng trưởng kinh tế.
1.2. Đầu tư phát triển tác động đến tổng cầu của nền kinh tế
1.2.1. Kích cầu trong tăng trưởng kinh tế:
Các học thuyết kinh tế trước trường phái Keynes thường chủ yếu quan tâm
đến yếu tố cung và đồng nhất sự tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên vào những năm
30 của thế kỷ 20 khủng hoảng kinh tế thất nghiệp diễn ra thường xuyên và lý
thuyết của trường phái Keynes đã ra đời đánh dấu sự phát triển mới về kinh tế.
Lý thuyết này nhấn mạnh đến yếu tố cầu và coi tổng cầu là nguyên nhân của sự
tăng trưởng cũng như suy thái kinh tế.
Cầu tiêu dùng dẫn giảm dẫn đến hàng hóa ế thừa, kinh tế trì trệ: Theo ông
khi mức thu nhập tăng lên thì xu hướng tiêu dùng giảm đi còn xu hướng tiết
kiệm trung bình tăng lên, do đó xu hướng tiết kiệm cận biên sẽ tăng lên. Việc
giảm xu hướng tiêu dùng sẽ dẫn đến tiêu dùng giảm xuống. Cầu giảm dẫn đến
hàng hóa ế thừa không bán được. Các nhà sản xuất bi quan về nền kinh tế sẽ thu
hẹp quy mô sản xuất hoặc nếu không sẽ bị phá sản. Chính những điều này dẫn

đến hiện tượng thiết nghiệp xảy ra, tệ nạn xã hội bùng phát. Theo Keynes, sự sụt
giảm đầu tư chính là nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế xã hội ở các nước tư
bản vào những năm 30.
Cũng theo Keynes tổng cầu tăng sẽ kích thích tổng cung tăng và tạo ra nền
kinh tế đạt tới một sự cân bằng mới ở mức sản lượng cao hơn mức sản lượng cũ
từ đó kinh tế sẽ tăng trưởng.
1.2.2. Quan điểm của Keynes về đầu tư với tổng cầu:
Số nhân đầu tư phản ánh vai trò của đầu tư đối với sản lượng. Nó thấy sản
lượng tăng bao nhiêu khi đầu tư tăng một đơn vị.
Công thức: k =
I
Y


(1)
Trong đó: ∆Y là mức gia tăng sản lượng
Lớp Kinh tế đầu tư 48B
8
Đề án kinh tế đầu tư Nhóm 3
∆I là mức gia tăng đầu tư
k là số nhân đầu tư
Từ công thức (1) ta có: ∆Y= k. ∆I
Như vậy, việc gia tăng đầu tư có tác dụng khuyếch đại sản lượng lên số
nhân lần. Trong công thức trên k là số dương lớn hơn 1.
Vì I = S có thể biến đổi công thức (1) thành:
k =
I
Y



=
S
Y


=
CY
Y
∆−∆

=
Y
C


−1
1
=
MPC−1
1
=
MPS−1
1
Trong đó : MPC : khuynh hướng tiêu dùng biên
MPS : khuynh hướng tiết kiệm biên
Nếu MPC càng lớn thì k càng lớn, do đó độ khuyếch đại của sản lượng
càng lớn. sản lượng càng tăng, công ăn việc làm càng gia tăng.
Thực tế, việc gia tăng đầu tư dẫn đến gia tăng cầu về các yếu tố tư liệu sản
xuất (máy móc thiết bị, nguyên vật liêu…) và qui mô lao động. Sự kết hợp hai
yếu tố này làm cho sản xuất phát triển, kết quả là gia tăng sản lượng nền kinh tế.

Mô hình số nhân phản ánh mối quan hệ giữa thu nhập với tăng đầu tư.
Theo ông, mỗi sự gia tăng về đầu tư đều kéo theo sự gia tăng về nhu cầu bổ
sung công nhân, nâng cao về tư liệu sản xuất. Do vậy làm tăng tiêu dùng, tăng
giá bán hàng, làm tăng việc làm làm cho công nhân và tất cả đều có thu nhập.
Tóm lại đầu tư làm tăng tổng cầu kéo theo sự tăng lên thu nhập và tăng
trưởng kinh tế nói chung.
1.3. Tác động của đầu tư phát triển đến tăng trưởng kinh tế
Đầu tư vừa tác động đến tốc độ tăng trưởng vừa tác động đến chất lượng tăng
trưởng. Tăng quy mô vốn đầu tư và sử dụng vốn đầu tư hợp lí là những nhân tố rất
quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư, tăng năng suất nhân tố tổng hợp, tác
động đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH, nâng cao sức
cạnh tranh của nền kinh tế... Do đó nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế.
Biểu hiện tập trung của mối quan hệ giữa đầu tư phát triển với tăng trưởng kinh tế
thể hiện ở công thức tính hệ số ICOR (Incermental Capital Output Ratio- tỉ số gia tăng
của vốn so với sản lượng) là tỉ số giữa quy mô đầu tư tăng them với mức gia tăng sản
lượng, hay suất đầu tư cần thiết để tạo ra một đơn vị sản lượng (GDP) tăng thêm
Hệ số ICOR được tính:
Lớp Kinh tế đầu tư 48B
9
Đề án kinh tế đầu tư Nhóm 3
ICOR = (tỉ lệ vốn đầu tư/GDP) / (tốc độ tăng trưởng kinh tế)
Hệ số ICOR của nền kinh tế cao hay thấp chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố:
Thứ nhất do thay đổi cơ cấu đầu tư ngành
Thứ hai sự phát triển của khoa học công nghệ
Thứ ba do thay đổi cơ chế chính sách và phương pháp quản lý
1.3.1. Đầu tư phát triển tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế là cơ cấu tổng thể các yếu tố cấu thành nền kinh tế, có quan
hệ chặt chẽ với nhau, được biểu hiện cả về mặt chất và mặt lượng, tùy theo mục
tiêu của nền kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế được hiểu là sự thay đổi tỷ
trọng của các bộ phận cấu thành nền kinh tế. Sự chuyển dịch kinh tế xảy ra khi

có sự phát triển không đồng đều về quy mô tốc độ giữa các ngành, vùng. Những
cơ cấu kinh tế chủ yếu trong nền kinh tế quốc dân bao gồm kinh tế ngành, lãnh
thổ, theo thành phần kinh tế.
Đầu tư góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp quy luật và chiến
lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia trong từng thời kỳ, tạo ra sự cân đối
trên phạm vi nền kinh tế quốc dân và giữa các ngành, vùng, phát huy nội lực của
nền kinh tế, trong khi vẫn coi trọng yếu tố ngoại lực. Đối với cơ cấu ngành, vốn
đầu tư vào ngành nào, quy mô vốn đầu tư từng ngành nhiều hay ít, việc sử dụng
vốn hiệu quả thấp hay cao… đều ảnh hưởng đến tốc độ phát triển, đến khả năng
tăng cường cơ sở vật chất của từng ngành, tạo tiền đề vật chất để phát triển các
ngành mới… do đó, làm dịch chuyển cơ cấu kinh tế ngành. Đối với cơ cấu lãnh
thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất mát cân đối về phát triển giữa các
vũng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo,
phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị…
của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những
vùng khác cùng phát triển.
1.3.2.Tác động của đầu tư phát triển đến khoa học công nghệ
Đầu tư là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết định đổi mới và
phát triển khoa học, công nghệ của một doanh nghiệp và quốc gia. Công nghệ
bao gồm các yếu tố cơ bản: phần cứng (máy móc thiết bị), phần mềm (các văn
bản, tài liệu. các bí quyết…), các yếu tố con người (các kỹ năng quản lý, kinh
nghiệm), yếu tố tổ chức… Muốn có công nghệ cần phải đầu tư vào các yếu tố
cấu thành.
Lớp Kinh tế đầu tư 48B
10
Đề án kinh tế đầu tư Nhóm 3
Trong mỗi thời kỳ các nước có bước đi khác nhau để đầu tư phát triển công
nghệ. Ban đầu sử dụng các lọai công nghệ sử dụng nhiều lao động và nguyên
liệu sau đó giảm dần thông qua việc tăng dần hàm lượng đầu tư vào công nghệ.
Đến giai đoạn phát triển, xu hướng đầu tư mạnh vốn thiết bị và gia tăng hàm

lượng tri thức chiếm ưu thế tuyệt đối. Tuy nhiên quá trình chuyển từ giai đoạn
một sang giai đoạn ba là quá trình chuyển từ đầu tư ít sang đầu tư lớn, thay đổi
cơ cấu đầu tư. Không có vốn đầu tư đủ lớn sẽ không đảm bảo sự thành công của
quá trình chuyển đổi và sự phát triển của khoa học công nghệ.
Công nghệ là do doanh nghiệp nhập khẩu từ bên ngoài hoặc do tự nghiên
cứu và ứng dụng. Công nghệ được nhập khẩu qua nhiều đường như mua thiết bị,
linh kiện rồi lắp đặt, mua bằng chế, thực hiện liên doanh… Công nghệ do tự
nghiên cứu và triển khai được thực hiện qua nhiều giai đoạn và từ nghiên cứu
đến thí nghiệm sản xuất thử sản xuất thường mất nhiều thời gian rủi ro cao. Dù
vậy nhập hay tự nghiên cứu để có công nghệ đều đòi lượng vốn đầu tư lớn. mỗi
doanh nghiệp, mỗi nước khác nhau cần có bước đi phù hợp để lựa chọn công
nghệ thích hợp. Trên cơ sở đó đầu tư có hiệu quả để phát huy lợi thế so sánh của
từng đơn vị cũng như toàn ngành kinh tế quốc dân.
1.3.3. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực nâng cao chất lượng tăng
trưởng kinh tế
Nguồn nhân lực có vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội của
đất nước. Nhân lực là yếu tố đầu vào của bất kì quá trình sản xuất cũng như mọi
hoạt động của nền kinh tế. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực để nâng cao năng
suất lao động sẽ có tác động trực tiếp tới việc nâng cao chất lượng tăng trưởng.
Đầu tư phát triển nguồn nhân lực bao gồm những nội dung cơ bản sau: đầu tư
cho hoạt động đào tạo (chính quy, không chính quy, dài hạn, ngắn hạn, bồi
dưỡng nghiệp vụ…) đội ngũ lao động; đầu tư cho công tác chăm sóc sức khỏe y
tế, đầu tư cải thiện môi trường, điều kiện làm việc cho người lao động…
Kết quả của đầu tư phát triển nhân lực không phải sự tăng lên ngay về tài sản
cố định mà là sự tăng lên về tài sản trí tuệ và tài sản sức khỏe. Các kết quả đạt
được đó góp phần làm tăng thêm năng lực sản xuất xã hội, rồi qua đó người lao
động sẽ tác động người lại các tài sản cố định khác làm chúng tăng lên. Qua đó,
chất lượng tăng trưởng kinh tế ngày càng được cải thiện.
2. Tác động ngược lại của tăng trưởng và phát triển đến đầu tư
Lớp Kinh tế đầu tư 48B

11
Đề án kinh tế đầu tư Nhóm 3
2.1. Tăng trưởng&phát triển kinh tế góp phần cải thiện môi trường đầu tư
Môi trường đầu tư phải được hệ thống pháp luật và chính sách của nhà
nước đảm bảo. Hệ thống pháp luật trước hết là luật đầu tư công bằng, hợp lý và
được đảm bảo thực thi trong thực tiễn đối với mọi thành phần kinh tế. tạo dựng
một nền kinh tế thị trường, với những quy luật vốn có phát huy tác dụng tích cực
của cơ chế thj trường. nhờ đó các nguồn vốn đầu tư được huy động, phân bổ sử
dụng có hiệu quả. Vấn đề này trực tiếp liên quan đến việc hình thành đồng bộ
các yếu tố thị trường (trong đó có thị trường tài chính), đến quá trình chuyển đổi
cơ chế quản lý nền kinh tế, đến việc hoàn thiện hệ thống chính sách và khuôn
khổ pháp lý đảm bảo cho hoạt động nền kinh tế.
2.2. Tăng trưởng và phát triển kinh tế làm tăng tỷ lệ tích luỹ, cung cấp thêm vốn
cho đầu tư:
Vấn đề tăng trưởng ở đây được nhìn nhận như một yếu tố tạo sự hấp dẫn
ngày càng lớn đối với vốn đầu tư cả trong nước và nước ngoài. Vấn đề này liên
quan đến một nguyên tắc mang tính chủ đạo trong việc thu hút vốn đầu tư: Vốn
được sử dụng càng hiệu quả thì khả năng thu hút vốn càng lớn. Thực chất của
mối quan hệ này nằm trong mối quan hệ nhân quả của các sự vật. Thứ nhất với
năng lực tăng trưởng được đảm bảo, năng lực tích lũy của nền kinh tế có khả
năng gia tăng. Khi đó quy mô nguồn vốn trong nước có thể huy động sẽ được
cải thiện. Thứ hai triển vọng tăng trưởng và phát triển càng cao cũng là tín hiệu
tốt thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Từ đó dẫn đến tích lũy được nhiều
vốn cung cấp cho hoạt động đầu tư.
2.3. Tăng trưởng kinh tế góp phần xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, năng lực
công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư phát triển
Trong mô hình tiến bộ công nghệ của Solow: Tiến bộ công nghệ ở đây
được hiểu là bất kỳ biện pháp nào cho phép tạo ra nhiều sản lượng hơn. Nên có
thể thấy ở đây phát triển sẽ làm cho khoa học phát triển.
Chính phủ sẽ có các chính sách nhằm khuyến khích tiến bộ công nghệ như

bao gồm miễn thuế cho hoạt động nghiên cứu và triển khai, có thể chính phủ sẽ
trực tiếp cung cấp vốn cho các nghiên cứu cơ bản.
CHƯƠNG II :
Lớp Kinh tế đầu tư 48B
12
Đề án kinh tế đầu tư Nhóm 3
THỰC TRẠNG VỀ MỐI QUAN HỆ QUA LẠI GIỮA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG
TRƯỞNG & PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN
TỪ NĂM 2001 - 2007
I. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ VÀ TÌNH HÌNH TĂNG
TRƯỞNG & PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001 - 2007
1. Tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư
Thực hiện vốn đầu tư xã hội năm 2007 theo giá thực tế ước đạt 521 nghìn tỷ
VNĐ, tương đương với 45,6 % GDP. Theo giá so sánh năm 1994, vốn đầu tư xã hội
năm 2007 tăng khoảng 25,8 %, tăng lên rất nhiều so với mức 13,7 % của năm 2006.
Trong ba thành phần kinh tế, vốn đầu tư của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng
nhanh nhất, khoảng 93,2 %, cao gấp gần 7,8 lần mức tăng của vốn nhà nước. Khu vực
ngoài quốc doanh cũng có mức tăng trưởng cao 19,7 % . Vốn đầu tư nhà nước chỉ tăng
12,4 %, do đó, tỷ trọng của khu vực này giảm nhanh hơn so với năm 2006. (Bảng 1)
Bảng 1 : Vốn đầu tư thực hiện theo giá thực tế phân theo thành phần kinh tế
Đơn vị: Nghìn tỷ đồng
Năm Tống số
Chia ra
Kinh tế
nhà nước
Kinh tế
ngoài
nhà nước
Khu vực
có vốn

đầu tư
nước
ngoài
Tổng
vốn đầu
tư so với
tổng sản
phẩm
trong
nước(%)
2001 170,5 102,0 38,5 30,0 35,4
2002 200,1 114,7 50,6 34,8 37,4
2003 239,,3 126,6 74,4 38,3 39,0
2004 290,8 139,8 109,8 41,2 40,7
2005 343,1 161,6 130,4 51,1 40,9
2006 404,7 185,1 154,0 65,6 41,5
2007 521,7 208,1 184,3 129,3 45,6
Nguồn : Niên giám thống kê 2007
Đầu tư trong nước
Tuy vẫn là nguồn vốn quan trọng nhất của nền kinh tế, nhưng tỷ trọng vốn đầu tư
khu vực nhà nước có xu hướng giảm dần từ 59,8 % năm 2001 xuống 39,9 % năm 2007.
Đây là tín hiệu tích cực đối với nền kinh tế thị trường đang hình thành, phần nào phản
ánh môi trường đầu tư đã và đang được cải thiện. Tổng vốn đầu tư nhà nước ước đạt
Lớp Kinh tế đầu tư 48B
13
Đề án kinh tế đầu tư Nhóm 3
208,1 nghìn tỷ VNĐ, trong đó vốn NSNN là khoảng 106,2 nghìn tỷ VNĐ, thực hiện
vốn tín dụng là 41 nghìn tỷ VNĐ, vốn của DNNN và vốn huy động khác là 61,9 nghìn
tỷ VNĐ. Nguồn vốn đầu tư nhà nước đã có vai trò quan trọng trong việc cải thiện kết
cấu hạ tầng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, góp phần thúc đẩy tăng trưởng, và

giảm đói nghèo.
Đầu tư của khu vực ngoài quốc doanh là nguồn đầu tư lớn thứ hai kể từ năm 1998.
Năm 2007, vốn của khu vực ngoài quốc doanh tăng vọt và đạt 184,3 nghìn tỷ VN. Đầu
tư của khu vực ngoài quốc doanh đã và đang chứng tỏ vai trò ngày càng quan trọng và
tiềm năng to lớn của khu vực này trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Đầu tư nước ngoài
Thu hút vốn ODA có chuyển biến tích cực. Tại hội nghị CG tổ chức vào đầu
tháng 12/2007 tại Hà Nội, các nhà tài trợ đã cam kết tiếp tục hỗ trợ Việt Nam 5,4 tỷ
USD, cao hơn năm 2006. Giải ngân ODA cả năm 2007 ước đạt 1.932 triệu USD, tăng
2% so với kế hoạch, trong đó vốn vay đạt 1.675 triệu USD, viện trợ 257 triệu USD.
Khu vực FDI tiếp tục khẳng định vai trò của mình trong tiến trình phát triển của
Việt Nam và thực sự trở thành bộ phận cấu thành khăng khít của nền kinh tế Việt Nam.
Năm 2007, dòng vốn FDI vào Việt Nam tiếp tục đà tăng trưởng của năm 2006. Có
1544 lượt dự án được cấp giấy phép trong năm 2007, với tổng số vốn FDI đăng ký đạt
21,3 tỷ USD, tổng vốn thực hiện đạt hơn 8 tỷ USD, chiếm 24,8 % tổng vốn đầu tư xã
hội. Trong đó, đầu tư cho lĩnh vực công nghiệp chiếm 54,9%, tiếp theo là lĩnh vực dịch
vụ chiếm 44,5%, số còn lại thuộc lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp.
Trong năm 2007 có 55 quốc gia vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam, trong đó Hàn
Quốc tiếp tục giữ vị trí đứng đầu với số vốn đăng ký (cấp mới và tăng vốn) 5,3 tỷ USD,
chiếm 25,2% về tổng số vốn đăng ký. British Virgin Islands đứng thứ 2, chiếm 20,6%.
Singapore đứng thứ 3, chiếm 12,04% ; Đài Loan đứng thứ 4, chiếm 11,6 % ; Nhật Bản
đứng thứ 5, chiếm 6,4%. Tiếp đó là Malaysia (5,5%), Trung Quốc (2,6%), Hoa Kỳ
(1,8%), Thái Lan (1,3%).
Cả nước có 56 địa phương thu hút được dự án đầu tư nước ngoài, trong đó 10 địa
phương đứng đầu là : Hà Nội đứng đầu với số vốn đăng ký 2,5 tỷ USD, chiếm 11,8%
tổng số vốn đầu tư đăng ký, Đồng Nai (11,3%), TP Hồ Chí Minh (10,6%), Bình
Dương (10,5%), Phú Yên (7,9%), Bà Rịa Vũng Tàu (5,2%), Vĩnh Phúc (4,9%), Đà
Nẵng (4,4%), Long An (3,8%), Hậu Giang (2,9%).
2. Tình hình tăng trưởng & phát triển kinh tế Việt Nam từ 2001-2007
Lớp Kinh tế đầu tư 48B

14
Đề án kinh tế đầu tư Nhóm 3
Sau hơn 20 năm thực hiện đổi mới, tốc độ tăng trưởng GDP củaViệt Nam đã tăng
lên liên tục. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986 - 1990), GDP chỉ đạt mức tăng
trưởng bình quân 4,4%/năm, thì trong 5 năm tiếp theo (1991 - 1995), tăng trưởng GDP
bình quân là 8,2%, cao hơn so với kế hoạch đề ra là 5,5% - 6,5%, và thuộc vào loại cao
trong số các nước đang phát triển. Trong giai đoạn 1996 - 2000, tốc độ tăng GDP bình
quân của Việt Nam là 6,9%, tuy có thấp hơn nửa đầu thập niên 90 thế kỷ XX do ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu á, nhưng vẫn vào loại cao trong
khu vực. Năm 2001, tốc độ tăng GDP của Việt Nam là 6,9%, năm 2002: 7%, năm
2003: 7,3%, năm 2004: 7,7%, năm 2005: 7,5%, năm 2006: 8,2% và năm 2007: 8,5%.
So với các nước trong khu vực, Việt Nam đứng vào hàng các quốc gia có tốc độ tăng
trưởng rất cao. Điều đó được thể hiện trong bảng sau:
Bảng 2: GDP theo giá thực tế và theo giá so sánh năm 1994 của Việt Nam
Năm GDP theo giá
thực tế
(nghìn tỷ đồng)
GDP theo giá so sánh năm 1994
Tổng số
(nghìn tỷ đồng)
Tốc độ tăng
trưởng(%)
2001 481,3 292,5 6.89
2002 535,8 313,2 7.08
2003 605,6 336,0 7.26
2004 713,0 361,9 7.7
2005 839,2 393,0 8.4
2006 974,0 425,1 8.17
2007 1143,4 461,2 8.48
Nguồn : Niên giám thống kê 2007

Cùng với tăng trưởng kinh tế cao, chất lượng tăng trưởng kinh tế cũng đang được
cải thiện. Tuy nhiên, theo nhiều đánh giá trong nước và quốc tế, mặc dù Việt Nam đạt
được những kết quả tăng trưởng cao, nhưng đó là những kết quả tăng trưởng theo chiều
rộng chứ chưa có sức bật tăng trưởng theo chiều sâu. Nền kinh tế Việt Nam đang dần
bộc lộ những vấn nạn và yếu kém không thể xem thường. Lạm phát và nhập siêu tăng
vọt, gây ra những quan tâm sâu sắc. Chất lượng cuộc sống nhiều mặt xấu đi, đặt ra câu
hỏi nghiêm túc về chất lượng tăng trưởng và về lợi ích tăng trưởng được phân phối công
bằng hay chưa.
Lớp Kinh tế đầu tư 48B
15
Đề án kinh tế đầu tư Nhóm 3
II. MỐI QUAN HỆ QUA LẠI GIỮA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG TRƯỞNG &
PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM
1. Tác động của đầu tư đến tăng trưởng & phát triển kinh tế
1.1. Tác động của đầu tư đến tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế Việt
Nam
Trong giai đoạn từ năm 2001 đến nay, tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam, khá
cao, năm 2007 đạt 8,5%, là năm thứ 3 liên tiếp tốc độ tăng trưởng kinh tế trên 8%/năm.
Như chúng ta đã biết, đóng góp vào tăng trưởng GDP, xét theo yếu tố đầu vào, có 3
nhóm yếu tố cơ bản: do vốn đầu tư, do lao động và do các nhân tố năng suất tổng hợp.
Chúng ta có xem mức đóng góp của các yếu tố đầu vào cho tăng trưởng kinh tế Việt
Nam qua bảng số liệu sau:
Bảng 3 : Tỷ trọng đóng góp của các yếu tố đầu vào cơ bản cho tăng trưởng
kinh tế Việt Nam
Đơn vị : %
Năm Vốn đầu tư Lao động Năng suất nhân
tố tổng hợp
2000 48,5 21,5 30
2001 49,3 26,9 23,8
2002 48,7 27,3 24

2003 49,6 27,1 23,3
2004 47,2 28,3 24,5
Nguồn : Từ Quang Phương và tập thể tác giả Bộ môn kinh tế đầu tư. Đề tài khoa
học cấp bộ “ Tác động của việc sử dụng vốn đầu tư đến chất lượng
tăng trưởng kinh tế Việt Nam: thực trạng và giải pháp”. 2005
Từ các số liệu trên, chúng ta có thể rút ra một số nhận xét sau:
Một là: Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam dựa chủ yếu vào sự đóng góp của yếu
tố số lượng vốn đầu tư. Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP từ năm 2004 đến nay đều đã vượt
qua mốc 40%. Năm 2004 đạt 40,7%, năm 2005 đạt 40,95, năm 2006 đạt 41,5% và năm
2007 đạt 45,6% (Bảng 1). Đây là tỷ lệ thuộc loại cao nhất thế giới, chỉ sau tỷ lệ trên dưới
44% của Trung Quốc - một tỷ lệ làm cho tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đạt mức
cao nhất thế giới.
Hai là: Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện còn dựa một phần quan trọng vào
yếu tố số lượng lao động, sự quan trọng này được xét trên hai mặt. Một mặt do nguồn
lao động hàng năm vẫn còn tăng khoảng 2%, tức là trên 1 triệu người mỗi năm. Mặt
khác do tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn còn cao.
Lớp Kinh tế đầu tư 48B
16
Đề án kinh tế đầu tư Nhóm 3
Ba là: Sự đóng góp của yếu tố TFP đối với tổng tốc độ tăng trưởng kinh tế còn
nhỏ, chưa được một phần tư, thấp chỉ bằng hai phần ba tỷ trọng đóng góp của yếu tố
này của các nước trong khu vực hiện nay. Điều đó cũng chứng tỏ, nền kinh tế Việt Nam
vẫn đi theo hướng tăng trưởng về số lượng, chưa chuyển mạnh sang phát triển theo
chiều sâu. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư chưa cao: TFP là tổng hợp của các nhân tố hiệu
quả sử dụng vốn đầu tư và năng suất lao động. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư được thể
hiện ở nhiều chỉ tiêu. Gần đây, trên các diễn đàn hội thảo và trên một số phương tiện
thông tin đại chúng, khi đề cập đến hiệu quả đầu tư, các chuyên gia thường dùng hệ số
ICOR.
Theo Tổng cục Thống kê, năm 2007, khối lượng vốn đầu tư toàn xã hội
theo giá thực tế là 521,7 nghìn tỷ đồng, bằng 45,6 % GDP, trong đó khu vực

Nhà nước chiếm 208 nghìn tỷ đồng và phần còn lại của khu vực ngoài Nhà nước
và FDI. Với mức thu hút vốn chiếm 45,6 % GDP, hệ số sử dụng vốn (ICOR) của
Việt Nam năm 2007 khoảng gần 5 (tức là để tăng 1 đơn vị GDP thì cần tăng
thêm 5 đơn vị vốn đầu tư). Hệ số này cao hơn rất nhiều so với của Trung Quốc
cách đây 10 năm (ICOR Trung Quốc giai đoạn 1991-1993 là 4,1). Với cùng với
tỷ lệ đầu tư so với GDP tương đương với Việt Nam, Trung Quốc đạt được mức
tăng trưởng 9-10%, trong khi Việt Nam chỉ có thể duy trì ở mức khoảng 8%.
Nếu so sánh với các nước Đông Bắc Á khác như Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài
Loan thì hệ số ICOR của Việt Nam còn cao hơn rất nhiều.
Bảng 4: Đầu tư, tăng trưởng và hệ số ICOR của một số nước châu Á
Nước và vùng lãnh
thổ
Đầu tư
(%GDP)
Tăng trưởng GDP
(%)
ICOR
Việt Nam(00-07) 38,0 7,6 5,0
Trung Quốc(91-03) 39,1 9,5 4,1
Đài Loan (81-90) 21,9 8,0 2,7
Hàn Quốc (81-90) 29,6 9,2 3,2
Nhật Bản (61-70) 32,6 10,2 3,2
Nguồn : www.fpts.com

Thông thường, chỉ số ICOR của các nước chỉ 2 - 3/1, chỉ số ICOR Việt Nam xấp xỉ
5 là quá cao và là sự cảnh báo về tăng trưởng thiếu bền vững do sử dụng vốn đầu tư
Lớp Kinh tế đầu tư 48B
17
Đề án kinh tế đầu tư Nhóm 3
chưa hiệu quả . Việc sử dụng vốn đầu tư không hiệu quả ở nước ta hiện nay là do các

nguyên nhân sau:
- Cơ chế phân bổ và sử dụng vốn đầu tư, đăc biệt vốn đầu tư công bằng nguồn vốn
ngân sách nhà nước còn chưa hợp lý.
- Thất thoát lãng phí trong việc sử dụng vốn đầu tư
Quan hệ giữa ICOR và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam trong thời gian qua được thể
hiện trong hình dưới đây:
0
2
4
6
8
10
12
1986 1987 1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004
Năm
Tốc độ tăng trưởng và ICOR
Tốc độ tăng trưởng
Hệ số Icor
1.2. Tác động của việc sử dụng vốn đầu tư đến chất lượng tăng trưởng kinh
tế thông qua việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Có thể đánh giá tác động của việc sử dụng vốn đầu tư trên một số góc độ sau:
Đầu tư với chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
* Tích cực
- Đầu tư cho công nghiệp gia tăng & chiếm tỷ trọng lớn
- Ưu tiên đầu tư cho một số ngành sản xuất cơ bản tạo thế và đà cho sự phát tăng
trưởng kinh tế
Lớp Kinh tế đầu tư 48B
18

×