Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Nâng cao hiệu quả quản lý thanh khoản trong các ngân hàng thương mại(NHTM)của Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.49 KB, 35 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
KH Khách hàng
NH Ngân hàng
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTW Ngân hàng trung ương
NHNN Ngân hàng nhà nước
GTCG Giấy tờ có giá
TCTD Tổ chức tín dụng
CNTT Công nghệ thông tin
LỜI MỞ ĐẦU
Một ngân hàng hoạt động không hiệu quả trong nhiều năm tất nhiên thua
lỗ và sớm dẫn đến nguy cơ phá sản.Nhưng không có gì đảm bảo rằng một ngân
hàng đang hoạt động có lãi thậm chí liên tục đạt lợi nhuận cao trong cả quá trình
lâu đời thì không cùng số phận.
Cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ thời gian qua với sự sụp đổ của các
ngân hàng và tập đoàn tài chính khổng lồ đã cho thấy thị trường tài chính luôn
luôn có nguy cơ đối mặt với nhiều rủi ro.Hơn nữa trong tiến trình toàn cầu hóa
nền kinh tế, mức độ cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng thương mại ngày càng
trở nên gay gắt, môi trường kinh doanh tiềm ẩn nhiều rủi ro thì việc giám sát cẩn
trọng hoạt động ngân hàng đang trở nên vô cùng cấp bách.
Các ngân hàng thương mại luôn phải đối mặt với nhiều loại rủi ro khác
nhau.Trong đó loại rủi ro được xem là vấn đề thường nhật đồng thời cũng là một
trong những rủi ro nguy hiểm nhất có tính lây lan và phản ứng dây truyền nhanh
chóng và rộng khắp khiến ngân hàng không có đủ nguồn vốn khả dụng để đáp
ứng khả năng chi trả, có thể làm ngân hàng mất khả năng thanh toán, uy tín và
thậm chí dẫn đến sự đổ vỡ của toàn hệ thống đó là rủi ro thanh khoản. Ngân
hàng có khả năng thanh khoản tốt là ngân hàng không gặp rủi ro thanh khoản
nghĩa là luôn có được nguồn vốn khả dụng với chi phí hợp lý vào đúng thời
điểm mà ngân hàng cần. Tuy nhiên nếu ngân hàng luôn có lượng vốn dữ trữ lớn


thì sẽ làm giảm khả năng sinh lời và lãng phí nguồn vốn kinh doanh.
Thực tế cho thấy để hoạt động kinh doanh ngân hàng vừa đảm bảo sự an
toàn lại vừa đạt tỷ lệ sinh lời ở mức cao nhất luôn là một trong những bài toán
khó đối với các nhà quản lý ngân hàng.Thực trạng nền kinh tế cuối 2007 đầu
2008 cho thấy vấn đề thanh khoản là vấn đề nóng trong xã hội.Hiện tượng cuối
năm 2007 khan hiếm tiền đồng các Ngân hàng đồng loạt tăng lãi suất cùng với
chính sách thắt chặt tiền tệ kiềm chế lạm phát của NHNN cho thấy NHTM thiếu
hụt thanh khoản, đi vay trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất cao ảnh
hưởng tới các NHTM nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Do đó vấn đề đảm bảo khả năng thanh khoản hợp lý được xem là một
trong những nhiệm vụ vô cùng cần thiết phải được coi trọng một cách thường
xuyên, liên tục và đầy đủ.Chính vì vậy em đã chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp TCDN 47C
1
quản lý thanh khoản trong các ngân hàng thương mại(NHTM)của Việt
Nam hiện nay" làm đề tài nghiên cứu của mình.
Đề tài nghiên cứu toàn bộ lý thuyết chung về quản lý thanh khoản tại
NHTM cùng với thực trạng quản lý thanh khoản trong các ngân hàng thương
mại ở Việt Nam những năm gần đây đồng thời xin được đề suất một số giải
pháp và kiến nghị nhằm mục tiêu nâng cao hiệu quả quản lý thanh khoản trong
các ngân hàng thương mại của Việt Nam trong thời gian tới trước những thách
thức rất lớn đối với ngành ngân hàng của Việt Nam bởi ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu đồng thời xây dựng một môi trường kinh doanh
ổn định cũng như đảm bảo cho hệ thống ngân hàng Việt Nam phát triển an toàn
và bền vững góp phần hội nhập với khu vực và thế giới.Với đối tượng nghiên
cứu là quản lý thanh khoản, phạm vi nghiên cứu là các NHTM ở Việt Nam
2007,2008.
Ngoài mục lục, phần mở đầu và kết luận, đề tài nghiên cứu được chia
thành 3 phần :
Chương I: Tổng quan về quản lý thanh khoản trong các NHTM

Chương II: Thực trạng quản lý thanh khoản trong các NHTM của
Việt Nam hiện nay
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thanh khoản trong
các NHTM của Việt Nam
Do thời gian có hạn với trình độ hiểu biết còn hạn chế nên bài viết khó
tránh khỏi những thiếu sót.Vì vậy em rất mong được sự đóng góp ý kiến của
thầy để đề tài nghiên cứu của em được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn thầy đã hướng dẫn tận tình cho em
trong suốt quá trình nghiên cứu và viết đề án!
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp TCDN 47C
2
Chương I:Tổng quan về quản lý thanh khoản trong các NHTM
1.1.Khái quát về hoạt động thanh khoản tại NHTM
1.1.1.Khái quát về NHTM
NHTM là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền
kinh tế.NHTM là người cho vay chủ yếu đối với hàng triệu hộ tiêu dùng(cá
nhân, hộ gia đình) và với hầu hết cơ quan chính quyền địa phương(thành phố,
tỉnh…).Hơn nữa, đối với các doanh nghiệp nhỏ ở địa phương, từ người bán rau
quả cho tới người kinh doanh ô tô, NHTM là tổ chức cung cấp tín dụng cơ bản
phục vụ cho việc mua hàng hoá dự trữ hoặc mua ô tô trưng bày,...Khi kinh
doanh và người tiêu dùng phải thanh toán cho các khoản mua hàng hóa dịch vụ
họ phải sử dụng séc, thẻ tín dụng hay tài khoản điện tử.Và khi cần các thông tin
tài chính hay cần lập kế hoạch tài chính họ thường tìm đến NHTM để nhận được
lời tư vấn.
Trên toàn thế giới, NHTM là loại hình tổ chức trung gian tài chính cung
cấp các khoản tín dụng trả góp cho người tiêu dùng với quy mô lớn nhất.Trong
mọi thời kỳ, NHTM là một trong những thành viên quan trọng nhất trên thị
trường tín phiếu và trái phiếu do chính quyền địa phương phát hành để tài trợ
cho các công trình công cộng từ những hội trường, sân bóng đá cho đến sân bay
và đường cao tốc.NHTM là một trong những tổ chức tài chính cung cấp vốn lưu

động quan trọng nhất cho các doanh nghiệp.Và trong những năm gần đây,
NHTM đã tăng cường mở rộng cho vay dài hạn đối với các doanh nghiệp để hỗ
trợ việc xây dựng nhà máy mới hay mua sắm máy móc thiết bị mới. Với tất cả
những lý do đó và hơn thế nữa, NHTM là một trong những tổ chức trung gian
tài chính quan trọng nhất của xã hội.Do vậy chúng ta cần phải nghiên cứu và
hiểu một cách thấu đáo về loại hình tổ chức này cũng như hoạt động của chúng.
1.1.2.Hoạt động thanh khoản tại NHTM
1.1.2.1.An toàn thanh khoản và sự cần thiết quản lý thanh khoản
Chức năng cơ bản của hệ thống tài chính là cung cấp thanh khoản.Và
một trong những nhiệm vụ quan trọng mà các nhà quản lý thực hiện là đảm bảo
an toàn thanh khoản cho ngân hàng đồng thời duy trì mức thanh khoản hợp lý
cho ngân hàng.Một ngân hàng được xem là có khả năng thanh khoản tốt nếu như
nó có thể có được những khoản vốn khả dụng với chi phí thấp đúng tại thời
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp TCDN 47C
3
điểm ngân hàng có nhu cầu.Điều này gợi ý rằng, ngân hàng có khả năng thanh
khoản tốt khi ngân hàng có trong tay một lượng vốn khả dụng với quy mô hợp
lý hoặc ngân hàng có thể nhanh chóng huy động vốn thông qua con đường vay
nợ hay bán tài sản.
Khả năng thanh toán không hợp lý là dấu hiệu đầu tiên cho thấy ngân
hàng đang trong tình trạng có vấn đề về tài chính.Lượng tiền gửi của ngân hàng
có vấn đề thường giảm dần, làm giảm nguồn cung ứng tiền và buộc ngân hàng
phải bán dần các tài sản có tính thanh khoản cao.Những ngân hàng khác sẽ
không muốn cho vay đối với ngân hàng có vấn đề nếu như không có sự đảm bảo
bổ sung hay lãi suất không được nâng lên và điều này sẽ làm giảm thu nhập, đe
dọa sự tồn tại của tổ chức ngân hàng.
Rất nhiều ngân hàng cho rằng vốn thanh khoản có thể được vay hầu như
không có giới hạn đúng tại thời điểm cần thiết.Do vậy họ nhận thấy rằng không
cần tích trữ quá nhiều thanh khoản dưới hình thức tài sản dễ bán với giá cả ổn
định.Tình trạng thiếu hụt tiền mặt nghiêm trọng xảy ra trong vài năm gần đây

mà đáng chú ý là tình trạng mất khả năng chi trả dẫn đến phá sản đối với một số
ngân hàng lớn của Mỹ năm 2008 đã cho thấy rằng đảm bảo an toàn thanh khoản
là một yêu cầu không thể xem nhẹ.
Quản lý thanh khoản vì vậy trở nên quan trọng hơn bao giờ hết bởi vì
ngân hàng có thể bị đóng cửa nếu như nó không huy động đủ mức thanh khoản
cần thiết dù rằng ngân hàng chưa mất khả năng thanh toán.Ví dụ vào cuối năm
1997, khủng hoảng tài chính đã làm cho nhiều ngân hàng ở Châu Á bị mất hàng
tỷ đôla Mỹ, khách hàng hoảng loạn, các ngân hàng bị mất khả năng chi trả, bị
phá sản hoặc buộc phải sáp nhập.Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008
cùng với sự sụp đổ của một số ngân hàng lớn vừa qua cũng cảnh báo mức độ
quan trọng của việc đảm bảo an toàn thanh khoản trong ngân hàng và vì vậy các
NHTM cần chú trọng quản lý thanh khoản và nâng cao hiệu quả thanh khoản
như một vấn đề thường nhật.Bởi nó liên quan tới sự tồn tại và phát triển của mỗi
ngân hàng và của cả hệ thống.
1.1.2.2.Hoạt động thanh khoản tại NHTM
●Tính thanh khoản của tài sản: Nhà quản lý ngân hàng quan tâm đến tính
thanh khoản của mỗi tài sản và của danh mục tài sản.Tính thanh khoản của mỗi
tài sản chính là khả năng chuyển tài sản thành tiền, được đo bằng thời gian và
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp TCDN 47C
4
chi phí.Thời gian và chi phí càng cao tính thanh khoản của tài sản phản ánh rủi
ro(tổn thất) khi chuyển tài sản thành tiền trong khoảng thời gian nhất định.Tuy
nhiên, trong nhiều trường hợp, một tài sản muốn bán nhanh(thời gian chuyển
thành tiền ngắn) thì chi phí(tức tổn thất) lại lớn.Điều này cho thấy tính thanh
khoản của một tài sản phụ thuộc vào nhiều nhân tố và có thể thay đổi theo thời
gian giữa các vùng, các nước.
Ngân hàng nắm giữ danh mục tài sản với tính thanh khoản khác nhau.Kết
cấu tài sản với tính chất thanh khoản khác nhau tạo nên tính thanh khoản của
nhóm tài sản hoặc tổng tài sản.Tính thanh khoản của danh mục tài sản được đo
bằng tỷ lệ của các tài sản có tính thanh khoản cao trên tổng tài sản(hoặc trên tiền

gửi của khách hàng tại ngân hàng)
●Tính thanh khoản của nguồn: Ngân hàng huy động vốn để tạo lập nên
các tài sản, trong đó có các tài sản có tính thanh khoản cao.Như vậy, khả năng
huy động góp phần tạo khả năng thanh toán của ngân hàng.Tính thanh khoản
của nguồn được đo bằng thời gian và chi phí để mở rộng nguồn khi cần
thiết.Thời gian và chi phí càng thấp, tính thanh khoản của nguồn càng cao.Tính
thanh khoản của nguồn phụ thuộc vào nhiều nhân tố như sự phát triển của thị
trường tài chính, sự gia tăng thu nhập của dân cư và tính nhạy cảm của thu nhập
đối với lãi suất.
●Tính thanh khoản của ngân hàng: Tính thanh khoản của ngân hàng là
khả năng của ngân hàng trong việc đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách, được
tạo lập bởi tính thanh khoản của tài sản và tính thanh khoản của nguồn.Một ngân
hàng có tính thanh khoản cao khi có nhiều tài sản thanh khoản hoặc có khả năng
mở rộng nguồn nhanh với chi phí thấp hoặc cả hai, phù hợp với nhu cầu thanh
khoản.
●Cung và cầu thanh khoản:
Cung thanh khoản chính là khả năng cung ứng tiền của một NHTM nhằm
đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng,bao gồm việc giữ tài sản thanh
khoản và khả năng huy động mới.Nguồn cung cấp thanh khoản trong ngân hàng
bao gồm: tiền gửi của khách hàng, doanh thu từ việc bán các dịch vụ phi tiền
gửi,thanh toán nợ của khách hàng, vay từ thị trường tiền tệ.
Cầu thanh khoản là nhu cầu thanh toán của khách hàng của ngân hàng mà
ngân hàng có nghĩa vụ đáp ứng.Cầu thanh khoản bao gồm yêu cầu chi trả và vay
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp TCDN 47C
5
hợp pháp của các khách hàng.Nguồn cầu thanh khoản của ngân hàng bao gồm:
KH rút tiền từ tài khoản, yêu cầu vay vốn từ những KH chất lượng tín dụng cao,
thanh toán các khoản vay phi tiền gửi. chi phí bằng tiền và thuế xuất hiện trong
quá trình sản xuất và cung cấp dịch vụ, thanh toán cổ tức bằng tiền.
●Rủi ro thanh khoản: Rủi ro thanh khoản là tổn thất xảy ra cho ngân hàng

khi nhu cầu thanh khoản thực tế vượt quá khả năng thanh khoản dự kiến.Rủi ro
thanh khoản ở mức ngân hàng phải gia tăng các chi phí để đáp ứng nhu cầu
thanh khoản sẽ làm giảm thu nhập ròng của ngân hàng, ở mức cao hơn NH mất
khả năng thanh khoản sẽ dẫn đến phá sản.
1.2.Nội dung quản lý thanh khoản
1.2.1.Mục tiêu và quy tắc quản lý thanh khoản
1.2.1.1.Xác định mục tiêu quản lý thanh khoản
Thanh khoản có liên quan trực tiếp đến an toàn và sinh lợi của ngân
hàng.Chính vì vậy duy trì an toàn thanh khoản là mục tiêu quan trọng và xuyên
suốt trong quá trình hoạt động của ngân hàng.Và muốn duy trì thanh khoản,
ngân hàng phải chấp nhận một khoản chi phí nhất định.Do vậy, để gia tăng an
toàn thanh khoản, chi phí cũng phải gia tăng và điều này có thể làm giảm thu
nhập của ngân hàng.Ví dụ nếu ngân hàng giữ nhiều ngân quỹ tức khả năng
thanh khoản của ngân hàng tăng thì thu nhập của ngân hàng sẽ giảm sút do ngân
quỹ sinh lời thấp thậm chí không sinh lời chẳng hạn như tiền mặt trong
két.Ngược lại nếu ngân hàng giữ quá ít ngân quỹ thì khi cần phải chi trả, ngân
hàng phải huy động vốn trong trường hợp cấp bách khiến chi phí trả lãi thường
cao hơn.Điều này có thể làm thu nhập của NH giảm sút. Do vậy, mục tiêu quản
lý thanh khoản của NH bao gồm:
- Đảm bảo khả năng chi trả kịp thời của ngân hàng với chi phí hợp lý
- Dự đoán các nguy cơ rủi ro thanh khoản và tổn thất có thể xảy ra
1.2.1.2.Quy tắc quản lý thanh khoản
Thứ nhất, nhà quản lý thanh khoản phải theo sát mọi hoạt động của các
phòng ban liên quan tới việc huy động và sử dụng vốn trong ngân hàng và phải
phối hợp hoạt động của phòng quản lý thanh khoản với các phòng đó.Ví dụ khi
phòng tín dụng cấp một hạn mức tín dụng mới cho khách hàng, nhà quản lý
thanh khoản phải chuẩn bị cho khả năng rút vốn từ hạn mức này.Hoặc nếu như
bộ phận theo dõi tiền gửi tiết kiệm và kì hạn dự tính sẽ bán được một số chứng
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp TCDN 47C
6

chỉ tiền gửi giá trị lớn trong vài ngày tới, thông tin này phải được chuyển ngay
cho phòng quản lý thanh khoản.
Thứ hai, người quản lý thanh khoản cần phải biết trước khi nào và ở đâu
những khách hàng vay vốn lớn nhất và những người gửi tiền lớn nhất sẽ rút vốn
hay gửi thêm tiền. Điều này cho phép nhà quản lý có thể lập kế hoạch trước để
đối phó hiệu quả hơn với sự xuất hiện của trạng thái thâm hụt và thặng dư thanh
khoản.
Thứ ba, nhà quản lý thanh khoản cần phối hợp với cán bộ quản lý cao cấp,
hội đồng quản trị để đảm bảo rằng mục tiêu và những ưu tiên cho vấn đề thanh
khoản là rõ ràng.Trong những năm gần đây, trạng thái thanh khoản của ngân
hàng luôn được ưu tiên hàng đầu trong quá trình phân bổ vốn.Rõ ràng ngân
hàng không thể quản lý được các nguồn vốn(chủ yếu là tiền gửi) vì việc có gửi
tiền hay không là hoàn toàn do công chúng quyết định.Tuy nhiên ngân hàng có
thể quản lý việc sử dụng vốn.Thêm vào đó ngân hàng phải duy trì một tỷ lệ dự
trữ bắt buộc tại NHTW để đáp ứng nhu cầu thanh khoản.Và bởi vì ngân hàng
luôn phải sẵn sàng đáp ứng yêu cầu rút vốn nên quản lý thanh khoản và việc đầu
tư một phần hợp lý vốn vào tài sản thanh khoản luôn được ngân hàng đặt ưu tiên
hàng đầu.Ngày nay, quản trị thanh khoản có vai trò hỗ trợ quan trọng đối với
những hoạt động cơ bản của ngân hàng là cho vay và cung cấp các dịch vụ thu
phí khác. Ngân hàng có thể thực hiện các khoản cho vay có lãi và phòng quản lý
thanh khoản sẽ có nhiệm vụ tìm nguồn tài trợ.
Thứ tư, nhu cầu và quyết định về thanh khoản phải được nghiên cứu
không ngừng nhằm tránh tình trạng thặng dư hay thâm hụt thanh khoản.Thặng
dư thanh khoản tức là không đầu tư phần vốn tăng thêm sẽ làm giảm thu nhập
của ngân hàng.Trong khi đó, thâm hụt thanh khoản buộc ngân hàng phải đối phó
nhanh chóng nhằm tránh tình trạng khẩn cấp theo đó ngân hàng phải bán tài sản
hay vốn để đáp ứng nhu cầu thanh khoản và kết quả là tạo cho NH những tổn
thất lớn.
1.2.2.Nội dung quản lý thanh khoản
1.2.2.1.Xác định cầu thanh khoản

●Cầu thanh khoản là nhu cầu về vốn khả dụng phát sinh chủ yếu từ hai nguồn
chính:nhu cầu rút tiền và nhu cầu vay tiền của khách hàng.Ngoài ra, các khoản
vay nợ từ ngân hàng khác hoặc NHTW cũng làm tăng cầu thanh khoản.
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp TCDN 47C
7
Cụ thể, nguồn cầu thanh khoản bao gồm
-Cầu thanh khoản phát sinh bên tài sản:
+Dự trữ bắt buộc
+Nhu cầu tín dụng của khách hàng chất lượng
-Cầu thanh khoản phát sinh bên nguồn vốn:
+Khách hàng rút tiền gửi
+Phát hành GTCG đến hạn
+Hoàn trả nợ vay
-Cầu thanh khoản phát sinh ngoại bảng
+Thanh toán chi phí hoạt động, nộp thuế
+Thanh toán cổ tức
●Các nhân tố ảnh hưởng tới nhu cầu thanh khoản bao gồm
Thứ nhất, nhóm nhân tố tạo nên sự hoảng loạn trong khách hàng gửi tiền
như bất ổn chính trị, tham nhũng..
Thứ hai, nhóm nhân tố liên quan đến thu nhập và chi tiêu của khách hàng
như tính thời vụ trong sản xuất và tiêu dùng, mức thu nhập và hệ số tiết kiệm,
mật độ dân số và doanh nghiệp..
Thứ ba, nhóm nhân tố cạnh tranh trên địa bàn giữa các trung gian tài
chính như chính sách lãi suất huy động, chính sách tín dụng..của mỗi tổ chức.
Thứ tư, nhóm nhân tố tạo nên sức mạnh và uy tín của bản thân ngân hàng
như cán bộ, công nghệ, thị phần, uy tín…
●Cách thức mà NH áp dụng để quản lý cầu thanh khoản:
-Phân tích nhu cầu thanh khoản trong quá khứ
-Đo mối liên hệ giữa các nhân tố ảnh hưởng và nhu cầu thanh khoản để
xác định tần suất và độ lớn trong nhu cầu thanh khoản.

-Phân tích và định lượng nhu cầu thanh khoản đối với từng loại tiền gửi,
từng nhóm khách hàng, từng thời kì trong năm.
Sau khi phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu thanh khoản, nhà
quản lý sẽ xác định được chiến lược quản lý thanh khoản bằng cách thiết lập
chính sách những điều kiện để ổn định nhu cầu thanh khoản và biện pháp đáp
ứng nhu cầu này khi cần thiết, trên cơ sở đó vừa đảm bảo an toàn thanh khoản
vừa tối đa hóa thu nhập.
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp TCDN 47C
8
1.2.2.2.Xác định cung thanh khoản
Cung thanh khoản phát sinh bên tài sản bao gồm:
+Ngân quỹ
+Khách hàng hoàn trả tín dụng
+Tài khoản hoãn từ việc đầu tư vào chứng khoán đến hạn
+Thu nhập từ bán tài sản
Cung thanh khoản phát sinh bên nguồn vốn bao gồm
+Tiền gửi mới của KH
+Đi vay trên thị trường tiền tệ
+Phát hành GTCG
-Quản lý cung thanh khoản từ phía tài sản-chiến lược dự trữ:
Bao gồm các công việc
+Duy trì ngân quỹ với quy mô và cấu trúc thích hợp: Ngân hàng thường
đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng bằng ngân quỹ:Tiền mặt
trong két, tiền gửi tại NHNN và các TCTD khác
+Phân tích tính thanh khoản của tài sản thông qua khả năng chuyển tài
sản thành ngân quỹ
+Lựa chọn danh mục tài sản phù hợp với điều kiện cụ thể của NH nhằm
đảm bảo thanh khoản thông qua các tỷ lệ thanh khoản thích hợp hoặc
thông qua dự đoán nhu cầu thanh khoản sắp tới.
-Quản lý cung thanh khoản từ phía nguồn vốn-chiến lược huy động:

Bao gồm các công việc:
+Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến thời gian và chi phí huy động
+Lựa chọn cung thanh khoản từ phía bên nguồn thông qua việc phân tích
thời gian và chi phí để mở rộng nguồn
+Nghiên cứu các công cụ nợ mới nhằm tiết kiệm thời gian và chi phí
+So sánh chi phí nắm giữ tài sản thanh khoản và huy động mới
1.2.2.3.Quản lý kết hợp
Chiến lược quản lý thanh khoản kết hợp đã trở nên phổ biến, dựa trên duy
trì thanh khoản của cả tài sản và nguồn vốn.Nhìn chung ngân hàng lớn, gần
trung tâm tiền tệ có xu hướng dựa chính vào thanh khoản của bên nguồn, còn
các ngân hàng nhỏ, xa trung tâm tiền tệ có xu hướng duy trì thanh khỏan dựa
vào tài sản thanh khoản.
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp TCDN 47C
9
Hơn nữa, do những rủi ro cố hữu của việc dựa quá nhiều vào vay thanh
khoản và mức chi phí đáng kể của việc dự trữ thanh khoản, hầu hết ngân hàng
đã thực hiện một sự thỏa hiệp trong chính sách quản lý thanh khỏan, sử dụng cả
quản lý thanh khoản tài sản và quản lý thanh khoản nợ.Theo chiến lược quản lý
kết hợp, một phần nhu cầu thanh khoản dự tính sẽ được đáp ứng bằng việc dự
trữ tài sản thanh khoản(chủ yếu là chứng khoán và các tiền gửi tại các NH khác)
trong khi phần còn lại của nhu cầu thanh khoản sẽ được giải quyết bằng những
hợp đồng hạn mức tín dụng từ các ngân hàng đại lý hoặc từ những người cho
vay khác.Những yêu cầu tiền mặt bất thường sẽ được giải quyết chủ yếu bằng
việc vay vốn.Ngân hàng cần lập kế hoạch cho các nhu cầu vốn dài hạn và cho
các nguồn vốn dùng để đáp ứng yêu cầu này dưới hình thức vay ngắn hạn, dài
hạn và chứng khoán những tài sản sẽ được chuyển thành tiền khi yêu cầu thanh
khoản xuất hiện.
1.2.3.Các chỉ số đánh giá khả năng thanh khoản
(1)Tỷ lệ Tín dụng/Tiền gửi
(2)Tỷ lệ Tiền vay/Tổng tài sản:

Cả hai tỷ lệ này cao đều hàm ý ngân hàng đã dựa chủ yếu vào nguồn vốn ngắn
hạn hơn là nguồn vốn dài hạn để tài trợ tín dụng.Điều này tiềm ẩn rủi ro thanh
khoản trong tương lai của ngân hàng nếu như hiện tại ngân hàng đã đi vay hết
khả năng của mình trên thị trường tiền tệ.
(3)Tỷ lệ Cam kết tín dụng/Tổng tài sản
Tỷ lệ này cao phản ánh nhu cầu thanh khoản cũng phải cao để đáp ứng nhu cầu
rút tiền bất cứ lúc nào của người vay.Như vậy ngân hàng nào có tỷ lệ này cao sẽ
phải đối mặt với rủi ro thanh khoản cao.
(4)Chỉ số trạng thái tiền mặt=
(Tiền mặt+Tiền gửi đến hạn tại các TCTD khác)/∑TS có
Chỉ tiêu này càng lớn hàm ý NH càng có khả năng xử lý các nhu cầu tiền mặt
tức thời.
(5)Chỉ tiêu chứng khoán thanh khoản=Chứng khoán chính phủ/∑TS có
Chỉ tiêu này càng lớn thì NH được xem là càng thanh khoản
(6)Chỉ tiêu năng lực sử dụng vốn sinh lời
=(Dư nợ tín dụng+Dư nợ cho thuê tài chính)/∑TS có
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp TCDN 47C
10
Vì tín dụng và cho thuê tài chính được xem là những tài sản ít thanh khoản nhất,
do đó chỉ tiêu này càng lớn NH càng bộc lộ là kém thanh khoản.
(7)Chỉ tiêu tiền nóng=Tiền nóng bên TS có/ Tiền nóng bên TS nợ
Tiền nóng là những tài sản nhạy cảm với lãi suất, thường bao gồm tiền mặt, tiền
gửi không kì hạn, Chứng khoán chính phủ ngắn hạn và các tài sản khác có thể
chuyển hóa thành tiền trong ngắn hạn.Nếu chỉ tiêu tiền nóng càng cao thì NH
được xem là càng thanh khoản.
(8)Chỉ tiêu tiền gửi thường xuyên=Tiền gửi thường xuyên/Tổng tài sản
Chỉ tiêu này càng lớn NH được xem là càng thanh khoản
(9)Chỉ tiêu cơ cấu tiền gửi=Tiền gửi không kì hạn/Tiền gửi có kì hạn
Chỉ tiêu này càng thấp thì nhu cầu thanh khoản của NH càng thấp
1.3.Các lý thuyết khác nhau về vấn đề thanh khoản trong các NHTM

1.3.1.Lý thuyết cho vay thương mại
Hình thành dựa trên việc nghiên cứu thanh khoản của các NH từ đầu thế
kỉ19 trở về trước.Khi đó thị trường tài chính còn chưa phát triển cao, cho vay
được coi là tài sản lớn nhất trong ngân hàng nên một ngân hàng muốn duy trì
tính thanh khoản của tài sản thì phải dựa vào việc nắm giữ ngân quỹ (chủ yếu là
tiền mặt) và các khoản cho vay của nó phải là các khoản cho vay thương mại.Lý
thuyết này chứng minh rằng, trong điều kiện các nguồn của ngân hàng phần lớn
là ngắn hạn thì cho vay thương mại, tức tài trợ ngắn hạn cho tài sản lưu động
của doanh nghiệp sẽ đảm bảo sự phù hợp về kì hạn của tài sản và nguồn vốn của
ngân hàng tạo cho NH khả năng nhận được nguồn trả nợ trong ngắn hạn do hàng
hóa được bán, vì vậy sẽ là phương pháp tốt nhất đảm bảo thanh khoản.
Lý thuyết cho vay thương mại bên cạnh việc phân tích tính thanh khoản
của các khoản cho vay thương mại đã không chú ý tới tính chất thanh khoản của
nguồn vốn của ngân hàng và tính thanh khoản của các khoản cho vay phi thương
mại, từ đó đã cho rằng các khoản cho vay phi thương mại là không đảm bảo tính
thanh khoản và không thích hợp với ngân hàng thương mại.Nhưng thực tế lại
ngược lại vì có rất nhiều khoản tiền gửi không bị rút ra khi đến hạn mà tiếp tục
kì hạn mới. Những nguồn tiền như vậy có thể sử dụng cho vay trung và dài hạn.
Lý thuyết cho vay thương mại đã ảnh hưởng tới chính sách của NHTW
đối với NHTM như là qui định về tỷ lệ nguồn ngắn hạn thường cao hơn nguồn
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp TCDN 47C
11
trung và dài hạn, quy định về tỷ lệ nguồn ngắn hạn được chuyển sang cho vay
trung và dài hạn…
1.3.2.Lý thuyết về khả năng chuyển đổi của tài sản
Dựa trên việc phân tích số lượng các ngân hàng Anh và Mỹ phá sản trong khủng
hoảng 29-33, các tác giả của lý thuyết này cho rằng, số lượng các ngân hàng
Anh (chủ yếu cho vay thương mại) bị phá sản cũng chẳng kém gì các ngân hàng
Mỹ (mở rộng cho vay đối với bất động sản và người tiêu dùng).Như vậy, cho
vay thương mại cũng không đảm bảo an toàn thanh khoản cho NHTM khi

khủng hoảng xảy ra.Lý thuyết này chứng minh rằng vấn đề chính để đảm bảo an
toàn thanh khoản là khả năng tạo ra thu nhập của ngân hàng(tăng khả năng tích
lũy) và khả năng chuyển đổi của tài sản.Với sự phát triển của thị trường chứng
khoán, thị trường tài sản, nhiều tài sản của ngân hàng có khả năng chuyển đổi
cao đảm bảo ngân hàng có khoản thu cần thiết khi phải đáp ứng nhu cầu thanh
khoản.Do vậy, các ngân hàng hoàn toàn có thể thực hiện các khoản cho vay phi
thương mại mà vẫn đảm bảo khả năng thanh khoản của NH.
1.3.3.Lý thuyết về lợi tức dự tính
Lý thuyết này cho rằng các khoản thu từ tài sản không chỉ xảy ra khi tài
sản đến hạn mà còn có được vào nhiều thời điểm trong suốt thời hạn của tài
sản.Chẳng hạn nếu NH cho vay trung và dài hạn, song thực hiện thu nợ theo
nhiều kì hạn nợ thì thu dự tính sẽ làm tăng tính thanh khoản của tài sản.
Lý thuyết này đặt nền tảng quan trọng trong việc nghiên cứu kì hạn của
tài sản và nguồn vốn, coi đó là nội dung chính để quản lý thanh khoản của tài
sản.Xây dựng kế hoạch thu nợ, thu lãi..căn cứ vào lợi tức dự tính của tài sản là
một biện pháp đảm bảo tính thanh khoản của tài sản.
1.3.4.Lý thuyết về quản lý nợ
Lý thuyết này hình thành từ giữa những năm 60 của thế kỉ 20 gắn liền với
việc hình thành công cụ huy động mới là chứng chỉ tiền gửi(CD) và thị trường
CD.CD cho phép các ngân hàng lớn ở các trung tâm tiền tệ có thể huy động
trong thời gian ngắn một lượng vốn lớn với chi phí rẻ hơn phát hành trái phiếu
trung, dài hạn.
Cùng với việc phát triển thị trường liên ngân hàng cho phép các ngân
hàng có thể vay lẫn nhau với quy mô lớn, chi phí giao dịch thấp.Môi trường hoạt
động này làm tăng khả năng vay nợ của các NHTM.Và theo tác giả một ngân
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp TCDN 47C
12

×