SỞ GD & ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
TRƯỜNG THPT TÔN ĐỨC THẮNG
Mã số:……………………………
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Người thực hiện: Trịnh Văn Hiệu
Lĩnh vực nghiên cứu:
- Quản lý giáo dục
- Phương pháp dạy học bộ môn
- Lĩnh vực khác: Phương pháp chủ nhiệm
Có đính kèm:
Mô hình
Phần mềm
Phim ảnh
Hiện vật khác
1
Năm học: 2011- 2012
SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
1. Họ và tên: Trịnh Văn Hiệu
2. Ngày tháng năm sinh: 15/06/1983
3. Nam, nữ: Nam
4. Địa chỉ: Ấp 1 - Xã Phú Lập – Huyện Tân Phú – Tỉnh Đồng Nai
5. Điện thoại: 0972707957
6. E-mail:
7. Chức vụ: Tổ phó tổ Sử - Địa – Công dân
8. Đơn vị công tác: Trường THPT Tôn Đức Thắng
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
- Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ ) cao nhất: Đại học
- Năm nhận bằng: 2006
- Chuyên ngành đào tạo: Lịch sử
II. KINH NGHIỆM KHOA HỌC
- Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Lịch sử
- Số năm có kinh nghiệm: 05
- Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong năm gần đây: 02
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM Ở
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
2
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: "Vì lợi ích 10 năm trồng cây vì lợi ích
trăm năm trồng người". Hiện nay, Đảng và nhà nước ta đã nêu ra việc phát triển toàn
diện, giáo dục toàn diện. Vậy mỗi người giáo viên chủ nhiệm phải có nhận thức hết
sức đúng đắn về vai trò của mình trong lớp học. Đối với giáo viên chủ nhiệm thì việc
chỉ đạo, điều khiển lớp, không chỉ dạy các em về kiến thức, văn hoá mà còn dạy các
em về nền nếp, cách sống, cách làm người và làm chủ tương lai của đất nước.
Người giáo viên chính là chiến sĩ tiên phong trên mặt trận tư tưởng văn hoá, có
nhiệm vụ bồi dưỡng và rèn luyện phẩm chất của một con người mới. Bên cạnh truyền
thụ những kiến thức trong sách giáo khoa, họ còn có một nhiệm vụ hết sức quan
trọng, đó là thực hiện công tác chủ nhiệm lớp, biết dìu dắt, hướng dẫn học sinh phấn
đấu trong học tập cũng như rèn luyện đạo đức, tác phong. Do vậy, trình độ tổ chức,
điều khiển quá trình dạy học và giáo dục phải phù hợp với lứa tuổi và đặc điểm tâm
sinh lý đối tượng.
Công tác chủ nhiệm muốn thành công, hoạt động của người thầy giáo phải mang
tính nghệ thuật, phải có tính sáng tạo, khéo léo với từng học sinh, từng hoàn cảnh.
Phong cách giáo viên khi trình bày một vấn đề phải có tính khoa học và sư phạm tạo
được sự thu hút và thuyết phục. Muốn học sinh trở thành học sinh ngoan, và có tinh
thần học tập thì trước hết người giáo viên phải đưa tập thể lớp mình thành một lớp
tiên tiến, một chi đoàn vững mạnh, một tập thể gồm những thành viên giàu lòng nhân
ái, biết yêu thương giúp đỡ lẫn nhau, có tinh thần tự quản tốt.
Nhưng thực trạng hiện nay, công tác chủ nhiệm chưa đạt được hiệu quả cao về
nền nếp, công tác tổ chức lớp học và các hoạt động khác. Điều đó cho thấy rằng,
người giáo viên chủ nhiệm lớp có vai trò hết sức quan trọng trong việc hướng dẫn, chỉ
đạo lớp và đào tạo thế hệ trẻ theo mục đích giáo dục toàn diện. Người giáo viên chủ
nhiệm lớp đóng rất nhiều vai trò: vừa là thầy dạy học, vừa là người cha, người mẹ và
cũng có lúc giống như bạn tốt nhất của các em. Từ đó có thể uốn nắn các em đi theo
quỹ đạo của mình. Giáo viên có chỉ đạo, quản lí lớp tốt thì mới dẫn đến việc giảng
dạy tốt. Khi mọi hoạt động của lớp đã đi vào nề nếp thì việc học tập của các em chắc
chắn sẽ tốt hơn.
Xuất phát từ thực tế đó, cùng với những tâm huyết bấy lâu với “nghề” chủ
nhiệm, tôi quyết định thực hiện đề tài nghiên cứu:
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM Ở
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
II . CÁC BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT
1. Cơ sở lí luận
Những năm gần đây nền giáo dục của nước ta có nhiều sự thay đổi và biến động
không ngừng, nhưng Đảng và nhà nước vẫn đặc biệt quan tâm đến sự nghiệp giáo
dục, đến vấn đề đảm bảo chất lượng dạy và học.
Lứa tuổi học sinh đang ngồi trên ghế trường trung học phổ thông là lứa tuổi đang
có những biến động lớn về tâm sinh lí. Tức là đang trong quá trình phát triển nhân
3
cách, tình cảm, trí tuệ, để có được những tri thức và kĩ năng cơ bản trong giao tiếp,
ứng xử trong cuộc sống. Do đó, trước hết cần xác định công tác chủ nhiệm lớp là vấn
đề rất quan trọng. Đối với công tác chủ nhiệm lớp, người giáo viên phải có tính kiên
trì, tận tình. Sự nhiệt tâm, chu đáo của giáo viên là một trong những yếu tố quan trọng
đảm bảo sự thành công của họ trong công tác chủ nhiệm lớp. Song với lứa tuổi học
sinh ở cấp THPT, mặc dù cơ thể phát triển mạnh nhưng sự nhận thức của các em còn
non trẻ, có thể nói là bồng bột, tư duy chưa đạt tới đỉnh cao. Do vậy, các em cần có
người hướng dẫn chỉ đạo để đi vào nền nếp, dần dần trở thành người sống có ích
trong xã hội. Mà người có thể làm tốt điều này không ai khác đó chính là giáo viên
chủ nhiệm lớp.
Ngày nay, do sự phát triển nhảy vọt của khoa học kĩ thuật và công nghệ cũng
như sự xuất hiện của xu thế toàn cầu hóa, học sinh được tiếp xúc với nhiều luồng tư
tưởng, lối sống mới từ bên ngoài, đặc biệt là ở phương Tây, trong đó có những lối
sống, hành vi không lành mạnh, nếu tiếp thu có thể gây ảnh hưởng xấu tới thuần
phong, mĩ tục của dân tộc. Bên cạnh đó là sự xuất hiện nhiều trò chơi điện tử mang
tính chất kích động bạo lực, những trò chơi yêu cầu phải có thẻ nạp tiền…Điều đó đã
làm thoái hóa, biến chất một bộ phận học sinh vốn học kém, lười học và ý thức không
tốt. Thực tế đã cho thấy rằng, nhiều học sinh nữ ăn mặc khá hở hang, giống như để
khoe thân, tự tin thái quá vẻ đẹp của mình. Hoặc có những học sinh nam vì thiếu tiền
chơi game và ảnh hưởng của các trò chơi bạo lực đã lạnh lùng giết người, cướp của để
thỏa mãn sở thích của mình.
Thực trạng đó đã gióng lên một hồi chuông báo động đối với sự sa ngã của giới
trẻ nói chung và học sinh trung học phổ thông nói riêng. Và hơn ai hết, giáo viên chủ
nhiệm chính là người có vai trò rất lớn trong việc hướng dẫn học sinh tiếp thu cái tiến
bộ, loại bỏ cái xấu và giáo dục những học sinh có biểu hiện sa ngã hướng thiện.
Theo điều lệ trường THPT của bộ giáo dục và đào tạo, giáo viên chủ nhiệm có
trách nhiệm và quyền hạn sau:
Thứ nhất là nhiệm vụ:
- Xây dựng kế hoạch các hoạt động giáo dục thể hiện rõ mục tiêu, nội dung, phương
pháp giáo dục bảo đảm tính khả thi, phù hợp với đặc điểm học sinh, với hoàn cảnh và
điều kiện thực tế nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của cả lớp và của từng học sinh.
- Thực hiện các hoạt động giáo dục theo kế hoạch đã xây dựng.
- Phối hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, với các giáo viên bộ môn, Đoàn thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh, Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, các tổ chức xã hội
có liên quan trong việc hỗ trợ, giám sát việc học tập, rèn luyện, hướng nghiệp của học
sinh lớp mình chủ nhiệm và góp phần huy động các nguồn lực trong cộng đồng phát
triển nhà trường.
- Nhận xét, đánh giá và xếp loại học sinh cuối kỳ và cuối năm học; đề nghị khen
thưởng và kỷ luật học sinh; đề nghị danh sách học sinh được lên lớp thẳng, phải kiểm
tra lại, phải rèn luyện thêm về hạnh kiểm trong kỳ nghỉ hè, phải ở lại lớp; hoàn chỉnh
việc ghi sổ điểm và học bạ học sinh.
- Báo cáo thường kỳ hoặc đột xuất về tình hình của lớp với Hiệu trưởng.
4
Thứ hai là quyền hạn:
- Được dự các giờ học, hoạt động giáo dục khác của học sinh lớp mình.
- Được dự các cuộc họp của Hội đồng khen thưởng và Hội đồng kỷ luật khi giải quyết
những vấn đề có liên quan đến học sinh của lớp mình.
- Được dự các lớp bồi dưỡng, hội nghị chuyên đề về công tác chủ nhiệm.
- Được quyền cho phép cá nhân học sinh nghỉ học không quá 3 ngày liên tục.
- Được giảm giờ lên lớp hàng tuần theo quy định khi làm chủ nhiệm lớp.
Như vậy, giáo viên chủ nhiệm có nhiệm vụ rất lớn, là người thay mặt nhà trường
quản lí trực tiếp quá trình học tập, rèn luyện của học sinh. Họ vừa là nhà giáo dục,
người quản lí, người tổ chức, người tư vấn và nuôi dưỡng các ước mơ, khát vọng của
tập thể cũng như từng cá nhân học sinh. Họ là người chịu trách nhiệm đối với kết quả
giáo dục và học tập của học sinh. Có thể nói người giáo viên chủ nhiệm có ảnh hưởng
rất lớn đến học sinh, họ vừa là người đại diện, là cầu nối giữa nhà trường - cha mẹ cộng đồng - các giáo viên khác trong trường với học sinh. Do vậy, vai trò của giáo
viên chủ nhiệm ở trường THPT rất quan trọng. Xuất phát từ đó, người giáo viên chủ
nhiệm phải có cách thức tổ chức lớp và đưa ra những biện pháp quản lí, giáo dục hợp
lí, có hiệu quả để thúc đẩy cá nhân học sinh và tập thể lớp đi lên.
2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài
Trường THPT Tôn Đức Thắng nằm ở ấp 3, xã Phú Lập, huyện Tân Phú, tỉnh
Đồng Nai, tuyển học sinh từ địa bàn nhiều xã lân cận (Phú Lập, Phú Thịnh, Nam Cát
Tiên, Tà Lài), thậm chí cả học sinh ở Thanh Sơn và thị trấn Tân Phú. Chất lượng đầu
vào khá thấp (hầu như nhận toàn bộ hồ sơ) nên khó tránh khỏi trường hợp học sinh bỏ
học giữa chừng do sức học không theo nổi, hoặc ở lại lớp. Bên cạnh đó, do trường
xây dựng ở địa bàn mà người dân chủ yếu làm rẫy, chỉ có một số ít là cán bộ công
nhân viên và tiểu thương nên điều kiện kinh tế của nhân dân còn hạn chế. Do điều
kiện gia đình khó khăn nên đa số phụ huynh chưa quan tâm đến việc học tập của con
em mình, hoặc không đáp ứng được tiền bạc để cho con em tới trường nên đó cũng là
nguyên nhân dẫn tới tình trạng bỏ học của học sinh.
Nhiều em học sinh nhà ở cách xa trường, ở xã khác tới học (xã Thanh Sơn, Phú
Thịnh, Nam Cát Tiên, thị trấn Tân Phú…) nên việc đi lại của các em cũng rất khó
khăn, đặc biệt là vào mùa mưa. Những ngày học trái buổi các em thường ở lại trường.
Mặt khác, ở địa bàn xã Phú Lập, tình hình an ninh, trật tự hết sức phức tạp,
thường xuyên xảy ra trộm cắp, đánh lộn, giết người; có nhiều băng nhóm tội phạm
thường xuyên tụ tập ở những dãy nhà trọ gần trường. Chúng lôi kéo một bộ phận học
sinh nhận thức kém, ăn chơi đua đòi, đặc biệt là nam sinh. Từ đó đã gây những tác
động xấu tới môi trường giáo dục của nhà trường. Hầu như tuần nào cũng có một vụ
lộn xộn trước cổng trường do những thanh niên xấu bên ngoài kích động học sinh
trong trường đánh nhau.
Từ những khó khăn trên, việc xây dựng cho học sinh những thói quen về hành
vi, đạo đức, tác phong tốt là việc làm hết sức cần thiết. Bản thân tôi được giao nhiệm
vụ làm giáo viên chủ nhiệm nên tôi rất hiểu rõ tầm quan trọng của mình đối với học
5
sinh lớp chủ nhiệm. Vì thế, tôi đã tìm hiểu kinh nghiệm từ những người đi trước, và
rút kinh nghiệm từ những hạn chế của bản thân để đưa ra những biện pháp nhằm
quản lí, giáo dục học sinh có hiệu quả cao.
Dưới đây là những việc làm cụ thể mà tôi đã áp dụng trong nhiều năm qua:
1. Tổ chức điều tra nắm hoàn cảnh, khả năng của từng học sinh:
Thông thường ở trường THPT Tôn Đức Thắng, giáo viên chủ nhiệm thường
không chủ nhiệm hết một khóa vì sĩ số học sinh không đảm bảo. Nhưng dù chủ nhiệm
theo năm hay theo khóa, theo tôi phải có sự nắm bắt rõ về hoàn cảnh gia đình cũng
như khả năng học tập, rèn luyện của học sinh. Cho nên khi tiếp quản một lớp nào đó,
tôi đã chuẩn bị một phiếu mẫu điều tra về học sinh, tạm gọi là lí lịch học sinh:
LÍ LỊCH HỌC SINH
Họ và tên:…………………………………………Ngày, tháng, năm sinh:……………
Quê quán:……………………………………………………………………………….
Nơi sinh:………………………………………………………………………………...
Chỗ ở hiện tại: Ấp(khu phố)……, xã(huyện)………………………………………….
Số điện thoại gia đình:…………………………….
Số điện thoại cá nhân:……………………………..
Hoàn cảnh gia đình:
Khó khăn
Bình thường
Khá
Số thành viên trong gia đình (ông, bà, cha, mẹ, anh, chị, em):
Công việc thường ngày ở gia đình:
Điểm trung bình năm lớp....:………Xếp loại học lực(giỏi, khá, trung bình, yếu):…….
Những môn học sở trường:………………………………………………......................
Sở trường (năng khiếu)………………………………………………………………....
Chức vụ năm lớp….:……………………………………………………………………
Họ và tên cha:………………………… Chữ kí (tên):……………………………........
Nghề nghiệp:……………………………………………………………………………
Họ và tên mẹ:…………………………..Chữ kí (tên):…………………………………
Nghề nghiệp:……………………………………............................................................
Thông qua bản lí lịch học sinh này, tôi đã nắm bắt tình hình cụ thể ngay từ đầu
năm để lập ra đội ngũ cán sự lớp, phương hướng phát triển phong trào lớp và kịp thời
tìm ra giải pháp quản lí lớp. Việc làm này không chỉ giúp tôi hiểu rõ hơn hoàn cảnh
của từng em, mà thông qua đó có biện pháp giáo dục thích hợp nhằm nâng cao hiệu
quả giáo dục.
2. Tổ chức cán sự lớp:
Để duy trì kỉ luật, trật tự lớp cũng như thúc đẩy phong trào thi đua của lớp, nâng
cao chất lượng học tập của từng học sinh, vai trò của đội ngũ cán sự lớp là vô cùng
quan trọng. Lớp được đi vào nền nếp sớm là do ngay từ đầu năm, tôi đã xây dựng một
6
đội ngũ cán bộ lớp là những em có học lực khá trở lên (thông qua bản lí lịch học
sinh).
Sau đó tôi phân công cụ thể với trách nhiệm rõ ràng, người nào việc đó và tôi
luôn là chỗ dựa vững chắc cho các em khi có sự việc. Ví dụ như lớp trưởng phải chịu
mọi mặt của lớp, phụ trách phong trào chung. Lớp phó học tập chịu mảng học tập.
Lớp phó văn thể mỹ phụ trách các phong trào văn nghệ và các hoạt động phong trào.
Lớp phó lao động quản lý lớp khi có lao động của lớp cũng như của nhà trường.
Ngoài ra tôi còn bầu Ban cán sự bộ môn của lớp để giải quyết những vấn đề khó trong
các môn học. Thêm vào đó, thông qua quá trình tiếp xúc, tôi sẽ tìm ra những em cán
sự lớp thực sự chăm ngoan, gương mấu, quan tâm và tạo niềm tin với các em. Từ đó,
thông qua thiện cảm của các em với mình, tôi sẽ nhận được những phản hồi từ những
học sinh trong lớp về thái độ của các em đối với công tác quản lí của mình, cũng nắm
bắt rõ hơn về tình hình hàng ngày trên lớp. Thông qua đó có biện pháp quản lí, giáo
dục hợp lí hơn. Vì tôi nghĩ ở lứa tuổi này các em đang phát triển sang lứa tuổi trưởng
thành, có một số em còn bao che thậm chí không dám phê bình trước lớp. Để theo dõi
và nắm tình hình của lớp tôi thường xuyên trao đổi với ban cán sự lớp thông qua các
buổi hội ý đột xuất và hội ý giờ sinh hoạt lớp cuối tuần. Nhờ đó mà những vi phạm
của học sinh trong lớp được tôi nắm bắt khá cụ thể và giải quyết ngay sau khi vi phạm
xảy ra, chậm nhất là giải quyết cuối tuần.
Ngoài ra, tôi còn tìm cách tạo ra nhiệt tình trong công việc cho đội ngũ cán sự
lớp. Thông thường thì các em không thích làm cán sự lớp vì “chẳng được gì, mất thời
gian tập trung cho việc theo dõi bài giảng, mất lòng các bạn trong lớp”. Bởi vậy,
ngoài việc động viên tinh thần của các em, tôi còn đưa ra một số biện pháp khuyến
khích các em làm việc nhiệt tình. Chẳng hạn như san sẻ công việc cho đội ngũ cán sự
lớp để giảm gánh nặng và áp lực cho các em. Ví dụ như bên cạnh lớp trưởng, tôi còn
giao trách nhiệm cho một lớp phó thi đua và các tổ trưởng giúp đỡ lớp trưởng trong
việc quản lí lớp giờ sinh hoạt 15 phút cũng như trong các tiết học chính. Đối với việc
tổ chức sửa bài tập 15 phút đầu giờ, tôi chọn những học sinh xuất sắc nhất của từng
bộ môn làm lớp phó học tập của môn đó, thay vì chỉ một lớp phó học tập duy nhất.
Đến giờ sinh hoạt, các em sẽ tự giác thực hiện nhiệm vụ sinh hoạt nếu có môn sở
trường của mình.
Nhờ có những biện pháp khuyến khích và san sẻ trách nhiệm đó, tôi đã tạo nên
sự thoải mái và nhiệt tình trong công việc của đội ngũ cán sự lớp. Kết quả là đã ổn
định hơn về kỉ luật, trật tự và hiệu quả trong học tập của lớp.
3. Tổ chức tốt giờ sinh hoạt lớp:
Giờ sinh hoạt lớp ở trường THPT rất quan trọng. Mặc dù chỉ có 15 phút đầu giờ
nhưng đó là thời gian có thể giúp các em ôn lại những kiến thức đã học mà có thể các
em chưa nhớ rõ (nhất là đối với những môn học thuộc lòng như môn Sử, Địa…).
Còn đối với những môn khoa học tự nhiên như Toán, Lí, Hóa…, một số em học chưa
tốt có thể có điều kiện để nắm được những kiến thức cần thiết thông qua việc hướng
dẫn hoặc chữa bài tập của một số cán sự lớp vốn là những học sinh học tốt.
7
Giờ sinh hoạt lớp còn là thời gian để các em thể hiện tinh thần kỉ luật, sự
nghiêm túc cũng như tinh thần tập thể với những biểu hiện như ngồi ngay ngắn trong
lớp, không chạy nhảy, đùa giỡn trong lớp; mà cùng nhau giải những bài tập khó, hát
những bài hát tập thể…
Để làm cho một giờ sinh hoạt lớp có chất lượng, cần có biện pháp tổ chức hợp
lí của giáo viên. Tôi đã phân công cụ thể cho đội ngũ cán sự lớp mỗi người một việc.
Mỗi học sinh chưa hẳn đã giỏi tất cả các môn nên tôi chọn những học sinh nào giỏi
môn nào nhất thì cử làm lớp phó phụ trách môn đó. Ngày nào có những tiết liên quan
tới môn sở trường của mình, học sinh đó phải có trách nhiệm hướng dẫn những học
sinh yếu trong lớp giải quyết những khúc mắc của các bạn. Tất nhiên trong quá trình
tổ chức sinh hoạt sẽ không tránh khỏi ồn ào. Điều đó cần đến vai trò của lớp trưởng,
các tổ trưởng và lớp phó thi đua của lớp. Giáo viên chủ nhiệm phải động viên, đôn
đốc các em thực hiện tốt nhiệm vụ quản lí, nhắc nhở các bạn duy trì trật tự và đảm
bảo chất lượng giờ sinh hoạt .
4. Có những hình thức giáo dục, khen thưởng, xử phạt hợp lí
Lứa tuổi học sinh ở trường THPT là lứa tuổi đang có nhiều biến chuyển kể cả về
sinh lí và tâm lí. Cho nên rất khó để áp dụng một cách thức giáo dục nhất định. Các
em tuy lớn người nhưng tính cách còn trẻ con, nhiều khi ham chơi, học đòi. Bởi vậy,
đối với những đối tượng khác nhau thì tôi có biện pháp giáo dục khác nhau. Những
học sinh ít vi phạm, ít quậy phá, ngoan ngoãn thì thường khi vi phạm tôi chỉ nhắc nhở
và khuyên nhủ các em không được tái phạm, tránh việc nạt nộ, mắng mỏ, tạo tâm lí
chán nản, không muốn sửa chữa ở các em. Có một số học sinh khá ngang bướng,
không ưa nặng, nếu la mắng hoặc quá mạnh tay với các em thường chỉ đem lại tác
dụng không mong muốn. Đó là sự phản ứng và tâm lí bất mãn ở các em. Do đó, ngoài
việc xử lí theo đúng qui định của nhà trường, tôi thường gặp gỡ riêng các em để hiểu
rõ tâm tư của các em, động viên các em cố gắng phấn đấu vì cha mẹ, vì tương lai của
các em. Phân tích cho các em những tác hại của việc sống không có mục đích, không
có lí tưởng. Đồng thời thông qua trao đổi với các em, giúp các em hiểu rõ hơn về
mình, tránh việc hiểu lầm của các em về việc thầy có ác cảm với mình. Từ đó những
học sinh này đã có những động thái tích cực trong học tập, rèn luyện.
Trong công tác chủ nhiệm, để duy trì một tập thể lớp vững mạnh, cần phải có
những biện pháp khen thưởng, kỉ luật hợp lí.
Trước hết là khen thưởng. Hàng tuần, tôi phát động thi đua giữa các tổ. Tiêu chí để
đánh giá là cộng tổng điểm thi đua của tất cả cá nhân trong tổ. Tổ nào có tổng điểm
cao nhất thì nhận được một phần quà hoặc tiền (kinh phí lấy từ quĩ hội phụ huynh
lớp).
Dưới đây là bảng thi đua mà tôi áp dụng:
Tên tổ
Họ và tên
Điểm cá nhân
1/
2/
8
3/
4/
5/
6/
7/
8/
Tổng điểm tổ
Bên cạnh việc phát động thi đua theo tổ, tôi còn phát động thi đua cá nhân.
Hàng tuần, học sinh nào đạt nhiều điểm cao nhất hoặc có những đóng góp nổi bật
trong phong trào của lớp sẽ nhận được một phần thưởng (thường là bút, vở hoặc cuốn
sổ). Việc trao thưởng dựa vào theo dõi và báo cáo của lớp phó thi đua.
Ngoài ra, cuối mỗi học kì tôi còn dùng nguồn quĩ phụ huynh để khen thưởng
cho những học sinh tiên tiến, học sinh giỏi, cán sự lớp, những học sinh có đóng góp
xuất sắc trong phong trào thi đua của lớp. Phần thưởng là sách vở, đôi khi là tiền.
Có thể nói, nhờ có hình thức khen thưởng hợp lí, tôi đã tạo được không khí thi
đua sôi nổi trong lớp và sự nhiệt tình của cán sự lớp. Từ đó đưa lớp thành một tập thể
vững mạnh.
Thế nhưng, để duy trì một tập thể lớp có kỉ luật, nền nếp cũng không phải đơn
giản, không chỉ áp dụng hình thức khen thưởng mà còn có biện pháp kỉ luật để ngăn
ngừa, chặn đứng những vi phạm. Để làm được điều đó, bên cạnh nội quy của trường,
tôi còn lập ra một bản nội qui riêng của lớp, cụ thể và chi tiết hơn. Cụ thể như sau:
NỘI QUY LỚP
1. Học sinh đi trễ không được vào trường
2. Khi kẻng báo vào lớp không được đứng ngoài hành lang
3. Tập trung chào cờ đúng giờ qui định, không được gây ồn ào, lộn xộn, đầu và
cuối buổi tổ trực nhật phải cử người mang và cất ghế
4. Phải chuẩn bị bài và học bài trước khi đến lớp
5. Nghỉ học phải viết giấy phép, có chữ kí của phụ huynh và phải nhờ phụ huynh
gọi điện thông báo với giáo viên chủ nhiệm hoặc giám thị
6. Nghiêm cấm việc tự ý đổi chỗ ngồi
7. Tới trường cần thực hiện nghiêm túc đồng phục do nhà trường quy định (nữ
mặc áo dài, nam quần tây, áo trắng; đầu tóc gọn gàng, không nhuộm, xịt keo,
đeo phù hiệu, huy hiệu đoàn, không mang dép lê)
8. Cấm mang và sử dụng quà hay đồ ăn trong lớp, trong giờ học (vi phạm sẽ phải
nộp tiền phạt)
9. Cấm xả rác, vỏ, bã kẹo trong lớp học và hành lang
10. Cấm leo, trượt cầu thang, ngồi lên bàn học, bàn ghế giáo viên
11. Cấm viết, vẽ bậy lên tường, lên bàn, lên bảng
12. Cấm gây mất trật tự, phát biểu tự do, đùa giỡn trong giờ học và sinh hoạt đầu
giờ
13. Cấm việc tự tiện coi sổ điểm lớn (vi phạm sẽ phải nộp tiền phạt)
9
14. Cấm chọc, giỡn người làm nhiệm vụ theo dõi sinh hoạt đầu giờ
15. Phải có mặt đầy đủ và đúng giờ trong các buổi lễ, lao động, ngoại khóa do
trường tổ chức
16. Cấm chửi thề, nói tục, hút thuốc, đánh bài, uống rượu, leo tường
17. Cấm mang và sử dụng điện thoại di động trong lớp, trong giờ học (vi phạm sẽ
bị tịch thu trong vòng 2 tháng )
18. Không được tỏ thái độ không tốt với cán sự lớp (khi những người này nhắc
nhở hoặc phổ biến công việc…)
19. Cấm tuyệt đối việc cúp tiết, giả mạo chữ kí phụ huynh
20. Cấm kết bè phái, gây mất đoàn kết trong lớp
21. Không được vô lễ với giáo viên, gây gỗ, đánh lộn trong và ngoài trường
22. Cấm quay cóp, giở tài liệu, trao đổi bài trong khi kiểm tra, thi
23. Cán sự lớp phải quản lí lớp nghiêm túc, có trách nhiệm, không được bao che
và phải báo cáo thường xuyên với giáo viên chủ nhiệm về những vi phạm của lớp
24. Cán sự lớp được phân công phải tổ chức sinh hoạt đầu giờ đúng quy định và có
chất lượng
25. Tổ trực nhật phải thực hiện đúng và tốt nhiệm vụ, nếu làm không tốt sẽ bị phạt
Nội qui này được tôi triển khai và phát cho từng học sinh. Khi học sinh vi phạm
nội qui của lớp, tôi sẽ có những biện pháp xử phạt hợp lí. Tôi đã chứng kiến nhiều
giáo viên rất khắt khe khi học sinh vi phạm, thậm chí dùng biện pháp mạnh (nhiều
người còn gọi là bạo lực) để xử lí học sinh vi phạm.
Điều đó nhiều khi phản tác dụng, khiến học sinh ghét giáo viên, từ đó có những hành
vi phá rối do bất mãn. Bản thân tôi, trước khi xử lí vi phạm, tôi phải tìm hiểu cụ thể
nguyên nhân để tránh xử lí không đúng mực, khiến các em không phục.
Bên cạnh đó, đối với những vi phạm khác nhau thì xử lí theo cách khác nhau. Ví
dụ như đối với những học sinh vi phạm đồng phục, tác phong thì nhắc nhở, nếu tái
phạm thì kiểm điểm, mời phụ huynh giải quyết. Tái phạm nhiều lần thì không cho vào
trường. Đối với những học sinh vi phạm nặng như hút thuốc, chửi thề, đánh nhau tôi
dùng biện pháp kiên quyết hơn như kiểm điểm trước lớp, phê bình trước cờ, mời phụ
huynh và đưa ra hội đồng kỉ luật. Đối với những học sinh thường xuyên vi phạm,
hoặc có những hành vi không tốt (nói tục, hút thuốc, chửi thề, đánh nhau) ảnh hưởng
tới thi đua của lớp, tôi yêu cầu đóng tiền vi phạm (tất nhiên tiền phạt này đã có sự
thống nhất với phụ huynh qua buổi họp đầu năm). Tiền phạt sẽ sung vào quĩ lớp dùng
cho hoạt động của lớp.
Thông qua những hình thức xử phạt, kỉ luật đó, tôi đã duy trì nền nếp của lớp
tương đối tốt. Học sinh lớp tôi chủ nhiệm tác phong rất nghiêm túc, có tinh thần kỉ
luật cao và hầu hết đều rất chăm ngoan. Điều đó đã tạo nên niềm vui lớn trong công
tác chủ nhiệm của tôi.
5. Vi phạm tới đâu, giải quyết tới đó
Theo tôi, đây là một việc làm rất hữu ích, có hiệu quả cao. Thường thì giáo viên
chủ nhiệm giải quyết những vi phạm vào cuối tuần. Khi đó, có rất nhiều học sinh,
nhiều vi phạm sẽ phải giải quyết. Cho nên, việc xử lí sẽ bị “loãng”, nhiều khi không
10
cặn kẽ, hợp tình, thiếu tính thuyết phục (nhiều học sinh cho rằng thầy cô xử lí thiên vị
người này, người khác). Bởi vậy, khi nắm bắt được vi phạm của học sinh (thông qua
cán sự lớp, thầy cô bộ môn, quản sinh và bản thân), tôi bố trí thời gian làm việc trực
tiếp với học sinh để tìm hiểu nguyên nhân vi phạm, cách thức xử lí đối với từng
trường hợp. Do chỉ có một hoặc vài học sinh cần được xử lí nên tôi có thời gian để
lắng nghe giải trình của các em, hiểu được tâm lí của các em và cũng có thời gian
động viên, thuyết phục hoặc nghĩ ra những biện pháp xử phạt hợp lí nhất. Trong
trường hợp không có thời gian để xử lí vi phạm, tôi ủy quyền cho thầy giám thị thay
mặt tôi trực tiếp làm việc với học sinh. Chính nhờ việc giải quyết kịp thời như vậy đã
có tác dụng rất lớn trong việc đưa ra những cách giải quyết hợp tình, có tác dụng
thuyết phục học sinh. Từ đó các em nghe theo và sửa chữa. Đặc biệt, việc vi phạm tới
đâu, giải quyết tới đó còn có tác dụng răn đe đối với những học sinh khác, ngăn chặn
được những hành vi vi phạm theo kiểu theo hùa, “té nước theo mưa”. Và nhiều khi
biện pháp này cũng có tác dụng ngay đối với chính bản thân tôi vì nếu để đến cuối
tuần xử lí, sự việc đã hết “nóng”, đã “nguội” dần, kết hợp với việc phải giải quyết
nhiều vi phạm cùng lúc tạo nên tâm lí ngại xử lí đối với giáo viên chủ nhiệm.
6. Thực hiện đánh giá thi đua, hạnh kiểm học sinh nghiêm túc, khoa học
Việc đánh giá thi đua và xếp hạnh kiểm học sinh không phải dễ dàng. Không
thể dựa vào cảm tính hoặc tình cảm cá nhân để áp đặt. Điều đó sẽ gây tâm lí bất mãn
cho học sinh vì thầy cô đối xử và hành động thiên vị, không công bằng. Đánh giá học
sinh cả về thi đua lẫn đạo đức cũng là một quá trình đòi hỏi giáo viên chủ nhiệm phải
quan tâm, theo dõi học sinh thông qua nhiều “kênh” khác nhau. Từ đó mới có những
quyết định xác đáng, khiến học sinh nể phục. Có rất nhiều phụ huynh đã lên tận
trường để chất vấn giáo viên chủ nhiệm làm sao lại xếp con mình hạnh kiểm yếu. Sở
dĩ điều đó xảy ra thứ nhất là do học sinh có tâm lí thầy cô ác cảm với mình, không
thừa nhận khuyết điểm của mình. Thứ hai là do thầy cô xếp theo cảm tính. Trong
trường hợp này đòi hỏi giáo viên phải đưa ra những vi phạm của học sinh để giải trình
với phụ huynh, khiến họ hài lòng, tránh tâm lí bất phục, nói xấu giáo viên, ảnh hưởng
không tốt đến danh dự của giáo viên cũng như của trường.
Để tránh những trường hợp không mong muốn như vậy, trước tiên tôi đưa ra
những qui định về thi đua, đánh giá hạnh kiểm như sau:
TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI HẠNH KIỂM HÀNG TUẦN
A. NHỮNG HÀNH VI BỊ TRỪ ĐIỂM :
I. Trừ 2 điểm/ 1 lần vi phạm :
1. Đi học trễ
2. Nộp tiền trễ
3. Kẻng báo vào lớp vẫn đứng ngoài hành lang
4. Chào cờ lộn xộn
5. Nghỉ học có phép
6. Đổi chỗ ngồi
11
7. Trang phục không đúng quy định (đầu tóc, phù hiệu, dép, quần áo, huy hiệu…)
8. Xả rác bừa bãi
9. Điểm kiểm tra dưới 5
10. Leo, trượt cầu thang
II. Trừ 3 điểm/ 1 lần vi phạm :
1. Mất trật tự trong giờ học
2. Vẽ bậy lên bàn ghế
3. Phát biểu tự do, đùa giỡn trong giờ học
4. Nghỉ học không có giấy phép
5. Sinh hoạt 15 phút không nghiêm túc
6. Thiếu ý thức bảo vệ tài sản chung
7. Không chuẩn bị bài ở nhà
8. Trực nhật không tốt
III. Trừ 4 điểm/ 1 lần vi phạm:
1. Thực hiện không nghiêm túc hình thức kỷ luật của giáo viên
2. Chọc giỡn người làm nhiệm vụ kiểm tra đầu giờ (15 phút)
3. Cho bạn xem bài, cop py bài, trao đổi bài khi kiểm tra, thi
4. Vắng mặt trong các hoạt động ngoại khóa, lao động
5. Tự ý coi sổ điểm lớn
6. Mang quà, đồ ăn vào lớp
7. Cán bộ lớp bao che hoặc không thực hiện tốt việc quản lí, sinh hoạt lớp đầu giờ
IV. Trừ 5 điểm/ 1 lần vi phạm :
1. Bị kiểm điểm trước lớp
2. Phải làm bản kiểm điểm
3. Vi phạm, bị ghi tên vào sổ đầu bài
4. Có thái độ không tốt với cán bộ lớp (khi cán bộ lớp nhắc nhở hay phổ biến công
việc …)
5. Cúp tiết
6. Kết bè phái
7. Ăn quà trong lớp
V. Trừ 10 điểm/ 1 lần vi phạm :
1. Có thái độ không tốt với giáo viên
2. Bị phê bình trước cờ
3. Gây gổ, đánh nhau
4. Giám thị bắt lập bản kiểm điểm
5. Mang và sử dụng điện thoại trong lớp
6. Nói tục, chửi thề, hút thuốc, uống rượu, đánh bài
7. Mạo chữ kí phụ huynh
B. NHỮNG VIỆC LÀM ĐƯỢC CỘNG ĐIỂM :
1. Phát biểu xây dựng bài đúng : cộng 5 điểm / lần
2. Phát biểu bài nhiều lần với ý thức xây dựng bài : cộng 5 điểm
3. Điểm kiểm tra từ 7 đến 8 : cộng 4-5 điểm / 1điểm tốt
12
4. Điểm kiểm tra từ 9 đến 10 : cộng 6-7điểm / 1điểm tốt
5. Tích cực trong hoạt động phong trào của lớp, trường: cộng 10 điểm/ hoạt động
6. Có ý thức giữ gìn, bảo vệ tài sản chung : 5 điểm / 1 hành vi
C. CÁCH THỨC XẾP LOẠI :
1. Hạnh kiểm tốt : Điểm cộng > 100, điểm trừ 1-2 điểm
2. Hạnh kiểm khá : Điểm cộng > 100, điểm trừ 3-4 điểm
3. Hạnh kiểm trung bình : Điểm trừ 4-5 điểm
4. Hạnh kiểm yếu : Điểm trừ 6 điểm trở lên
Chú ý :
1. Tất cả mọi học sinh đều nhận được 100 điểm hàng tuần để thi đua
2. Học sinh không phát biểu xây dựng bài xếp hạnh kiểm khá
3. Yêu cầu mỗi học sinh phải có một cuốn sổ tự đánh giá cá nhân về các mặt : điểm
cộng, điểm trừ để tiện việc đối chiếu với cán bộ lớp (nếu không có sổ này giáo viên
chủ nhiệm không chịu trách nhiệm về mọi thắc mắc)
Cách ghi sổ tự đánh giá như sau :
- Tên tuần, ngày, tháng, năm
- Việc làm được cộng điểm ( thời gian cụ thể : tiết, ngày … )
- Hành vi bị trừ điểm ( thời gian cụ thể : tiết, ngày … )
- Xác nhận của cán bộ lớp ( ngay sau tiết học )
4. Những hành vi sau đây có thể đánh giá hạnh kiểm trực tiếp mà không cần xem
xét:
a. Vi phạm qui chế kiểm tra, thi xếp loại yếu
b. Đánh nhau, gây lộn bị đưa ra hội đồng kỉ luật xếp loại yếu
c. Leo tường bị phát hiện sẽ bị đánh giá hạnh kiểm trung bình cả học kỳ
Để tiện cho việc theo dõi, đánh giá của cán sự lớp, tôi lập ra bảng theo dõi và xếp
hạnh kiểm hàng tuần như sau:
1/ Bảng THEO DÕI VI PHẠM TỔ
Tổ:….. Tuần:…..
Thứ/ Ngày Tên học sinh vi phạm
Nội dung vi phạm
Hai
Ba
Tư
Năm
Sáu
Bảy
2/ Bảng THEO DÕI THI ĐUA TỔ TRONG GIỜ HỌC
Tổ trưởng tổ …:
Tuần:……Tháng…….Năm………..
Họ và tên tổ viên
Thứ/ Ngày/ Tháng/ Năm
Tiết
Số lần
phát biểu
13
1/
2/
3/
4/
5/
6/
7/
8/
3/ Bảng XẾP LOẠI HẠNH KIỂM TRONG TUẦN:
Tổ:…..
Tuần:….
Tên
Điểm có
Điểm Điểm Tổng điểm
Xếp
Ghi
sẵn
trừ
Cộng trong tuần
loại
chú
1/
100
2/
100
3/
100
4/
100
5/
100
6/
100
7/
100
8/
100
Việc đánh giá thi đua, xếp loại hạnh kiểm của tháng và cuối kì sẽ dựa trên thang điểm
và kết quả đánh giá hàng tuần. Để đảm bảo khách quan hơn, cuối kì tôi cho học sinh
tự nhận xét, đánh giá về ưu khuyết điểm và xếp loại đạo đức của mình theo mẫu sau:
Họ và tên
Ưu điểm
Khuyết điểm
Kết quả thi đua tuần, tháng
Phương hướng phấn đấu
Tự xếp loại hạnh kiểm
Kí và ghi rõ họ tên
Với việc áp dụng việc đánh giá khoa học như vậy, tôi đã hạn chế được việc
đánh giá, nhận xét phiếm diện, khiến cho học sinh “tâm phục, khẩu phục” về
cách làm của mình. Qua đó tránh được những thắc mắc, tạo niềm tin ở học sinh
cũng như là phụ huynh, thúc đẩy sự phấn đấu cũng như khắc phục của các em,
tạo nên một tập thể lớp kỉ luật và vững mạnh.
7. Quan tâm, gần gũi học sinh
14
Có nhiều giáo viên coi công việc chủ nhiệm là nghĩa vụ cho nên chỉ làm qua
loa, lên lớp cho đúng trách nhiệm, không hề có sự gần gũi, tìm hiểu học sinh. Như
vậy, chắc chắn công tác chủ nhiệm của họ sẽ không bao giờ đạt kết quả tốt. Với lợi
thế là giáo viên trẻ, chưa có gia đình, nhiệt huyết còn cao, ngay từ khi về trường (từ
năm 2007), khi được phân công chủ nhiệm, tôi đã cố gắng thực hiện tốt công việc của
mình. Có thể nói là lấy sức trẻ bù cho kinh nghiệm. Tôi thường xuyên lên lớp những
buổi sinh hoạt 15 phút đầu giờ, kể cả những ngày không có tiết dạy. Ngoài ra, những
giờ giải lao giữa giờ, nhiều khi tôi cũng ghé lớp trao đổi công việc hay nói chuyện với
các em. Đối với những hoạt động phong trào của lớp như văn nghệ, báo tường, tôi
cũng thường xuyên đến động viên, đôn đốc các em làm việc. Những ngày lễ như 2010, 8-3 hay sinh nhật của học sinh trong lớp, tất nhiên tôi cũng góp mặt.
Thông qua việc tiếp xúc, quan tâm học sinh, tôi có điều kiện hiểu rõ hơn về tâm
tư, nguyện vọng, những hành vi vi phạm của các em. Từ đó có biện pháp giáo dục
hợp lí và hiệu quả. Việc quan tâm của giáo viên chủ nhiệm cũng có tác động ngược
lại từ phía học sinh. Đó là tạo niềm tin, sự thương yêu của các em đối với mình. Các
em coi chủ nhiệm lớp như “người cha thứ hai”, là chỗ dựa tinh thần để các em phấn
đấu. Từ tình thương yêu, các em trở nên biết nghe lời, tôn trọng giáo viên chủ nhiệm
và phấn đấu học tập, rèn luyện để không phụ lòng thầy cô.
8. Vận động học sinh bỏ học tới trường trở lại:
Ở trường THPT Tôn Đức Thắng, rất nhiều học sinh có hoàn cảnh khó khăn
(trường nằm ở khu vực miền núi), một số học sinh lười học, nhiễm thói hư tật xấu nên
tỉ lệ học sinh bỏ học giữa chừng thuộc dạng cao nhất trong huyện Tân Phú. Để duy
trì sĩ số, có thể là ở mức tương đối (khoảng 90- 95%), tôi đã có rất nhiều nỗ lực trong
việc vận động học sinh trở lại lớp.
Khi có học sinh trong lớp bỏ học, thông qua nhiều nguồn khác nhau (học sinh
trong lớp, trong trường, thầy cô bộ môn…), tôi tìm hiểu rõ nguyên nhân như hoàn
cảnh kinh tế gia đình, biện pháp giáo dục trong gia đình, khả năng học tập của học
sinh…và trực tiếp đến gia đình học sinh bỏ học tìm hiểu cụ thể, vận động học sinh trở
lại trường. Những trường hợp khó vận động, tôi phối hợp với nhà trường và các lực
lượng xã hội từ đó tìm giải pháp thích hợp nhằm sớm đưa học sinh trở lại trường.
Trong quá trình vận động học sinh tôi luôn quan tâm đến mối quan hệ bạn bè
của các học sinh đó để có thể từ bạn bè động viên quan tâm giúp các em sớm trở lại
nhà trường. Ví dụ như trong năm học 2009-2010, em Vân đã bỏ học vì cảm thấy chán
học và tiếp thu không nổi.Tôi đã vận động Ban cán sự lớp, bạn thân Vân cùng tôi đến
tận nhà để vận động, đồng thời tuyên truyền cho em biết được việc bỏ học của mình
là không tốt cho tương lai của em.
Tôi cũng như phân tích những mặt xấu nếu em nghỉ học trong khi chưa biết làm gì,
còn non nớt về vốn sống sẽ rất dễ vấp ngã. Tôi đã đến nhà em nhiều ngày liên tục để
thuyết phục em. Cuối cùng, nhờ sự tận tình của tôi, em Vân đã đồng ý trở lại nhà
trường, sau đó đã chăm chỉ học tập, đỗ tốt nghiệp và hiện nay đang học tại một trường
Cao đẳng ở thành phố. Hay năm ngoái là trường hợp em Cường, cũng học yếu, ham
chơi, đua đòi; cha mẹ nói gì cũng không nghe, nhất quyết nghỉ học. Tôi đã đến tận
15
nhà, hỏi rõ phụ huynh để nắm rõ tâm tư, nguyện vọng cũng như những sở thích của
em. Sau đó, tôi đã tìm cách gặp em, khuyên nhủ một cách chân thành, thay vì nạt nộ,
phân tích những hậu quả khôn lường của việc nghỉ học và đua đòi theo những người
bạn xấu. Cường đã xin tôi cho nghỉ học mấy ngày để suy nghĩ. Cuối cùng em đã đi
học trở lại, thu đậu tốt nghiệp và hiện nay đang học ở một trường trung cấp dạy nghề
sử chữa ở thành phố.
9. Vận động giúp đỡ học sinh có hoàn cảnh khó khăn, bệnh tật
Với đặc điểm là một trường nằm ở khu vực miền núi nên trong trường nói chung
và ở lớp tôi nói riêng hầu như khi nào cũng có những học sinh nghèo, không có điều
kiện để tới trường. Nhiều khi, các em bỏ học giữa chừng hoặc nghỉ học nhiều ngày để
phụ giúp gia đình. Đối với học sinh có hoàn cảnh khó khăn như vậy, tôi vận động học
sinh trong lớp góp quần áo, sách vở, dụng cụ học tập, kể cả tiền hỗ trợ cho các em.
Bên cạnh đó, tôi còn vận động các Mạnh Thường Quân (phụ huynh của lớp), kể cả
bản thân, góp tiền, vở và một số vật dụng liên quan tới học tập khác ủng hộ cho các
bạn này có thể học tốt hơn và yên tâm hơn trong việc học của mình.
Đối với những học sinh đau ốm lại càng phải quan tâm hơn. Tôi đã nhắc nhở
ban cán sự lớp đặc biệt là lớp trưởng, nếu có bạn nào trong lớp bệnh không đi học
được phải tổ chức tới nhà thăm hỏi. Đặc biệt, với những học sinh bệnh nặng phải nằm
viện hoặc nghỉ học dài ngày thì lớp quyên góp tiền hoặc trích từ quĩ lớp ra một số tiền
để mua đồ thăm bạn. Những việc làm đó tuy nhỏ bé, giá trị vật chất không đáng là
bao nhưng đã tạo được tình cảm gắn bó, các em biết yêu thương giúp đỡ lẫn nhau
với tinh thần đoàn kết tương trợ cao.
10. Phối hợp với các giáo viên bộ môn:
Giáo viên chủ nhiệm chỉ lên lớp ở tiết dạy của mình và một số tiết sinh hoạt lớp.
Thế nên sẽ không thể nào nắm bắt cụ thể về tình hình học tập cũng như thái độ, hành
động của học sinh lớp mình trong các tiết học khác (thông thường học sinh sợ giáo
viên chủ nhiệm nên trong tiết của họ, các em thường tỏ ra ngoan ngoãn, biết nghe
lời). Bởi vậy, ngoài việc lắng nghe phản hồi từ cán sự lớp, tôi rất quan tâm tới ý kiến
và đóng góp của giáo viên bộ môn. Dẫu sao, các thầy cô vẫn thẳng thắn góp ý hơn
học trò (thường có tâm lí bao che, sợ mất lòng bạn bè).
Việc phối hợp với các giáo viên bộ môn là hết sức quan trọng nhằm nắm được
những thông tin cần thiết về lớp, đặc biệt là những vi phạm, những em học yếu. Mặt
khác có những em học sinh thích học môn này, lại không thích môn kia vì những lý
do khác nhau. Chính vì thế, tôi luôn tìm hiểu cặn kẽ các nguyên nhân từ các giáo viên
bộ môn để cùng với giáo viên bộ môn đề ra các biện pháp thích hợp nhằm giúp các
em có thể có kết quả học tập, rèn luyện thái độ, tác phong tốt hơn.
Từ đó các em sẽ hứng thú học tập và đi học đều đặn hơn, có những điều chỉnh theo
chiều hướng tiến bộ về hành vi, đạo đức của mình. Hơn nữa thông qua việc phối hợp
với các giáo viên bộ môn trong trường để phát hiện về năng khiếu, sở thích cũng như
những hạn chế của từng học sinh để từ đó phát hiện và bồi dưỡng kịp thời giúp các
em phát triển một cách hoàn thiện hơn.
11. Phối hợp với giám thị nhà trường:
16
Vai trò của giám thị ở cấp trung học phổ thông cũng không kém phần quan
trọng, ảnh hưởng tới việc rèn luyện đạo đức, tác phong của học sinh. Giám thị chính
là bộ phận hỗ trợ cho Nhà trường cũng như giáo viên chủ nhiệm quản lí toàn diện về
tư cách, ứng xử, hành động của học sinh. Hơn thế, giám thị càng nghiêm, học sinh
càng sợ, từ đó ít vi phạm hơn. Khảo sát cho thấy rằng, trường nào không có quản
sinh thì nền nếp, kỉ luật của trường đó thường yếu hơn các trường khác. Cho nên,
trong công tác chủ nhiệm của mình, tôi đánh giá rất cao vai trò của người giám thị.
Ở trường THPT Tôn Đức Thắng, quản sinh thường có mặt rất sớm, trước giờ sinh
hoạt lớp buổi sáng và chiều (trường tổ chức học hai buổi: sáng khối 11 và 12, chiều
khối 10). Nhiệm vụ của thầy giám thị là phải có mặt ở phòng bảo vệ ngay cổng
trường để theo dõi những học sinh không đúng đồng phục, tác phong. Những em này
sẽ không được thầy cho vào trường nếu vi phạm những nội qui nhà trường đề ra.
Ngoài ra, trong giờ ra chơi giữa các tiết cũng như lúc tan trường, thầy quản sinh
thường xuyên theo dõi, ghi chép và xử lí những vi phạm của học sinh. Cho nên, tôi
đánh giá rất cao vai trò của bộ phận giám thị trong nhà trường.
Mỗi buổi cũng như hàng tuần tôi đều gặp gỡ với thầy giám thị trong trường để
kịp thời tìm ra những học sinh có biểu hiện không tốt, hay vi phạm nội qui, đặc biệt
là những em những em cúp tiết, hút thuốc lá, chửi thề…Thông thường, những vi
phạm của các em đều được thầy quản sinh xử lí rất hợp lí bằng những biện pháp khác
nhau, tùy thuộc đối tượng và vi phạm. Thế nên, ngoài việc thường xuyên gặp gỡ giám
thị để theo dõi tình hình vi phạm của lớp, tôi còn trao đổi với thầy để tìm ra cách giải
quyết thuận tình, hợp lí giúp những học sinh vi phạm, đặc biệt là những học sinh cá
biệt ngày càng tiến bộ. Có rất nhiều học sinh hay vi phạm nội qui, đặc biệt là vi phạm
nặng, tôi mời phụ huynh và học sinh đến phòng giám thị để trao đổi, tìm cách khắc
phục. Theo tôi, việc làm đó vừa đảm bảo khách quan (một số phụ huynh tin lời con
cho rằng thầy ác cảm với học sinh), vừa tạo niềm tin tới phụ huynh về công tác quản
lí, giáo dục của trường. Từ đó nó tạo ra không khí thuận lợi cho việc tâm sự giữa phụ
huynh, quản sinh, giáo viên để đi đến tiếng nói chung là đưa ra biện pháp giáo dục
hợp lí đối với học sinh vi phạm.
12. Phối hợp với phụ huynh học sinh và địa phương cư trú:
Đúng là môi trường nhà trường là môi trường tốt nhất để giáo dục học sinh
không chỉ về tri thức mà còn về phẩm chất đạo đức. Nhưng thời gian quản lí, giáo dục
học sinh ở trường rất hạn chế. Phần lớn thời gian học sinh ở gia đình cho nên vai trò
của phụ huynh cũng không kém phần quan trọng. Có nhiều phụ huynh chưa hiểu thấu
vấn đề, đổ lỗi cho sự quản lí của nhà trường và giáo viên chủ nhiệm là yếu kém.
Song thực chất, nếu họ không quan tâm đến con em, mải mê làm ăn thì sẽ dẫn tới sự
sa sút cả về học tập lẫn đạo đức của học sinh. Thế nên việc phối hợp giữa giáo viên
chủ nhiệm với gia đình, rộng hơn là với địa phương cũng rất quan trọng.
Liên lạc thường xuyên với phụ huynh học sinh của lớp sẽ giúp cho chủ nhiệm
nắm bắt rõ hơn về thời gian biểu của các học sinh cũng như các thói quen, sở thích và
tính cách của từng học sinh. Một khi hiểu rõ học sinh của mình hơn thì giáo viên chủ
nhiệm sẽ có nhiều giải pháp hơn để giúp học sinh của mình chuyên cần hơn trong việc
17
học tập cũng như duy trì tính chuyên cần của các em. Khi học sinh vi phạm những lỗi
nhẹ (đồng phục, tác phong…), thì tôi gửi giấy thông báo tới phụ huynh, yêu cầu học
sinh phải đưa cho phụ huynh, sau đó phụ huynh kí xác nhận và nộp trở lại cho giáo
viên chủ nhiệm. Đối với những lỗi nặng (cúp tiết, nói tục, hút thuốc…), thì tôi trực
tiếp gọi điện cho phụ huynh để thông báo, đồng thời đề nghị phụ huynh nhắc nhở học
sinh sửa chữa những khuyết điểm đó.
Khi có học sinh bỏ học, đánh nhau, tôi thông báo ngay cho Ban giám hiệu nhà
trường, đồng thời sắp xếp thời gian gặp trực tiếp phụ huynh để trao đổi các thông tin
cùng nhau tìm các giải pháp phối hợp tốt hơn đưa học sinh trở lại trường, ngăn ngừa
tái phạm. Học sinh sẽ trở nên chuyên cần, tích cực học tập hơn nếu sự phối hợp giữa
nhà trường và gia đình có hiệu quả đáng kể. Đối với những phụ huynh tích cực quan
tâm đến tình hình học tập của con em sẽ tích cực ủng hộ nhà trường nhằm tìm giải
pháp tốt nhất duy trì sĩ số học sinh trong nhà trường, góp phần nâng cao hiệu quả giáo
dục.
Trong các kỳ họp phụ huynh, bản thân tôi luôn lắng nghe nắm bắt nguyện vọng
của phụ huynh, những góp ý chân thành của họ và những tâm sự của họ về con em
của mình. Từ đó có thể có những biện pháp tốt hơn để quản lí, giáo dục các em. Tôi
cũng in sẵn phiếu liên lạc hàng tuần, lấy chữ ký và chữ viết của phụ huynh làm mẫu,
gửi phiếu liên lạc về gia đình nắm bắt ưu nhược điểm của con em mình, đưa ý kiến
nhận xét và yêu cầu đến ban giám hiệu nhà trường.
Hiện nay, trong môi trường giáo dục đã có không ít những trường hợp học sinh
thường xuyên vì các đam mê và nghiện ngập đã bỏ học, nhất là ham các trò chơi trên
Internet dẫn tới thường xuyên nghỉ học, tình hình học tập sa sút và bỏ học. Trong quá
trình chủ nhiệm những năm học vừa qua, tôi cũng đã gặp một số trường hợp vì sự lôi
cuốn của các trò chơi game đã thu hút dẫn đến nghỉ học giữa chừng. Để hạn chế
những trường hợp trên, tôi luôn theo dõi nắm bắt kịp thời các ảnh hưởng của các tác
động xã hội này. Từ đó có thể tìm hiểu để đề ra các biện pháp ngăn chặn tác động
này, đặc biệt là phải tìm hiểu cụ thể nguyên nhân. Từ đó phối hợp cùng với các lực
lượng xã hội nhanh chóng kìm chế tác động tiêu cực đến học sinh để các em đi học
thường xuyên hơn góp phần duy trì sĩ số học sinh. Trong từng tháng, bản thân tôi phải
có kế hoạch đến thăm hỏi hai đến ba gia đình phụ huynh học sinh, nhằm có biện pháp
xử lí kịp thời với các học sinh có biểu hiện không tốt trong học tập cũng như đạo đức
để kịp thời ngăn chặn các hành vi, biểu hiện tiêu cực.
13. Có phương pháp giáo dục học sinh cá biệt hợp lí
Thực trạng hiện nay, ở hầu hết các trường THPT đều xuất hiện một bộ phận học
sinh không chấp hành tốt nội qui nhà trường, học tập không nghiêm túc …,làm ảnh
hưởng không nhỏ đến nền nếp chung của nhà trường và chất lượng học tập giảm sút .
Số học sinh này thường được gọi là học sinh cá biệt. Học sinh cá biệt là thuật ngữ
thường dùng của nhà trường, thầy cô giáo chỉ những học sinh quậy phá, thường
xuyên gây gổ đánh nhau, bỏ giờ, trốn học …, không chấp hành nội qui nhà trường …
18
Thêm vào đó là sự lôi kéo của bạn bè về phía mình nhằm thỏa mãn cá tính hoặc thỏa
mãn nhu cầu giải tỏa tâm lý bị ức chế về hoàn cảnh của bản thân mình .
Nguyên nhân khiến các em biến thành những học sinh không tốt như vậy có thể
là ảnh hưởng của sự phát triển xã hội theo cơ chế thị trường với những dịch vụ không
lành mạnh như phim ảnh ảnh bạo lực, tình cảm lứa đôi quá trớn.. Bên cạnh đó là các
dịch vụ bida, internet, ka raokê … được tổ chức gần trường học, lôi cuốn, hấp dẫn các
em vào các trò chơi vô bổ. Các em lao vào các trò chơi đó dẫn đến bỏ giờ trốn học và
những vi phạm khác. Đồng thời, các kênh truyền hình chiếu một số bộ phim có mang
những hình ảnh bạo lực làm cho các em dễ dàng bắt chước.
Bên cạnh đó còn có thể do ảnh hưởng của môi trường giáo dục gia đình. Sự
thiếu quan tâm và không tạo điều kiện cho các em học tập của gia đình khiến các em
học tập không đến nơi đến chốn, chất lượng học tập bị ảnh hưởng, thua sút bạn bè
dẫn đến chán học, bỏ học . Hoặc những gia đình có cha mẹ bất hòa, không có hạnh
phúc làm cho các em dần dần bị ảnh hưởng, sự chán nản, thích đánh lộn để giải tỏa
tâm lý, bị ức chế, bỏ nhà đi chơi không thiết tha đến việc học, từ đó lực học giảm sút
dẫn đến chán học, bỏ học. Ngoài ra, những gia đình có người cha nát rượu, cũng ảnh
hưởng rất lớn đến học sinh, biến các em thành học sinh cá biệt.
Mặt khác, trường THPT Tôn Đức Thắng lại nằm ở khu vực có nhiều băng nhóm
tội phạm nên những em học sinh học yếu, chơi bời thường giao du với bọn người xấu.
Từ đó nhiễm thói hư tật xấu, một số em còn sẵn sàng đánh nhau, đâm chém bạn bè
với ý nghĩ mình được dân anh chị bên ngoài trường “bảo kê”. Đó cũng chính là con
đường đưa một số học sinh của trường vào nhóm học sinh cá biệt.
Thấy rõ được những nguyên nhân trên, với tư cách một giáo viên chủ nhiệm,
bản thân tôi đã trăn trở và cố tìm ra biện pháp tối ưu nhằm giáo dục học sinh cá biệt
trở thành con ngoan trò giỏi :
Thứ nhất là giáo dục học sinh thông qua giờ sinh hoạt lớp. Thông qua giờ sinh
hoạt lớp, tôi thường kể chuyện về những tấm gương tốt, đồng thời đưa ra những câu
chuyện về tác hại của việc chơi bời lêu lổng và tệ nạn xã hội. Đối với những học sinh
có biểu hiện sa ngã, quậy phá, tôi lấy nghĩa thầy trò khuyên bảo làm cho các em thấy
được khuyết điểm của mình. Với sự chân thành của giáo viên chủ nhiệm, các bạn
trong lớp, học sinh khi vi phạm sẽ sớm nhận ra lỗi lầm của mình mà sửa chữa .
Trong khi giáo dục các em, tôi không nặng về kiểm điểm, phê bình, mà phải tìm ra và
xác định đúng nguyên nhân đã tác động đến các em làm cho các em mắc sai lầm, vi
phạm.
Tôi cũng vận dụng những điều khoản trong nội qui, trong qui định xếp loại của bộ
giáo dục làm cho các em thấy được phạm vi vi phạm ở mức độ nào và nêu ra hướng
cho các em khắc phục. Tôi cũng phân tích một cách chân thành cho những em học
sinh cá biệt thấy rằng không nên vì suy nghĩ và hành động bồng bột nhất thời của cá
nhân mà ảnh hưởng tới sự nỗ lực, cố gắng trong thi đua của tập thể lớp.
Thứ hai là kết hợp với phụ huynh học sinh để giáo dục học sinh. Gia đình chính là
mái ấm của học sinh. Tình thương yêu của cha mẹ chính là điểm tựa để các em cố
gắng phấn đấu học tập và rèn luyện. Thông qua các bậc phụ huynh, tôi tìm hiểu
19
nguyên nhân các em rơi vào tình trạng không tốt như vậy. Từ đó cùng với gia đình,
quan tâm và khuyên bảo các em cố gắng bỏ cái xấu, tu tỉnh và học tập thật tốt vì chính
tương lai của mình
Thứ ba, tôi dùng phương pháp kết bạn. Thường lứa tuổi học sinh dễ bị ảnh hưởng
những thói hư tật xấu nhưng cũng dễ tiếp thu những điều hay lẽ phải, dễ hòa mình vào
những trò chơi có tính tập thể, tính giáo dục cao. Ông cha ta có câu “gần mực thì đen,
gần đèn thì sáng”. Do đó, tôi chọn ra nhũng người bạn tốt, cùng hoàn cảnh, cùng sở
thích, ước mơ ... sinh hoạt, học tập với đối tượng này dần dần lôi kéo các em hòa nhập
vào các cuộc chơi bổ ích, từ đó xóa bỏ các mặc cảm là học sinh hư để rồi cùng với các
thành viên trong lớp xây dựng tập thể vững mạnh . Thông qua nhóm bạn tốt, tôi giao
cho học sinh cá biệt thực hiện một số công việc, tạo những điều kiện để những học
sinh này hoàn thành và động viên khích lệ các em để các em xóa những tự ti, mặc
cảm là học sinh cá biệt để hòa mình với bạn bè. Biện pháp này có thể là do ảnh
hưởng của thầy giáo chủ nhiệm của tôi trước kia (Trước đây khi tôi còn học ở trường
THPT, thầy chủ nhiệm của tôi có thể nói là đã có một việc làm có một không hai. Đó
là thầy cho học sinh cá biệt làm lớp trưởng. Kết quả có thể nói là đầy bất ngờ. Từ chỗ
là một học sinh cá biệt, Hải đã trở thành một học trò biết nghe lời, được mọi học sinh
trong lớp nghe theo và nể phục, Hải thi đỗ tốt nghiệp và đỗ đại học Y Thái Bình).
Ngoài ra, tôi còn vận động gia đình của nhóm bạn tốt tham gia vào việc giúp đỡ
những học sinh này bằng cách tạo cho các em tâm lý xem gia đình của bạn như gia
đình mình, tạo điều kiện cho các em cùng tham gia học tập với con em mình để tách
dần ra khỏi nhóm bạn xấu.
Với một ngôi trường như tôi đang công tác, những biện pháp mà tôi áp dụng
với những học sinh cá biệt cũng đã phát huy tác dụng, đưa các em trở lại với môi
trường giáo dục lành mạnh, cố gắng trong học tập và rèn luyện. Những học sinh này
dù về sau có thể không lên lớp được, có thể không đỗ đạt gì nhưng hàng năm vẫn
thăm hỏi và cám ơn tôi, hay nhắc đến những kỉ niệm thời cắp sách khiến thầy phải
“nao lòng”.
III. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI:
Trong những năm về trước và trong năm học 2011- 2012, tôi đã vận dụng các
việc làm trên và đạt được những kết quả khả quan. Phần lớn các học sinh của lớp tôi
chủ nhiệm có ý thức học tập, kỷ luật cao, có tinh thần thi đua học tập.
Kết quả học tập ngày càng được nâng cao, hạnh kiểm của các em đa phần là hạnh
kiểm tốt, các em khá lễ phép khi gặp giáo viên trong trường và nghe lời thầy cô.
Trong giờ học, các em có ý thức tự giác học tập, nghiêm túc và giữ trật tự.
Ngoài ra, các em còn có ý thức và hành động giữ gìn lớp sạch đẹp, có tinh thần
tương thân, giúp đỡ nhau trong học tập cũng như sinh hoạt. Sĩ số lớp đã được duy trì
100% trong mấy năm vừa qua tôi chủ nhiệm (trừ năm đầu mới về trường, có 2 em
nghỉ học), số học sinh ở lại lớp tương đối ít so với toàn trường. Trong ba năm học liên
tiếp từ 2009- 2010, 2010-2011, 2011-2012, những lớp do tôi chủ nhiệm thường đứng
trong tốp đầu của trường về thi đua thường xuyên và được Đoàn trường khen tặng
Danh hiệu thi đua tốt.
20
Bảng số liệu so sánh kết quả học tập và hạnh kiểm của học sinh lớp tôi chủ
nhiệm trong 5 năm công tác vừa qua ở trường THPT Tôn Đức Thắng:
Năm học
Học lực
Hạnh kiểm
Sĩ số
Giỏi Khá TB Yếu Kém Tốt Khá TB Yếu
2007-2008 37
1
9
20
5
2
30
5
2
0
2008-2009 39
3
11
22
3
0
34
4
1
0
2009-2010 40
4
13
21
2
0
36
3
1
0
2010-2011 38
2
12
23
1
0
34
4
0
0
2011-2012 39
3
11
22
3
0
36
3
0
0
Qua bảng thống kê, có thể thấy kết quả học tập và rèn luyện qua các năm đều
có chuyển biến theo hướng tích cực. Về học lực, tỉ lệ học sinh yếu, kém giảm dần, số
học sinh đạt học lực trung bình tăng lên. Về hạnh kiểm, số học sinh đạt hạnh kiểm tốt
là chủ yếu, chỉ có một số ít học sinh xếp hạnh kiểm khá, số học sinh xếp loại trung
bình khá ít và giảm hẳn qua các năm, không có học sinh xếp hạnh kiểm yếu. Đó chính
là hiệu quả của việc áp dụng những biện pháp trên.
IV. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
Những biện pháp mà tôi áp dụng cho lớp chủ nhiệm thực chất cũng không phải
là hoàn toàn mới. Có một số việc làm tôi đã học hỏi từ những giáo viên có kinh
nghiệm, trên cơ sở đó đổi mới và vận dụng cụ thể vào lớp của mình. Cũng có những
biện pháp do tôi nghĩ ra trong quá trình làm chủ nhiệm lớp. Nhưng nhìn chung, tôi
thấy hiệu quả của nó rất tốt đối với công tác chủ nhiệm của mình. Cách thức mà tôi
vận dụng đã được nhiều thầy cô khác trong trường, đặc biệt là những giáo viên mới về
trường công tác tìm hiểu và thực hiện đối với lớp họ chủ nhiệm. Và đa số các thầy cô
đều rất ủng hộ sáng kiến kinh nghiệm của tôi bởi tính khả thi của nó. Vì thế, theo tôi
những biện pháp này có thể phổ biến trong toàn ngành để đem lại hiệu quả và chất
lượng giáo dục, giáo dưỡng học sinh, góp phần tạo nên sự toàn diện cho nền giáo dục
nước nhà.
Để công tác chủ nhiệm lớp được thuận lợi và có hiệu quả cao, tôi có một số đề
xuất sau:
- Đối với nhà trường: cần cung cấp cho giáo viên chủ nhiệm những tài liệu liên
quan tới công tác chủ nhiệm, những sách báo nói về giáo dục, rèn luyện nhân cách
học sinh, bồi dưỡng tri thức hoặc những sách báo về tâm sinh lí lứa tuổi học sinh. Bên
cạnh đó Ban giám hiệu nhà trường cần tăng cường hội ý và phối hợp với giáo viên
chủ nhiệm để nắm bắt tình hình và đưa ra những cách thức xử lí vi phạm
- Đối với phụ huynh học sinh: cần quan tâm tới việc học tập, rèn luyện đạo đức ở
nhà của học sinh một cách sát sao. Phải thường xuyên liên lạc với giáo viên chủ
nhiệm để nắm bắt được những thông tin về con em của mình, phối hợp với giáo viên
chủ nhiệm để giáo dục, giáo dưỡng học sinh tốt hơn.
- Đối với chính quyền địa phương: cần giúp đỡ cho những học sinh nghèo, bệnh tật
để các em có điều kiện cắp sách tới trường. Cần phối hợp với nhà trường và các lực
21
lượng chức năng tìm hiểu, vận động những học sinh nghiệp ngập, cá độ, ham chơi
game…từ bỏ thói hư tật xấu để trở lại với mái trường học tập và tu dưỡng đạo đức.
- Đối với Sở giáo dục: rất mong được sự đồng tình, ủng hộ với sáng kiến kinh
nghiệm trên và triển khai rộng rãi đến các lớp, các trường trong toàn ngành.
V. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Điều lệ: Trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông
có nhiều cấp học (Ban hành kèm theo Quyết định số: 07/2007/QĐ-BGDĐT ngày
02/4/2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo).
NGƯỜI THỰC HIỆN
Trịnh Văn Hiệu
SỞ GD & ĐT ĐỒNG NAI
Trường THPT Tôn Đức Thắng
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Tân Phú, ngày 25, tháng 5, năm 2012
PHIẾU NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Năm học: 2011-2012
Tên sáng kiến kinh nghiệm: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Họ và tên : Trịnh Văn Hiệu
Chức vụ: Tổ phó
22
Đơn vị (tổ): Sử - Địa – Công Dân
Lĩnh vực:
Quản lý giáo dục
Phương pháp dạy học bộ môn:…………. .………….
Phương pháp giáo dục
Lĩnh vực khác: Phương pháp chủ nhiệm
Sáng kiến kinh nghiệm đã được triển khai áp dụng: Tại đơn vị Trong Ngành
1. Tính mới
- Có giải pháp hoàn toàn mới
- Có giải pháp cải tiến, đổi mới từ giải pháp đã có
2. Hiệu quả
- Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao
- Có tính cải tiến và đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng
trong toàn ngành có hiệu quả cao
- Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả cao
- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai tại đơn vị
có hiệu quả
3. Khả năng áp dụng
- Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách :
Tốt
Khá
Đạt
- Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực hiện
và dễ đi vào cuộc sống:
Tốt
Khá
Đạt
- Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt hiệu
quả trong phạm vi rộng:
Tốt
Khá
Đạt
XÁC NHẬN CỦA TỔ CHUYÊN MÔN
(Kí tên và ghi rõ họ tên)
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
(Ký tên, ghi rõ họ tên và đóng dấu)
23