Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Phương thức lãnh đạo của đảng đối với lĩnh vực kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.58 KB, 16 trang )

MỤC LỤC.
A. PHẦN MỞ ĐẦU .
1. Tính cấp thiết của đề tài.
2. Giới hạn của đề tài.
3. Mục đích nghiên cứu .
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài.
5. Kết cấu của đề tài.
B. PHẦN NỘI DUNG.
Chương I . Cở sở lý luận về phương thức lãnh đạo của Đảng
1. Quan điểm định phương thức lãnh đạo của Đảng và khái niệm phương
thức lãnh đạo của Đảng về kinh tế.
1.1 Quan điểm xác định phương thức lãnh đạo của Đảng .
1.2Khái niệm phương thức lãnh đạo của Đảng về kinh tế
2. Những nội dung lãnh đạo của Đảng về kinh tế
3. Phương thức lãnh đạo của Đảng về kinh tế.
Chương II. Thực trạng của vấn đề kinh tế
1. Thành tựu của nền kinh tế
2. Những khuyết điểm , yếu kém của nền kinh tế
3. Nguyên nhân chủ yếu trong quá trình xây dựng và phat triển kinh tế
Chương III. Phương hướng , giải pháp phát triển kinh tế
1. Phương hướng phát triển kinh tế
2. Giải pháp .
2.1Cở sở để xác định nêu lên giải pháp
2.2 Một số giải pháp
3. Một số kiến nghị.
C. KẾT LUẬN.


A. PHẦN MỞ ĐẦU.
Chủ nghĩa Mác lênnin đã khẳng định kinh tế và hoạt động kinh tế
luôn là cơ sở cho sự tồn tại , phat triển của xã hội và sự vận động của


kinh tế là một mặt phải tuân theo quy luật khách quan, mặt khác trong
xã hội có sự phân chia giai cấp còn chịu sự tác động, sự định hướng của
giai cấp tiêu biểu cho phương thức sản xuất tiến bộ nhất trong mỗi thời
đại lịch sử
Sau khi giành được chính quyền , để tiếp tục sứ mệnh lịch sử, giai cấp
công nhân thông qua Đảng của mình có trách nhiệm nặng nề lãnh đạo
thực hiện nhiệm vụ trung tâm của cách mạng là xây dựng và bảo vệ đất
nước , trong đó tiến hành công cuộc phát triển kinh tế xã hội là vấn đề
hàng đầu trong toàn bộ họat động của đảng
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Trước hết phải khẳng định rằng Đảng lãnh đạo kinh tế là một tất yếu
lịch sử . Bởi lẽ xét đến cùng mọi cuộc cách mạng được tiến hành từ xưa
tới nay trước hết vì lợi ích kinh tế . Và chính lợi ích kinh tế là nguyên
tắc điều tiết cơ bản mà mọi nguyên tắc khác phải tuân theo . Đối với
cuộc cách mạng XHCNvà xây dựng CNXH càng phải như vậy, như
C.Mác đã nói về cuộc cách mạng này lại do giai cấp công nhân và nhân
dân lao động tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản .”về thực
chất, CNXHvề mặt tổ chức là một vấn đề có tính chất kinh tế”.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với kinh tế hơn nữa còn là đòi hỏi của lịch
sử. Nếu như vai trò lịch sử của giai cấp công nhân trong cuộc đáu tranh
giành chính quyền , thiết lập nền chuyên chính vô sản quy định sự cần
thiết phải có Đảng lãnh đạo , thì vai trò lãnh đạo ngày càng tăng lên sau
khi chính quyền đã về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động và
nhiệm vụ chủ yếu là cải tạo và xây dựng xã hội mới – một công việc
còn khó khăn hơn việc giành chính quyền , Lênin đã khẳng định :
“Những thành tựu về mặt chinh trị (…)hoặc là sẽ tiêu tan mất , hoặc là
phải làm cho những thành tựu ấy đứng vững trên một cơ sở kinh tế .
Nói sự lãnh đạo của Đảng ngày càng tăng trong Chủ nghĩa xã hội ,
trước hết và thực chất là phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
kinh tế. Đảng ta cho rằng : “Quy mô rộng lớn và tính chất phức tạp của

những nhiệm vụ kinh tế xã hội trong thời kỳ quá độ đang đòi hỏi tăng
cường không ngừng năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”.
Nói cách khác , con đường đi lên của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động không giản đơn mà rất phức tạp , đời sống kinh tế không
ngừng vận động và luôn luôn đặt ra những vấn đề mới mẻ, chỉ có tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng mới có thể đảm bảo tính mới mẻ, chỉ có
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng mới có thể đảm bảo tính đúng đắn
của các giải pháp kinh tế để đưa nền kinh tế phát triển thuận lợi .Thành
tựu to lớn có ý nghĩa hàng đầu mấy năm đổi mới của Đảng ta là khắc
phục đựơc một bước quan trọng trong tình trạng khủng khoảng kinh tế
xã hội vừa qua là một bằng chứng cụ thể. Nếu Đảng ta từ bỏ lãnh đạo
sự nghiệp xây dựng và phat triển kinh tế cũng có nghĩa là Đảng từ bỏ


lãnh đạo xây dựng CNXH, làm cho sự lãnh đạo không có nội dung
không có mục đích .Do đó , Đảng lãnh đạo đối với kinh tế là một sự
nghiệp đúng đắn nhất của chúng ta cả về nguyên tắc lẫn thực tiễn như
Lênin đã nói.
Tuy vậy , cũng phải hiểu rằng lãnh đạo kinh tế của Đảng là lĩnh vực
khó khăn nhất do đó “ chính ở chỗ này(…) mà chúng ta gặp nhiều thất
bại và mắc sai lầm nhất” mà Lênin đã khẳng định và điều đó lại càng
khó khăn hơn đối với những đất nước mà sản xuất nhỏ là phổ biến , tiểu
tư sản còn chiếm số đông trong dân cư . Thực tiễn trên 70 năm xây
dựng CNXH trên thế giới và quá trình xây dựng CNXH ở nước ta từ
năm 1954đến nay là một minh chứng rõ ràng nhất.
Với lý do trên em mạnh dạn chọn đề tài “ Phương thức lãnh đạo của
Đảng về kinh tế”làm đề tài nghiên cứu của mình trong học phần “Đảng
lãng đạo các lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội”. Nhằm góp phần
vào công cuộc xây dựng và chỉnh đốn Đảng ,và đưa ra phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với kinh tế lên một tầm cao mới .Đây là vấn đề

đòi hỏi bức thiết và phù hợp với chủ trương của Đảng ,nhà nước trong
giai đoạn hiện nay.
2. Giới hạn của đề tài.
“Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực kinh tế” là một đề tài
có phạm vi tương đối rộng ,với nhiều nội dung và vấn đề cần làm rõ trong
giai đoạn hiện nay .Song do yêu cầu của học phần và phạm vi nghiên cứu
có hạn của mình, người viết chỉ tập chung làm rõ nội dung của phương
thức lãnh đạo của Đảng về kinh tế và từ đó thấy được những thực trạng
của nền kinh tế hiện nay như thế nào để đưa ra được những giải pháp đúng
đắn nhằm phát triển nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài.
Đề tài nghiên cứu có tính chất hệ thống trên cơ sở đó rút ra từ lịch sử
những vấn đề cần vận dụng cho hiện tại và tương lai của phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với lĩnh vực kinh tế. Mục đích của đề tài làm rõ những
vấn đề như : Cần phân định đúng vai trò lãnh đạo kinh tế của Đảng với
chức năng quản lý kinh tế của nhà nước. Sự lãnh đạo của Đảng đối với
kinh tế là đòi hỏi của chính bản thân Đảng, tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với kinh tế là đòi hỏi của nhân dân. Để từ đó xác định đúng mục
đích nghiên cứu của đề tài
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài.
Đề tài nằm trong phạm vi nghiên cứu của khoa học xây dựng Đảng cho
nên cũng như các môn học khác, đề tài lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử làm phương pháp luận.
Bên cạnh đó đề tài còn sử dụng phương pháp lịch sử- lôgic và phương
pháp phân tích tổng hợp là chủ yếu. Ngoài ra còn sử dụng một số phương
pháp đối chiếu so sánh, thống kê trong đó coi trọng phương pháp tổng kết
thực tiễn.
5. Kết cấu của đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục thì đề tài gồm có 3 chương.



Chương 1 : Cơ sở lý luận về phương thức lãnh đạo của Đảng.
Chương 2: Thực trạng của vấn đề kinh tế.
Chương 3: Phương pháp- giải pháp phát triển kinh tế.
B. PHẦN NỘI DUNG.
Chương I: Cơ sở lý luận về phương thức lãnh đạo của Đảng
1. Những quan điểm xác định phương thức lãnh đạo của Đảng và khái
niệm phương thức lãnh đạo của Đảng về kinh tế .
1.1 Những quan điểm để xác định phương thức lãnh đạo của Đảng .
Chủ nghĩa Mác Lênin là hệ thống lý luận cách mạng về khoa học về
cuộc cách mạng của giai cấp công nhân nhằm tự giải phóng là kết tinh tinh
hoa trí tuệ của nhân loại , là cơ sở của Đảng cộng sản vạch ra cương lĩnh ,
đường lối ,chiến lựơc ,sách lựơc cách mạng trong cuộc đấu tranh lật đổ chủ
nghĩa tư bản xây dựng thành công CNXH. Chủ nghĩa Mác Lênin là hệ tư
tưởng của giai cấp công nhân , là nền tảng tư tưởng chính trị và kim chỉ
nam cho hành động của Đảng cộng sản.
Chủ tịch Hồ chí Minh đã chỉ ra rằng : Chủ nghĩa Mác lênin đối với những
người cách mạng và nhân dân Việt Nam , “không những là cái cẩm nang”,
thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam , mà còn là mặt trời soi sáng con
đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng ,đi tới CNXH và chủ nghĩa cộng
sản”. Người còn khẳng định rõ ,ngày nay học thuyết nhiều ,chủ nghĩa lắm,
nhưng chủ nghĩa chân chính nhất cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác-lênin.
Tư tuởng Hồ chí Minh là sự tiếp nối ,vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam ,là sự kết
tinh có chọn lọc tinh hoa văn hoá thế giới ,truyền thống văn hoá lâu đời
của dân tộc Việt Nam , là tổng hợp các phương pháp tư duy, hành động
mang tính cách mạng và khoa học.
Từ khi Đảng ta ra đời đến nay, cách mạng Việt Nam đã trải qua nhiều giai
đoạn cực kỳ khó khăn và phức tạp ,nhưng Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta
vượt qua mọi trở ngại , liên tiếp giành được những thắng lợi to lớn .Đạt

được những thành công to lớn đó , trước hết vì Đảng ta đã một mực trung
thành với chủ nghĩa Mác Lênin, tư tuởng vận dụng sáng tạo vào điều kiện
thực tiễn của cách mạng Việt Nam ,đề ra được đường lối chiến lược ,sách
lựơc và phương pháp cách mạng đúng đắn . Đảng ta luôn luôn “lấy chủ
nghĩa Mác Lênin và Tư tưởng Hồ chí Minh làm nền tảng tư tưởng ,kim chỉ
nam cho hành động”.
Để chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ chí Minh thực sự là nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nam trong quá trình lãnh đạo của Đảng ,các cấp uỷ Đảng
và cán bộ lãnh đạo ,quản lý các cấp thuộc lĩnh vực cần thực hiện tốt những
điểm sau:
Một là, Phải nắm vững chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ chí Minh
Hai là, Phải biết vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ
chí Minh vào hoàn cảnh và điều kiện cụ thể .
Ba là, Phải đấu tranh để bảo vệ chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ chí
Minh


Nếu xa rời chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ chí Minh và những quan
điểm cơ bản của Đảng ta thì việc xác định nội dung , phương thức lãnh đạo
của Đảng đới với các lĩnh vực sẽ bị chệch hướng ,xa rời mục tiêu CNXH,
sẽ không tránh khỏi sự giản đơn ,sơ lược.
1.2 Khái niệm phương thức lãnh đạo của Đảng về kinh tế.
Đối với các Đảng cộng sản cầm quyền phướng thức lãnh đạo của Đảng
coi là vấn đề hệ trọng.
Vậy phương thức lãnh đạo của Đảng nói chung là hệ thống các phương
pháp hình thức mà Đảng ta xác định để tác động vào các lực lượng ,các tổ
chức nhằm thực hiện tốt nội dung lãnh đạo .
Phương thức lãnh đạo thay đổi cùng với sự thay đổi của nhiệm vụ cách
mạng của đường lối ,chủ trương ,chính sách của Đảng trong từng thời kỳ
giai đoạn .

Phương thức lãnh đạo của Đảng là một trong những lĩnh vực đòi hỏi chủ
thể lãnh đạo phải năng động và có nhiều sáng tạo .
Phương thức lãnh đạo của Đảng là phụ thuộc vào nội dung lãnh đạo của
Đảng.
Nhìn lại lịch sử của Đảng ta, nhất là lịch sử 50 năm cầm quyền thì thấy ở
mỗi thời kỳ ,với những nhiệm vụ chính trị khác nhau ,Đảng có những
phương pháp lãnh đạo phù hợp với đặc điểm của từng thời kỳ
Thời kỳ lãnh đạo chiến tranh giải phóng dân tộc (trước năm 1975). Do
những yêu cầu gay gắt tính chất khẩn trương và sự sống còn của cách
mạng, với khẩu hiệu “tất cả cho tiền tuyến , tất cả để chiến thắng”, phương
thức lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ này là toàn diện , tuyệt đối và trực
tiếp .Cùng với xác định đường lối cách mạng đúng đắn ,bằng phương pháp
lãnh đạo này , Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành thắng lợi kháng
chiến .
Thời kỳ lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước (từ năm 1976
đến năm1986) .Đảng vừa xây dựng đường lối cách mạng XHCN ở một
nước chậm phát triển, vừa thoát khỏi cuộc chiến tranh lâu dài ác liệt với cố
gắng tìm tòi cơ chế lãnh đạo mới .Đó là cơ chế “Đảng lãnh đạo ,Nhà nước
quản lý,nhân dân lao động làm chủ” .Với phương thức này Đảng lãnh đạo
tập trung sức mạnh vật chất của cả nước quy tụ tất cả các tổ chức chính trị
–xã hội phù hợp với nền kinh tế kế hoạch hoá và điều hành tập trung.
Thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến nay).Trong công cuộc đổi mới ,với việc
chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của nhà nước và mở cửa hội nhập với nền kinh tế thế giới ,hệ
thống chính tri có bước phát triển mới ,Nhà nước phải tiến hành quản lý
đất nước bằng pháp luật .Cùng với sự thay đổi toàn diện và sâu sắc về kinh
tế xã hội sự đổi mới về hệ thống chính trị và quá trình phát triển dân cư xã
hội Đảng đã từng bước đổi mới sự lãnh đạo ,vừa giữ vững các nguyên
tắc ,vừa đổi mới phương thức lãnh đạo theo hướng : Đảng cầm quyền ,xây
dựng Nhà nước pháp quyền , Nhà nước thực thi quyền lực của dân ,do dân

và vì dân.


Từ trước tới nay ,Đảng mới đặt vấn đề đổi mới cách thức , lề lối làm việc
cải tiến phương pháp lãnh đạo , phong cách công tác của cán bộ ,chưa đặt
vấn đề hình thành ,đổi mới ở tầm phương thức lãnh đạo, chưa cơi phương
thức lãnh đạo cùng với công tác tổ chức cán bộ là nội dung cốt yếu của
công tác xây dựng Đảng .Cơ sở của sự hình thành phương thức lãnh đạo
của Đảng như sau:
Phương thức lãnh đạo của Đảng phải phù hợp với nhiệm vụ chính trị của
Đảng trong mỗi thời kỳ và với từng lĩnh vực khác nhau.
Phương thức lãnh đạo của Đảng phải đáp ứng và phù hợp sự phát triển của
hệ thống chính trị và trình độ dân cư của xã hội.
Phương thức lãnh đạo của Đảng vừa tuỳ thuộc ,vừa phản ánh sự trưởng
thành của tổ chức và của đội ngũ cán bộ .
Phương thức lãnh đạo của Đảng phụ thuộc vào sự phát triển cùa khoa học
quản lý và phương tiện kỹ thuật phục vụ lãnh đạo .
Từ đó ta đưa ra được khái niệm về phương thức lãnh đạo của Đảng về kinh
tế là sự định hướng , tác động của Đảng vào toàn bộ hoạt động kinh tế
bằng hệ thống các nguyên tắc , hình thức phương pháp nhằm đạt được mục
tiêu chiến lược kinh tế –xã hội đã định”.
2. Những nội dung lãnh đạo kinh tế của Đảng.
Qua thực tiễn lãnh đạo kinh tế của Đảng ta và kinh nghiệm của các
nước, có thể xác định nội dung lãnh đạo kinh tế của Đảng ta chủ yếu ở
những điểm sau:
Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước .
Bất kỳ nền kinh tế của một nước nào cũng có thể có nhiều con đường ,
nhiều khuynh hướng phát triển . Có thể phát triển chủ yếu dựa vào khả
năng của đất nước , cũng có thể chủ yếu nhờ sự viện trợ , giúp đỡ hoặc lệ
thuộc hoàn toàn vào nước ngoài .Có thể phát triển nhanh ,nhưng không

vững chắc ,có thể phát triển chậm mà chắc chắn .Nhưng dù phát triển theo
con đường nào thì nền kinh tế của từng nước cũng phải dựa trên cơ sở hệ
thống lý luận về phát triển kinh tế – xã hội của nước ấy .ở nước ta ,Đại hội
lần thứ sáu của Đảng ta đã xác định đường lối đổi mới ,coi phát triển kinh
tế là nhiệm vụ trọng tâm gắn đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị …đã mở
ra một thời kỳ mới cho đát nước phat triển .Tiếp đó ,Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII Đảng ta đã đề ra cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá đọ lên CNXH, chiến lược ổn định và phát triển kinh tế –xã hội đến
năm 2000.
Đảng quyết định đường lối và những chủ trương lớn về kinh tế .Sự nhất trí
và nhất quán trong tổ chức thực hiện đường lối ,chính sách là một điều
kiện quyết định thắng lợi của đường lối chính sách .Sự nhất trí này tạo ra
sức chiến đấu của tổ chức Đảng và niềm tin trong quần chúng .
Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước vững mạnh đủ sức quản lý có hiệu
quả nền kinh tế quốc dân.
Xác định hiệu quả lãnh đạo của Đảng thể hiện ở năng lực quản lý của Nhà
nước là thước đo trình độ lãnh đạo của Đảng .Vì vậy nhiệm vụ cực kỳ


quan trọng của Đảng là xây dựng ,củng cố và không ngừng nâng cao hiệu
quả quản lý kinh tế của Nhà nước .
Lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ công chức và lao động có tay nghề
cao.
Chúng ta chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường , có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
XHCN. Đây không chỉ đơn giản là thay đổi mô hình kinh tế , mà thay đổi
hình thức tổ chức kinh tế thay đổi cơ chế quản lý và thay đổi cả nếp nghĩ
cách thức sản xuất kinh doanh và cả lối sống của từng người . Không
những thế phải đặt nền kinh tế nước ta trong điều kiện có sự cạnh tranh với
các nước trong khu vực và trên thế giới .

Như vậy ,từ nội dung của Đảng lãnh đạo kinh tế thì ta đưa ra được nội
dung của phương thức Đảng lãnh đạo kinh tế.
3. Phương thức lãnh đạo kinh tế của Đảng .
Gồm các nội dung sau:
3.1. Lãnh đạo bằng chủ trương, đường lối bằng sự chỉ đạo các vấn đề lớn
do thực tiễn đặt ra.
Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với lĩnh vực kinh tế trước hết
bằng đường lối chung ,đường lối kinh tế và các nghị quyết của Đảng .Đường
lối chung chỉ ra quan điểm về sự thống nhất giữa các lĩnh vực chính trị ,kinh
tế, văn hoá ,quốc phòng … Đường lối kinh tế là sự cụ thể hoá đường lối
chung của Đảng trong lĩnh vực kinh tế , xác định mục tiêu ,nhiệm vụ và các
giải pháp tổng quát .Các nghi quyết của Đảng có tầm bao quát và giá trị chỉ
đạo thực tiễn ,đồng thời thể hiện những quan điểm lớn của Đảng mà toàn
Đảng ,các cơ quan Nhà nước ,các cấp, các ngành ,các đoàn thể phải nghiêm
chỉnh thi hành. Lãnh đạo lĩnh vực kinh tế ,đòi hởi Đảng ngoài việc ra nghị
quyết còn cần thường xuyên theo dõi sự biến động của đời sống kinh tế ,kịp
thời phát hiện các mâu thuẫn để có ý kiến chỉ đạo.
3.2.Lãnh đạo quá trình cụ thể hoá thể chế hoá đường lối thành kế hoạch
phát triển kinh tế xã hội.
Việc thể chế hoá ,cụ thể hoá đường lối của Đảng thành các đạo luật ,chính
sách và có các biện pháp quản lý phù hợp là một khâu rất quan trọng để Đảng
thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với lĩnh vực kinh tế , bởi tuy có đường lối
đúng nhưng không được cụ thể hoá ,thể chế hoá kip thời ,sáng tạo thì cũng
không đi vào cuộc sống được , không trở thành động lực thúc đẩy và ràng
buộc về mặt luật pháp để tất cả mọi người tuân theo .Phương thức thực hiện
công việc này ở cấp Trung ương.
3.3. Đảng lãnh đạo xây dựng các tổ chức Đảng và phân công đảng viên.
Cùng với lãnh đạo bằng đường lối ,chủ trương, NQ, Đảng còn lãnh đạo
thông qua các tổ chức Đảng và đảng viên trong cơ quan Nhà nứơc và các tổ
chức kinh tế quốc doanh trọng yếu . Nếu không có tổ chức Đảng trong cơ

quan Nhà nứơc và tổ chức kinh tế thì sự lãnh đạo của Đảng sẽ trở nên chung
chung, không có người trực tiếp thực hiện ,các đảng viên ở đó cũng không có
đầu mối tổ chức để liên hệ ,sinh hoạt …Điều này cũng hoàn toàn đối lập với ý
kiến cho rằng chỉ nên có các tổ chức Đảng theo địa bàn dân cư ,không cần


thành lập ở các cơ quan Nhà nước và các doanh nghiệp .Sự có mặt của tổ
chức Đảng và đảng viên chủ chốt trong các cơ quan và tổ chức kinh tế là điều
kiện thuận lợi cho Đảng triển khai sự lãnh đạo .Thông qua các tổ chức Đảng
và cá nhân đảng viên là cán bộ chủ chốt trong cơ quan Nhà nước và các tổ
chức kinh tế ,Đảng thực hiện sự lãnh đạo lĩnh vực kinh tế là vấn đề quan
trọng , không được coi nhẹ.
3.4. Đảng lãnh đạo việc tổ chức phối hợp giữa các cơ quan các đoàn thể và
tổ chức kinh tế.
Để phát triển kinh tế ,quản lý có hiệu quả các hoath động kinh tế cần có sự
tham gia của các cơ quan Nhà nước làm chức năng lập pháp ,hành pháp, tư
pháp của các đoàn thể nhân dân và sự hưởng ứng của các tổ chức đó có thể
không đồng bộ , không ăn khớp ,thậm chí có sự mâu thuẫn với nhau .Do vậy
Đảng cần làm đầu mối quy tụ nỗ lực chung của các hệ thống tổ chức ấy ,tổ
chức phối hợp và thực hiện sự phân công , phân nhiệm rõ ràng theo chức
năng và khả năng của từng tổ chức .
3.5. Đảng lãnh đạo bằng công tác kiểm tra.
Kiểm tra là một chức năng của Đảng, lãnh đạo mà không kiểm tra coi
như không kiểm tra. Việc kiểm tra của Đảng được tiến hành ngay trong quá
trình xây dựng đường lối và tổ chức cho guồng máy quản lý ,sản xuất của xã
hội vận hành .Việc làm đó nhằm : Thứ nhất tăng tính đúng đắn ,chính xác của
chủ trương ,đường lối do Đảng đề ra, khi cần thì điều chỉnh ; thứ hai ,xem xét
uốn nắn việc tổ chức thực hiện của các cấp uỷ Đảng ,các cơ quan Nhà nứoc
và các tổ chức kinh tế ; thứ ba, điều chỉnh phân phối giữa các cơ quan Nhà
nước ,các đoàn thể ; thứ tư, phát hiện các sai phạm của cán bộ ,đảng viên

,phát hiện và khẳng định, động viên kịp thời những tập thể và cá nhân tiên
tiến …Ngoài Đảng còn duy trì nghiêm chế độ tự phê bình và phê bình trong
Đảng.
3.6. Đảng lãnh đạo thông qua đội ngũ đảng viên .
Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân ,do nhân dân và vì nhân dân. Đảng
lãnh đạo ,Nhà nước quản lý cũng là nhằm phát huy tốt vai trò ,năng lực làm
chủ của nhân dân.Vì vậy sẽ là sai lầm nếu Đảng chỉ chăm lo xây dựng ,lãnh
đạo Nhà nước mà sao nhãng động viên toàn dân thăm gia tích cực vào các
quá trình kinh tế –xã hội của đất nước. Muốn vậy ,ngoài việc tăng cường sức
thuyết phục ,hấp dẫn của đường lối ,chính sách là việc các đảng viên của
Đảng ở các đơn vị công tác khác nhau nêu cao vai trò tiên phong ,gương
mẫu ,có năng lực quản lý kinh tế giởi tạo được nhiều việc làm và nâng cao thu
nhập cho người lao động thực hiện công bằng xã hội .
Từ những phương thức lãnh đạo của Đảng đối với kinh tế thì ta rút ra ý nghĩa
của phương thức lãnh đạo của Đảng về lĩnh vực kinh tế .
Sự lãnh đạo kinh tế của Đảng và quản lý kinh tế của Nhà nước là sự tác động
của kiến trúc thượng tầng đối với sự hình thành và phát triển của cơ sở kinh
tế. Vai trò lãnh đạo và quản lý kinh tế của Nhà nước phải tạo ra sự tác động
,thúc đẩy kinh tế phát triển đúng hướng .Do đó , phải có sự phân định rõ chức
năng cơ quan Đảng với chức năng cơ quan Nhà nước .Trước hết phải tổ chức
bộ máy chính quyền thành cơ quan thật sự dân chủ và có quyền lực .Đó là


Nhà nước pháp chế của nhân dân ,là kênh chủ yếu của mối liên hệ hai chiều
giữa Đảng lãnh đạo với nhân dân, với các giai cấp và các tầng lớp xã hội
.Không ngừng cải tiến lề lối làm việc liên hệ giữa cơ quan Đảng với cơ quan
chính quyền (trong các hoạt động lập pháp ,hành pháp và quản lý hàng ngày).
Các hoạt động quản lý kinh tế của Nhà nước phải phân định rõ với hoạt động
quản lý kinh doanh của các đợi vị kinh tế. Cơ quan Đảng thường xuyên tổ
chức sự kiểm tra đối với hoạt động quản lý kinh tế của chính quyền .Sự kiểm

tra này của Đảng phải phối hợp chặt chẽ với sự kiểm tra của nhân dân của các
tổ chức quần chúng ,nhằm bảo đảm cho chính quyền luôn luôn đổi mới phù
hợp với yêu cầu phát triển kinh tế ,tránh được nguy cơ quan liêu,thoái hoá.
Vậy tuy còn nhiều khó khăn và thách thức phải vượt qua nhưng thắng lợi của
quá trình đổi mới ở nước ta chứng minh tính đúng đắn ,khoa học và cách
mạng của lý luận Mác Lênin,tư tưởng Hồ chí Minh về CNXH, về thời kỳ quá
độ lên XHCN, nhất là ở nứơc nông nghiệp ,kinh tế chậm phát triển .Thực tiễn
đổi mới đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn tăng thêm niềm tin
vào con đường đi lên CNXH ở nước ta.
CHƯƠNGII. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ KINH TẾ.
1. Những thành tựu của nền kinh tế.
Trong bối cảnh quốc tế ,trong nước sau 10 năm có nhiều biến động mới
chúng ta kiên trì đường lối đổi mới và làm biến đẩy nhanh nhịp độ phát triển
kinh tế ,hoàn thành vượt mức nhiều mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm.
Bình quân 5 năm 1991-1995 nhịp độ tăng GDP đạt 8,2%(kế hoạch %năm
6,5%) sản xuất công nghiệp là 13,3%,nông nghiệp 4,5%, kim ngạch xuất khẩu
20%. Cơ cấu kinh tế có bứơc chuyển đổi –tỷ trọng công nghiệp và xây dựng
trong GDP tăng từ 22,6% lên 29,1%, dịch vụ tăng từ 38,6% lên 41,9% đã có
tích luỹ nội bộ từ nền kinh tế .Vốn đầu tư cơ bản toàn xã hội năm 1990 chiếm
15,8%GDP, năm1995 là 27,4%, trong đó đầu tư của nước ngoài đạt 29 tỷ
USD trong đó gần 1/3 đã thực hiện . Lạm phát từ mức 67,1% năm 1991 giảm
xuống còn 12,7% năm1995.Gần ba nămqua Đảng và Nhà nươcs đã tập trung
lãnh đạo nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế ,đạt được những kết quả
quan trọng Nền kinh tế đã vượt qua giai đoạn suy giảm tốc độ tăng trưởng khá
cao, chất lượng ,hiệu quả và sức cạnh tranh của một số lĩnh vực và sản phẩm
có chuyển biến .


Ba năm liền tốc độ tăng trưởng kinh tế năm sau cao hơn năm trứoc (năm
2001 tăng 6,9%, năm 2002 tăng 7,04%, năm 2003 tăng 7,24%); bình quân ba năm

tăng 7,1%/ năm. Kinh tế các thành phần ,các ngành ,các vùng ,các tỉnh , thành phố
đều có bước phát triển khá so với trước .Chất lượng hiệu quả và sức cạnh tranh của
một số lĩnh vực và sản phẩm có chuyển biến .Danh mục các sản phẩm có khả năng
cạnh tranh khác trên thị trường ngày càng được mở rộng ,một số sản phẩm thương
hiệu Việt Nam đạt tiêu chuẩn quốc tế. Cơ cấu của nền kinh tế tiếp tục có bước
chuyển dịch theo hương công nghiệp hoá và từng bước hiện đại hoá ,phát huy các
lợi thế so sánh. Trong cơ cấu kinh tế chung xét cả về giá trị sản phẩm (GDP)và về
lao động ,tỷ trọng công nghiệp tiếp tục tăng lên ,tỷ trọng nông nghiệp giảm dần .Cơ
cấu các ngành sản xuất nông nghiệp ,công nghiệp và dịch vụ có chuyển dịch theo
hướng phát huy lợi thế so sánh ,gắn với đáp ứng nhu cầu thị trường .Các ngành kinh
tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tiếp cận công nghệ tiên tiến hiện đại, tốc độ
chuyển giao công nghệ tăng, trình độ công nghệ của một số ngành có bước tiến rõ
rệt.
Các địa phương có sự chuyển động đều hơn trong phat triển kinh tế ,ngày
càng có nhiều tỉnh thoát ra khởi tình trạng lúng túng ,trì trệ có bước chuyển biến
đáng kể .Các vùng kinh tế đều đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng , phát triển mạnh
hơn công nghiệp ,dịch vụ và các sản phẩm có lợi thế . Hai vùng kinh tế trọng điểm ở
phía Nam và phía Bắc tiếp tục phát huy được tiềm năng , lợi thế , ngày càng đóng
góp quan trọng vào sự phát triển chung của đất nước (chiếm khoảng 52,3%GDP của
cả nước ).Các khu công nghiệp ,các khu kinh tế cửa khẩu và một số vùng sản xuất
cây trồng ,vật nuôi gắn với chế biến nông nghiệp tiếp tục có bước phát triển khá
hơn.
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chủ trương giữ vững độc lập ,tự chủ về kinh
tế, có tiến bộ đáng kể trong việc phát huy các nguần nội lực của đất nước ,của các
thành phần kinh tế cho đầu tư phát triển ,đồng thời phát triển mở rộng hội nhập kinh
tế quốc tế.
Thực hiện chủ trương từng bước xây dựng cơ cấu kinh tế độc lập tự chủ
,trong ba năm qua đã xây dựng và chuẩn bị xây dụng có chọn lọc một số cơ sở quan
trọng về công nghiệp cơ bản như năng lượng ,vật liệu ,cơ khí, tiếp tục đẩy nhanh đầu
tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội cơ sở vật chất –kỹ thuật của nền kinh tế

tiếp tục được tăng cường tạo tiền đề cho phát triển mạnh hơn ở giai đoạn tiếp
sau.Doanh ngiệp nhà nướcvẫn giữ được các vị trí trọng yếu trong kinh tế ,tiếp tục
đóng góp lớn nhất vào các nguồn thu nội địa của ngân sách .
Kinh tế nước ta ngày càng hội nhập và kinh tế khu vực và thế giới, quan hệ
kinh tế quốc tế tiếp tục được củng cố và mở rộng bắt đàu thực hiện trương trình
giảm thuế nhập khẩu trong AFTA, thực hiện Hiệp định Thương Mại Việt Nam Hoa
Kỳ tăng nhanh xuất khẩu vào thị trường Hoa kỳ ,xúc tiến hợp tác toàn diện Việt
Nam-Nhật Bản ,Việt Nam EU,đang đàm phán gia nhập WTO… trong ba năm tiếp
tục thu hút thêm các dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài ,với tổng vốn đầu tư đăng
ký đạt trên 4,4tỷ USD, các dự án đang hoạt động cũng tăng vốn đầu tư hơn 1,8 tỷ
USD.


Thể chế kinh tế tiếp tục được đổi mới ,đang tiếp tục hình thành và phát triển
các loại thị trường . Đã dần bổ xung ,hoàn thiện thêm khuôn khổ phát lý cho hoạt
động của các loại thi trường ,xác định cơ chế mới quản lý doanh nghiệp nhà nước…
tiếp tục cải cách chế độ tiền lương và chợ cấp xã hôị …thị trường hàng hoá sôi động
và phát triển với tốc độ nhanh ,thị trường lao động có bước phát triển ,thị trường tiền
tệ đạt một số kết quả bước đầu.
Trong đánh giá tổng kết nửa nhiệm kỳ thực hiện nghị quyết đại hội lần thứ
IX của Đảng . Kinh tế tăng trưởng khá nhanh và toàn diện ,năm sau cao hơn năm
trước. Cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch đáng kể theo hướng công nghiệp hoá
từng bước hiện đại hoá .Năng lực sản xuất và kết cấu hạ tầng tăng đáng kể .Các
ngành các vùng kinh tế đều phát triển mạnh hơn ,vữa xây dựng cơ cấu kinh tế độc
lập tự chủ ,vừa hội nhập sâu hơn vào kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở
hữu ,trong đó kinh tế nhà nước tiếp tục giữ vai trò chủ đạo ,tiếp tục hình thành động
bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Những thành tựu trên là kết quả phấn đấu của toàn Đảng ,toàn dân thực hiện
nghị quyết Đại hội IX. Đã góp phần phát huy tinh thần lao động năng động ,sáng tạo
quyết khắc phục đói nghèo vươn lên xây dựng đời sống tốt đẹp hơn của các tầng lớp

nhân dân ,của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế .Những thành tựu này
chứng tỏ công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước đang đi đúng theo đường lối đổi
mới và những định hướng mà Đại hội IX đã đề ra ,tiếp tục làm tăng thêm thế và lực
của đất nước ,đặt nền móng và tạo điều kiện thuận lợi cơ bản để chúng ta tiếp tục
tiến lên phấn đấu thực hiện thắng lợi toàn diện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng.
2. Những khuyết điểm yếu kếm của kinh tế.
Việc thực hiện Nghị quyết Đại hội IX về việc phát triển kinh tế vẫn còn nhiều
yếu kém khuyết điểm .
2.1. Tốc độ tăng trưởng chưa đạt mục tiêu Đại hội IX đã đề ra ,chưa
tương xứng với mức tăng đàu tư và tiềm năng của nền kinh tế .Chất
lượng tăng trưởng ,hiệu quả và sức cạnh tranhcủa nền kinh tế còn
thấp ,chậm được cải thiện ,kinh tế phát triển chưa bền vững .
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân trong ba năm qua mới đạt 7,1%so
với mục tiêu Đại hội đề ra là 7,5%.Tốc độ phát triển chưa tương xứng với
tiềm năng là do đầu tư kém hiệu quả ,chỉ số hiệu quả đầu tư chung của toàn
nền kinh tế, nhất là do khu vực kinh tế nhà nước trong thời gian qua giảm đi
đáng kể, chưa phát huy tốt nguuồn lực to lớn của doanh nghiệp nhà nước còn
nhiều nguồn lực trong nhân dân chưa được huy động vào phát triển kinh tế
.Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế của các doanh nghiệp còn thấp .
2.2. Nhìn chung cơ cấu kinh tế còn chậm chuyển dịch theo hứơng công
nghiệp hoá ,nhất là theo hướng hiện đại hoá.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn còn chậm và
có nhiều lúng túng , mang nặng tính tự phát ,thiếu bền vững . Nhiều vấn đề
trong nông nghiệp ,nông thôn ,nông dân chậm được giải quyết .


Các vùng kinh tế trọng điểm phát triển chưa tương xứng với tiềm năng ,chưa
đi mạnh vào phát triển công nghệ cao và chuyển dịch cơ cấu kinh tế .Các chủ
trương về phát triển vùng kinh tế trọng điểm. Miền Trung chậm được thực
hiện kinh tế nhiều vùng miền núi ,vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn khó

khăn và có sự lúng túng về phương hướng phát triển .Việc đô thi hoá chưa
dựa trên nền tảng phát triển kinh tế ,thiếu quy hoạch tình trạng yếu kếm ,quá
tải của hệ thống cơ sở hạ tầng các đô thị lớn chậm được khắc phục .
Cơ cấu đầu tư và cơ cấu kinh tế còn nhiều bất hợp lý ,kém hiệu quả do chưa
có chính sách chuyển dịch cơ cấu dài hạn ,đầu tư dàn trải ,phân tán ,công trình
dở dang nhiều.
2.3. Việc thực hiện chính sách phát triển kinh tế tuy đã có tiến bộ nhưng
vẫn còn nhiều nhất quán ,chưa khai thác tốt nguồn nội lực trong
dân.
Sự chậm chễ trong thể chế hoá các nghị quyết của Đảng ,tình trạng chưa
thực sự thống nhất nhận thức và thực hiện thiếu nhất quán ở các ngành các
cấp đã hạn chế khả năng phát triển của các thành phần kinh tế.
Một số chính sách khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh chậm đưa vào cuộc sống. Trên thực tế vẫn còn những biểu hiện phân
biệt đối xử chưa thực sự bình đẳng, cởi mởi đối với kinh tế tư nhân, kinh tế
tập thể phát triển chậm các hợp tác xã chậm đổi mới ,vị trí- vai trò còn thấp
kinh tế tư nhân và kinh tế tập thể còn khó tiếp cận với nguồn vốn hỗ trợ ưu
đãi của nhà nước và vốn tín dụng của Ngân hàng Thương Mại Nhà nước.
2.4. Chưa phát huy được lợi thế về ổn định chính trị –xã hội để thu hút
mạnh nguồn vốn đàu tư nước ngoài .Còn thiếu chủ động chuẩn bị
đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài còn gặp khó khăn do môi trường đầu
tư chưa đủ thông thoáng, thuận lợi ,nhất quán và ổn định ,phần nào chưa thực
sự được coi là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân.
2.5. Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN chậm được hình
thành đồng bộ theo tinh thần nghị quyết Đại hội IX.
Một số nguyên tắc của kinh tế thị trường chưa đựoc tôn trọng cơ chế,
chính sách có lúc còn thay đổi đột ngột dẫn đến môi trường kinh doanh thiếu
ổn định.
Hệ thống thị trường chậm được hình thành ,thiếu đồng bộ và có nhiều khiếm

khuyết thị trường vốn còn sơ sài.
2.6.Hiệu lực ,hiệu quả quản lý nhà nước đối với nền kinh tế còn thấp.
Chức năng của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
chậm được xác định rõ. Cải cách hành chính chậm hoạt động của bộ máy quả
lý nhà nước nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý nền kinh tế thị
trường trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế .


Kinh tế tuy tăng khá ,xong vẫn chưa đạt nhịp độ tăng trưởng Đại hội IX
đề ra Nhiều nguồn lực và tiềm năng trong nước để phát triển kinh tế chưa
được huy động và sử dụng tốt .Chất lượng hiệu quả của sự phát triển kinh tế
– xã hội còn thấp và chưa có chuyển biến rõ rệt. Thất thoát ,lãng phí trong
quản lý kinh tế …Những nhược điểm trong quản lý kinh tế và cơ chế quản lý
cũng thiếu chúng ta chưa tận dụng được lợi thế về ổn định chính trị – xã hội
để thu hút mạnh mẽ nguồn đầu tư của nước ngoài.
3.Nguyên nhân chủ yếu trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế.
3.1 Về khách quan.
Những diễn biến tình hình thế giới ,đặc biệt cuộc khủng khoảng kinh tế trầm
trọng của khu vực đã có tác động tiêu cực đến chính trị ,kinh tế ,xã hội đất nước.
Hậu quả của cơ chế còn tồn tại và tác động rất lớn trong quá trình vận hành cơ chế
mới cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN.
3.2 Về chủ quan.
Đội ngũ cán bộ Đảng-viên có sự hạn chế nhất định trong nhận thức vận dụng
đường lối – chính sách của Đảng và Nhà nước.
Do quy hoạch - đào tạo còn chậm chưa bảo đảm theo quy trình đánh giá và
tuyển chọn nên năng lực chung của cán bộ chưa chuyển kịp theo cơ chế mới.
CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG- GIẢI PHÁP
PHÁT TRIỂN KINH TẾ.
1. Phương hướng phát triển kinh tế.
Về khả năng thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội trong hai năm

2004-2005.
Trong quá trình thảo luận ở tổ và ở hội trường ,nhiều đồng chí Trung ương
còn băn khoăn về mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội trong hai năm tới ,có ý kiến cho
là cần phải nói rõ hơn về khả năng thực hiện các mục tiêu đó ,nhất là mục tiêu tăng
trưởng kinh tế trên 80% mỗi năm.
Bộ chính trị xin giải trình như sau:
Ba năm qua ,chúng ta đã có những bước tiến cơ bản trong việc thực hiện các
mục tiêu phát triển kinh tế hội do Đại hội IX đề ra .Tuy nhiên những gì đạt được còn
thấp so với yêu cầu và so với tiềm năng có thể huy động của nền kinh tế .Nhiệm vụ
còn lại trong hai năm tới (2004-2005) là rất nặng nề đặt ra yêu cầu rất cao cả về phát
triển chiều rộng lẫn chiều sâu nhằm tạo ra bước đột phá mới để hoàn thành toàn diện
mục tiêu của kế hoạch 5 năm và tiếp theo là những mục tiêu của chiến lược 10 năm
(2001-2010).Theo tính toán để đạt mức tăng trưởng bình quân 7,5% trong 5 năm, thì
tốc độ tăng trưởng kinh tế trong hai năm tới phải đạt được mức tăng bình quân
khoảng 8,2%/năm. Có như thế mới tăng được hiệu quả trong hội nhập kinh tế quốc
tế và nâng cao mức sống các tầng lớp dân cư .Đây là đời hỏi khá cao nhưng có căn
cứ để tin rằng nếu quyết tâm chúng ta vẫn hoàn toàn có khả năng phấn đấu đạt được
mục tiêu này.
Để thực hiện thắng lợi toàn diện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng ,hoàn thành
mục tiêu kế hoạch 5 năm 2001-2005, tạo thuận lợi cho phát triển nhanh và bền vững
trong những năm tiếp theo, trong nửa nhiệm kỳ còn lại của Đại hội IX, toàn Đảng
toàn dân ta phải có quyết tâm chính trị cao để thực hiện thật tốt những mục tiêu
nhiệm vụ vhủ yếu sau:


Đẩy nhanh nhịp độ tăng trưởng kinh tế trong hai năm 2004-2005 mỗi năm
đạt trên 8%.Tạo bước tiến rõ rệt về chất lượng hiệu quả và sức cạnh tranh của các
sản phẩm ,các doanh nghiệp và của cả nền kinh tế ,nâng cao vai trò của khoa học và
công nghệ, giáo dục và đào tạo đóng góp cho sự phát triển nhanh, bền vững của đất
nước.

Thúc đẩy việc xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, kiên
quyết tháo gỡ các vướng mắc về cơ chế, chính sách để tiếp tục giải phóng sức sản
xuất.
Chủ động và khẩn trương hơn trong hộ nhập kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các
cam kết quốc tế đa phương, song phương nước ta đã ký kết và chuẩn bị tốt các điều
kiện để sớm gia nhập tổ chức thương mại thế giới( WTO), tạo môi trường đầu tư,
kinh doanh bình đẳng, minh bạch, ổn định, thông thoáng, có tính cạnh tranh cao so
với khu vực, tăng nhanh xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài.
2. Giải pháp phát triển kinh tế:
2.1 Cơ sở xác định nêu lên những giải pháp:
Trong hoàn cảnh vô cùng bất lợi các nước XHCN- Đông Âu và Liên Xô
sụp đổ, cả hệ thống XHCN lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng, đặc biệt là
cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng ở khu vực nhưng Đảng ta đã từng bước
đi vào con đường đổi mới và sự nghiệp đổi mới bước đầu đã thành công.
Khẳng định sự lựa chọn đúng đắn con đường đi lên CNXH. Tất nhiên vẫn
còn những mặt tồn tại cần phải khắc phục. Nhưng Đảng ta đã đưa nền kinh tế
đi vào ổn định, nếu như những năm 1990- 1991 ta đã gặp khó khăn nghiêm
trọng tưởng chừng không vượt qua nổi thì vào những năm 1993 ta đã giữ
vững được nền kinh tế, tạo tiền đề cho sự phát triển những năm tiếp theo.
Đến 1994 đã khẳng định chắc chắn rằng Đảng ta đã thành công trong sự
nghiệp đổi mới và cũng chính từ đây ta thấy rằng Đảng ta đã vận dụng chủ
nghĩa Mác- Lênin vào thực tiễn cách mạng ở nước ta một cách khoa học và
đầy sáng tạo.
Trên tinh thần đổi mới tư duy, đổi mới nhận thức lý luận của Đảng về mối
quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Đảng ta đã
chủ động sáng tạo ra đường lối đổi mới đúng đắn trong điều kiện XHCN trên
thế giới khủng hoảng và sụp đổ một mảng lớn ở Đông Âu và Liên Xô. Đây là
một thành công rất lớn là sự đóng góp tích cực của Đảng ta vào kho tàng giá
trị của chủ nghĩa Mác Lênin, bảo vệ chủ nghĩa Mác Lênin.
Đổi mới là cần thiết, nhưng phải có tính toàn diện và đồng bộ, phải có đươc

bước đi cách làm thích hợp, phải luôn giữ vững sự lãnh đạo của Đảng và sự
quản lý của nhà nước trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần,
xây dựng Đảng phải ngang tầm nhiệm vụ chính trị.
2.2 Một số giải pháp cơ bản.
Tiếp tục đổi mới manh mẽ doanh nghiệp nhà nước, phát triển mạnh hơn
kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài nâng cao
sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam.
Tạo lập và pháp triển đồng bộ các thi trường.


Tiếp tục chủ động hội nhập thực hiện có hiệu quả các cam kết và lộ trình hội
nhập kinh tế quốc tế, chuẩn bị tốt các điều kiện trong nước để sớm gia nhập
tổ chức Thương mại thế giới ( WTO) .
Đổi mới cơ bản công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tếxã hội và điều chỉnh mạnh cơ cấu kinh tế.
Tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả khu vực doanh
nghiệp nhà nước, trọng tâm là cổ phần hoá mạnh hơn nữa, khuyến khích phát
triển kinh tế tập thể , kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và các
tổ chức kinh tế cổ phần. Nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp, nâng cao
hiệu quả đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách.
Thực hiện tốt các chính sách về các thành phần kinh tế, khuyến khích phát
triển kinh tế hộ gia đình, phát triển kinh tế hợp tác xã và kinh tế hợp tác, cùng
với các thành phần kinh tế khác trong nông nghiệp.
Thực hiện tốt chính sách đất đai bảo vệ diện tích đất canh tác lúa nước trên
cơ sở kết hợp các biện pháp kinh tế và hành chính .
Thực hiện tốt các chính sách về khoa học công nghệ, đẩy mạnh việc ứng
dụng các thàh tựu của sinh học hiên đại.
Thực hiện tốt chính sách đầu tư tín dụng , mở rộng tín dụng, tăng vốn vay
chung và dài hạn, đáp ứng cho nhu cầu CNH- HĐH nông nghiệp.
Thực hiện tốt chính sách xã hội. Trong đó chú trọng các chính sách, chương
trình quốc gia về xoá đói giảm nghèo và giải quyết việc làm ở nông thôn.

Phát triển kinh tế gắn liền với phát triển văn hoá xã hội.
3. Kiến nghị nhằm bảo đảm cho yêu cầu lãnh đạo xây dựng và phát
triển kinh tế trong thời kỳ CNH- HĐH.
Nhà nước nên ổn định chính sách thuế hợp lý , có sự ưu đãi cụ thể từng
ngành, nhằm tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế mạnh dạn đầu tư phát
triển sản xuất dạng quy mô lớn.
Nhà nước nên có chính sách bảo hộ giá cả các loại nông sản để nông dân an
tâm đầu tư phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn.
Để thực hiện tốt chính sách tín dụng nhằm đầu tư cho kinh tế phát triển. Nhà
nước sớm có chủ trương giao đất cho nhân dân ở các khu vực đất quy hoạch.
Tính chất phức tạp và đa dạng trog lãnh đạo nền kinh tế đất nước vì thế Đảng
lãnh đạo kinh tế cần phải có đường lối đúng đắn, đồng thời phải cụ thể hoá tổ
chức thực hiện thắng lợi đường lối đó. Do đó đòi hỏi Đảng một mặt lãnh đạo
việc củng cố kinh tế nhà nước, mặt khác tạo điều kiện thúc đẩy các thành
phần kinh tế khác phát triển.
Trong lĩnh vực kinh tế, Đảng cần huy động mọi giai cấp , mọi tầng lớp tham
gia vì mục tiêu dân giàu , nước mạnh, xã hội công bằng , văn minh.
Muốn thực hiện được những vấn đề nêu trên phải xây dựng cơ sở lý luận của
việc phát triển kinh tế của đất nước. Bởi lẽ bất kỳ một quốc gia nào muốn
kinh tế phát triển, quốc gia hưng thịnh đều phải dựa trên những học thuyết
phát triển kinh tế nhất định.
C . PHẦN KẾT LUẬN.
Từ những kiến thức đã học được về Đảng lãnh đạo các lĩnh vực chủ yếu của
đời sống xã hội và qua nghiên cứu thực tế có thể kết luận rằng:


Đảng lãnh đạo kinh tế là một tất yếu lịch sử trong thời kỳ CNH- HĐH đất
nước thì sự lãnh đạo của Đảng phải bảo đảm hững nguyên tắc chủ yếu về sự
biện chứng giữa chính trị và kinh tế giữa tập trung và dân chủ, sư phù hợp
giữa chính sách kinh tế với chính sách cán bộ và đẩy mạnh phong trào thi đua

lao động sản xuất, công tác nhằm động viên tính tích cực lao động sáng tạo
của nhân dân.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với kinh tế là đòi hỏi của nhân dân, do
đó nhân dân đòi hỏi Đảng phải có đường lối chủ trương kinh tế đúng định
hướng cho đất nước phát triển vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, và lãnh đạo
hoàn thiện các cơ cấu , cơ chế , chính sách tạo đIều kiện cần thiết cho các chủ
thể kinh doanh, huyến khích cạnh tranh hợp pháp, lành mạnh hạn chế độc
quyền nhà kinh doanh được quyền tìm kiếm lợi nhuận một cách hợp pháp.
Muốn vậy, lãnh đạo để nhà nước biết quản lý kinh tế là phương thức lãnh đạo
quan trọng nhất của Đảng. Bởi đường lối kinh tế đúng đắn nhưng bộ máy
quản lý yếu kém thì mục tiêu của Đảng sẽ không đạt được. Do đó đổi mới và
nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của nhà nước là công việc hết sức quan
trọng trong lãnh đạo kinh tế của Đảng.
Chính vì thế muốn phát triển kinh tế mạnh thì Đảng phải đưa ra được phương
thức lãnh đạo đúng đắn nhất về kinh tế. Vì phương thức lãnh đạo của Đảng
về kinh tế là sự định hướng tác động của Đảng vào toàn bộ hoạt động kinh tế
bằng hệ thống các nguyên tắc , hình thức, phương pháp nhằm đạt mục tiêu
chiến lược kinh tế- xã hội đã định.
1.
2.
3.
4.
5.

.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Văn kiện hội nghị lần thứ 9 ban chấp hành trung ương khoá IX
( NXB- CTQG Hà Nội- 2004)
Giáo trình Đảng lãnh đạo các lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội do

thầy Ngô Đức Tính chủ biên.
Sự lãnh đạo của Đảng trong một số lĩnh vực trọng yếu của đời sống xã hội
nước ta. Tác giả Lê Văn Lý ( Hà Nội 1999) .
Phương thức lãnh đạo của Đảng tác giả Lê Huy Ngọ.
Một số các tạp chí khác.



×