Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Tổng hợp các mẫu hợp đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (389.91 KB, 64 trang )

Tổng hợp các mẫu hợp đồng
HỢP ĐỒNG NHẬP KHẨU MUA THIẾT BỊ ĐIỆN LẠNH

Số: [SO HD]
Ngày:[NGAY THANG NAM]

Giữa các bên:
Tên cơ quan (doanh nghiệp): [TEN DOANH NGHIEP]
Tel: [SO DT] Fax: [SO FAX]
Telex: [SO TELEX]
Đại diện bởi ông: [HO VA TEN] Chức vụ: [GIAM DOC HAY TONG GIAM DOC]
sau đây được gọi là Bên mua.

Tên cơ quan (doanh nghiệp): [TEN DOANH NGHIEP]
Tel: [SO DT] Fax: [SO FAX]
Telex: [SO TELEX]
Đại diện bởi ông: [HO VA TEN] Chức vụ: [GIAM DOC HAY TONG GIAM DOC]
Sau đây được gọi là Bên bán.
Hai bên đã nhất trí như sau:
Điều 1: Đối tượng của hợp đồng

Bên mua đồng ý mua và Bên bán đồng ý bán những trang thiết bị và phụ
tùng dưới đây với giá cả ghi trong Điều này với những điều kiện quy định trong
Điều 2 hay những quy định khác ở những điều khoản khác của hợp đồng này.
SỐ TT

MÔ TẢ CHI TIẾT

SỐ LƯỢNG

GIÁ USD/CIF


HCMC

(Tất cả những quy cách phẩm chất và mô tả chi tiết được ghi trong phụ lục số 1 đính
kèm theo đây như là một phần thiết yếu của hợp đồng này).
- Điều kiện giao hàng CIF [DIA DIEM GIAO HANG] (giá hàng + bảo hiểm + chi phí
vận chuyển) được diễn giải như trong Incoterms ấn bản 1990.
Điều 2: Trách nhiệm của bên bán

Bên bán được xem như có am hiểu tường tận và có nhiều kinh nghiệm
trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh thiết bị điện lạnh, cam kết cung cấp.


2.1/ Tất cả trang thiết bị và phụ tùng mới hoàn toàn như được mô tả trong phụ lục số 1
của hợp đồng này.
2.2/ Tất cả những tài liệu cần thiết như: sơ đồ bản vẽ chi tiết những quy cách vận hành
trong sử dụng dân dụng cũng như trong nhà máy công nghiệp, những chỉ dẫn lắp đặt và vận
hành, hướng dẫn bảo trì… sau đây sẽ được gọi là tài liệu kỹ thuật, tất cả được viết bằng tiếng
Anh, trong đó sử dụng hệ thống đo lường metric, những tài liệu này để giúp Bên mua có thể
thực hiện sử dụng thiết bị vào sử dụng dân dụng hoặc sử dụng trong nhà máy công nghiệp,
lắp đặt và cung cấp dịch vụ, bảo trì cho thiết bị. Tất cả những tài liệu trên đây đều sẽ thuộc về
sở hữu của bên mua.
2.3/ Những trách nhiệm của bên bán theo điều khoản này vẫn hiệu lực cho đến hết thời
hạn bảo hành.
Điều 3: Trách nhiệm của bên mua

3.1/ Bên mua sẽ thực hiện việc tháo dỡ và kiểm tra những thiết bị máy
móc do bên bán giao theo hợp đồng này tại địa điểm lắp đặt, với sự có mặt của
đại diện bên mua và/hoặc Vinacontrol, chi nhánh [DIA DIEM GIAO HANG]
3.2/ Bên mua sẽ cung cấp những dụng cụ thông thường và những điều kiện thuận lợi
thỏa đáng để cần thiết cho việc lắp đặt, chạy thử, vận hành thiết bị máy móc trong hợp đồng

này.
3.3/ Việc lắp đăt thiết bị máy móc trên đây sẽ do bên mua thực hiện, tuân thủ theo
những hướng dẫn của bên bán và theo quy định trong tài liệu kỹ thuật do bên bán cung cấp.
Điều 4: Giao hàng, thông báo giao hàng và bảo hiểm

4.1/ Bên bán sẽ gửi cho bên mua qua hệ thống phát nhanh DHL Express
theo địa chỉ trên đây bốn (04) bộ đầy đủ tài liệu kỹ thuật như được trong Điều 2
hợp đồng này trong vòng một (01) tháng sau khi bên bán nhận được thư tín dụng
đã được tu chỉnh hoàn hảo.
4.2/ Những trang thiết bị như ghi trong phụ lục số 1 của hợp này sẽ được giao lên tàu
trong vòng bốn (04) tháng kể từ khi bên bán đã nhận được thư tín dụng đã được tu chỉnh hoàn
hảo.
* Mười ngày trước ngày giao hàng theo lịch định trước. Bên bán sẽ gửi cho bên mua
một thông báo trước khi giao hàng. Nội dung thông báo gồm: tên con tàu dự định chở hàng,
mô tả tổng quát về hàng hóa sẽ giao, tên cảng khởi hành.
* Ngay sau khi xếp hàng lên tàu hoặc chậm nhất là 02 ngày sau khi tàu khởi hành, bên
bán sẽ thông báo cho bên mua bằng telex/fax về những chi tiết của việc giao hàng ấy, bao
gồm: tên tàu, số vận đơn đường biển và ngày ký phát vận đơn, trị giá trên hóa đơn , số lượng
kiện và trọng lượng các kiện, dự định giờ tàu khởi hành, dự định giờ tàu cập cảng…
4.3/ Những trang thiết bị trên đây không được giao từng phần và chuyển tải.
- Cảng đi: [TEN CANG DI]
- Cảng đến: [TEN CANG DEN]

4.4/ Bên bán sẽ có trách nhiệm bảo hiểm lô hàng, điều kiện bảo hiểm mọi
rủi ro quy định trong bộ luật những điều kiện bảo hiểm Loyds’ Institute cargo
clause (A), không khấu trừ, cho 110% giá trị theo hóa đơn, quy định thêm rằng
nếu xảy ra thiệt hại thì tiền bồi thường có thể lãnh tại [DIA DIEM] - Việt Nam.


Điều 5: Bao gói và ký hiệu

5.1/ Hàng hóa theo mô tả trong phụ lục số 1 sẽ được đóng vào những kiện
gỗ thích hợp đi biển và theo tiêu chuẩn xuất khẩu. Trước khi đóng gói, tất cả
những phần trang thiết bị và phụ tùng bằng kim loại phải được bao lại cẩn thận,
kỹ lưỡng bằng những giấy tráng dầu bền, không thấm nước để bảo vệ hàng một
cách trọn vẹn, không bị ăn mòn hoặc hư hại nào.
5.2/ Ở hai bên mỗi kiện, ghi những ký mã hiệu sau đây bằng mực không phai nước.
- Người gửi hàng: [TEN DOANH NGHIEP GUI HANG]
- Số hợp đồng: [SO HOP DONG]
- Số thư tín dụng: [SO THU TIN DUNG]
- Kiện số: A/B (A: số thứ tự của kiện – B: tổng số kiện được giao lên tàu).
- Trọng lượng: tổng cộng/tịnh.
- Bộ phận số: theo quy cách kỹ thuật quy định trong phụ lục số 01.
- Cảng đến: [TEN CANG DEN] – Việt Nam.
- Người nhận hàng: [TEN DOANH NGHIEP NHAN HANG]
- Kích thước: Dài x Rộng x Cao (cm).
5.3/ Trên mỗi kiện, tại những vị trí cần thiết phải ghi những ký hiệu dễ vỡ, dựng đứng
theo chiều này, để nơi khô ráo v.v… (những ký hiệu quốc tế chỉ dẫn về xử lý/vận chuyển, móc
kéo/cẩu/nâng/lưu kho cần thiết)
5.4/ Mỗi kiện sẽ được gắn thêm một danh mục riêng trong đó ghi những quy cách miêu
tả về thiết kế của hàng hóa, số lượng, số món hàng có trong kiện ấy.
5.5/ Mỗi kiện không vượt quá 5 tấn trọng lượng, 10 m3 thể tích, 2,3 m chiều cao.
5.6/ Trong trường hợp hàng hóa bị mất mát hư hỏng, đổ vỡ, hoặc bị rỉ sét, ăn mòn do
thiếu sót trong việc bao gói hàng hóa, bên bán hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Điều 6: Giá cả và phương thức thanh toán

6.1/ Giá cả ghi trong Điều 1 hợp đồng này được căn cứ trên thư tín dụng
có thời hạn [SO NGAY] ngày kể từ ngày ký phát vận đơn, bao gồm cả lãi suất
ngân hàng, giá cả hàng hóa, chi phí vận chuyển, bảo hiểm và tất cả những chi phí
cho những tài liệu kỹ thuật mà bên bán giao cho bên mua theo phụ lục 01 hay
những điều khoản khác trong hợp đồng này.

6.2/ Tổng giá trị hợp đồng này [SO TIEN] USD CIF, sẽ được bên mua
thanh toán cho bên bán hàng bằng thư tín dụng không hủy ngang có thời hạn [SO
NGAY] ngày sau ngày ký phát vận đơn. Bên mua xin mở thư tín dụng này qua
ngân hàng [TEN NGAN HANG MO THU TIN DUNG] tùy sự lực chọn của bên
mua.
* [SO NGAY] ngày sau khi ký kết hợp đồng, bên mua sẽ làm thủ tục mở thư tín dụng,
nếu không hợp đồng này sẽ bị vô hiệu mà không đem lại sự bồi hoàn nào cả.
* Những chứng từ thanh toán cần thiết sau thư tín dụng gồm:
- Phiếu đóng gói chi tiết;
- Giấy chứng nhận xuất xứ lô hàng;


- Giấy chứng nhận chất lượng do nhà sản xuất ấn hành, với lời cam kết bảo hành [SO
THANG BAO HANH] tháng vận hành thiết bị trên, tính từ khi thiết bị này đạt được công suất
quy định trong quá trình chạy thử.
- Hợp đồng bảo hiểm
- Thông báo giao hàng bằng telex/fax
- Biên nhận đã gửi DHL một bản gốc vận đơn đường biển và hai bộ chứng từ không
chuyển nhượng được, gửi trong vòng [SO NGAY] ngày sau khi xếp hàng lên tàu.
- Biên nhận đã gửi qua DHL cho bên mua bốn (04) bộ tài liệu kỹ thuật trong vòng [SO
NGAY THANG] sau khi bên bán nhận được thư tín dụng đã tu chỉnh hoàn hảo.
- Biên nhận của thuyền phó nhận chuyển cho bên mua ở cảng đến hai (02) bộ chứng từ
không chuyển nhượng được.
Điều 7: Lắp đặt và chạy thử

7.1/ Hàng hóa được chuyên chở đến theo hợp đồng sẽ được mở thùng tại
xưởng của bên mua với sự hiện diện của đại diện bên bán và/hoặc với nhân viên
của VINACONTROL. Một bảng báo cáo tương ứng sẽ được lập vào cuối buổi
kiểm tra và được từng bên ký vào. Bất kỳ sự thiếu hụt hoặc hư hỏng nào do lỗi
của bên bán hoặc của bên sản xuất sẽ được ghi nhận và sự đền bù sẽ được thực

hiện nhanh chóng.
* Giấy chứng nhận kiểm định do VINACONTROL cấp được xem như là bằng chứng để
buộc người bán phải bổ sung, thay thế hoặc hoàn tiền lại đối với những phần thiếu hụt hoặc
hư hỏng do lỗi của người bán.
7.2/ Bên mua sẽ lắp đặt thiết bị theo đúng chỉ dẫn của tài liệu kỹ thuật do bên bán
cung cấp theo đúng hợp đồng.
* Nếu sự lắp đặt hoàn chỉnh bị trì hoãn do sự thiếu hụt hoặc hư hỏng (như đã nêu ở
7.1) do lỗi của bên bán, thời gian bị trì hoãn sẽ được ghi nhận và hai bên sẽ thỏa thuận mức
đền bù thiệt hại mà bên bán phải chịu do việc trì hoãn kế hoạch sản xuất.
7.3/ Sau khi hoàn thành việc lắp đặt thiết bị, bên mua sẽ tiến hành chạy thử máy, chạy
không tải và chạy có chứa hàng trong vòng 4 và 8 giờ liên tục. Việc chạy thử sẽ được lập lại
trong vòng 3 ngày liên tục theo cùng cách thức đã được ghi rõ trong tài liệu kỹ thuật.
7.4/ Công suất bảo hành của thiết bị máy móc sẽ được kiểm chứng trong quá trình
chạy thử. Nếu không đạt được công suất bảo hành như quy định trong phụ lục số 1 do lỗi của
bên bán hoặc của nhà sản xuất, thì bên bán phải tự mình đền bù hoặc bổ sung cho bất kỳ sự
thiếu hụt hoặc thay thế cho các phần hư hỏng được tìm thấy.
7.5/ Nếu đạt được công suất bảo hành thiết bị trong quá trình chạy thử, người bán coi
như đã hoàn tất tất cả nghĩa vụ hợp đồng ngoại trừ thời hạn bảo hành.

Điều 8: Thời gian bảo hành
8.1/ Thời gian bảo hành của tất cả thiết bị, phụ tùng và phụ tùng thay thế
là 12 tháng kể từ ngày đạt được công suất bảo hành.
8.2/ Trong suốt thời gian bảo hành, nếu phát hiện ra bất kỳ sự hư hỏng hoặc trục trặc
có liên quan khác, bên mua phải thông báo ngay cho bên bán biết các phần hư hỏng, trục trặc
có liên quan đến lỗi hoặc trách nhiệm của bên bán và của nhà sản xuất. Bên bán phải nhanh
chóng đền bù, sửa chữa hoặc thay thế cho các phần hư hỏng, trục trặc trong vòng [SO
NGAY] ngày kể từ ngày nhận được thông báo của bên mua bằng telex/fax.


* Nếu người bán chậm trễ trong việc đền bù/sửa chữa hoặc thay thế cho những phần

hư hỏng, người bán sẽ phải chịu bồi thường cho việc trì hoãn thời gian sản xuất, tiền bồi
thường này do 2 bên thỏa thuận.

Điều 9: Bất khả kháng
9.1/ Hợp đồng không ràng buộc người bán và người mua nếu sự thực hiện
hợp đồng là không thể được vì lý do bất khả kháng nó bao gồm nhưng không chỉ
giới hạn trong chiến tranh, đình công lớn, hạn chế nhập khẩu, hỏa hoạn, thiên tai.
9.2/ Một giấy chứng nhận do một tổ chức có thẩm quyền hoặc Phòng Thương mại tại
nước người bán hoặc người mua cấp sẽ là bằng chứng có giá trị trong trường hợp này.
9.3/ Bên nào gặp bất khả kháng phải thông báo ngay cho bên kia biết trong vòng 10
ngày kể từ ngày xảy ra bất khả kháng. Nếu bất khả kháng được chính thức xác nhận là kéo dài
2 tháng liên tục kể từ ngày xảy ra, hợp đồng sẽ bị hủy bỏ mà không có bất kỳ sự khiếu nại nào,
trừ phi hai bên đồng ý khác đi sau đó.

Điều 10: Giải quyết tranh chấp
Bất kỳ sự tranh chấp nào phát sinh từ hợp đồng này sẽ được giải quyết một
cách hữu nghị giữa hai bên. Nếu có tranh chấp nào không thể giải quyết được, sẽ
được đem ra tòa án, hay trọng tài ở Hague, Nertherlands, theo luật hòa giải và
xét xử của tòa án thương mại quốc tế hiện hành vào thời gian xét xử. Quyết định
phân xử là quyết định cuối cùng và có giá trị ràng buộc hai bên.
Điều 11: Các khoản khác

Bất kỳ sự thay đổi hoặc sửa chữa nào đối với hợp đồng này phải được làm
thành văn bản (bao gồm telex/fax) và chịu sự đồng ý của hai bên. Những sự thay
đổi và sửa chữa này được xem như là một phần của hợp đồng.
Hợp đồng này được làm thành 4 bản có giá trị tương đương. Hai bản do người mua
giữ và hai bản do người bán giữ.
THAY MẶT NGƯỜI MUA

THAY MẶT NGƯỜI BÁN


MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý NHẰM ĐẢM BẢO
HIỆU LỰC PHÁP LÝ CỦA HỢP ĐỒNG MUA BÁN
HÀNG HOÁ QUỐC TẾ
SOME NOTES TO ENSURE LEGAL EFFECT OF CONTRACTS FOR
INTERNATIONAL SALES OF GOODS
PHAN THỊ THANH HỒNG
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng

TÓM TẮT
Thế nào là hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế? Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế có những đặc
điểm gì và kết cấu như thế nào? Làm thế nào để ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế có hiệu lực
pháp lý? Các câu hỏi này không chỉ là mối quan tâm của các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu
mà còn thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách. Bởi hiểu được các
vấn đề trên thì công tác soạn thảo và ký kết hợp đồng mới được thực hiện tốt. Nhờ đó công tác thực hiện
hợp đồng sẽ diễn ra suông sẻ, những tranh chấp đáng tiếc giữa các bên của hợp đồng sẽ được giảm thiểu,


góp phần gia tăng kim ngạch xuất nhập khẩu cho doanh nghiệp nói riêng và cho đất nước nói chung.
Bài viết sẽ tập trung trả lời các câu hỏi đó có liên hệ đến pháp luật Việt Nam.
ABSTRACT
What is a contract for the international sale of goods? What are its characteristics and structure? How to
conclude the contract effectively? These questions are the concerns of not only import-export
businesses but also researchers and policy-makers. If they understand and answer the questions, then
working out and concluding the contract will be done well. And thus, the contract will be carried out
smoothly, and unwanted disputes between the parties of the contract will be minimized, which
contributes to the increase of import-export turnover for enterprises in particular and for a country in
general. The writing will focus on answering the above-mentioned questions with reference to Vietnam
laws.


1. Thế nào hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế?
Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là sự thoả thuận ý chí giữa các thương nhân có trụ sở kinh
doanh đặt ở các quốc gia khác nhau, theo đó một bên gọi là Bên xuất khẩu có nghĩa vụ giao hàng và
chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho một bên khác gọi là Bên nhập khẩu và nhận thanh toán; và Bên
nhập khẩu có nghĩa vụ thanh toán cho Bên xuất khẩu, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa
thuận.
Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là hợp đồng song vụ: mỗi bên ký kết hợp đồng đều có
nghĩa vụ đối với nhau. Bên xuất khẩu có nghĩa vụ giao hàng cho Bên nhập khẩu còn Bên nhập khẩu có
nghĩa vụ thanh toán cho Bên xuất khẩu
Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là hợp đồng có đền bù: bên có nghĩa vụ thì cũng có quyền
lợi và ngược lại. Bên nhập khẩu được hưởng quyền lợi nhận hàng và đổi lại phải có nghĩa vụ trả tiền
cân xứng với giá trị đã được giao. Ngược lại, Bên xuất khẩu nhận được tiền phải có nghĩa vụ giao
hàng.
2. Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế có những đặc điểm gì?
So với hợp đồng mua bán trong nước, hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế có những đặc điểm
khái quát như sau:
- Bản chất của hợp đồng là sự thoả thuận ý chí của các Bên ký kết. Đây là đặc trưng rất cơ bản
của hợp đồng nói chung và hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế nói riêng.
- Chủ thể của hợp đồng, Bên xuất khẩu và Bên nhập khẩu, là các thương nhân có trụ sở kinh
doanh đặt tại các quốc gia khác nhau. Nếu các bên không có trụ sở kinh doanh thì sẽ dựa vào nơi cư trú
của họ, còn quốc tịch của cá nhân người đại diện của các bên không có ý nghĩa trong việc xác định yếu
tố quốc tế của hợp đồng. Hai người trực tiếp ký vào hợp đồng có thể đều mang quốc tịch Việt Nam,
nhưng họ đại diện cho các bên có trụ sở kinh doanh đặt tại các quốc gia khác nhau thì hợp đồng ký kết
giữa các bên này vẫn là hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
- Đối tượng của hợp đồng là hàng hoá di chuyển qua biên giới hải quan của một nước. Biên
giới hải quan được hiểu là tập hợp các cửa khẩu, các văn phòng hải quan nơi mà hàng hoá phải được
tiến hành các thủ tục hải quan xuất nhập khẩu theo các quy chế quản lý hàng hoá xuất nhập khẩu của
Chính phủ các nước. Thuật ngữ “biên giới hải quan” được sử dụng xuất phát từ thực tiễn sự hình thành
các kho ngoại quan, các khu chế xuất, các đặc khu kinh tế và những quy chế hải quan đặc biệt dành cho
sự hoạt động của các khu vực này làm cho biên giới lãnh thổ không thật chính xác để xác định ranh

giới di chuyển của hàng hoá xuất nhập khẩu. Luật thương mại Việt Nam năm 2005 khẳng định đặc
điểm này khi định nghĩa: “1. Xuất khẩu hàng hóa là việc hàng hoá được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam
hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo
quy định của pháp luật. 2. Nhập khẩu hàng hóa là việc hàng hoá được đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ
nước ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng
theo quy định của pháp luật.” (Điều 28, Luật thương mại năm 2005)
- Đồng tiền tính giá hoặc thanh toán không còn là đồng nội tệ của một quốc gia mà là ngoại tệ
đối với ít nhất một bên ký kết. Phương thức thanh toán thông qua hệ thống ngân hàng.
- Nguồn luật điều chỉnh hợp đồng đa dạng và phức tạp, không chỉ là luật quốc gia mà còn gồm
cả điều ước quốc tế về thương mại, luật nước ngoài cũng như tập quán thương mại quốc tế.


- Cơ quan giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng là toà án hay trọng tài thương mại có
thẩm quyền giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại là cơ quan nước ngoài đối với ít
nhất một trong các chủ thể.
3. Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế có kết cấu như thế nào?
Tuỳ vào thực tiễn giao dịch giữa các bên và hàng hoá mua bán theo hợp đồng mà mỗi một hợp
đồng sẽ được soạn thảo với những nội dung cụ thể khác nhau. Tuy nhiên, về cơ bản, một hợp đồng
mua bán hàng hoá quốc tế có kết cấu gồm ba phần: phần mở đầu, phần các điều khoản và điều kiện và
phần kết.
Phần mở đầu thường gồm các nội dung như sau:
- Tiều đề: thường được thể hiện bằng các thuật ngữ như Hợp đồng (Contract) hoặc Bản thoả
thuận (Agreement)
- Số và ký hiệu của hợp đồng: thường được ghi kèm với tiêu đề nhằm giúp cho việc quản lý và
lưu trữ hợp đồng của các chủ thể ký kết. Vì vậy, số và ký hiệu thường được thể hiện sao cho có thể
nhận biết được các bên ký kết hợp đồng một cách dễ dàng và nhanh nhất. Ví dụ, hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế được ký kết giữa các công ty có tên giao dịch là Uprosexim và Technoimport vào
tháng 4 năm 2006 được ký hiệu như sau: Contract No. UPRO-TEC/04/06.
- Địa điểm và ngày tháng ký kết hợp đồng. Ví dụ: Đà Nẵng, ngày 8 tháng 3 năm 2007
(Danang, March 8th 2007). Cũng có nhiều trường hợp người ta lại ghi địa điểm và ngày tháng ký kết ở

phần cuối hợp đồng. Ví dụ: Hợp đồng được lập tại Đà Nẵng vào ngày 8 tháng 3 thành 4 bản có hiệu
lực pháp lý như nhau, mỗi bên giữ hai bản (The present contract was made in Danang on March 8th
2007 in quadruplicate of equal force, two of which are kept by each party). Địa điểm ký kết hợp đồng
có ý nghĩa góp phần xác định nguồn luật điều chỉnh hợp đồng nếu các bên không thoả thuận nguồn luật
điều chỉnh trong hợp đồng, đó là luật nơi ký kết hợp đồng. Thông thường nếu các bên không có thoả
thuận gì khác về thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng thì thời điểm này tính từ thời điểm các bên
ký kết hợp đồng.
- Các bên ký kết hợp đồng: tên các bên ký kết, địa chỉ, số tel, số fax, địa chỉ email, số tài khoản
và tên ngân hàng, người đại diện ký kết hợp đồng
- Những định nghĩa dùng trong hợp đồng. Những định nghĩa này có thể rất nhiều, ví dụ "hàng
hóa" có nghĩa là..., "Thiết kế" có nghĩa là... . Chí ít người ta cũng đưa ra định nghĩa sau đây:
Công ty ABC, địa chỉ..., số điện thoại..., đại diện bởi Ông... dưới đây gọi là Bên bán (ABC
company, address..., Tel...represented by Mr. ...hereinafter referred to as the Seller)
- Cơ sở pháp lý để ký kết hợp đồng. Đây có thể là hiệp định ký kết giữa các Chính phủ, cũng
có thể là Nghị định thư ký kết giữa các Bộ thuộc các quốc gia khác nhau. Chí ít, người ta cũng nêu ra
sự tự nguyện của các bên khi ký kết hợp đồng. Ví dụ:
Các bên đã cùng nhau thỏa thuận rằng Bên bán cam kết bán và Bên mua cam kết mua những
hàng hoá dưới đây theo các điều khoản và điều kiện sau (It has been mutually agreed that the Seller
commits to sell and the Buyer commits to buy the undermentioned goods on the following terms and
conditions).
Phần các điều khoản và điều kiện quy định hệ thống các điều kiện giao dịch thương mại do hai
bên thoả thuận như: các điều khoản về hàng hoá như tên hàng, số lượng, phẩm chất, bao bì đóng gói
hàng hóa, ký mã hiệu, điều kiện kiểm tra số lượng, chất lượng...; các điều khoản tài chính như giá cả,
thanh toán...; các điều khoản vận tải, giao nhận và bảo hiểm như điều kiện giao nhận hàng, điều kiện cơ
sở giao hàng, điều kiện vận tải, điều kiện bảo hiểm ...; và các điều khoản pháp lý như luật áp dụng vào
hợp đồng, bất khả kháng, thưởng phạt, khiếu nại, trọng tài... Đây là phần quan trọng nhất của hợp
đồng. Các bên thường dành thời gian và công sức nhiều nhất cho phần này khi đàm phán, thoả thuận và
ký kết hợp đồng.
Phần kết của hợp đồng quy định các nội dung như:
- Số bản hợp đồng và số lượng hợp đồng giữ lại của mỗi bên.



- Ngôn ngữ của hợp đồng. Ngôn ngữ của hợp đồng sẽ giúp xác định được hợp đồng được lập
bằng ngôn ngữ nào sẽ là hợp đồng gốc, là cơ sở quy định quyền và nghĩa vụ của các bên.
- Thời hạn hiệu lực của hợp đồng
- Những quy định liên quan đến bổ sung, sửa đổi hợp đồng.
- Chữ ký có thẩm quyền của các bên ký kết.
4. Làm thế nào để ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế có hiệu lực pháp lý?
Đây là vấn đề được các bên ký kết hợp đồng đặc biệt quan tâm. Bởi chỉ khi hợp đồng ký kết
giữa các bên có hiệu lực thì quyền lợi và nghĩa vụ của các bên mới được bảo đảm và thực hiện theo
hợp đồng mà các bên đã ký kết và nếu có tranh chấp xảy ra thì mới đảm bảo việc khiếu nại hay tố tụng
trước Toà án hay Trọng tài. Để đảm bảo hiệu lực pháp lý của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
chúng ta cần phải lưu ý các vấn đề sau:
1- Hợp đồng phải được ký kết trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận ý chí giữa các Bên, đó chính là
sự thuận mua vừa bán. Người bán nhất trí giao hàng mà người mua muốn mua; người mua nhận hàng
và trả tiền theo cam kết. Hợp đồng chỉ có hiệu lực pháp lý nếu được ký kết không vi phạm các trường
hợp pháp luật ngăn cấm như: có sự cưỡng bức, đe dọa; có sự lừa dối; có sự nhầm lẫn.
2- Chủ thể của hợp đồng phải hợp pháp. Chủ thể của hợp đồng là các thương nhân có trụ sở
kinh doanh đặt tại các quốc gia khác nhau và có đủ tư cách pháp lý. Tư cách pháp lý của các thương
nhân này được xác định căn cứ theo pháp luật của nước mà thương nhân đó có trụ sở.
Pháp luật Việt Nam hiện hành đã có những sửa đổi khá cơ bản về quyền kinh doanh xuất nhập
khẩu của thương nhân:
- Theo Nghị định số 33/CP của Chính Phủ ngày 19/4/1994 về quản lý nhà nước đối với hoạt
động xuất nhập khẩu, muốn được kinh doanh xuất nhập khẩu các thể nhân hoặc pháp nhân phải có
Giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu do Bộ thương mại cấp.
Đối với doanh nghiệp chuyên kinh doanh xuất nhập khẩu, để được cấp Giấy phép kinh doanh
xuất nhập khẩu doanh nghiệp phải đáp ứng đủ 4 điều kiện:
+ Là doanh nghiệp được thành lập theo đúng luật pháp và cam kết tuân thủ các quy định của
luật pháp hiện hành;
+ Hoạt động theo đúng ngành hàng đã đăng ký khi thành lập doanh nghiệp;

+ Doanh nghiệp phải có mức vốn lưu động tối thiểu tính bằng tiền Việt Nam tương đương 200
000 USD tại thời điểm đăng ký kinh doanh xuất nhập khẩu. Riêng đối với các doanh nghiệp thuộc các
tỉnh miền núi và các tỉnh có khó khăn về kinh tế, các doanh nghiệp kinh doanh những mặt hàng cần
khuyến khích xuất khẩu mà không đòi hỏi nhiều vốn, mức vốn lưu động nêu trên được quy định tương
đương 100 000 USD;
+ Có đội ngũ cán bộ đủ trình độ kinh doanh, ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán ngoại
thương.
Đối với doanh nghiệp sản xuất, muốn được cấp Giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu cần
phải:
+ Được thành lập theo đúng luật pháp;
+ Có cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu ổn định và có thị trường tiêu thụ ở nước ngoài;
+ Có đội ngũ cán bộ đủ trình độ kinh doanh, ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán ngoại
thương.
Nếu có đủ 3 điều kiện trên, các doanh nghiệp sản xuất được quyền trực tiếp xuất khẩu hàng
hoá do mình sản xuất và nhập khẩu vật tư nguyên liệu cần thiết cho sản xuất của chính doanh nghiệp.
Như vậy, theo quy định tại Nghị định này những doanh nghiệp chưa có Giấy phép kinh doanh
xuất nhập khẩu không phải là chủ thể của hợp đồng mua bán ngoại thương. Mọi hợp đồng mua bán
ngoại thương do các doanh nghiệp này ký đều không có hiệu lực vì chủ thể ký kết phía Việt Nam


không hợp pháp. Và thực tế ở Việt Nam trong một thời gian đã tồn tại những doanh nghiệp được quyền
kinh doanh xuất nhập khẩu và những doanh nghiệp không được quyền kinh doanh xuất nhập khẩu.
- Nghị định 57/1998/NĐ-CP có hiệu lực pháp lý từ ngày 1/9/1998 đã tạo bước đột phá trong
quy định về quyền kinh doanh xuất nhập khẩu đối với thương nhân. Theo đó, thương nhân là doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, thành lập theo quy định của pháp luật, được phép xuất khẩu, nhập
khẩu hàng hoá theo ngành nghề đã ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh sau khi đã đăng ký
mã số doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu tại Cục Hải quan tỉnh, thành phố, không phải xin Giấy
phép kinh doanh xuất nhập khẩu tại Bộ thương mại. Và kể từ ngày Nghị định 57 có hiệu lực pháp lý,
các Giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu do Bộ thương mại đã cấp hết hiệu lực thi hành. Như vậy,
theo Nghị định 57, quyền kinh doanh xuất nhập khẩu đối với thương nhân đã được mở rộng cho tất cả

các doanh các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp chỉ cần đăng ký mã số doanh nghiệp xuất nhập khẩu tại
Cục Hải quan tỉnh, thành phố là được kinh doanh xuất nhập khẩu, không còn phải xin phép Bộ thương
mại. Và cũng không còn sự phân biệt giữa doanh nghiệp được quyền và doanh nghiệp không được
quyền kinh doanh xuất nhập khẩu nữa.
- Nghị định 44/2001/NĐ-CP đã tiếp tục mở rộng quyền kinh doanh xuất khẩu cho doanh
nghiệp khi quy định thương nhân có thể xuất khẩu tất cả các loại hàng hoá không phụ thuộc vào ngành
nghề được ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, trừ những hàng hoá thuộc danh mục cấm
xuất khẩu. Tuy nhiên, quyền kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp vẫn còn bị hạn chế. Cụ thể,
thương nhân chỉ được nhập khẩu những hàng hoá theo ngành nghề, ngành hàng ghi trong Giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh. Đối với những hàng hoá thuộc Danh mục hàng hoá xuất nhập khẩu có điều
kiện (hàng xuất khẩu, nhập khẩu có hạn ngạch, có giấy phép của Bộ thương mại hoặc Bộ quản lý
chuyên ngành) thì thương nhân phải được cơ quan có thẩm quyền phân bổ hạn ngạch hoặc cấp giấy
phép thì mới được tiến hành kinh doanh xuất nhập khẩu.
- Quyền kinh doanh xuất nhập khẩu của doanh nghiệp được mở rộng hơn nữa cùng với sự ra
đời của Nghị định 12/2006/NĐ-CP. Nghị định 12/2006/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 1/5/2006 và thay
thế cho Nghị định 57/1998/NĐ-CP và Nghị định 44/2001/NĐ-CP. Theo Nghị định 12, thương nhân
được xuất khẩu nhập khẩu hàng hóa không phụ thuộc vào ngành nghề đăng ký kinh doanh trừ hàng hóa
thuộc Danh mục cấm xuất khẩu, tạm ngừng xuất khẩu, hàng hóa thuộc Danh mục cấm nhập khẩu, tạm
ngừng nhập khẩu.
3- Người ký kết hợp đồng có đủ thẩm quyền ký kết theo pháp luật của nước mà thương nhân
đó có trụ sở.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, người ký kết là người đại diện cho thương nhân đó
theo luật hoặc theo ủy quyền. Đại diện theo luật là đại diện do pháp luật quy định, là người đứng đầu
pháp nhân theo quy định của điều lệ pháp nhân hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Đại diện theo ủy quyền là đại diện được xác lập theo sự ủy quyền giữa người đại diện và người được
đại diện. Phạm vi đại diện theo ủy quyền được xác lập theo sự ủy quyền và người đại diện chỉ được
thực hiện giao dịch trong phạm vi đại diện. Ủy quyền phải được làm bằng văn bản và người ủy quyền
phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về hành vi của người được ủy quyền trong phạm vi quy định của sự ủy
quyền. (Điều 140-142 Bộ luật dân sự 2005)
4- Đối tượng của hợp đồng phải hợp pháp. Tức là hàng hoá theo hợp đồng phải là hàng hoá

được phép mua bán theo qui định của pháp luật của nước bên mua và nước bên bán.
Theo qui định của pháp luật Việt Nam, thương nhân được xuất khẩu nhập khẩu hàng hóa
không phụ thuộc vào ngành nghề đăng ký kinh doanh trừ hàng hóa thuộc Danh mục cấm xuất khẩu,
tạm ngừng xuất khẩu, hàng hóa thuộc Danh mục cấm nhập khẩu, tạm ngừng nhập khẩu. Đối với hàng
hóa xuất nhập khẩu theo giấy phép, thương nhân muốn xuất nhập khẩu phải có giấy phép của Bộ
thương mại hoặc các Bộ quản lý chuyên ngành. (Điều 3,4 Nghị Định 12/2006/NĐ-CP). Danh mục
hàng hoá cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu; Danh mục hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép của
Bộ thương mại; Danh mục hàng hoá thuộc diện quản lý chuyên ngành theo quy định của Việt Nam
được quy định trong phụ lục số 01, 02 và 03 ban hành kèm theo Nghị định 12/2006/NĐ-CP ngày
23/01/2006.
5- Nội dung của hợp đồng phải hợp pháp. Nội dung của hợp đồng phải tuân thủ nguồn luật
điều chỉnh hợp đồng. Nguồn luật điều chỉnh hợp đồng có thể được các bên thoả thuận quy định trong
hợp đồng. Khi nguồn luật điều chỉnh hợp đồng không được quy định trong hợp đồng thì áp dụng theo


quy tắc luật xung đột: "luật nước người bán", "luật nơi xảy ra tranh chấp", "luật nơi ký kết hợp đồng",
"luật nơi thực hiện nghĩa vụ".
Pháp luật Việt Nam cũng đã có sửa đổi khá cơ bản về yêu cầu đối với nội dung của hợp đồng
theo hướng phù hợp hơn với pháp luật quốc tế. Cụ thể:
- Theo quy định của Luật thương mại năm 1997 đã hết hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/1/2006,
hợp đồng mua bán hàng hoá phải có các nội dung chủ yếu là: tên hàng; số lượng; quy cách, chất lượng;
giá cả; phương thức thanh toán; địa điểm và thời hạn giao nhận hàng. Việc quy định hợp đồng phải có
6 nội dung không thể thiếu như trên mâu thuẫn với nguyên lý cơ bản của pháp luật thương mại, theo đó
quy định các chủ thể tham gia kinh doanh được tự do thoả thuận mọi giao dịch của mình. Mâu thuẫn rõ
ràng là giữa việc các chủ thể cùng lúc phải tuân thủ quy định bắt buộc gồm sáu nội dung của hợp đồng
với việc pháp luật đã trao cho các chủ thể quyền tự do thoả thuận hợp đồng. Hơn nữa, Công ước của
Liên Hiệp Quốc về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế (gọi tắt là Công ước Viên 1980) hiện có hơn
60 nước phê chuẩn quy định tối thiểu về các nội dung bắt buộc này, chỉ xoay quanh ba điều khoản: tên
hàng; số lượng và giá cả (Điều 14 Công ước Viên 1980).
- Vì những lý do trên, để phù hợp hơn với pháp luật quốc tế cũng như tôn trọng nguyên tắc tự

do thoả thuận hợp đồng của các chủ thể, Bộ luật dân sự năm 2005 đã quy định khi ký kết hợp đồng, các
bên có thể thỏa thuận về những nội dung sau: Đối tượng của hợp đồng; số lượng, chất lượng; giá cả,
phương thức thanh toán; thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng; quyền, nghĩa vụ của các
bên; trách nhiệm do vi phạm hợp đồng; phạt vi phạm hợp đồng; các nội dung khác (Điều 402). Rõ
ràng, quy định mới về nội dung của hợp đồng là nhằm giúp các bên xác định được thoả thuận cụ thể
giữa họ chứ không phải để ràng buộc hay hạn chế quyền tự do hợp đồng của họ.
6- Hình thức của hợp đồng phải hợp pháp. Hình thức của hợp đồng phải tuân thủ nguồn luật
điều chỉnh hợp đồng. Trong thực tiễn thương mại quốc tế, phần lớn các hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế đều được lập thành văn bản. Hình thức văn bản là cần thiết về phương diện chứng cứ trong
giao dịch quốc tế.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế phải được lập
thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương bao gồm điện báo, telex, fax,
thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định của pháp luật (Điều 3, 27 Luật thương mại
2005).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]
Bộ luật Dân sự số 33/2005/QH11.
[2]
Nguyễn Thị Mơ (chủ biên), (2005), Sửa đổi Luật thương mại Việt Nam 1997 phù hợp với pháp luật và
tập quán thương mại quốc tế, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội.
[3]
Luật Thương mại số 36/2005/QH11.
[4]
Nghị định số 44/2001/NĐ-CP ngày 2/8/2001 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 57/1998/NĐCP.
[5]
Nghị định số 12/2006/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật thương mại về hoạt động mua bán hàng
hoá quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hoá với nước ngoài.
[6]
The United Nations Convention on the Contract for the International Sale of Goods (CISG).
[7]

Tổng cục hải quan, (1998), Các văn bản hướng dẫn thi hành Nghị định số 57/1998/NĐ-CP ngày
31/7/1998 của Chính Phủ và các quy định liên quan đến cải cách thủ tục hải quan ở cửa khẩu,
Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội.


[8]
Trần Thị Hoà Bình, Trần Văn Nam (đồng chủ biên), (2005), Giáo trình luật thương mại quốc tế, Nhà
xuất bản Lao động – Xã hội, Hà Nội.
[9]
UNIDROIT, Principles of International Commercial Contracts (PICC 1994).
[10]
Vũ Hữu Tửu, (2002), Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.

Hợp đồng mua bán quốc tế
WEDNESDAY, 23. JANUARY 2008, 07:51:28
, LAW, ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED.

Hợp đồng mua bán quốc tế
Sale Contract
I. Khái quát về hợp đồng mua bán quốc tế
1. Khái niệm
Hợp đồng mua bán quốc tế còn gọi là hợp đồng xuất nhập khẩu hoặc hợp đồng mua bán ngoại thương là sự thoả
thuận giữa các đương sự có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau, theo đó một bên gọi là bên xuất khẩu (Bên
bán) có nghĩa vụ chuyển vào quyền sở hữu của một bên khác gọi là bên nhập khẩu (Bên mua) một tài sản nhất
định, gọi là hàng hoá; bên mua có nghĩa vụ nhận hàng và trả tiền hàng.
Ðịnh nghĩa trên đây nêu rõ:
Bản chất của hợp đồng này là sự thoả thuận của các bên ký kết (các bên đương sự).
Chủ thể của hợp đồng là Bên bán (bên xuất khẩu) và bên mua (bên nhập khẩu). Họ có trụ sở kinh doanh ở các
nước khác nhau. Bên bán giao một giá trị nhất định, và để đổi lại, bên mua phải trả một đối giá (Counter value)
cân xứng với giá trị đã được giao (Contract with consideration).

Ðối tượng của hợp đồng này là tài sản; do được đem ra mua bán tài sản này biến thành hàng hoá. Hàng hoá này
có thể là hàng đặc tính (Specific goods) và cũng có thể là hàng đồng loại (Generic goods).
khách thể của hợp đồng này là sự di chuyển quyền sở hữu hàng hoá (chuyển chủ hàng hoá). Ðây là sự khác biệt
so với hợp đồng thuê mướn (vì hợp đồng thêu mướn không tạo ra sự chuyển chủ), so với hợp đồng tặng biếu (vì
hợp đồng tặng biếu không có sự cân xứng giữa nghĩa vụ và quyền lợi).
2. Ðiều kiện hiệu lực của hợp đồng mua bán quốc tế .
Theo điều 81 của Error! Bookmark not defined.. Hợp đồng mua bán quốc tế có hiệu lực khi có đủ các điều kiện
sau đây:
(a) Chủ thể của hợp đồng là bên mua và bên bán phải có đủ tư cách pháp lý.
(b) Hàng hoá theo hợp đồng là hàng hoá được phép mua bán theo quy định của pháp luật.
(c) Hợp đồng mua bán quốc tế phải có các nội dung chủ yếu mà luật pháp đã quy định.
(d) Hình thức của hợp đồng phải là văn bản.
Dưới đây chúng ta phân tích bốn (04) điều kiện nói trên.
Về điều kiện (a) : Chủ thể của hợp đồng mua bán quốc tế. Về phía Việt Nam, theo nghị định 57/1998/NÐ - CP
ngày 31/7/1998, phải là doanh nghiệp đã có đăng ký kinh doanh (theo thủ tục thành lập doanh nghiệp) và đã đăng
ký mã số kinh doanh XNK tại cục hải Quan tỉnh, thành phố.
Doanh nghiệp không được phép xuất nhập khẩu những mặt hàng cấm xuất nhập khẩu. Ðối với mặt hàng được
phép NK, XK có điều kiện, họ phải xin được hạn ngạch (trường hợp hàng thuộc nhà nước quản lý bằng hạn
ngạch) hoặc được giâý phép (trường hợp hàng thuộc diện nhà nước quản lý bằng giấy phép kinh doanh XNK).
Về điều kiện (b) đối tượng hợp đồng phải là hàng được phép xuất nhập khẩu theo các văn bản pháp luật hiện
hành.
Về điều kiện (c) nội dung của hợp đồng bao gồm những điều khoản, mà theo điều 50 của Luật thương mại, buộc


phải có. Ðó là:
- Tên hàng
- Số lượng;
- Quy cách chất lượng;
- Giá cả;
- Phương thức thanh toán;

- Ðịa điểm và thời gian giao nhận hàng.
Ngoài ra các bên có thể thoả thuận thêm những nội dung, những điều khoản cho hợp đồng.
Về điều kiện (d) hình thức hợp đồng phải là hình thức văn bản. Ðó có thể là bản hợp đồng (hoặc bản thoả thuận )
có chữ ký của hai bên, cũng có thể là những thư từ, điện tín, điện chữ, thư điện tử bao gồm:
Chào hàng + Chấp nhận chào hàng = Hợp đồng đã giao kết
Hoặc
Ðặt hàng + Xác nhận đặt hàng = Error! Bookmark not defined.
3. Nội dung chủ yếu của một hợp đồng mua bán quốc tế
Một hợp đồng mua bán quốc tế thường gồm có hai phần: Những điều trình bày (representations) và các điều
khoản và điều kiện (terms and conditions)
· Trong phần những điều trình bày, người ta ghi rõ:
a. Số hợp đồng (contract No.).
b. Ðịa điểm và ngày tháng ký kết hợp đồng. Ðiều này có thể được ghi ngay trên cùng như:
Hà Nội June 20th 2003
hoặc
“The present contract was made and entered into at Hanoi on this June 20th 2003 by and between”.
Cũng có nhiều trường hợp, người ta lại ghi địa điểm và ngày tháng ký kết ở phần cuối hợp đồng. Ví dụ:
The present contract was made at Hanoi on June 20th 2003 in quadruplicate of equal force, two of which are kept
by each party”.a. Tên và địa chỉ của các đương sự.
d. Những định nghĩa dùng trong hợp đồng. Những định nghĩa này có thể rất nhiều, ví dụ hàng hoá có nghĩa là
thiết kế có nghĩa là. Chí ít, người ta cũng đưa ra định nghĩa sau đây:
“ABC company, address…, Tel … represented by Mr. … herein-after referred to as the Seller (or the Buyer)”
e. Cơ sở pháp lý để ký kết hợp đồng. Ðây có thể là hiệp định chính phủ ký kết ngày tháng , cũng có thể là Nghị
định thư ký kết giữa Bộ nước với Bộ.. nước. Chí ít, người ta cũng nêu ra sự tự nguyện của hai bên khi ký kết hợp
đồng. Ví dụ:
“It has been mutually agreed that the Seller commits to sell and the Buyer commits to buy the undermentioned
goods on the following terms and conditions”.*Trong phần các điều khoản và điều kiện người ta ghi rõ các điều
khoản thương phẩm (như tên hàng, số lượng, phẩm chất, bao bì); Các điều khoản tài chính (như giá cả và cơ sở
của giá cả, thanh toán, trả tiền hàng, chứng từ thanh toán); Các điều khoản vận tải (như: điều kiện giao hàng, thời
gian và địa điểm giao hàng); Các điều khoản pháp lý (như: Luật áp dụng vào hợp đồng, khiếu nại, trường hợp bất

khả kháng, trọng tài)
Các bạn có thể tham khảo hợp đồng mẫu , những chỗ chữ màu đỏ trong hợp đồng đã bị thay đổi. Contracts,
Invoice and Packing List Samples , Error! Bookmark not defined. and Ivoice , phiếu đóng gói và hoá đơn mẫu.
Chúc các bạn gặp nhiều may mắn.
B.W
Vũ Đức Hoàn
YM: michaelhoan
sưu tập bài giảng của Giảng viên cao cấp, Nhà giáo ưu tú Vũ Hữu Tửu - Đại học Ngoại Thương
P/S: Tranh chấp:
" Mọi tranh chấp phát sinh từ hợp đồng này sẽ được giả quyết chung thẩm tại Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt
Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công Nghiệp Việt Nam, the Qui tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm này"
"All disputes arising out of or in relation to this contract shall be finally setted by the Vietnam International
Arbitration Center at the Vietnam Chamber of Commerce and Industry in accordance with its Arbitration Rules"


Error! Bookmark not defined.
Error! Bookmark not defined.

BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN
THƯƠNG MẠI CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI DƯỚI GIÁC ĐỘ
PHÁP LUẬT VIỆT NAM[1]

(Bài viết đăng trong Tạp chí luật học - ĐH Luật HN số tháng 5/2008)

“Cũ người mới ta” - khi câu chuyện về licensing (hợp đồng li-xăng), rồi
chuyển giao công nghệ đã dần trở nên quen thuộc với Việt Nam thì vài
ba năm lại đây giới thương nhân, những nhà nghiên cứu luật học, kinh tế
học lại sôi nổi luận bàn về nhượng quyền thương mại (Franchising) được coi như “người anh em” của hai hoạt động nói trên [2]. Với một
quốc gia đang phát triển như Việt Nam, việc nhận quyền thương mại từ
các doanh nghiệp - những thương hiệu mạnh của nước ngoài đã, đang và

chắc hẳn vẫn còn là một xu hướng chủ đạo. Một vài doanh nghiệp lớn
của Việt Nam cũng đã và sẽ dùng nhượng quyền thương mại như một
công cụ hữu dụng để mở đường ra thế giới. Đặt trong bối cảnh đó, tạm
chấp nhận với những gì đang có của pháp luật Việt Nam dành cho hợp
đồng nhượng quyền thương mại nói chung để đi tìm khuôn khổ pháp lý
và chia sẻ vài suy nghĩ bước đầu về hợp đồng nhượng quyền thương mại
có yếu tố nước ngoài (International Franchise Agreement)[3] dưới giác
độ pháp luật Việt Nam chính là mục tiêu của bài viết này.

1. Đôi nét về hợp đồng nhượng quyền thương mại nói chung

Như “cây phải có gốc”, bàn luận về hợp đồng nhượng quyền thương mại
có yếu tố nước ngoài rõ ràng và dứt khoát phải trên cái nền hiểu biết về


hợp đồng nhượng quyền thương mại nói chung. Trong bối cảnh mà quan
niệm về nhượng quyền thương mại, hợp đồng nhượng quyền thương mại
ở Việt Nam vẫn còn nhiều khác biệt và mới mẻ thì lẽ dĩ nhiên cũng nên
khởi đầu bằng những suy nghĩ mang tính cốt lõi về loại hợp đồng này.
Với sự xuất hiện ở Mỹ từ những năm 1850 và bắt đầu lan rộng từ năm
1980 thì những định nghĩa về nhượng quyền thương mại, hợp đồng
nhượng quyền thương mại dĩ nhiên cũng hết sức đa dạng[4]. Trong khi
đó, cho dù nhượng quyền thương mại đã “chớm nở” từ năm 1990 ở Việt
Nam với sự xuất hiện thậm chí của những nhà nhượng quyền nội địa như
Cà phê Trung Nguyên (1996), AQ Silk (2002)... nhưng dưới góc độ pháp
lý thì phải sau một thời gian náu mình với cái tên “cấp phép đặc quyền
kinh doanh”[5] nhượng quyền thương mại mới chính thức được thừa
nhận trong Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 (LTMVN 2005). Đáng
tiếc rằng, dù Điều 285 LTMVN 2005 đã có được cái tên là “hợp đồng
nhượng quyền thương mại” và tại Nghị định 35/2006/NĐ-CP ngày

31/03/2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt
động nhượng quyền thương mại (sau đây gọi tắt là Nghị định 35) đã có
hai định nghĩa khá rõ về “hợp đồng phát triển quyền thương mại” và
“hợp đồng nhượng quyền thương mại thứ cấp” nhưng rốt cuộc nội dung
của Điều 285 chỉ nói về hình thức của hợp đồng nhượng quyền thương
mại. Dẫu vậy, dựa vào định nghĩa về hoạt động nhượng quyền thương
mại tại Điều 284 LTMVN 2005 và các quy định pháp luật liên quan có
thể gián tiếp rút ra quan niệm về hợp đồng nhượng quyền thương mại
theo pháp luật Việt Nam như sau:

“Hợp đồng nhượng quyền thương mại là thỏa thuận giữa bên nhượng
quyền và bên nhận quyền, trong đó bên nhượng quyền cho phép và yêu
cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ theo các điều kiện sau:

1. Việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách
thức tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với
nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, biểu tượng
kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền;


2. Bên nhượng quyền được nhận một khoản tiền nhượng quyền, có quyền
kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền trong việc điều hành công việc
kinh doanh”.

Nếu tham khảo định nghĩa của pháp luật các nước, các hiệp hội, các nhà
khoa học trên thế giới và thực tiễn của hoạt động nhượng quyền thương
mại thì có thể nhận ra cách quan niệm của Việt Nam chưa thực sự lột tả
hết nội dung của loại hợp đồng này. Điều dễ nhận ra nhất là đối tượng
của hợp đồng này có thể còn bao hàm nhiều đối tượng của quyền sở hữu

trí tuệ khác chứ không chỉ là một vài đối tượng được chỉ ra tại Điều 284.
Chẳng hạn, tại sao đối tượng của hợp đồng nhượng quyền thương mại
không thể gồm cả nhãn hiệu dịch vụ mà chỉ là nhãn hiệu hàng hóa?

Bỏ qua những hạn chế về quan niệm của pháp luật Việt Nam đối với hoạt
động nhượng quyền thương mại, hợp đồng nhượng quyền thương mại,
cũng cần nhận diện chủ thể, hình thức và nội dung của loại hợp đồng này
theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành. Về chủ thể của hợp
đồng nhượng quyền thương mại, quy định của LTMVN 2005 và Nghị
định 35 cho thấy để trở thành chủ thể của loại hợp đồng này thì trước hết
phải là thương nhân (thương nhân Việt Nam hoặc thương nhân nước
ngoài). Bên cạnh đó, pháp luật Việt Nam còn đòi hỏi các điều kiện kèm
theo đối với chủ thể nhượng quyền và nhận quyền. Cụ thể là thương
nhân nhượng quyền phải hội đủ các điều kiện như[6]: thứ nhất, hệ thống
kinh doanh dự định dùng để nhượng quyền đã hoạt động được ít nhất 01
năm (nếu thương nhân Việt Nam là bên nhận quyền sơ cấp từ bên
nhượng quyền nước ngoài, thương nhân Việt Nam đó phải kinh doanh
theo phương thức nhượng quyền thương mại ít nhất 01 năm ở Việt Nam
trước khi tiến hành cấp lại quyền thương mại); thứ hai, đã đăng ký hoạt
động nhượng quyền thương mại với cơ quan có thẩm quyền theo quy
định. Trong khi đó, điều kiện đối với bên nhận quyền là phải có đăng ký
ngành nghề kinh doanh phù hợp với hoạt động nhượng quyền thương
mại.

Về hình thức của hợp đồng nhượng quyền thương mại, Điều 285
LTMVN 2005 quy định hợp đồng nhượng quyền thương mại phải được


lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương
đương. Các hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương văn bản gồm

có điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy
định của pháp luật.

Dù pháp luật Việt Nam không đưa ra một định nghĩa cụ thể về hợp đồng
nhượng quyền thương mại, nhưng cũng đã khuyến cáo những nội dung
cần có của hợp đồng này, đó là[7]: nội dung của quyền thương mại;
quyền, nghĩa vụ của Bên nhượng quyền; quyền, nghĩa vụ của Bên nhận
quyền; giá cả, phí nhượng quyền định kỳ và phương thức thanh toán;
thời hạn hiệu lực của hợp đồng; gia hạn, chấp dứt hợp đồng và giải quyết
tranh chấp. Cũng với những quy định từ Nghị định 35 thì một trong
những vấn đề then chốt của nội dung hợp đồng nhượng quyền thương
mại đã được đề cập - đối tượng của hợp đồng. Theo đó, đối tượng của
hợp đồng nhượng quyền thương mại là “quyền thương mại” và nội hàm
của quyền thương mại được xác định bao gồm một, một số hoặc toàn bộ
các quyền sau[8]:

a) Quyền được Bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu Bên nhận quyền
tự mình tiến hành công việc kinh doanh cung cấp hàng hoá hoặc dịch vụ
theo một hệ thống do Bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn
hiệu hàng hoá, tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh
doanh, quảng cáo của Bên nhượng quyền;

b) Quyền được Bên nhượng quyền cấp cho Bên nhận quyền sơ cấp
quyền thương mại chung[9];

c) Quyền được Bên nhượng quyền thứ cấp cấp lại cho Bên nhận quyền
thứ cấp theo hợp đồng nhượng quyền thương mại chung;

d) Quyền được Bên nhượng quyền cấp cho Bên nhận quyền quyền
thương mại theo hợp đồng phát triển quyền thương mại.



Trong đó, cần thấy rằng theo quy định của pháp luật Việt Nam thì không
phải bất kỳ loại hàng hóa, dịch vụ nào cũng được phép tiến hành nhượng
“quyền thương mại”. LTMVN 2005 và Nghị định 35 quy định hàng hóa,
dịch vụ được phép kinh doanh nhượng quyền thương mại phải là hàng
hóa, dịch vụ không thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh.
Đối với hàng hoá, dịch vụ thuộc Danh mục hàng hoá, dịch vụ hạn chế
kinh doanh, Danh mục hàng hoá, dịch vụ kinh doanh có điều kiện, doanh
nghiệp chỉ được kinh doanh sau khi được cơ quan quản lý ngành cấp
Giấy phép kinh doanh, giấy tờ có giá trị tương đương hoặc có đủ điều
kiện kinh doanh.

2. Hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài

Tìm về nội hàm khái niệm hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố
nước ngoài

Khi mà định nghĩa về hợp đồng nhượng quyền thương mại nói chung
không tồn tại, thì đương nhiên việc pháp luật Việt Nam không chỉ rõ thế
nào là hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài cũng là
điều dễ hiểu! Đặt trong bối cảnh hợp đồng nhượng quyền thương mại là
một loại hợp đồng thương mại, Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005
(BLDSVN 2005) chính thức được xây dựng với vai trò là một “đạo luật
mẹ” bao trùm cả về thương mại, lao động, hôn nhân gia đình thì hoàn
toàn có thể vận dụng Điều 758 BLDSVN 2005 quy định về quan hệ dân
sự có yếu tố nước ngoài để làm rõ nội hàm khái niệm hợp đồng nhượng
quyền thương mại có yếu tố nước ngoài. Điều đầu tiên dễ nhận ra đó là
để trở thành một hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước
ngoài thì: thứ nhất, phải là hợp đồng nhượng quyền thương mại; và thứ

hai, phải có yếu tố nước ngoài. Nếu theo quy định mang tính chung cho
mọi quan hệ dân sự thì yếu tố nước ngoài có thể rơi vào chủ thể, sự kiện
pháp lý hoặc đối tượng của quan hệ. Liệu điều đó có xảy ra với hợp đồng
nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài? Trước hết, về chủ thể,
hợp đồng nhượng quyền thương mại sẽ có yếu tố nước ngoài khi có sự


tham gia của ít nhất một trong các bên chủ thể là thương nhân nước
ngoài. Với quy định tại khoản 1 Điều 16 LTMVN 2005 thì thương nhân
nước ngoài là thương nhân được thành lập, đăng ký kinh doanh theo
pháp luật nước ngoài hoặc được pháp luật nước ngoài công nhận. Theo
đó, hợp đồng nhượng quyền thương mại giữa Cà phê Trung Nguyên với
Daisu Corporation (Nhật Bản) năm 2001, giữa AQ Silk với một thương
nhân Mỹ vào năm 2002,... đều là những hợp đồng nhượng quyền thương
mại có yếu tố nước ngoài. Về sự kiện pháp lý của quan hệ, nếu theo Điều
758 BLDSVN 2005 thì hợp đồng nhượng quyền thương mại sẽ có yếu tố
nước ngoài khi sự kiện xác lập, sự kiện thay đổi hoặc sự kiện chấm dứt
quan hệ nhượng quyền thương mại diễn ra ở nước ngoài. Trường hợp
này hoàn toàn có thể xảy ra trên thực tế đối với hợp đồng nhượng quyền
thương mại. Chẳng hạn, hợp đồng nhượng quyền thương mại giữa Phở
24 cho các bên nhận quyền là thương nhân Việt Nam nhưng hợp đồng
được ký ở Singapore thì hợp đồng nhượng quyền thương mại đó cũng
được coi là có yếu tố nước ngoài... Nhưng với trường hợp đối tượng của
hợp đồng có yếu tố nước ngoài, mà theo như Điều 758 là “tài sản liên
quan đến quan hệ nằm ở nước ngoài”, thì liệu có xảy ra đối với hợp đồng
nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài? Như đã phân tích ở
trên, đối tượng của hợp đồng nhượng quyền thương mại là “quyền
thương mại”, dĩ nhiên đã là quyền thì thuộc về “tài sản vô hình” - nghĩa
là không thể xác định được nó đang ở đâu. Vì lẽ đó, không thể xảy ra
tình huống hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài

xuất phát từ việc đối tượng của nó có yếu tố nước ngoài. Như vậy, theo
quy định của pháp luật Việt Nam, một hợp đồng nhượng quyền thương
mại sẽ có yếu tố nước ngoài khi xuất hiện một trong các yếu tố sau: thứ
nhất, chủ thể của hợp đồng có sự tham gia của thương nhân nước ngoài;
thứ hai, khi sự kiện xác lập hoặc sự kiện thay đổi hoặc sự kiện chấm dứt
hợp đồng diễn ra ở nước ngoài.

Vấn đề chủ thể của hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước
ngoài

Xem xét về hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài
trước hết cần xác định chủ thể của nó cần thỏa mãn những điều kiện gì.
Điều này không hề đơn giản, bởi lẽ nó phụ thuộc vào từng hệ thống pháp


luật của mỗi nước. Theo pháp luật Việt Nam, vấn đề năng lực chủ thể
của hợp đồng nói chung được xác định theo Điều 761, Điều 762 (dành
cho cá nhân) và Điều 765 BLDSVN 2005 (dành cho pháp nhân). Tuy
nhiên, cần lưu ý là khác với hợp đồng nói chung, đối với năng lực chủ
thể của hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài thì
Nghị định 35 đã quy định rõ điều kiện dành cho thương nhân nhượng
quyền và thương nhân nhận quyền dù đó là thương nhân Việt Nam hay
thương nhân nước ngoài[10]. Theo đó thì chủ thể của hợp đồng nhượng
quyền thương mại có yếu tố nước ngoài cũng cần thỏa mãn các điều kiện
giống như chủ thể của hợp đồng nhượng quyền thương mại nói chung
(đã nói ở phần trên).

Hình thức của hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài

Do Nghị định 35 xác định đối tượng áp dụng là cả thương nhân Việt

Nam và thương nhân nước ngoài tham gia vào hoạt động nhượng quyền
nên rõ ràng các quy định về hình thức của hợp đồng nhượng quyền
thương mại nói chung được hiểu là dành cho cả hợp đồng nhượng quyền
thương mại có yếu tố nước ngoài. Nghĩa là hợp đồng nhượng quyền
thương mại có yếu tố nước ngoài phải được lập thành văn bản hoặc hình
thức khác có giá trị pháp lý tương đương. Tham khảo thêm Điều 12 Nghị
định 35 thì “Hợp đồng nhượng quyền thương mại phải được lập bằng
tiếng Việt. Trường hợp nhượng quyền từ Việt Nam ra nước ngoài, ngôn
ngữ của hợp đồng nhượng quyền thương mại do các bên thoả thuận”.
Như vậy, về nguyên tắc mọi hợp đồng nhượng quyền thương mại trong
đó bao hàm cả hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài
phải được lập bằng văn bản dưới ngôn ngữ là tiếng Việt. Duy chỉ có
trường hợp đối với hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước
ngoài mà bên nhượng quyền là thương nhân Việt Nam và bên nhận
quyền là thương nhân nước ngoài thì ngôn ngữ có thể theo sự thỏa thuận
lựa chọn của các bên.

Nội dung hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài


Về vấn đề này, Điều 11 Nghị định 35 quy định “Trong trường hợp các
bên lựa chọn áp dụng luật Việt Nam, hợp đồng nhượng quyền thương
mại có thể có các nội dung chủ yếu sau đây:...”. Nghĩa là pháp luật
thương mại Việt Nam không ấn định hệ thống pháp luật nào sẽ được áp
dụng để xác định tính hợp pháp về mặt nội dung của hợp đồng nhượng
quyền thương mại có yếu tố nước ngoài. Quy định này chỉ cho thấy một
điều rõ ràng là các bên chủ thể của hợp đồng nhượng quyền thương mại
có yếu tố nước ngoài hoàn toàn có quyền thỏa thuận lựa chọn hệ thống
pháp luật của một nước nào đó sẽ được áp dụng để điều chỉnh quyền và
nghĩa vụ của các bên chủ thể. Khi mà pháp luật chuyên ngành không quy

định trực tiếp và cũng không đề cập đến luật áp dụng để điều chỉnh thì
việc xem xét luật áp dụng để điều chỉnh nội dung hợp đồng nhượng
quyền thương mại có yếu tố nước ngoài dĩ nhiên được vận dụng theo
trường hợp như hợp đồng dân sự nói chung - nghĩa là theo Điều 769
BLDSVN 2005[11]. Cụ thể là nội dung của hợp đồng sẽ được xác định
theo pháp luật của nước mà các bên chủ thể thỏa thuận áp dụng. Nếu các
bên chủ thể không thỏa thuận pháp luật áp dụng thì nội dung hợp đồng sẽ
được xác định theo pháp luật của nước nơi thực hiện hợp đồng. Đặt tình
huống pháp luật được áp dụng để điều chỉnh nội dung hợp đồng nhượng
quyền thương mại là pháp luật Việt Nam thì với quy định của Điều 11
Nghị định 35 cho thấy rằng pháp luật Việt Nam cũng chỉ “gợi mở” một
số điều khoản nên đưa vào nội dung hợp đồng (như đã đề cập tại phần
hợp đồng nhượng quyền thương mại nói chung ở trên) mà không mang
tính bắt buộc các bên chủ thể. Căn cứ vào tinh thần của các Điều 4, Điều
122 BLDSVN 2005 thì theo pháp luật Việt Nam, nội dung hợp đồng
nhượng quyền thương mại nói chung, trong đó có hợp đồng nhượng
quyền thương mại có yếu tố nước ngoài sẽ được coi là hợp pháp nếu
không vi phạm các điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội
Việt Nam.

Vấn đề cơ quan giải quyết tranh chấp và luật áp dụng cho hợp đồng
nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài

Khác với hợp đồng nhượng quyền thương mại trong nước, hợp đồng
nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài hoàn toàn có thể được
giải quyết bởi cơ quan tài phán nước ngoài và hoàn toàn có khả năng bị


chi phối bởi hệ thống pháp luật nước ngoài và các điều ước quốc tế có
liên quan. Những gì đã bàn ở trên về chủ thể, hình thức hay nội dung của

hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài chỉ dưới giác
độ pháp luật Việt Nam hiện hành. Do vậy, chúng chỉ đúng khi pháp luật
Việt Nam được áp dụng. Trong khi pháp luật Việt Nam có được áp dụng
hay không lại lệ thuộc vào cơ quan nào có thẩm quyền giải quyết vụ việc
cũng như vấn đề luật áp dụng đối với hợp đồng? Vì thế, lưu tâm đến cơ
quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp và vấn đề luật áp dụng chính
là điều tối quan trọng cho hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài nói
chung, trong đó có hợp đồng nhượng quyền thương mại.

Tầm quan trọng của vấn đề lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp?
Cho dù khi tranh chấp xảy ra thì lúc đó các bên mới nghĩ tới chuyện cơ
quan tài phán, nhưng với hợp đồng có yếu tố nước ngoài nói chung thì cơ
quan tài phán nước nào có thẩm quyền giải quyết lại đóng vai trò quan
trọng cho vấn đề luật áp dụng - cũng có nghĩa là tới kết quả phán quyết
sau này. Lý do cơ bản là bởi nếu không có điều ước quốc tế có liên quan
điều chỉnh thì cơ quan tài phán nước nào sẽ sử dụng ngay hệ thống pháp
luật nước đó để xem xét các vấn đề của hợp đồng. “Sử dụng ngay” ở đây
không nên đồng nhất với việc cuối cùng cơ quan tài phán sẽ áp dụng các
quy định cụ thể của pháp luật nước đó (trong tư pháp quốc tế gọi là các
quy định của pháp luật thực chất) để giải quyết tranh chấp. Điều này chỉ
đúng khi trong pháp luật nước đó có quy phạm thực chất trực tiếp điều
chỉnh hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài (ví dụ
trường hợp hình thức hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố
nước ngoài được pháp luật Việt Nam quy định cụ thể như đã nói ở trên).
Còn nếu pháp luật nước đó sử dụng quy phạm xung đột (ví dụ vấn đề nội
dung hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài quy định
trong pháp luật Việt Nam như đã đề cập ở trên) thì “sử dụng ngay” chỉ là
“sử dụng quy phạm xung đột của pháp luật nước đó”, rốt cuộc pháp luật
thực chất nước nào sẽ được áp dụng thì lại phụ thuộc vào sự chỉ dẫn của
quy phạm xung đột được áp dụng ấy. Nhưng rõ ràng với việc “sử dụng

ngay” pháp luật của nước có cơ quan tài phán thụ lý vụ việc cho thấy tầm
quan trọng lớn lao của việc chọn cơ quan giải quyết tranh chấp. Bởi lẽ nó
quyết định tới số phận của việc áp dụng pháp luật thực chất nước nào để
điều chỉnh hợp đồng. Pháp luật Việt Nam hiện hành không đưa tranh
chấp về hợp đồng nhượng quyền thương mại vào diện thuộc thẩm quyền
riêng biệt của tòa án Việt Nam. Do vậy, tranh chấp về hợp đồng này


hoàn toàn có thể được giải quyết bởi cơ quan trọng tài, tòa án nước
ngoài. Đây chính là điều đáng lưu tâm cho các thương nhân Việt Nam
khi thực hiện việc nhận hay nhượng quyền thương mại. Giải pháp dành
cho họ trong bối cảnh hiện nay và chắc hẳn còn cho nhiều năm tới nữa
chính là thỏa thuận rõ cơ quan tài phán phù hợp trong hợp đồng - hay
nhất có lẽ vẫn là trọng tài hoặc tòa án Việt Nam. Đó sẽ là sự thuận lợi
lớn cho các thương nhân Việt Nam khi phải đối mặt với các tranh chấp
xét trên hai phương diện cơ bản: chi phí và sự am hiểu luật pháp.

Đối với việc lựa chọn pháp luật áp dụng cho hợp đồng, về nguyên tắc các
bên chủ thể có quyền thỏa thuận những gì mà pháp luật không cấm. Như
đã nói ở trên, “pháp luật không cấm” ở đây sẽ là pháp luật của nước có
cơ quan tài phán thụ lý vụ việc nếu như không có điều ước quốc tế về
vấn đề này. Hiện nay, pháp luật Việt Nam cũng như hầu hết pháp luật
các nước trên thế giới và các điều ước quốc tế đều cho phép các bên chủ
thể của đa số hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài trong đó có hợp
đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài được quyền thoả
thuận luật áp dụng cho nội dung hợp đồng. Vì thế, pháp luật thực chất
được áp dụng để điều chỉnh nội dung hợp đồng nhượng quyền thương
mại sẽ không còn bị “lệ thuộc” vào sự lựa chọn cơ quan tài phán nếu như
các bên chủ thể đã thỏa thuận rõ trong hợp đồng về vấn đề này. Để minh
bạch hóa mọi nội dung của hợp đồng, tránh những tình huống pháp lý

khó xử cho chính mình trong bối cảnh vẫn còn nhiều hạn chế về sức
mạnh kinh tế, về hiểu biết pháp lý quốc tế trong tính so sánh với các
thương nhân nước ngoài, thiết nghĩ cố gắng để đạt được sự thống nhất
trong việc lựa chọn hệ thống pháp luật Việt Nam hoặc ít nhất là một hệ
thống pháp luật mà mình có khả năng tiếp cận sẽ là một việc làm thông
minh cho giới thương nhân Việt Nam.


[1] ThS. Nguyễn Bá Bình, giảng viên, thư ký Trung tâm nghiên cứu pháp
luật Châu Á - Thái Bình Dương, Đại học Luật Hà Nội.

[2] xem thêm bài “Nhượng quyền thương mại - một số vấn đề về bản
chất và về mối quan hệ với hoạt động li-xăng, hoạt động chuyển giao
công nghệ”, ThS. Nguyễn Bá Bình, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số
2/2006.

[3] cũng có thể gọi là hợp đồng nhượng quyền thương mại quốc tế.

[4] xem thêm Luận văn thạc sỹ luật học của Nguyễn Thị Minh Huệ
“Những vấn đề lý luận và thực tiễn về nhượng quyền thương mại tại Việt
Nam” - ĐH Luật Hà Nội, 2005.

[5] Văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên ghi nhận nhượng quyền thương
mại dưới tên gọi “hợp đồng cấp phép đặc quyền kinh doanh (franchise)”
là Thông tư 1254/1999/TT-BKHCNMT do Bộ Khoa học, công nghệ và
môi trường (nay là Bộ Khoa học và công nghệ) ban hành ngày
12/07/1999 hướng dẫn Nghị định 45/1998/NĐ-CP của Chính phủ về
chuyển giao công nghệ. Tiếp đó, với cái tên “cấp phép đặc quyền kinh
doanh” nhượng quyền thương mại lại được đề cập tại Nghị định
11/2005/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 02/02/2005 quy định chi

tiết về chuyển giao công nghệ (Nghị định 11 này thay thế cho Nghị định
45 nói trên).


[6] xem Điều 5, 6 Nghị định 35.

[7] Điều 11 Nghị định 35.

[8] xem khoản 6 Điều 3 Nghị định 35.

[9] “Quyền thương mại chung” là quyền do Bên nhượng quyền trao cho
Bên nhượng quyền thứ cấp được phép cấp lại quyền thương mại cho các
Bên nhận quyền thứ cấp. Bên nhận quyền thứ cấp không được phép cấp
lại quyền thương mại chung đó nữa.

[10] Khoản 1 Điều 2 Nghị định 35 đã quy định về đối tượng áp dụng như
sau: “Nghị định này áp dụng đối với thương nhân Việt Nam và thương
nhân nước ngoài tham gia vào hoạt động nhượng quyền thương mại”.

[11] Dù rằng bài viết này xem xét hợp đồng nhượng quyền thương mại
có yếu tố nước ngoài dưới giác độ pháp luật Việt Nam, nhưng cũng cần
lưu ý rằng pháp luật Việt Nam chỉ được áp dụng nếu các Điều ước quốc
tế (ví dụ các Hiệp định tương trợ tư pháp) mà Việt Nam là thành viên
không có quy định khác về vấn đề này.

Hợp đồng franchise (Hợp đồng nhượng quyền thương mại)
Hợp đồng Franchise hầu hết là các hợp đồng kiểu "gia nhập", tức là các hợp đồng được soạn thảo sẵn bởi Bên bán, do vậy nội dung
của Hợp đồng luôn có khuynh hướng bảo vệ lợi ích của chủ thương hiệu. Trong trường hợp này, người mua Franchise nên thông qua
một văn phòng luật sư để tư vấn hoặc hỗ trợ đàm phán các hạng mục trong hợp đồng trước khi quyết định ký.
Hợp đồng Franchise là kết quả của cả quá trình đàm phán giữa Bên bán và Bên mua Franchise.



Hợp đồng Franchise hầu hết là các hợp đồng kiểu "gia nhập", tức là các hợp đồng được soạn thảo sẵn bởi Bên bán, do vậy nội dung
của Hợp đồng luôn có khuynh hướng bảo vệ lợi ích của chủ thương hiệu. Trong trường hợp này, người mua Franchise nên thông qua
một văn phòng luật sư để tư vấn hoặc hỗ trợ đàm phán các hạng mục trong hợp đồng trước khi quyết định ký.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, trước khi tiến hành hoạt động nhượng quyền thương mại, thương nhân Việt Nam hoặc thương
nhân nước ngoài dự kiến nhượng quyền phải đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại với cơ quan có thẩm quyền. Cơ quan có
thẩm quyền đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại có trách nhiệm đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại của thương
nhân vào Sổ đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại và thông báo bằng văn bản cho thương nhân về việc đăng ký đó (Điều 17
NĐ 35/2006/NĐ-CP).
Việc đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại được phân cấp như sau:
1. Bộ Thương mại thực hiện đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại sau đây:
a) Nhượng quyền thương mại từ nước ngoài vào Việt Nam, bao gồm cả hoạt động nhượng quyền thương mại từ Khu chế xuất, Khu
phi thuế quan hoặc các khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật Việt Nam vào lãnh thổ Việt Nam
b) Nhượng quyền thương mại từ Việt Nam ra nước ngoài, bao gồm cả hoạt động nhượng quyền thương mại từ lãnh thổ Việt Nam vào
Khu chế xuất, Khu phi thuế quan hoặc các khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật Việt Nam.
2. Sở Thương mại, Sở Thương mại Du lịch tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi thương nhân dự kiến nhượng quyền đăng ký
kinh doanh thực hiện đăng ký đối với hoạt động nhượng quyền thương mại trong nước trừ hoạt động chuyển giao qua ranh giới Khu
chế xuất, Khu phi thuế quan hoặc các khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật Việt Nam (Điều 18 NĐ 35/2006/NĐ-CP).
Hồ sơ đề nghị đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại bao gồm:
1. Đơn đề nghị đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại theo mẫu do Bộ Thương mại hướng dẫn.
2. Bản giới thiệu về nhượng quyền thương mại theo mẫu do Bộ Thương mại quy định.
3. Các văn bản xác nhận về:
a) Tư cách pháp lý của bên dự kiến nhượng quyền thương mại
b) Văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp tại Việt Nam hoặc tại nước ngoài trong trường hợp có chuyển giao quyền sử dụng các
đối tượng sở hữu công nghiệp đã được cấp văn bằng bảo hộ (Điều NĐ 35/2006/NĐ-CP).
Trong trường hợp các bên lựa chọn áp dụng luật Việt Nam, hợp đồng nhượng quyền thương mại có thể có các nội dung chủ yếu sau
đây:
1. Nội dung của quyền thương mại
2. Quyền, nghĩa vụ của Bên nhượng quyền

3. Quyền, nghĩa vụ của Bên nhận quyền
4. Giá cả, phí nhượng quyền định kỳ và phương thức thanh toán
5. Thời hạn hiệu lực của hợp đồng
6. Gia hạn, chấm dứt hợp đồng và giải quyết tranh chấp.
Trong nội dung của hợp đồng nhượng quyền thương mại, điều khoản về quyền và nghĩa vụ của các bên là những điều khoản rất quan
trọng, do vậy Luật Thương mại đã dành riêng 04 điều luật để quy định về vấn đề này.
Theo đó, thương nhân nhượng quyền có quyền:
1. Nhận tiền nhượng quyền
2. Tổ chức quảng cáo cho hệ thống nhượng quyền thương mại và mạng lưới nhượng quyền thương mại
3. Kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất hoạt động của bên nhận quyền nhằm bảo đảm sự thống nhất của hệ thống nhượng quyền thương
mại và sự ổn định về chất lượng hàng hoá, dịch vụ (Điều 286)


×