Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.22 KB, 12 trang )

PHÂN VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA BÁO CHÍ
-----*-----

TIỂU LUẬN 2

MÔN: QUẢN LÝ CÁC VẤN ĐỀ VĂN HOÁ XÃ HỘI

Đề tài: Xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc. Những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra

Giảng viên hướng dẫn:
Học viên:
Lớp: Cao học báo chí khoá 8

Hà Nội, tháng 5-2003

1


Văn hoá từ xưa đến nay đều bắt nguồn từ văn hoá dân tộc, là hương vị, là hoa
trái của cuộc đời. Những thành quả của văn hoá hôm nay là sự kế thừa những giá trị
đã có, đã được hình thành từ xa xưa trong lịch sử dân tộc. Trong quá trình phát triển
của mình, mọi dân tộc đã sáng tạo ra những giá trị riêng, những giá trị đó sẽ đóng góp
và làm phong phú thêm cho nền văn hoá nhân loại. Đó là chân lý hiển nhiên của lịch
sử. Tuy vậy, trong sự giao thoa về văn hoá trước đây, đặc biệt trong xu thế toàn cầu
hoá hiện nay, ý thức trở về cội nguồn đang có nguy cơ bị coi nhẹ. Chính vì vậy, việc
xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đang là vấn đề mà Đảng và
Nhà nước ta hiện nay rất quan tâm.
Kinh nghiệm lịch sử đã chỉ ra rằng, các dân tộc hiện đại chỉ có thể phát triển
mạnh mẽ thường xuyên biết quan tâm đến truyền thống, biết phát huy và khai thác


những giá trị truyền thống. Ngày nay khi đất nước đang đi vào xu thế toàn cầu hoá,
việc quan tâm, bảo vệ, phát huy các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, không
chỉ tạo nên sức mạnh, vượt qua những thách thức gay gắt đang đặt ra, mà còn tạo một
nguồn lực quan trọng để vươn tới tương lai, vượt qua những thách thức nghiệt ngã
của xu thế toàn cầu.
THỰC TRẠNG NỀN VĂN HOÁ NƯỚC TA HIỆN NAY
Văn hoá Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao động, sáng tạo, đấu tranh
kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Nó cũng là
kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới.
Trong thời đại Hồ Chí Minh, với đường lối đúng đắn và sáng tạo của Đảng, văn
hoá Việt Nam tiếp tục được phát huy, đã góp phần quyết định vào những thắng lợi to
lớn của nhân dân ta trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay, việc bảo vệ,
phát huy những thành quả mà cách mạng đã đạt được, đồng thời, xây dựng và phát
huy nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc lại càng là một vấn đề quan trọng.
Trên thực tế, nền văn hoá nước ta trong quá trình xây dựng và phát triển đã thu
được những thành tựu đáng kể. Tư tưởng, đạo đức và lối sống đã có những chuyển
biến đáng kể. Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được vận dụng và phát
triển sáng tạo ngày càng tỏ rõ giá trị vững bền làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho hành động của đảng và của cách mạng nước ta. Ý thức phấn đấu cho độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội ngày càng được nâng lên. Tính năng động và tích cực của
công dân được phát huy. Không khí dân chủ trong xã hội được tăng lên. Nhiều việc
làm thiết thực như hướng về cội nguồn, xây dựng nông thôn mới, xây dựng nếp sống
văn minh nơi đô thị… đang trở thành một phong trào quần chúng.
2


Sự nghiệp khoa học, giáo dục đã thu được những thành tựu quan trọng, mức
phổ cập của học sinh được nâng dần lên. Trên lĩnh vực văn học nghệ thuật, nhiều bộ
môn văn hoá truyền thống được giữ gìn và phát huy mạnh mẽ; Các phương tiện thông

tin đại chúng phát triển nhanh cả về số lượng lẫn chất lượng. Giao lưu văn hoá với
nước ngoài từng bước được mở rộng. Các thể chế văn hoá về căn bản đã đảm bảo
được sự quản lý và lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.
Tuy nhiên, trên lĩnh vực văn hoá chúng ta vẫn còn một số mặt yếu kém. Không
ít người ở nhận thức, tư tưởng, đạo đức và lối sống còn mơ hồ, bàng quan, mất cảnh
giác trước những luận điều thù địch, xuyên tạc, bôi nhọ chế độ ta. Sự kiện Tây
Nguyên và việc xúi giục bà con dân tộc Tây Nguyên vượt biên sang đất Camphuchia
là mọt ví dụ điển hình. Bên cạnh đó, tệ sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị
văn hoá dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân, vị kỷ… đang gây hại đến
thuần phong mỹ tục của dân tộc. Nghiêm trọng hơn là việc suy thoái đạo đức, lối
sống của một số cán bộ lãnh đạo, đảng viên, trong đó có cả những cán bộ có chức, có
quyền. Hiện tượng quan liêu, tham nhũng, gây bè phái mất đoàn kết cũng đang là vấn
đề nổi cộm ở nhiều cơ quan, đoàn thể…
Nước ta đang thực hiện nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, bên
cạnh những tác động tích cực do kinh tế thị trường đem lại như đề cao xã hội, đề cao
người tiêu dùng, kích thích sản xuất phát triển, kinh tế thị trường cũng kéo theo
nhiều tác động tiêu cực như làm gia tăng sự phân hoá giàu nghèo, nảy sinh lối sống
thương mại hoá, lấy đồng tiền là thước đo của mọi quan hệ.
Cùng với việc thực hiện nền kinh tế thị trường, xu hướng toàn cầu hoá đang
diễn ra mạnh mẽ trên khắp thế giới. Việt Nam không nằm ngoài những ảnh hưởng
của xu thế này. Xu thế toàn cầu hoá mở ra cho nước ta hội nhập với nền kinh tế thế
giới nhưng xu thế toàn cầu hoá cũng kéo theo một loạt vấn đề xã hội cần giải quyết
đó là sự phân hoá giàu nghèo, nạn ô nhiễm môi trường, nguồn tài nguyên khánh kiệt,
văn hoá ngoại lai thâm nhập ồ ạt… Trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo xuất hiện nhiều
biểu hiện tiêu cực, sự suy thoái về đạo lý trong quan hệ thày – trò. Trong đời sống
văn học - nghệ thuật ít có tác phẩm đạt đỉnh cao tương xứng với sự nghiệp cách mạng
và kháng chiến vĩ đại cũng như sự đổi mới của dân tộc. Lĩnh vực thông tin đại chúng
xuất hiện xu hướng thương mại hoá báo chí…
Nguyên nhân của tình trạng yếu kém trên có cả khách quan và chủ quan như
các thế lực thù địch chống phá ta, cơ chế thị trường và sự hội nhập quốc tế cũng bộc

lọ những mặt trái của nó… Về nguyên nhân chủ quan, nước ta còn nghèo nên mới
chủ tập trung vào nhiệm vụ kinh tế mà chưa dặt đúng vị trí của văn hoá. Việc xử lý
những phần tử thoái hoá, biến chất trong đảng và bộ máy nhà nước chưa nghiêm.
Trong lãnh đạo và quản lý có những biểu hiện buông lỏng, né tránh trách nhiệm;
chưa có cơ chế chính sách phát huy nội lực của nhân dân.
3


Văn hoá là nền tảng của dân tộc . Văn hoá chính là sự phát triển cả về nhân
cách và khả năng của con người. Trước những thực trạng nhức nhối của đời sống
được nêu trên đòi hỏi chúng ta phải quan tâm, chú trọng đến việc xây dựng nề văn
hoá của nước ta để không bị nền văn hoá ngoại lai xâm nhập, để nước ta hội nhập mà
không bị hoà tan.Chính những mặt yếu kém nêu trên càng cho thấy vai trò của việc
xây dựng và phát huy nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc như thế nào?
BIỆN PHÁP NHẰM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HOÁ TIÊN
TIẾN ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC
Nói đến nền văn hoá tiên tiên trước hết là nói đến một ý thức hệ tiên tiến. Đối
với nước ta, ý thức hệ tiên tiến của nền văn hoá tiên tiến là chủ nghĩa Mac- Lenin, tư
tưởng Hồ Chí Minh. Tiên tiến là yêu nước, là tiến bộ, mục tiêu phát triển là vì con
người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú tự do toàn diện cho con người trong
mói quan hệ hài hoà giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên.
Bản sắc dân tộc là những cái đặc trưng riêng vón có của nền văn hoá của một
dân tộc. Cái tạo nên bản sắc dân tộc trước hết là truyền thống lịch sử. Bản sắc dân tộc
bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam
được vun đắp qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. đó là truyền
thống của lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, lòng
nhân ái, khoan dung…
Văn hoá có mặt trên tất cả các mặt của đời sống xã hội, để xây dựng và phát
triển được nền văn hoá tiên tiến đạm đà bản sắc dân tộc, thực hiện được phương
hướng nhiệm vụ văn hóa do Đại hội IX của Đảng đề ra, điều mấu chốt là phải tiếp tục

làm rõ vai trò và sứ mệnh của công tác văn hóa (theo nghĩa rộng) trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong cuộc đấu tranh bảo vệ ngọn cờ độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội của chúng ta hiện nay.
Trước tiên phải gắn chặt với quá trình phát triển con người, với sinh hoạt kinh
tế, với quá trình ổn định chính trị xã hội, văn hóa ngày nay phải "thấm sâu vào toàn
bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và
cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người,
tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học
phát triển, phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã
hội" (Nghị quyết TW 5).
Như vậy văn hóa trở thành quá trình bên trong, mục tiêu, động lực của phát
triển đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Sự phát triển của đất
nước ta thực sự bền vững, đúng định hướng XHCN chỉ khi nào chúng ta xử lý tốt
4


nhiệm vụ xây dựng văn hóa, xây dựng con người trong mỗi bước tiến lên của quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ngay cả quá trình chủ động hội nhập, nâng cao
vị thế của đất nước đối với cộng đồng các nước trên thế giới, cũng không thể sáng tỏ
bản chất và truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc, bản sắc văn hóa Việt Nam.
Vì vậy trong giai đoạn hiện nay để nắm bắt cơ hội, vượt qua thử thách, thúc đẩy
tiến trình văn hóa đất nước bước vào Kỷ nguyên mới, việc triển khai thực hiện Nghị
quyết Đại hội IX của Đảng, 10 nhiệm vụ văn hóa đặt ra trong Nghị quyết TW 5 là
nhiệm vụ cấp thiết của toàn Đảng, toàn dân và những người hoạt động văn hóa nước
nhà. Chúng ta có nhiệm vụ quán triệt sâu sắc hơn nữa 5 quan điểm văn hóa của Đảng
và 4 giải pháp lớn đã được xác định. Cần thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh trên lĩnh vực văn hóa, học hỏi nhiều hơn nữa tinh hoa văn hóa
dân tộc và nhân loại.
Để xây dựng một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, giải pháp văn

hóa cực kỳ quan trọng trong giai đoạn hiện nay là biến văn hóa thành một cuộc vận
động quần chúng sâu rộng dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Khả
năng và trình độ tham gia các sinh hoạt văn hóa của mọi thành viên trong xã hội, kể
cả đối tượng có nhiều khó khăn, là nhân tố quyết định sức sống và bản chất nền văn
hóa xã hội chủ nghĩa. Chúng ta cần đưa phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa" đi vào thực chất, có chiều sâu, trở thành nếp sống lành mạnh của
hàng chục triệu người và các cộng đồng xã hội. Phong trào đó bắt đầu từ mỗi gia đình
văn hóa, làng bản văn hóa, đơn vị, cơ quan, trường học, doanh nghiệp văn hóa, phải
khơi dậy tính sáng tạo và ý thức tự giác của mỗi người, gắn tính tự quản của đơn vị
cơ sở với pháp luật của Nhà nước, hướng tới những tiêu chuẩn, những giá trị cao đẹp
được xã hội thừa nhận. Không chỉ khẳng định, xây dựng những giá trị văn hóa,
Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" phải là tiếng nói tập thể
lên án những tư tưởng và hành vi sai trái, bài trừ mọi hình thức văn hóa độc hại.
Guồng máy của Phong trào chỉ có thể hoạt động có hiệu quả bằng cơ cấu thể chế hợp
lý, bằng việc xây dựng các tiêu chí phấn đấu rõ ràng, chế độ kiểm tra, khen thưởng
chặt chẽ.
Bên cạnh đó, việc chăm lo xây dựng đời sống văn hóa các cộng đồng dân cư
vùng sâu, vùng xa, vùng các dân tộc thiểu số trở thành vấn đề lớn, cấp bách. Thực tế
cho thấy các thế lực, âm mưu diễn biến hòa bình đang tìm cách có mặt trên những
vùng mà công tác tuyên truyền và văn hóa chúng ta gặp khó khăn, tiếng nói của Đảng
ít đến với đồng bào. Cần phấn đấu tạo ra sức đóng góp tổng hợp để trong một thời
gian không dài cuộc sống vật chất và tinh thần của nhân dân các vùng đặc biệt khó
khăn phải được cải thiện, văn hóa các dân tộc thiểu số được hỗ trợ, phát huy, tài năng
và đặc sắc dân tộc được giới thiệu đến bạn bè trong nước và quốc tế. Ngành Văn hóa
Thông tin sẽ tích cực góp phần mình trong chương trình 135 của Chính phủ, khắc
5


phục tình trạng "nghèo văn hóa" của 2000 xã đặc biệt khó khăn.
Ngày nay, hoạt động thông tin báo chí gắn với quá trình bùng nổ thông tin đang

mở ra những thuận lợi và thách thức mới cho những người làm báo và các cơ quan
lãnh đạo, quản lý báo chí. Nhân dân ta vui mừng với bước phát triển của báo chí,
nhưng cạnh đó, là nỗi lo lắng ngày càng nhiều hơn về những mặt yếu kém của hoạt
động báo chí chậm được khắc phục. Nhiều bài báo chưa thể hiện trách nhiệm cao với
người đọc, người được phản ánh, bởi vì người viết bài đã cung cấp những tin tức
không xác thực, thậm chí có động cơ không lành mạnh. Người nghe, người xem các
chương trình phát thanh, truyền hình, báo viết cũng mong muốn có những chương
trình hay, bổ ích và sắc bén hơn nữa. Thực hiện chỉ thị 22, chúng ta cần tiếp tục sắp
xếp báo chí, quản lý báo chí đúng quy định của Luật Báo chí trong phạm vi trách
nhiệm được phân công, phân cấp.
Cũng trên thực tế hiện nay, nhu cầu thưởng thức các sáng tạo văn hóa nghệ
thuật, tham quan tìm hiểu học hỏi các giá trị văn hóa lịch sử thiên nhiên đất nước, đến
với bảo tàng, thư viện, tham dự các sinh hoạt vui chơi, giải trí đang trở thành nhu cầu
lớn của xã hội. Trong Báo cáo Chính trị đã ghi rõ chủ trương "Tăng nhanh mức đầu
tư của Nhà nước và của xã hội cho sự nghiệp phát triển văn hóa". Điều quan trọng
là phải tăng cường xã hội hóa hoạt động văn hóa, tiến tới xây dựng một thị trường
văn hóa thực sự lành mạnh, đúng định hướng XHCN và phẩm chất văn hóa. Cần
khắc phục tư tưởng cào bằng trong thực hiện các chính sách với văn hóa và sản phẩm
văn hóa như mọi sản phẩm hàng hóa khác, vô hình chung thúc ép văn hóa phải chạy
theo quy luật lợi nhuận, dẫn đến hạ thấp giá trị văn hóa, "thương mại hóa" hoạt động
văn hóa. Nhưng mặt khác không thể đặt văn hóa tồn tại mãi trong cơ chế bao cấp,
"xin-cho", thoát ly thị trường văn hóa, gạt bỏ những năng lực đóng góp của xã hội
trong sản xuất, lưu thông các sản phẩm văn hóa. Trong văn hóa việc lựa chọn những
giải pháp và chính sách cho từng hoạt động văn hóa cụ thể là những vấn đề phức tạp,
tinh tế, Bộ Văn hóa - Thông tin cùng các tham mưu của Đảng, Nhà nước làm tốt việc
này chắc chắn sẽ có lợi ích lớn cho sự nghiệp văn hóa.
Để xây dựng và phát huy nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, Nghị
quyết Hội nghị lần thứ năm – Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đưa ra 10
nhiệm vụ cụ thể là:
1. Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới với

những đức tính sau :
- Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết
với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội.
6


- Có ý thức tập thể, đoàn kết phấn đấu vì lợi ích chung.
- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa,
tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ cải thiện mô
trường sinh thái.
- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng
suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ
thẩm mỹ và thể lực.
2. Xây dựng môi trường văn hóa.
Tạo ra ở các đơn vị cơ sở (gia đình, làng bản, xã, phường, khu tập thể, cơ quan,
xí nghiệp, nông trường, lâm trường, trường học, đơn vị bộ đội...), các vùng dân cư
(đô thị, nông thôn, miền núi...) đời sống văn hóa lành mạnh, đáp ứng những nhu cầu
văn hóa đa dạng và không ngừng tăng lên của các tầng lớp nhân dân.
Gìn giữ và phát huy những đạo lý tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Nêu cao vai
trò gương mẫu của các bậc cha mẹ. Coi trọng xây dựng gia đình văn hóa. Xây dựng
mối quan hệ khăng khít giữa gia đình, nhà trường và xã hội.
Đẩy mạnh phong trào xây dựng làng, ấp, xã, phường văn hóa, nâng cao tính tự
quản của cộng đồng dân cư trong công cuộc xây dựng nếp sống văn minh.
Đẩy mạnh phong trào xây dựng, làng, ấp, xã, phường văn hóa, nâng cao tính tự
quản của cộng đồng dân cư trong công cuộc xây dựng nếp sống văn minh.
Thu hẹp dần khoảng cách đời sống văn hóa giữa các trung tâm đô thị và nông
thôn, giữa những vùng kinh tế phát triển với các vùng sâu, vùng xa, vùng núi, biên

giới, hải đảo, giữa các tầng lớp nhân dân.
Phát triển và không ngừng nần cao chất lượng hoạt đông của các thiết chế văn
hóa ở cơ sở ; đầu tư xây dựng một số công trình văn hóa trọng điểm tầm quốc gia.
Tăng cường hoạt động của các tổ chức văn hóa, nghệ thuật chuyên nghiệp, phát triển
phong trào quần chúng hoạt động văn hóa, nghệ thuật.
3. Phát triển sự nghiệp văn học - nghệ thuật.
Phấn đấu sáng tạo nhiều tác phẩm văn học - nghệ thuật có giá trị tư tưởng và
nghệ thuật cao, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân chủ, có tác dụng sâu sắc xây
dựng con người.
Khuyến khích tìm tòi, thể nghiệm mọi phương pháp, mọi phong cách sáng tác
vì mục đích đáp ứng đời sống tinh thần lành mạnh, bổ ích cho công chúng. Bài trừ
các khuynh hướng sáng tác suy đồi phi nhân tính.
7


Hướng văn nghệ nước ta phản ánh hiện thực sinh động, chân thật và sâu sắc sự
nghiệp của nhân dân trong cách mạng và kháng chiến, trong xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ tổ quốc cũng như tái hiện lịch sử kiên cường, bất khuất của dân tộc.
Đặc biệt khuyến khích các tác phẩm về công cuộc đổi mới thể hiện nổi bật những
nhân tố tích cực trong xã hội, những nhân vật tiêu biểu của thời đại. Cổ vũ cái đúng,
cái tốt, cái đẹp trong quan hệ giữa con người với con người với xã hội, với thiên
nhiên,; phê phán những thói hư tật xấu, lên án cái ác, cái thấp hèn. Sáng tạo nhiều tác
phẩm văn học-nghệ thuật cho thiếu niên, nhi đồng với hình thức, nội dung thích hợp;
nghiêm cấm xuất bản các loại sách kích thích bạo lực ở trẻ em.
Phát huy vai trò thẩm định tác phẩm, hướng dẫn dư luận xã hội phê bình văn
học, nghệ thuật. Bảo đảm tự do sáng tác đi đôi với nêu cao trách nhiệm công dân,
trách nhiệm xã hội của văn nghệ sĩ, các nhà văn hóa. Nâng cao chất lượng, phát huy
tác dụng của nghiên cứu, lý luận.
Tiếp tục đấu tranh chống các khuynh hướng trái với đường lối văn nghệ của
Đảng.

Không ngừng nâng cao thị hiếu thẩm mỹ và trình độ thưởng thức nghệ thuật
của công chúng, đặc biệt quan tâm tầng lớp thanh niên, thiếu niên, nhi đồng. Tạo điều
kiện để nhân dân thao gia tích cực sáng tạo và phê bình, được hưởng thụ ngày càng
nhiều tác phẩm văn nghệ có giá trị trong nước và ngoài nước.
Chăm sóc đời sống vật chất , tinh thần, tạo điều kiện làm việc thuận lợi cho văn
nghệ sĩ. Chú trọng bồi dưỡng, đào tạo lớp văn nghệ sĩ trẻ. Làm tốt công tác bảo vệ
bản quyền tác giả.
Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam (bao gồm các hội sáng tạo văn học,
nghệ thuật ở trung ương) và các hội văn nghệ ở các tỉnh, thành phố là những tổ chức
chính trị - xã hội nghề nghiệp do Đảng lãnh đạo có bộ máy chuyên trách gọn nhẹ, có
sự tài trợ của Nhà nước về kinh phí.
4. Bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa.
Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản
sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Hết sức coi
trọng, bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống (bác học và dân
gian), văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể.
Nghiên cứu và giáo dục sâu rộng những đạo lý dân tộc tốt đẹp do cha ông để
lại.
5. Phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ.
Đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) về giáo dục đào tạo và khoa học - công nghệ. Coi trọng giáo dục đạo lý làm người, ý thức trách
8


nhiệm, nghĩa vụ công dân, lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, đạo đức, lối sống,
nếp sống văn hóa, lịch sử dân tộc và bản sắc dân tộc, ý chí vươn lên vì tương lai của
mỗi người và tiền đồ của đất nước; bồi dưỡng ý thức và năng lực phát huy giá trị văn
hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ giảng viên và tu chỉnh hệ thống sách giáo khoa,
nâng cao chất lượng giảng dạy các bộ môn ngữ văn, lịch sử, chính trị, pháp luật, đạo
đức; giảng dạy nhạc và họa ở các trường phổ thông.

Hoạt động khoa học xã hội - nhân văn, khoa học tự nhiên và công nghệ phải
góp phần đắc lực giải quyết các vấn đề đặt ra trên lĩnh vực văn hóa, thúc đẩy các hoạt
động văn hóa, thông tin, văn học, nghệ thuật.
6. Phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng.
Củng cố, xây dựng, phát triển, từng bước hiện đại hóa hệ thống thông tin đại
chúng.
Xắp xếp lại và quy hoạch hợp lý hệ thống truyền hình, phát thanh, thông tấn,
báo chí, xuất bản, thông tin mạng nhằm tăng hiệu quả thông tin, tránh lãng phí; phối
hợp hoạt động của các loại hình thông tin, báo chí, giữa thông tin, báo chí với các
lĩnh vực văn hóa - nghệ thuật.
Xây dựng và từng bước thực hiện chiến lược truyền thông quốc gia phù hợp
đặc điểm nước ta và xu thế phát triển thông tin đại chúng của thế giới.
đẩy mạnh thông tin đối ngoại. Tận dụng thành tự của mạng internet để giới
thiệu công cuộc đổi mới và văn hóa Việt Nam với thế giới, đồng thời có biện pháp
hiệu quả ngăn chặn, hạn chế tác dụng tiêu tiêu cực qua mạng internet cũng như qua
các phương tiện thông tin khác.
Không ngừng nâng cao trình độ chính trị và nghề nghiệp, chất lượng tư tưởng,
văn hóa của hệ thống truyền thông đại chúng. Khắc phục xu hướng thương mại hóa
trong hoạt động báo chí, xuất bản.
Chăm lo đặc biệt về định hướng chính trị - tư tưởng, văn hóa, cũng như về ký
thuật hiện đại đối với truyền hình là loại hình báo chí có ưu thế lơn, có sức thu hút
công chúng đông đảo.
7. Bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số.
Coi trọng và bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống và xây dựng, phát
triển những giá trị mới về văn hóa, văn học, nghệ thuật của các dân tộc thiểu số.
Bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, chữ viết của các dân tộc. Đi đôi với việc sử
dụng ngôn ngữ, chữ viết phổ thông, khuyến khích thế hệ trẻ thuộc đồng bào các dân
tộc thiểu số học tập, hiểu biết và sử dụng thành thạo tiếng nói, chữ viết của dân tộc
9



mình. Phát hiện bồi dưỡng, tổ chức lực lượng sáng tác, sự tầm, nghiên cứu văn hóa,
văn học, nghệ thuật là người dân tộc thiểu số.
Ưu tiên tài trợ cho các tác giả dân tộc thiểu số có tài năng sáng tạo các tác phẩm
về đề tài dân tộc và miền núi. Đào tạo đội ngũ trí thức thuộc đồng bào các dân tộc
thiểu số và tạo điều kiện để trí thức, cán bộ dân tộc thiểu số trở về phục vụ quê
hương. Phát huy tài năng các nghệ nhân.
Đầu tư và tổ chức điều tra, sưu tầm, nghiên cứu, phổ biến các giá trị văn hóa,
văn học, nghệ thuật các dân tộc thiểu số.
Xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa, mở rộng mạng lưới thông tin ở
vùng dân tộc thiểu số.
Thực hiện tốt chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc thiểu số, sớm
giảm tỉ lệ hộ đói nghèo, ổn định và cải thiện đời sống, xóa mù chữ, nâng cao dân trí,
xóa bỏ hủ tục.
8. Chính sách văn hóa đối với tôn giáo.
Tôn trọng tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của dân bảo đảm cho các tôn
giáo hoạt động bình thường trên cơ sở tôn trọng pháp luật, nghiêm cấm xâm phạm tự
do tín ngưỡng và không tín ngưỡng. Thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết dân
tộc.
Khuyến khích ý tưởng công bằng, bác ái, hướng thiện... trong tôn giáo, đồng
thời tuyên truyền giáo dục khắc phục tệ mê tín dị đoan; chống việc lợi dụng tôn giáo,
tín ngưỡng thực hiện ý đồ chính trị xấu.
Chăm lo phát triển kinh tê - xã hội, giúp đỡ đồng bào theo đạo xóa đói giảm
nghèo, nâng cao dân trí, chăm sóc sức khỏe, xây dựng môi trường văn hóa, thực hiện
tốt trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc.
9. Mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa.
Làm tốt việc giới thiệu văn hóa, đất nước và con người Việt Nam với thế giới;
tiếp thu có chọn lọc các giá trị nhân văn, khoa học, tiến bộ của nước ngoài. Phổ biến
những kinh nghiệm tốt xây dựng và phát triển văn hóa của các nước. Ngăn ngừa sự
xâm nhập các sản phẩm văn hóa phản động, đồi trụy.

Giúp đỡ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài hiểu biết tình hình nước nhà,
thu nhận thông tin và sản phẩm văn hóa từ trong nước ra, nêu cao lòng yêu nước, tự
tôn dân tộc, giữ gìn truyền thống, bản sắc dân tộc, phát huy trí tuệ, tài năng sáng tạo,
đóng góp vào công cuộc xây dựng đất nước.
10. Củng cố, xây dựng và hoàn thiện thể chế văn hóa.
- Củng cố, hoàn thiện thể chế văn hóa bảo đảm tăng cường vai trò lãnh đạo của
10


Đảng, sự quản lý có hiệu quả của Nhà nước, vai trò làm chủ của nhân dân và lực
lượng những người hoạt động văn hóa, tạo nhiều sản phẩm và sinh hoạt văn hóa
phong phú, đa dạng, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Nâng cao chất lượng hoạt động của các thiết chế văn hóa hiện có, sắp xếp hợp
lý các xơ quan hành chính, các đơn vị sự nghiệp và kinh doanh, nâng cấp các đơn vị
văn hóa - nghệ thuật trọng điểm, tạo chất lượng mới cho toàn ngành.
- Thực hiện khẩu hiệu "Nhà nước và nhân dân cùng làm văn hóa", hình thành
các hình thức sáng tạo và tham gia hoạt động văn hóa của các tập thể, cá nhân trong
khuôn khổ luật pháp và chính sách. Khuyến khích các hình thức bảo trợ văn hóa.
- Xây dựng các thiết chế văn hóa ở cơ sở.
- Hoàn chỉnh các văn bản luật pháp về văn hóa, nghệ thuật, thông tin trong điều
kiện của cơ chế thị trường; ban hành các chính sách khuyến khích sáng tạo văn hóa
và nâng mức đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa và nâng mức đáp ứng nhu cầu
hưởng thụ văn hóa của nhân dân. (Trích NQTW 5).
Thực hiện lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Văn hóa là một mặt trận, văn
nghệ sĩ là những người hoạt động văn hóa là chiến sĩ trên mặt trận ấy. Những người
hoạt động văn hóa ngày nay, hơn lúc nào hết phải làm tốt vai trò chiến sĩ trên mặt
trận văn hóa. Ở đây đòi hỏi chúng ta phải làm tốt công tác định hướng, xác lập chính
sách, luật pháp, tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, chấn chỉnh vi phạm, bồi
dưỡng nghiệp vụ và những nhân tố tích cực ở cơ sở, chăm sóc các tài năng văn hóa.
Trên mặt trận văn hóa luôn luôn đòi hỏi người chiến sĩ văn hóa phải có đủ phẩm chất,

tài năng, bản lĩnh, tự mình phải là nhân tố văn hóa tích cực trong cuộc sống.

11


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX của Đảng cộng
sản Việt Nam.
2- Nghị quyết lần thứ năm, Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII
3- Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp đổi mới đất nước tập 1,2
(Kỷ yếu tạp chí Cộng sản - 2000)
4- Sổ tay công tác văn hoá – thông tin (Nhà xuất bản Thanh niên –1997)
5- Xã hội hoá hoạt động văn hoá (Nhà xuất bản văn hoá thông tin – 1996)
6- Lý luận văn hoá và đường lối văn hoá của Đảng cộng sản Việt Nam (Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia – 2002).

12



×