Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Chuong 4 GIỚI THIỆU một số tác PHẨM của hồ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (268.5 KB, 39 trang )

CHƯƠNG IV
GIỚI THIỆU MỘT SỐ TÁC PHẨM CỦA HỒ CHÍ MINH
A- GIỚI THIỆU TÁC PHẨM “BẢN ÁN CHẾ ĐỘ THỰC DÂN PHÁP”
I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ RA ĐỜI TÁC PHẨM
Sau khi chiến tranh thế giới thứ nhất, 27 nước đế quốc thắng trận họp hội
nghị Vécxai ( Pháp, 18/11/1919) để phân chia lại và thiết lập trật tự thế giới mới.
Mâu thuẫn giữa các cường quốc đế quốc ngày càng trầm trọng. Để giảm gánh
nặng hậu quả chiến tranh, các nước đế quốc đẩy mạnh khai thác thuộc địa.
Dù là một nước thắng trận trong chiến tranh thế giới thứ nhất nhưng nền
kinh tế Pháp bị tàn phá nặng nề. Pháp trở thành con nợ của nhiều nước tư bản.
Để khôi phục lại địa vị của mình trong thế giới tư bản, các tập đoàn tư bản Pháp
ra sức bóc lột lao động trong nước và vơ vét thuộc địa, trong đó có Việt Nam.
Thực dân Pháp chủ trương thống trị chuyên chế về chính trị, bóc lột nặng
nề về kinh tế và kìm hãm, nô dịch về văn hóa. Chúng khai thác toàn diện, trực
tiếp, độc quyền. “Chính sách Pháp đối với An Nam bấy giờ xấu hơn Anh đối với
Mỹ trước, vì Pháp đã vơ vét hết của cải dân ta, đã ngăn cấm dân ta làm việc
này việc khác; nó lại bắt dân ta hút thuốc phiện và uống rượu. Anh chỉ ham tiền
Mỹ, Pháp đã ham tiền lại muốn mất nòi, mất giống An Nam đi”1.
Dưới tác động của cuộc khai thác thuộc địa, Việt Nam từ một xã hội
phong kiến đã trở thành một xã hội thuộc địa một nửa phong kiến. Dân tộc Việt
Nam bị mất độc lập, tự do, kinh tế không phát triển, đời sống nhân dân vô cùng
cực khổ. Xã hội Việt Nam có hai mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn giữa toàn thể
dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp và tay sai phản động và mâu thuẫn giữa
nhân dân mà đa số là nông dân với địa chủ, phong kiến.
Không cam chịu khổ nhục, mất nước, các phong trào yêu nước Việt Nam
đã liên tục diễn ra sôi nổi ở khắp cả nước nhưng tất cả đều thất bại. Cách mạng

1

Hồ Chí Minh: Toàn tập, t 2, NXB Chính trị quốc gia, Hà N ội, 2000, “Đường Cách Mệnh”, tr.270



Việt Nam đang trong thời kỳ khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước và giai
cấp lãnh đạo cách mạng.
Năm 1911, với cái tên Văn Ba, Nguyễn ái Quốc ra nước ngoài tìm đường
cứu nước. Cuối năm 1917, Người từ Anh trở lại Pháp, năm 1918, gia nhập Đảng
Xã hội Pháp và lập ra Hội những người Việt Nam yêu nước tại Pháp. Năm 1919,
thay mặt những người Việt Nam yêu nước ở Pháp, Người gửi tới hội nghị Bản
yêu sách của nhân dân Việt Nam gồm 8 điểm tố cáo chính sách thực dân Pháp
và đòi chính phủ Pháp thực hiện các quyền tự do, dân chủ của dân tộc Việt Nam.
Sau ngày 17/7/1920, Nguyễn ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những
luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đăng trên báo Nhân
đạo của Đảng Cộng sản Pháp. Người vô cùng phấn khởi và tin theo Lênin, tin
theo Quốc tế Cộng sản.
Tháng 12/1920, tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp họp ở thành
phố Tua, Nguyễn ái Quốc bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế Cộng sản và
tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Từ người yêu nước chân chính,
Nguyễn ái Quốc đã trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên, là bước nhảy
vọt trong lập trường tư tưởng chính trị của Người và mở ra cho cách mạng Việt
Nam con đường theo chủ nghĩa Mác- Lênin.
Tháng 7/1921, Nguyễn ái Quốc cùng một số nhà cách mạng các nước thuộc
địa thành lập ội liên hiệp thuộc địa, lập tờ báo của Hội là Người cùng khổ (Le
Paria) vào ngày 1/4/1922. Người viết nhiều bài cho các báo Nhân đạo, Đời
sống công nhân ở Pháp.Với tư cách Trưởng tiểu ban nghiên cứu về vấn đề Đông
Dương của Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn ái Quốc đã dự Đại hội I (1921), Đại
hội II (1922) và Đại hội III (1923) của Đảng Cộng sản Pháp. Người tiếp tục chỉ
ra sai lầm của Đảng Cộng sản Pháp về vấn đề thuộc địa, tố cáo tội ác của thực
dân Pháp ở các nước thuộc địa và xây dựng mối quan hệ giữa những người cộng
sản, nhân dân Pháp với nhân dân thuộc địa. Trong những năm 1921-1925,
Người chuẩn bị tư liệu viết tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp. Tác phẩm
viết bằng tiếng Pháp, được xuất bản lần đầu tiên năm 1925 tại Pari.



II. NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA TÁC PHẨM
1. Lên án tội ác của chế độ thực dân Pháp và vạch trần bản chất bóc
lột của chủ nghĩa đế quốc
Đúng với tên gọi, tác phẩm là bản cáo trạng đanh thép vạch tội ác của
thực dân Pháp ở các thuộc địa của chúng bằng nhiều chứng cớ không thể chối
cãi được. Chúng nấp sau chiêu bài “Bình đẳng, Bác ái”, “khai hóa” để vũ trang
xâm lược, đàn áp đẫm máu các phong trào yêu nước, biến các dân tộc thành nô
lệ.
Mọi hoạt động kinh tế, tài chính quan trọng nhất ở các nước thuộc địa đều
nằm trong tay tư bản chính quốc là đặc trưng thống trị của thực dân Pháp. Pháp
tiến hành cướp đoạt ruộng đất của nông dân thuộc địa, lập nên các đồn điền để
kinh doanh kiếm lời. Hậu quả là làm cho nông dân thuộc địa mất ruộng đất buộc
họ phải làm công trong các đồn điền, hầm mỏ và các xí nghiệp của bọn thực
dân, trở thành đối tượng bóc lột chính của chúng.
Họ còn chịu những thứ thuế vô lý gấp trăm lần thuế đất thời phong kiến.
Đặc biệt là thuế thân, khi hỏi phải trình, ai quên hoặc đánh mất sẽ bị bỏ tù. Hàng
trăm thứ thuế vô lý đã trở thành gánh nặng oằn lưng cho các tầng lớp nhân dân
lao động. Người dân buộc lòng phải nhổ thuốc, chặt cau để tránh những phiền
nhiễu vì thuế mới. Nạn đói trở thành một căn bệnh kinh niên đối với xứ thuộc
địa. Đi đôi với nạn đói, nạn dịch tễ cũng phát sinh ở nhiều nơi và có nguy cơ lan
rộng. Tiền lương công nhân tăng chưa đầy 30% nhưng giá sinh hoạt thì lại tăng
lên ít nhất 300%.
Pháp còn phát hành “công trái chiến thắng” để bóc lột. Mà cứ mỗi năm lại
có một lần “chiến thắng”. Trong chiến tranh, nhiều lính Phi gửi ngân phiếu về
cho gia đình nhưng những ngân phiếu ấy không bao giờ đến tay người nhận. Chỉ
đến khi nhiều người khiếu nại thì mới điều tra phát hiện ra gian lận. Có khi có cả
một ngành từ trên xuống dưới đều nhiễm căn bệnh ăn cắp như vậy trong mấy
năm ròng mà vẫn được bình yên vô sự.



Chưa có bao giờ, ở một nước nào mà thực dân Pháp lại vi phạm mọi quyền
làm người một cách dã man, độc ác trắng trợn đến thế. Pháp đè nặng ách bóc lột
lên số phận tất cả mọi tầng lớp nhân dân cho đến cả những người lính và sĩ quan
bản xứ cấp thấp trong quân đội Pháp. Nông dân là tầng lớp bị áp bức nặng nề
nhất. Thuế má, sưu dịch....đủ thứ, ngày một chất đầy lên số phận người nông
dân. Họ bị tước đoạt, phải sống cùng khổ, chết đói, bị cướp giật từ mọi phía,
bằng mọi cách, bởi nhà nước, bởi bọn phong kiến tân thời, bởi giáo hội Thiên
Chúa.
Chính sách thực dân ăn cướp của thực dân Pháp ví như con bạch tuộc đang
xiết nhiều cái vòi hút độc quyền muối, độc quyền rượu, thuốc phiện…, hàng
chục thứ thuế bất công, kể cả thuế máu. Bảy chục vạn người bản xứ đặt chân lên
đất Pháp, tám vạn người chết để lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế của
các cấp chỉ huy và lấy xương mình chạm nên những chiếc gậy của các ngài
thống chế. Tổng cộng có 700.000 người bản xứ đã đặt chân lên đất Pháp; và
trong số ấy 80.000 người không bao giờ còn trông thấy ánh mặt trời trên quê
hương đất nước mình nữa!
Trước năm 1914, thực dân Pháp coi nông dân chỉ là những tên da đen bẩn
thỉu, giỏi lắm thì cũng chỉ biết kéo xe tay và ăn đòn của các quan cai trị nhà ta;
ấy thế mà cuộc chiến tranh vừa bùng nổ, thì lập tức họ biến thành những đứa
“con yêu” những người “bạn hiền” của các quan cai trị phụ mẫu, toàn quyền lớn,
bé. Đùng một cái, họ được phong cho cái danh hiệu tối cao là “chiến sĩ bảo vệ
công lý và tự do” và phải trả bằng một giá khá đắt phải đột ngột xa lìa vợ con,
rời bỏ mảnh ruộng hoặc đàn cừu của họ, để vượt đại dương, phơi thây trên các
bãi chiến trường châu Âu.
Dân lao khổ Đông Dương bị bóc lột nặng nề, từ năm 1915- 1916 còn phải
chịu thêm cái vạ mộ lính. Thực dân Pháp cho quan lại lấy dây chăng ngang hai
đầu con đường chính trong làng, lùa tất cả những người da đen phải tòng quân.
Các quan tóm những người khỏe mạnh, nghèo khổ, người nào cứng cổ thì chúng

tìm cách sinh chuyện hoặc xì tiền ra. Người bị bắt lính, xích tay điệu về tỉnh lỵ,


trước khi xuống tàu bị nhốt trong một trường học, có lính Pháp canh gác, lưỡi lê
tuốt trần, đạn lên nòng sẵn; bắt nhốt vào các trang trại lính với đủ thức tên khố
đỏ, lính thợ chuyên nghiệp, lính thợ không chuyên nghiệp...
Những người sống sót trở về đã được quan cai trị ghi ơn bằng một bài
“diễn văn” chào mừng: “Các anh đã bảo vệ Tổ quốc, thế là tốt. Bây giờ, chúng
tôi không cần đến các anh nữa, cút đi!”. Chính quyền coi rẻ tính mạng và xương
máu của những người bị chúng lừa bịp, “giáo dục” bằng đá đít hoặc roi vọt.
Thực dân Pháp còn bắt người dân đi tạp dịch, đi phu để làm những công
việc nặng nhọc trong khi điều kiện cơm ăn không đủ no, uống thứ nước bẩn,
bệnh hoạn gây nên chết chóc khủng khiếp... Họ coi người An Nam như những
súc vật phải điều khiển bằng roi vọt. Họ quen tự coi mình thuộc một đẳng cấp
quý tộc mới, có đặc quyền đặc lợi.
Văn minh “Đại Pháp” là đầu độc người bản xứ bằng thuốc phiện và rượu
cồn. Cứ 1.000 làng thì có đến 1.500 đại lý bán lẻ rượu và thuốc phiện. Trong số
1.000 làng đó lại chỉ vỏn vẹn 10 trường học. Có thể hình dung Đông Dương như
một con nai béo mập bị trói chặt và đương hấp hối dưới những cái mỏ quặp của
một bầy diều hâu rỉa rói mãi mà không no.
Thực dân Pháp đầu độc người bản xứ bằng rượu và thuốc phiện để thu
được lợi nhuận, mặt khác, là góp phần làm cho nòi giống ta suy nhược, tiêu mòn
dần. Tội ác chính của chúng là ở chỗ đó. Pháp cưỡng bức người dân bản xứ mua
rượu cất bằng gạo rẻ tiền, pha thêm chất hóa học có nồng độ 40-500, mùi vị nồng
nặc khó chịu. Cứ mỗi hectôlit rượu pha thêm 8 lít nước lã để hàng năm lãi thêm
một món nho nhỏ 432.000 đồng hay 4 triệu phrăng thì thật ti tiện và bỉ ổi hết
chỗ nói.
Nguyễn ái Quốc dành hẳn một Chương của tác phẩm để tố cáo chế độ
thực dân đã gây nên bao nỗi khổ nhục cho người phụ nữ bản xứ. Người chỉ rõ
không một chỗ nào người phụ nữ thoát khỏi những hành động bạo ngược. Ngoài

phố, trong nhà, giữa chợ hay ở thôn quê, đâu đâu họ cũng vấp phải những hành
động tàn nhẫn của bọn quan cai trị, sĩ quan, cảnh binh, nhân viên nhà đoan, nhà


ga. Người phụ nữ bị xúc phạm tới phong hóa, trinh tiết và đời sống của họ một
cách vô liêm sỉ. Pháp đầy đọa chị em lao động đến tột độ: hà hiếp, giết, thiêu,
chặt xác, mổ bụng, vứt thây nạn nhân ra đồng....Tác giả đã luận tội: “Người ta
thường nói:“chế độ thực dân là ăn cướp”. Chúng tôi xin thêm là hiếp dâm và
giết người.” Thói dâm bạo vô độ của bọn xâm lược không có giới hạn nào cả.
Để có thể đánh lừa dư luận Pháp và bóc lột dân bản xứ một cách êm thấm,
thực dân Pháp còn thi hành một chính sách văn hoá ngu dân triệt để. Chúng hạn
chế đến mức tối đa mở trường học. Trong 1.000 làng chỉ có vẻn vẹn 10 làng có
trường học. Vào kì khai giảng, nhiều phụ huynh phải đi gõ cửa, chạy chọt mọi
nơi, chịu trả gấp đôi tiền nội trú, nhưng vẫn không tìm được chỗ cho con học và
hàng ngàn trẻ em đành chịu ngu dốt vì nạn thiếu trường. Chính phủ thuộc địa lại
tìm đủ mọi cách để ngăn cản không cho thanh niên An Nam sang du học bên
Pháp, vì sợ nhiễm phải chủ nghĩa cộng sản.
Người dân Việt Nam bị tước bỏ mọi quyền lợi học tập, tự do đi lại, tự do
báo chí, thư tín ... Sắc lệnh năm 1898 của thực dân Pháp quy định báo chí bản
xứ phải chịu kiểm duyệt trước khi in. Quyền sơ đẳng là viết thư cho nhau thì
cũng không được hưởng.
Thực dân Pháp xây dựng chùa chiền, nhà thờ để móc túi người dân bản xứ
để rồi sau đó đẩy họ vào vòng mê tín dị đoan. Nguyễn ái Quốc đã vạch trần
những hành vi ăn cướp trắng trợn của Giáo hội nhân danh Chúa, lợi dụng mình
là những sứ đồ của giáo hoàng để cướp bóc tập thể, chiếm đoạt ruộng đất của
nhân dân, đánh đập ngay cả những em bé, hỗ trợ rất đắc lực cho chính quyền
thực dân xâm lược thuộc địa... Chúa đầy lòng nhân ái và toàn năng, là đấng sáng
thế tối cao, Ngài sẽ vô cùng ngao ngán khi thấy các môn đồ của mình như vậy.
Các đoàn truyền giáo đã lợi dụng lòng hiếu khách của người An Nam để đánh
cắp những bí mật quân sự, vẽ những bản đồ nộp cho quân đội viễn chinh. Họ

ủng hộ thực dân Pháp đốt làng này đi, nó đã không nộp thuế cho chúng ta hay là
tha cho làng này, vì đã quy thuận chúng ta.


Nguyễn ái Quốc đã dành nhiều chương để tố cáo cụ thể và phê phán
những tội ác những kẻ trực tiếp gây tội ác là toàn bộ bộ máy thống trị của thực
dân Pháp ở thuộc địa. Tất cả bọn toàn quyền, thống đốc, khâm sứ, công sứ... cho
đến bọn đội lốt tôn giáo trong các giáo hội và bọn tay sai mạt hạng của chúng
đều là lũ phản động vô liêm sỉ, bóc lột tàn ác, những kẻ luôn “rạp mình sát đất”
tâng bốc bọn quan thầy thực dân cướp nước, cướp của, giết người. Tên công sứ
Đáclơ, chúa tỉnh Thái Nguyên vốn là một anh hàng cháo mắc nợ như chúa chổm
ở Pháp nhưng nhờ một chính khách có thế lực đã đặt làm quan cai trị ở thuộc
địa.
Pháp luôn luôn ca ngợi lý tưởng Tự do, Bình đẳng, Bác ái nhưng sự thật
là phân biệt người da trắng và người da màu. Có một điều thật phi lý và bất công
là khi ở thuộc địa, cứ có màu da trắng là quý phái, là thuộc chủng tộc thượng
đẳng. “Khi người ta có màu da trắng thì nghiễm nhiên người ta là một nhà khai
hóa.” Cùng làm một việc trong cùng một xưởng, người thợ da trắng được trả
lương cao hơn nhiều so với bạn đồng nghiệp khác màu da. Trong các công sở,
những người bản xứ dù đã làm việc lâu năm và dù rất thành thạo công việc,
cũng chỉ được lĩnh một khoản tiền lương chết đói; trái lại một người da trắng
mới được đưa vào, làm việc ít hơn, thì lại lĩnh lương cao hơn. Mặc dù cùng một
cấp bậc nhưng người da trắng luôn được coi là cấp trên của người bản xứ. Một
cựu nghị sĩ Pháp đi thăm thuộc địa về đã phải kêu lên: “So với bọn viên chức
thuộc địa thì những tên cướp đường còn là những người lương thiện”
Các quan cai trị Pháp ở Đông Dương đều tự coi mình là những ông vua
con. Họ muốn xung quanh mình cái gì cũng xa hoa tráng lệ, và nói rằng, có thế
mới nâng cao được uy tín của họ đối với người bản xứ. Tất cả bọn chúng chỉ có
mỗi cái tài phung phí công quỹ, còn người An Nam khốn khổ cứ nai lưng đóng
góp mãi. Tác phẩm nêu rõ, trừ vài trường hợp hiếm hoi còn quan Pháp toàn là

những bọn bất tài, cặn bã của xã hội Pháp, hống hách, độc tài, hung ác, tham
nhũng...


Nguyễn ái Quốc châm biếm: Công lý ở Đông Dương được tượng trưng
bằng một người đàn bà dịu hiền, một tay cầm cân, một tay cầm kiếm. Vì đường
từ Pháp tới Đông Dương xa quá, xa đến nỗi sang được tới đó thì cán cân đã mất
thăng bằng, đĩa cân đã chảy lỏng ra và biến thành những tẩu thuốc phiện hoặc
những chai rượu ty, nên người đàn bà tội nghiệp chỉ còn lại độc cái kiếm để
chém giết. Bà chém giết đến cả người vô tội.
Ở Đông Dương, dù người Pháp bắn vỡ sọ một người Trung Kì bằng súng
lục, nhốt một người Bắc Kì vào cũi chó sau khi đánh đập tàn nhẫn rồi đem giết
hay xô người gác cầu bản xứ vào đống than hồng cho chết... cũng đều không bị
trừng trị. Nguyễn ái Quốc luận tội vẻ hào nhoáng bề ngoài của những châm
ngôn mà bọn thực dân thường lừa bịp, cần phải lên án chế độ của chúng là bất
công, bất bình đẳng, là dã man, đi ngược lại lương tri và đạo lý thông thường, là
suy đồi và phản động.
2. Về vấn đề chiến lược, sách lược của cách mạng ở các nước thuộc địa
Trong tác phẩm, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ ra một loạt cuộc biểu tình, phản
kháng của nhân dân các nước thuộc địa chống lại chính sách khắc nghiệt của
chủ nghĩa tư bản Pháp, trong đó có cuộc đấu tranh của nhân dân Đông Dương,
điển hình là cuộc đấu tranh của 600 thợ nhuộm ở Chợ Lớn. Khắp nơi giai cấp
công nhân đã bắt đầu giác ngộ về lực lượng và giá trị của mình.
Người đưa ra hình ảnh cụ thể của Cách mạng Nga, sự giúp đỡ của cách
mạng Nga với các dân tộc thuộc địa khác. Việc làm đầu tiên là thành lập Trường
Đại học phương Đông với những bản sắc cách mạng cao đẹp, một tấm gương là
nơi xây dựng cơ sở cho một liên minh phương Đông tương lai, khối liên minh
này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản.
Tác phẩm khẳng định cho quần chúng một lòng tin sắt son vào một tương
lai tươi sáng. Đó là hiện thực trên đất nước Nga Xô Viết sau cách mạng tháng

Mười. Tương lai ấy đang được chuẩn bị ở trường Đại học Phương Đông. Người
ta có thể nói không ngoa rằng, Đại học Phương Đông ấp ủ dưới mái trường của
mình tương lai của các dân tộc thuộc địa.


Người chỉ ra, muốn giành thắng lợi triệt để, muốn giải phóng dân tộc thì
cách mạng thuộc địa phải đi theo con đường của Cách mạng tháng Mười Ngacon đường cách mạng vô sản, đúng như Người đã xác định cho cách mạng thuộc
địa một hướng đi đúng đắn, hướng mà V.I.Lênin đã vạch ra trong Sơ thảo lần
thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa. Con đường
giải phóng dân tộc của nhân dân các nước thuộc địa phải là con đường cách
mạng vô sản.
Người đã vận dụng công thức của Các Mác: Sự giải phóng của giai cấp
công nhân phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân để áp dụng vào
thực tiễn các nước thuộc địa là: “Công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực
hiện bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”. Nhân dân mỗi nước phải đoàn kết lại,
tổ chức lại để đấu tranh, trước hết là công nhân và nông dân, phải có đội tiền
phong của lao động thuộc địa và Đảng của giai cấp công nhân để lãnh đạo cuộc
cách mạng đến thắng lợi. Quốc tế cộng sản, Công hội, Nông hội. Hội Liên Hiệp
các thuộc địa cũng hết lòng ủng hộ và giúp đỡ cuộc đấu tranh đòi giải phóng của
các dân tộc thuộc địa.
Cuộc cách mạng vô sản này phải có sự liên hệ mật thiết giữa cách mạng vô
sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng ở các thuộc địa. Làm cho đội tiên
phong của lao động thuộc địa tiếp xúc mật thiết với giai cấp vô sản phương Tây,
để dọn đường cho một sự hợp tác thật sự sau này; chỉ có sự hợp tác này mới
đảm bảo cho giai cấp công nhân quốc tế giành được thắng lợi cuối cùng.
Người nêu lên mối quan hệ khăng khít, biện chứng giữa cách mạng thuộc
địa với cách mạng vô sản ở chính quốc. “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có
một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc. Một cái vòi khác bám vào
giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải
đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi còn lại kia

vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt sẽ mọc ra”.
Theo Người, chủ nghĩa tư bản độc quyền vừa áp bức, bóc lột tàn nhẫn giai
cấp công nhân ở chính quốc; vừa áp bức, bóc lột đến tận xương tủy giai cấp


công nhân và nhân dân lao động ở các nước thuộc địa. Muốn thủ tiêu tận gốc
chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân ở chính quốc phải kiên quyết đấu tranh
đánh đổ chủ nghĩa đế quốc tại sào huyệt của chúng, đồng thời giai cấp công
nhân và nhân dân lao động các nước thuộc địa cũng phải nổi dậy đấu tranh đánh
đuổi chủ nghĩa đế quốc, giải phóng dân tộc. Hai cuộc đấu tranh đó phải thống
nhất thành một khối và liên hệ chặt chẽ với nhau; phải tạo nên mối quan hệ mật
thiết với nhau thành một mặt trận thống nhất chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế
quốc.
Nhiệm vụ của giai cấp vô sản ở chính quốc không phải chỉ giác ngộ, tổ
chức quần chúng ở chính quốc mà phải đoàn kết chặt chẽ, phối hợp đấu tranh,
ủng hộ thiết thực và triệt để cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của giai cấp vô
sản và nhân dân lao động các nước thuộc địa; không phải chỉ bằng lời nói mà
phải bằng hành động cách mạng. “Chủ nghĩa đế quốc hiện đại đặt nền móng trên
sự bóc lột của hàng triệu người lao động ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa.
Bởi thế, nó chỉ tan rã hoàn toàn và vĩnh viễn khi nào chúng ta phá bỏ được nền
móng đó của lâu đài đế quốc chủ nghĩa.”
Người khẳng định sự nghiệp giải phóng dân tộc ở Việt Nam cũng như ở
các nước thuộc địa khác phải là một bộ phận gắn liền với sự nghiệp cách mạng
vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc trên phạm vi toàn thế giới. Người kêu
gọi giai cấp công nhân các nước phương Tây chân thành ủng hộ và giúp đỡ cuộc
đấu tranh chống đế quốc của các dân tộc thuộc địa. Tuy nhiên, Người nhấn
mạnh không có nghĩa là từ đây những người cách mạng ở thuộc địa ỷ lại vào
giai cấp công nhân chính quốc, không tự mình chủ động sáng tạo đề ra đường
lối chiến lược và sách lược cách mạng riêng phù hợp với hoàn cảnh thực tế và
điều kiện cụ thể của mình mà ngược lại phải “đem sức ta mà giải phóng cho ta”.

Giai cấp vô sản ở chính quốc có nghĩa vụ ủng hộ và liên minh nhưng không
thể làm thay các dân tộc bị áp bức. Cách mạng nước nào phải do nhân dân nước
ấy tự làm lấy là chính. Cách mạng ở thuộc địa là một bộ phận khăng khít của
cách mạng vô sản thế giới, không phải là một sự lệ thuộc vào cách mạng vô sản


ở chính quốc mà là một “cái cánh của cách mạng vô sản”. Quan hệ giữa cách
mạng ở chính quốc với cách mạng ở thuộc địa là một sự liên minh hai chiều,
một sự hợp tác vì lợi ích chung. Cách mạng thuộc địa khi có điều kiện thích hợp
thì không phải chờ mà có thể đi trước và thành công trước cách mạng ở chính
quốc, tác động mạnh mẽ tới cách mạng ở chính quốc.
Để cuộc cách mạng vô sản giành thắng lợi thì cần có sự liên minh giữa các
dân tộc thuộc địa với nhau để chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Bởi vì
“Cuộc chém giết đẫm máu thế giới đã mở mắt cho hàng triệu vô sản và nông
dân các thuộc địa thấy rõ hoàn cảnh sinh sống không sao chịu nổi nữa của
mình.”1

Đó chính là đường lối chiến lược và sách lược cho quần chúng đấu

tranh cho tất cả những người vô sản và nhân dân lao động, kể cả ở nước Pháp để
giành độc lập tự do, cơm áo, danh dự cho con người.
3. Cổ vũ tinh thần tự lực tự cường, tinh thần tự lực đấu tranh giải
phóng dân tộc và phê phán tư tưởng cải lương tư sản và những ảo tưởng về
cải cách của chủ nghĩa đế quốc.
Trên thế giới đang có nhiều biến đổi phi thường. Nhật Bản đứng vào hàng
cường quốc trên thế giới, Trung Hoa đã làm cách mạng, Nga đã tống cổ bọn bạo
chúa đi để trở thành một nước cộng hòa vô sản, các dân tộc bị áp bức đều vùng
lên đấu tranh cho nền độc lập. Người kêu gọi, vậy mà người An Nam vẫn cứ thế
“sẵn sàng làm nô lệ”. Đúng như viên toàn quyền Đông Dương Đume đã viết:
“Khi nước Pháp đến Đông Dương, thì dân tộc An Nam đã chín muồi làm nô lệ.”

Người khuyên thanh niên Việt Nam tìm cách sang phương Tây, vừa lao
động, vừa học tập để rồi về giúp ích cho Tổ quốc; không nên lười biếng, sa đọa,
cam chịu mất nước, mất hết bản lĩnh con người. Trong khi hơn hai nghìn thanh
niên Trung Quốc trên đất Pháp hay ở châu Âu, châu Mỹ đều chăm chỉ học tập,
theo học những ngành nghề để sau này phục vụ cho đất nước..., thì sinh viên
Việt Nam “đang dành một nửa thì giờ vào các việc... chơi bi a, một nửa của nửa

1

Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà N ội, 1995, t.2, tr.124


thì giờ còn lại thì đến các chốn ăn chơi; số thì giờ còn lại, mà ít khi còn lắm, thì
để vào trường đại học hoặc trung học.”
Đông Dương có đủ điều kiện để vươn lên giàu mạnh như có hải cảng, hầm
mỏ, đồng ruộng mênh mông, rừng núi bao la... Chúng ta còn có những con
người lao động khéo léo, cần cù, nhưng chúng ta lại thiếu tổ chức và thiếu người
tổ chức. Những thanh niên Việt Nam không làm gì để giúp đất nước phát triển.
“Những thanh niên không có phương tiện thì không dám rời quê nhà; những
người có phương tiện thì lại chìm ngập trong sự biếng nhác; còn những kẻ đã
xuất dương thì chỉ nghĩ đến việc thỏa mãn tính tò mò của tuổi trẻ mà thôi!”
Người kêu gọi thanh niên Việt Nam hãy noi gương, học tập thanh niên
Trung Quốc theo câu châm ngôn của họ: “Sinh sống bằng lao động của bản thân
và vừa học hỏi, vừa lao động.” Thanh niên Việt Nam phải tự ý thức được thực
tiễn đất nước và vai trò của mình đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc để cố
gắng chăm chỉ học tập, đem những kiến thức của mình giúp ích cho đất nước.
Nguyễn Ái Quốc phê phán những người cách mạng thuộc địa có thái độ ỷ
lại, trông chờ vào những cải cách của đế quốc mà không tự mình đề ra đường lối
chiến lược, sách lược cách mạng riêng phù hợp đất nước mình. Tác phẩm đề cao
tinh thần tự lực tự cường, tinh thần tự mình giải phóng cho dân mình trước khi

muốn người khác giúp đỡ mình, phải đem sức ta ra mà giải phóng cho ta.
Qua tác phẩm này, Nguyễn Ái Quốc phê phán, tố cáo bộ máy cai trị của
chủ nghĩa thực dân ở các thuộc địa của chúng và thức tỉnh nhân dân lao động
các thuộc địa phải vùng lên đập tan bộ máy cai trị thực dân để giành độc lập, tự
do và hạnh phúc.
4. Ý NGHĨA CỦA TÁC PHẨM
Bản án chế độ thực dân Pháp ra đời vào thời kỳ thực dân Pháp đang đẩy
mạnh khai thác thuộc địa với luận điệu tuyên truyền là sự nghiệp “khai hóa”
thuộc địa. Vì thế, tác phẩm là một đòn đánh mạnh vào thực tế cái gọi là “khai
hóa” giả hiệu của thực dân Pháp.


Tác phẩm lại được xuất bản ở Pari, thủ đô của nước Pháp nên nó như một
quả bom nổ trong lòng địch. Nó gây một ấn tượng lớn trong lòng nhân dân các
nước thuộc địa, làm cho kẻ thù vừa run sợ, vừa tức tối. Nó làm cho những người
Pháp có lương tri phải lưu tâm suy nghĩ về những hành động cướp bóc, giết
người của bọn thực dân nước mình ở các thuộc địa- những hành động làm ô
danh nước Pháp.
Tác phẩm ra đời vào thời kỳ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới
phát triển sôi nổi do thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga nên nó đã thức
tỉnh nhân dân các nước thuộc địa thấy được tội ác và bản chất của chủ nghĩa đế
quốc và hướng nhân dân thuộc địa tiến theo con đường cách mạng tháng Mười
Nga. Nó cũng chỉ rõ sai lầm của khuynh hướng cơ hội về vấn đề dân tộc và
thuộc địa, những thiên kiến về chủng tộc và tư tưởng cho rằng phong trào cách
mạng ở thuộc địa phải phụ thuộc vào cách mạng ở chính quốc và phải chờ đợi
thành công của cách mạng chính quốc. Từ đó tác phẩm góp phần quan trọng vào
việc thúc đẩy quá trình “bônsêvich hóa” các Đảng cộng sản và công nhân.
Bản án chế độ thực dân Pháp là sự cụ thể hóa những luận điểm của
V.I.Lênin về chủ nghĩa đế quốc bằng những tội ác và những thảm họa mà nó
gây ra ở các thuộc địa. Từ đó, người cách mạng thấy rõ bạn thù, vạch rõ mục

tiêu cách mạng và bước đầu vạch ra chiến lược, sách lược cách mạng cho các
dân tộc bị áp bức. Tác phẩm là sự chuẩn bị về tư tưởng, nhận thức cho các dân
tộc bị áp bức đi vào cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do, giành chính quyền về
tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Bản án chế độ thực dân Pháp có một giá trị lịch sử to lớn, là dấu mốc
quan trọng đánh dấu sự trưởng thành trong ý thức cách mạng của nhân dân Việt
Nam. Đây là tác phẩm lý luận cách mạng đầu tiên của nước ta. Nó góp phần
truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin vào trong nước. Nó đáp ứng những đòi hỏi bức
thiết của cách mạng Việt Nam về một đường lối đúng đắn và sáng suốt để thoát
ra khỏi tình trạng mơ hồ về phương hướng và mục tiêu cách mạng. Tác phẩm là
cơ sở cơ sở để hình thành đường lối chiến lược, sách lược của cách mạng Việt


Nam sau này. Đó là: Sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc phải là sự nghiệp
cách mạng vô sản và do giai cấp vô sản lãnh đạo. Tác phẩm cũng góp phần đấu
tranh chống chủ nghĩa cải lương, thỏa hiệp.
Bản án chế độ thực dân Pháp đặc biệt coi trọng và nhấn mạnh đoàn kết
quốc tế giữa các dân tộc thuộc địa với các giai cấp vô sản ở các nước tư bản,
giữa các dân tộc thuộc địa với nhau trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế
quốc, chủ nghĩa thực dân. Theo Người, cách mạng Việt Nam muốn thắng lợi
phải có sự đoàn kết quốc tế và trở thành một bộ phận của cách mạng thế giới.
Nó góp phần quan trọng thúc đẩy lịch sử Việt Nam tiến tới, thức tỉnh và thôi
thúc dân tộc ta cùng hòa nhịp với các dân tộc bị áp bức trên thế giới bước vào kỷ
nguyên mới của loài người: Kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.
Điều có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với cách mạng nước ta là Bản án
chế độ thực dân Pháp ra đời vào lúc ở Việt Nam đã có dấu hiệu xuất hiện một
cao trào cách mạng của công nông chống đế quốc, chống phong kiến. Vấn đề
được đặt ra trước mắt là phải có đội tiên phong của giai cấp công nhân lãnh đạo
thì cách mạng Việt Nam mới đi đúng xu thế của thời đại và mới có thể đi tới
thắng lợi. Vì vậy, Bản án chế độ thực dân Pháp ra đời và sau đó cùng với

Đường Cách Mệnh chính là những văn kiện quan trọng để truyền bá chủ nghĩa
Mác - Lênin vào Việt Nam và chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự
ra đời của một chính Đảng cộng sản ở Việt Nam.
Ý nghĩa với những người nghiên cứu lịch sử....
B. GIỚI THIỆU TÁC PHẨM "ĐƯỜNG CÁCH MỆNH"
I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI TÁC PHẨM
1. Tình hình thế giới
Đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển sang giai đoạn chủ
nghĩa đế quốc, tăng cường xâm lược. Hầu hết các nước phương Đông đều trở
thành những nước thuộc địa và phụ thuộc của các cường quốc đế quốc. Các
phong trào dân tộc của các nước phương Đông dưới các ngọn cờ lãnh đạo của


hệ tư tưởng phong kiến, tư sản, tiểu tư sản đã liên tiếp nổ ra nhưng lần lượt thất
bại.
Chủ nghĩa Mác được VI. Lênin kế tục, phát triển đã soi đường cho cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917 thành công, lập ra nhà
nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên và sự ra đời của Quốc tế cộng sản, mở ra thời kỳ
phát triển cao trào của cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc trên
thế giới.
Cũng như nhiều nước phương Đông, Đông Dương trở thành thuộc địa của
thực dân Pháp. Phong trào đấu tranh chống xâm lược của nhân dân Đông Dương
sôi nổi, liên tục diễn ra nhưng đều lần lượt thất bại và bị đàn áp khốc liệt. Cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc cho đến đầu thế kỷ XX gặp bế tắc về đường lối.
Bối cảnh đó đã thôi thúc Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước giải
phóng dân tộc. Người đã đi khắp năm châu bốn bể để tìm ra con đường giải
phóng dân tộc mình. Sau gần mười năm lăn lộn tìm đường cứu nước, năm 1920
Người đã đọc Sơ thảo lần thứ nhất luận cương những vấn đề dân tộc và vấn đề
thuộc địa của Lênin, đăng trên báo L'humanité, Nguyễn ÁI Quốc tìm thấy ở luận
cương những lời giải đáp đầy thuyết phục cho câu hỏi mình đang nung nấu và

tìm tòi. Sau này, nói về cảm tưởng khi đọc luận cương, Người viết:" Luận cương
của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi
vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như
đang nói trước quần chúng đông đảo: Hỡi đồng bào bị đoạ đày đau khổ! Đây là
cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta "1.
Sau đó Người hoạt động tại Pháp, Liên Xô… .Đến 1924, Người trở về
Trung Quốc tập hợp những người Việt Nam yêu nước ở đây thành lập Hội Việt
Nam Cách mạng Thanh niên. Đây là tổ chức yêu nước của thanh niên Việt Nam
có hạt nhân là Cộng sản Đoàn. Đầu năm 1927, tác phẩm Đường cách mệnh được
Bộ tuyên truyền của Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở á Đông xuất bản. Tác

1

Hồ Chí Minh toàn tập, xuất bản lần thứ hai, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội 1996, tập 10 trang 27


phẩm bao gồm những bài giảng của đồng chí Nguyễn ÁI Quốc trong các lớp
huấn luyện ở Quảng Châu( Trung Quốc).
"Đường cách mệnh" ra đời là bước phát triển mới trong qúa trình tích cực
chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng cộng sản Việt
Nam. Tác phẩm đề cập đến một loạt vấn đề cần kíp của cách mạng Việt Nam,
nêu lên những kinh nghiệm của cách mạng thế giới; vạch ra đường lối cách
mạng giải phóng dân tộc; chỉ rõ những yêu cầu, những đòi hỏi cấp bách phải
thực hiện đối với những người yêu nước Việt Nam.
Nhìn vào lịch sử phát triển tư tưởng của Việt Nam, cho đến năm 1927,
đây là cuốn sách chứa đựng một nội dung cách mạng và khoa học.Tác phẩm đã
thu hút được sự chú ý rất lớn của các tầng lớp yêu nước Việt Nam lúc đó, không
chỉ bởi lời văn nồng nàn yêu nước, khúc chiết, giản dị, mà còn bởi giá trị hướng
dẫn công tác cách mạng trong thực tế hết sức phong phú của nó.
II. NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA TÁC PHẨM “ĐƯỜNG CÁCH MỆNH”

1. Tư tưởng quyết đấu tranh giải phóng giành độc lập tự do
Xã hội Việt Nam tước khi thực dân Pháp xâm lược là một xã hội phong
kiến đang suy tàn, chỉ có hai giai cấp đối kháng chủ yếu. Một bên là giai cấp địa
chủ thống trị, bóc lột mà đại diện là vua quan nhà nguyễn lạc hậu và cực kì phản
động; một bên là giai cấp nông dân lao dộng nghèo khổ chiếm số đông tuyệt đối
trong dân cư.
Từ khi xâm lược xong nước ta, thực dân Pháp đẩy mạnh khai thác trên
quy mô lớn từ đầu thé kỷ XX đã làm cho cơ cấu kinh tế Việt Nam có những
chuyển biến quan trọng, phương thức bóc lột mới theo lối tư bản chủ nghĩa đã
du nhập vào Việt Nam, bắt đầu xâm nhập các khu vực kinh tế công thương
nghiệp. Đồng thời, phương thức bóc lột cũ theo lối phong kiến truyền thống
cũng được thực dân Pháp cố tình duy trì để mang lại lợi ích cho Pháp. Sự kết
hợp giữa hai phương thức bóc lột đó đảm bảo siêu lợi nhuận tối cao cho thực
dân Pháp và đồng thời cũng đẩy nhân dân lao động Việt Nam đến bần cùng hoá
nhanh hơn, xã hội phân hoá ngày càng sâu sắc, nông thôn và thành thị đều có


những biến chuyển rõ rệt .Những biến đổi đó ảnh hưởng đến tính chất cuộc đấu
tranh cách mạng của nhân dân ta đang diễn ra.
Các cuộc đấu tranh theo xu hướng phong kiến như: Trương Công Định,
Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa
Thám… hay của các phong trào theo khuynh hướng tư sản: Việt Nam Quang
phục Hội, Việt Nam Quốc Dân Đảng; xu hướng bạo động của Phan Bội Châu,
Phan Chu Trinh đều đi vào thất bại. Nhiệm vụ đặt ra của cách mạng Việt Nam
lúc này là phải tìm được một hệ tư tưởng mới, một đường lối cách mạng mới
khoa học và đúng đắn. Tác phẩm Đường cách mệnh của Nguyễn Ái Quốc đã chỉ
ra đuựơc con đường mà cách mạng Việt nam cần:" Muốn sống phải làm cách
mệnh. Làm việc nhỏ nếu không ra sức thì chắc không thành công huống chi làm
việc lớn như việc giải phóng gông cùm nô lệ cho đồng bào, cho nhân loại, nếu
không hết sức thì làm sao được"…" Việc gì khó mấy, quyết tâm làm thì chắc

được. ít người làm không nổi, nhiều người đồng tâm hiệp lực thì phải nổi. Đời
này làm chưa xong, đời sau nối tiếp theo làm thì phải xong. "…"Phải có quyết
tâm, hy sinh, bền gan, đoàn kết nhau lại . Muốn được như vậy trước hết mỗi
người phải hiểu rõ vì sao phải làm cách mạng, không làm không được, ai ai
cũng phải làm và phải làm ngay, không nên chờ người khác".
Đường cách mệnh nêu lên chân lý có áp bức thì có đấu tranh. Cho nên
muốn sống thì phải làm cách mệnh. Nhưng đã làm cách mạng thì phải có quyết
tâm, có đức hy sinh, phải bền gan và đoàn kết nhau lại."Thà chết tự do con hơn
sống làn nô lệ".Người chỉ rõ muốn làm" cách mệnh trước hết phải làm cho dân
giác ngộ" "phải giải lý luận và thực tiễn cho dân hiểu".Phải làm thế nào cho dân
thức tỉnh dân thấy được rằng muốn sống thì phải làm cách mệnh. Và làm cách
mệnh là phải làm như thế nào?
Để giúp những người Việt Nam yêu nước tiến kịp thời đại mới, chủ tịch
Hồ Chí Minh vạch rõ những nhược điểm của cách mạng tư sản ở Pháp và Mỹ,
Người coi đó là những cuộc cách mạng" không đến nơi, không xoá bỏ chế độ
bóc lột giai cấp không giải phóng được công nông. Đồng thời, Người chỉ ra rằng


trên thế giới lúc đó chỉ có cách mạng Tháng Mười Nga là đã thành công và
thành công đến nơi. Cuộc cách mạng ấy đã đuổi được vua, tư bản, địa chủ ở
trong nước và ra sức cho công nông các nước và dân bị áp bức các thuộc địa làm
cáh mạng, đạp đổ tất cả chủ nghĩa đế quốc và tư bản yêu nước theo gương cách
mạng Nga, đấu tranh để giải phóng gông cùm nô lệ cho đồng bào, cho nhân loại,
xoá bỏ các giai cấp bóc lột, từ vua chúa, địa chủ cho đến tư sản". Người khuyên
nhân dân ta nên từ thực tiễn lịch sử mà ra bài học chúng ta đã hy sinh làm cách
mệnh thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao
cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người, thế mới khỏi hy sinh
nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc".
Chính nhhững điều đó đã làm thức tỉnh nhân dân lao động và chỉ ra con
đường thoát khỏi nô lệ, cổ vũ, đông viên, giục giã nhân dân lao động làm cách

mạng.
2. Kết hợp cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản
Đứng trên lập trường của giai cấp vô sản thấm nhuần học thuyết MácLênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, xuất phát từ sự phân tích tính chất của
cách mạng Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa phong kiến, đồng chí Nguyễn Ái
Quốc xác định tính chất của cách mạnh Việt Nam là dân tộc cách mệnh, đáng
đuổi bọn cường quyền đế quốc, giành độc lập tự do cho dân tộc, đó là bước thứ
nhất. Tác giả đi từ phân tích tính chất không triệt để của cách mạng tư sản Pháp,
Mỹ. Cùng với việc nêu ý nghĩa lớn lao của các cuộc cách mạng đó, Người luôn
luôn đặt ra một vấn đề lớn:" Mỹ tuy rằng cách mệnh thành công đã hơn 150 năm
nay nhưng công nông vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo tính cách mệnh lần thứ hai. ấy
là vì cách mệnh Mỹ là cách mệnh tư bản mà cách mệnh tư bản là chưa phải cách
mệnh đến nơi".ở Pháp cũng vậy," Cách mệnh đã bốn lần rồi mà nay công nhân
Pháp hẵng còn phải mưu cách mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức.
Cách mạng Việt Nam nên nhớ những điều ấy". Còn cách mạng Nga thì" đã đuổi
được vua, tư bản địa chủ rồi, lại ra sức cho công nông các nước và dân bị áp bức


các thuộc địa làm cách mệnh để đạp đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong
thế giới".
Năm 1924, Nguyễn Ái Quốc viết : ở các nước thuộc địa, chủ nghĩa dân
tộc là một động lực lớn của đất nước. Khái niệm chủ nghĩa dân tộc mà Nguyễn
ái Quốc nói ở đây, như Mác nói, "Không phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản
hiểu" chủ nghĩa dân tộc bản xứ mà Nguyễn ái Quốc nói ở đây chính là chủ nghĩa
yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính của dân tộc, của nhân dân Việt Nam đã
được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử, vốn là động lực tinh thần vô giá trong
các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc, nó khác về bản
chất so với chủ nghĩa dân tộc sô vanh, vị kỷ của giai cấp tư sản đã bị lịch sử lên
án. Theo phân tích của Nguyễn ái Quốc, do kinh tế còn lạc hậu, chưa phát triển,
nên sự phân hoá giai cấp ở Đông Dương chưa triệt để, cuộc đấu tranh giai cấp ở
đây không diễn ra giống như phương Tây, từ đó Nguyễn ái Quốc khẳng định:

Đối với các dân tộc thuộc địa ở phương Đông:" Chủ nghĩa dân tộc là động lực
lớn nhất của đất nước"2. Theo Người:" trong cách mạng giải phóng dân tộc,
người ta không thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên các động
lực vĩ đại, và duy nhất trong đời sống xã hội của họ"3
Từ đó Người đi đến luận điểm: Các dân tộc thuộc địa phải dựa vào sức
của chính mình, đồng thời biết tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của giai cấp tư sản
và nhân dân lao động thế giới để trước hết phải đấu tranh giành độc lập cho dân
tộc, rồi từ thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên làm cách mạng
xã hội chủ nghĩa và đóng góp thiết thực vào sự nghiệp cách mạng vô sản thế
giới.
Qua đó, có thể khẳng định: Ngay từ khi trở thành người cộng sản, Hồ Chí
Minh đã thực hiện được sự kết hợp đúng đắn vấn đề dân tộc và giai cấp, chủ
nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.

2
3

Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội 2000, tập 1, trang 466
Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội 2000, tập 1, trang 467


Trong tác phẩm Người viết:" Như An Nam đuổi Pháp, ấn Độ đuổi Anh,
Cao Ly đuổi Nhật, Philipin đuổi Mỹ, Tàu đuổi các đế quốc chủ nghĩa để giành
lấy quyền tự do bình đẳng của dân nước mình. Đó là dân tộc cách mệnh"
"Tất cả dân cày, người thợ trong thế giới bất kỳ nước nào, nòi nào đều
liên hợp nhau lại như anh em một nhà, để đập đổ tất cả tư bản thế giới, làm cho
nứơc nào, dân nào cũng được hạnh phúc, làm cho thiên hạ đại đồng ấy là thế
giới cách mệnh".
Quan điểm giai cấp trong việc giải quyết vấn đề dân tộc càng được sáng
tỏ khi nó kết hợp chặt chẽ với quan điểm quốc tế:" Cách mệnh An Nam cũng là

một bộ phận trong cách mệnh thế giới. Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là
đồng chí của nhân dân An Nam cả. Đã là đồng chí thì sung sướng, cực khổ phải
có nhau". Quan điểm đó xuất phát từ quan điểm Lênin về sự đoàn kết quốc tế,
đúc kết trong khẩu hiệu đấu tranh nổi tiếng:" Vô sản tất cả các nước và các dân
tộc bị áp bức đoàn kết lại!". Tư tưởng quốc tế vô sản đó được quán triệt trong
cương lĩnh của Quốc tế thứ ba, thấm sâu vào tinh thần của bản đề cương về vấn
đề dân tộc và thuộc địa, thể hiện trong sự ủng hộ thực sự của Quốc tế cộng sản
đối với phong trào đấu tranh của các dân tộc bị áp bức. Nếu tại Đại hội Tua năm
1920, chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định con đường cứu nước của mình là:"
Tin theo Lênin, tin theo quốc tế III" thì đến lúc này (lúc viết Đường cách mệnh)
Người truyền đạt tư tưởng đó cho lớp cán bộ đầu tiên của cách mạng:" Việt Nam
muốn cách mệnh thành công thì tất phải nhờ Đệ tam quốc tế"; và " Nếu thợ
thuyền Việt Nam biết tổ chức thì chắc Quốc tế Đỏ sẽ hết lòng giúp cho mà làm
cách mệnh. Nhưng muốn người ta giúp cho thì trước mình phải tự giúp lấy
mình đã"
Nhận thức đầy đủ mối quan hệ hữu cơ giữa vấn đề giai cấp- dân tộc- quốc
tế, tác phẩm Đường cách mệnh đã tạo một cách nhìn thống nhất về sự gắn bó
khăng khít giữa các nhiệm vụ đang đặt ra trước mắt, và từ đó vạch ra một con
đường cách mạng đúng đắn cho dân tộc Việt Nam, phù hợp với yêu cầu lịch sử
và xu hướng của thời đại: con đường chủ nghĩa Mác- Lênin vĩ đại.


3. Tư cách của người cách mệnh
Chủ tịch Hồ Chí Minh suốt đời hết lòng chăm lo giáo dục, rèn luyện cho
đội ngũ cán bộ đảng viên, trong đó người đặc biệt quan tâm và đặt lên hàng đầu
việc giáo dục, rèn luyện đạo đức, coi đó là " cái gốc" của người cách mạng. Sinh
thời, Người đã từng khẳng định:"cũng như sông thì có nguồn mới có nước,
không có nguồn thì sông cạn. cây phải có gốc, khôngcó gốc thì cây héo. Người
cách mạng phải có đạo đức không có đạo đức thì người tài giỏi mấy cũng không
lãnh đạo được nhân dân. vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài

người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức… thì còn làm nổi
việc gì?"4. Đây là lý do sâu xa, lý giải vì sao ngay từ những năm 1925-1927,
trong những bài giảng của Người tại các lớp huấn luyện chính trị cho cán bộ của
Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội do người tổ chức tại Quảng
Châu(Trung Quốc), để truyền bá chủ nghĩa Mác -Lênin, chuẩn bị về chính trị, tư
tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng cộng sản Việt Nam vào đầu những
năm 1930, vấn đề rèn luyện phẩm chất đạo đức đã được Người đặt ra và đòi hỏi
như một yêu cầu cơ bản đầu tiên đối với một người cách mệnh. Tư cách một
người cách mệnh
được đặt trang trọng lên đầu cuốn sách" Đường cách mệnh".
Về tư cách một người cách mệnh, Chủ tịch Hò Chí Minh đề ra ba loại yêu
cầu, đó là:1)Tự mình phải:2)Đối với người phải;3) Làm việc phải. Yêu cầu "tự
mình phải " được Người đặt lên hàng đầu, bởi đạo đức luôn gắn liền với mỗi cá
nhân và mang tính chủ thể. Đạo đức không chỉ là sự thể hiện các giá trị giữa con
người với con người,con người với xã hội, mà nó còn là lòng tự trọng, sự tự ý
thức về danh dự, trách nhiệm, nhân phẩm của mỗi người. Do đó, khi nói "Tự
mình phải", chúng ta cần nhận thức rõ vai trò của sự tự ý thức, tự điều chỉnh thái
độ, hành vi củ chủ thể. Tự ý thức về đạo đức là cơ sở cho hành vi và các quy tắc
ứng xử của con người trong xã hội.Qua đó, những giá trị chuẩn mực đạo đức
được hình thành và phát triển.Với tinh thần ấy, người cách mạng trước hết phải
4

Hồ Chí Minh toàn tập tập5,nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995 tr252-253


tự mình rèn luỵện tư cách đạo đức, nêu tấm gương về đạo đức, phải ý tức sâu
sắc vai trò gương mẫu của mình trước quần chúng,công việc.
Về loại yêu cầu thứ 2 trong tư cách của người cách mệnh, Chủ tịch Hồ
Chí Minh tập trung đề cập đến vấn đề ứng xử, giải quyết các mối quan hệ của cá
nhân người cán bộ, đảng viên với xã hội, với người khác thông qua hoạt động và

giao tiếp của họ. Theo Người, người cách mạng không chỉ có tu thân, giữ mình
sao cho thái độ, hành vi ứng xử không có gì sai phạm, không mất lòng ai, mà
phải được thể hiện ra bên ngoài, trong quan hệ ứng xử với người khác, cho dân
tộc, vì hạnh phúc của nhân dân; trong quan hệ với đồng chí, đồng bào, với
những người xung quanh phải khoan dung, độ lượng, trung thực, thẳng thắn, tế
nhị khéo léo, có lòng thường người, quan tâm giúp đỡ người khác. Có thế người
cách mệnh mới lôi kéo được nhân dân đi theo mình và truyền bá được chủ nghĩa
Mác- Lênin.
Về loại yêu cầu thứ ba, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra những yêu cầu rất
cơ bản đối với người cách mạng trong thực hành cương vị, chức trách, nhiệm vụ
được giao. Như vậy, Người đã đặc biệt chú ý đến hoạt động thực tiễn của người
cách mạng. Người nhắc nhở cán bộ cách mạng khi làm việc phải có động cơ
đúng đắn là phục vụ đoàn thể, phục vụ tổ quốc, phục vụ nhân dân, có tri thức để
xem xét hoàn cảnh cụ thể, có tính quyết đoán dám nghĩ, dám làm, có kỷ luật, có
tinh thần cách mạng vượt mọi khó khăn, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi
nhiệm vụ được giao.
Những yêu cầu Người đưa ra về tư cách một người cách mệnh có ý nghĩa
như một chuẩn mực về giá trị đạo đức của một con người- người cách mạng
giúp cho thế hệ thanh niên yêu nước lúc bấy giờ ai muốn đi theo thì phải nhìn
vào những yêu cầu đó mà thực hiện, làm nền tảng để rèn luyện tư tưởng chính
trị, đạo đức cho mỗi cán bộ đảng viên đi thâm nhập vào quần chúng để truyền bá
chủ nghĩa Mác- Lênin, hướng dẫn nhân dân đi theo con đường của cách mạng
Tháng Mười Nga: Trần Phú, Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Văn Cừ, Lê Hồng


Phong…là những tấm gương điển hình của tư cách người cách mạng Việt Nam
lúc đó.
Hiện nay, trước tác động mặt trái của cơ chế thị trường và sự chống phá
của các thế lực thù địch, một bộ phận cán bộ đảng viên do thiếu tu dưỡng, rèn
luyện đạo đức đã giảm sút ý chí chiến đấu, mất niềm tin vào chủ nghĩa xã hội,

đề cao lợi ích cá nhân, ích kỷ, cơ hội, tham nhũng; đối với quần chúng thì quan
liêu, hách dịch, không tôn trọng, không chịu chăm lo đến đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân: không chịu khó học tập nâng cao trình độ chính trị, nâng
cao năng lực chuyên môn; khi có chức quyền thì tham ô, bòn rút của công, thu
vén cá nhân làm thất thoát tiền bạc của nhà nước, của tập thể. Những biểu hiện
như vậy hoàn toàn trái với lời dạy của Bác về tư cách người cách mạng, người
cán bộ, đảng viên. Vì vậy, cần tạo điều kiện thuận lợi để mỗi cán bộ đảng viên
tự phê bình và phê bình nhằm sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm, giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ, thực hiện có hiệu quả những yêu cầu về rèn luyện, trau dồi
phẩm chất đạo đức mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra trong tư cách một người
cách mệnh.
4. Công nông là cái gốc của cách mạng
Từ quan điểm giai cấp vô sản đã được xác định, chủ tịch Hồ Chí Minh đi
đến khẳng định ý nghĩa lớn lao của những bài học thành công, thất bại trong lịch
sử: Người vạch rõ công xã Pari đã để lại kinh nghịêm xương máu:" Dân chúng
công nông là gốc của cách mệnh"; "Pari công xã vì tổ chức không khéo và vì
không liên lạc với dân cày, đến nỗi thất bại". Cách mạng Tháng 5- 1905 ở Nga
không thành công cũng là "vì thợ thuyền với dân cày không nhất trí". Và cách
mạng Tháng Mười Nga chỉ ra rằng :" Muốn làm cách mệnh thành công thì dân
chúng (công nông) làm gốc, phải có Đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh,
phải thống nhất".
Cách mạng Việt Nam phải đi theo cách mạng Nga và con đường cách
mạng đã xác định" lấy dân chúng công nông làm gốc";" vì chưa bị áp bức mà
sinh ra cách mệnh, cho nên ai mà bị áp bức càng nặng thì lòng cách mệnh càng


bền, chí cách mệnh càng quyết. Khi trước tư bản bị phong kiến áp bức cho nên
nó làm cách mệnh. Bây giờ tư bản lại đi áp bức công nông, cho nên công nông
là người chủ cách mệnh5
1. Là vì công nông bị áp bức nặng hơn

2. Là vì công nông là đông nhất cho nên sức mạnh lớn hơn hết
3. Là vì công nông là tay không chân rồi, nếu thua thì chỉ mất một
cái kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ gan góc. Vì những cớ
ấy, nên công nông là gốc cách mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ, địa chủ nhỏ
cũng bị áp bức, song không cực khổ bằng công nông; ba hạng ấy là bầu bạn
cách mệnh của công nông thôi"
Như vậy, trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, mọi người Việt Nam
có tinh thần yêu nước đều có thể đứng vào mặt trận dân tộc thống nhất chống
chủ nghĩa đế quốc và bè lũ tay sai, dưới sự lãnh đạo của Đảng cách mạng theo
chủ nghĩa Mác- Lênin- Đảng của giai cấp công nhân.
Trong quá trình vận động thành lập Đảng cũng như trong những năm tiếp
theo, chủ tịch Hồ Chí Minh đều chú trọng cả hai vấn đề: xây dựng khối liên
minh công nông và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất, nhưng không bao giờ
Người coi mặt trận dân tộc thống nhất có vị trí cao hơn, quan trọng hơn vai trò
của khối liên minh công nông.
Trong Đường cách mệnh, chủ tịch Hồ Chí Minh đãgiải quyết đúng đắn
mối quan hệ giữa cách mạng một nước và cách mạng thế giới. Trong tác phẩm "
Bản án chế độ thực dân Pháp", chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi cách mạng giải
phóng dân tộc là một bộ phận của cách mạng thế giới. Người ví chủ nghĩa đế
quốc như một con đỉa hai vòi, vì cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô
sản ở các nước tư bản chủ nghĩa như hai cánh của một con chim, từ đó xây dựng
tư tưởng về tầm quan trọng của tình đoàn kết quốc tế. Về mối quan hệ giữa cách
mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản, một mặt Người vẫn khẳng định
Công nông là người chủ cách mệnh, tức là công nhân và nông dân là lực lượng nòng cốt, là đội quân chủ
lực của cách mạng. Lênin
5


hai cuộc cách mạng phải liên kết với nhau, mặt khác Người nhấn mạnh tính chủ
động của cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa:" Việt Nam dân tộc

cách mệnh thành công thì tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì công nông Pháp
làm cách mệnh cũng dễ, và nếu công nông Pháp làm cách mệnh thành công thì
dân tộc Việt Nam sẽ được tự do".
Đi tới kết luận quan trọng đó, Người đã dựa vào nhiều yếu tố, trong đó có
quan niệm đúng đắn về mối quan hệ giữa đoàn kết quốc tế và tính tự cường của
dân tộc. Khi ở Pháp cũng như khi ở Quảng Châu( Trung Quốc), Người rất quan
tâm xây dựng các tổ chức để đoàn kết các lực lượng cách mạng thế giới nhưng
bao giờ Người cũng nhấn mạnh tư tưởng tự lực tự cường. Người phê phán quan
niệm sai lầm của những người đi trước là "làm cho dân quen tính ỷ lại mà quên
tính tự cường", Người chỉ rõ rằng" Muốn người ta giúp cho thì trước mình phải
tự giúp lấy mình đã.
Thực tiễn cách mạng chứng minh tư tưởng đó là hoàn toàn đúng. Cách
mạng Tháng Tám- 1945 đã nổ ra không chờ cách mạng vô sản ở Nhật, Pháp .
Thắng lợi của cách mạng Việt nam đã góp phần làm tăng thêm sức mạnh của
cách mạng thế giới. Cách mạng Việt Nam càng phát triển mạnh mẽ thì càng
được sự ủng hộ của cách mạng thế giới. Người cho rằng giải phóng dân tộc
trước hết là giải phóng công nhân và nông dân
Tư tưởng" công nông là gốc cách mệnh" xuyên suốt toàn bộ nội dung tác
phẩm, nó đã chỉ rõ cho những người cách mạng Việt Nam hiểu được rằng, trong
việc tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ nhân dân đấu tranh giành độc lập trước hết
phải chú ý đến cái gốc của cách mạng đó là công nông.
Đường cách mệnh không chỉ trình bày về đường lối cách mạng mà còn
trình bày một cách khoa học về phương pháp cách mạng . Để giành thắng lợi
cho cách mạng không chỉ yêu cầu có đường lối đúng mà còn phải có phương
pháp cách mạng đúng. Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, phong trào cách mạng
nhiều khi dẫm chân tại chỗ, thậm chí thất bại, không phải vì thiếu một đường lối
đúng mà vì thiếu một phương pháp thích hợp. ý thức sâu sắc vấn đề này,



×