Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

KHÁI QUÁT các PHONG TRÀO yêu nước VIỆT NAMTHEO KHUYNH HƯỚNG PHONG KIẾN và tư sản CUỐI THẾ kỷ XIX đầu THẾ kỷ XX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.57 KB, 33 trang )

CHƯONG I : KHÁI QUÁT CÁC PHONG TRÀO YÊU NƯỚC VIỆT NAMTHEO
KHUYNH HƯỚNG PHONG KIẾN VÀ TƯ SẢN CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX.

Sơ lược hoàn cảnh lịch sử cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Hoàn cảnh thế giới :
Chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa nền kinh tế hàng
hoá phát triển mạnh, đặt ra yêu cầu bức thiết về thị trường và là nguyên nhân sâu xa
dẫn tới những cuộc chiến tranh xâm lược các cuốc gia phong kiến Phương Đông.
Biến các quốc gia này thành thị trường tiêu thụ sản phâm, hàng hoá, mua bán
nguyên vật liệu, khai thác sức lao động và xuất khẩu tư bản của các nước đế quốc.
Từ đó mang lại lợi nhuận tối đa cho tư bản chính quốc . Chính sự áp bức và thôn
tính dântộc của chủ nghĩa Đế Quốc tăng mâu thuẫn gữa dân tộc thuộc địa với thực
dân ngày càng gay gắt, sự phả ứng đấu tranh của nhân dân các thuộc địa càng quyết
liệt.
Cách Mạng tháng mười Nga thành công năm 1917 nó không chỉ có ý nghĩa
đối với riêng nước nga mà còn có ý nghĩa to lớn, ảnh hưởng sâu rộng đến khắp thế
giới lôi cuốn nhiều người tham gia trong đó có lớp thanh niên những người yêu
nước Việt Nam. Hồ Chí Minh đã nói về Cách Mạng tháng mười Nga: Cách Mạng
tháng mười chiếu sáng khắp năm châu.
Cách Mạng tháng mười làm cho phong trào cách mạng vô sản ở các nước tư
bản chủ nghĩa phương tây và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa
phương đông có quan hệ mật thiết với nhau cùng đấu tranh chống kẻ thù chung là
chủ nghĩa đế quốc nhằm một mục đích chung là độc lập dân tộc, hạnh phúc cho
nhân dân. Cách mạng tháng mười Nga thắng lợi chủ nghĩa Mác-Lê Nin trở thành
hiện thực và được truyền bá rộng rãi khắp nơi và dẫn tới sự ra đời hàng loạt các

1


Đảng Cộng Sản như Đảng Cộng Sản Trung Quốc (1921), Đảng Cộng Sản Pháp
(1920), Đảng Cộng Sản Mỹ (1919).


Tháng 3/1919 Quốc Tế Cộng Sản do Lê Nin sáng lập và tại đại hội II của
Quốc Tế Cộng Sản (1920), Lê nin dã thông qua bản sơ thảo lần thứ nhất những
luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa. Luận cương của Lê Nin có ảnh
hưởng rất lớn tới quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn ái Quốc , nó đã chỉ ra
con đường, phương pháp đấu tranh giải phóng dân tộc của các dân tộc bị áp bức:
“Luận cương của Lê Nin cho tôi rất cảm động , phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng
biết bao tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói
to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo. Hỡi đồng bào bị đoạ đày đau
khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”
1

.Sau này Hồ Chí Minh khẳng định Lê Nin là người đầu tiên có vai trò to lớn đối

vói các dân tộc thuộc địaNgười viết: “Lê Nin là người đầu tiênđã hiểuvà đánh giá
hết tầm quan trọng lớn laocủa việc lôi cuốn nhân dân các dân tộc thuộc địavào
phong trào cách mạng, Lê Nin là người đàu tiên chỉ rõ rằng nếu không có sự
tham gia của các dân tộc thuộc địa, thì cách mạng xã hội chủ nghĩa không thể
có được”.
Như vậy tình hình thế giới cuối thế kỷ XIX đàu thế kỷ XXcó nhiều biến đổi
đã ảnh hưởng đến Cách Mạng Việt Nam.
Trong nước.
Cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam đã làm xã hội Việt
Nam biến đổi sâu sắc cả về kinh tế, chính trị, văn hoá-xã hội.
Về kinh tế:
Thực dân Pháp du nhập phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa vào Việt
Nam làm quan hệ kinh tế nông thôn bị phá vỡ, hình thành lên nhiều đô thị mới ,
những trung tâm kinh tế và tụ điểm cư dân mới. Tuy nhiên thực dân không du nhập
2



hoàn toàn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa vào nước ta mà vấn duy trì quan
hệ kinh tế phong kiến làm cho nền kinh tế của Việt Nam không phát triển bình
thường lên chủ nghĩa tư bản được mà phát triển một cách quèo quặt, lạc hậu, phụ
thuộc vào kinh tế pháp.
Về chính trị:
Bên cạnh bộ máy thực dân pháp cho thiết lập ở Việt Nam một chế đọ chuyên
chế điển hình.Với quyền hành đều nằm trong tay người Pháp, vua quan nhà
Nguyễn chỉ là bù nhìn. Chúng tiến hành chính sách “ chia để trị”, chia nước ta làm
ba kỳ, mỗi kỳ đặt một chế độ cai trị riêng và nhập ba kỳ đó với nước Lào và nước
Cam Phu Chia để lập ra liên bang Đông Dương thuộc Pháp để xoá bỏ tên nước Việt
Nam, Lào, Cam Phu Chia trên bản đồ thế giới. Đồng thời chúng còn gây chia rẽ
dân tộc , thù hận giữa ba miền ,giữa các tôn giáo, các dân tộc, các đảng phái…
Dưới chế độ cai trị của thực dân Pháp, người Việt Nam mất hết mọi quyền tự
do dân chủ, đất nước Việt Nam mất độc lập.
Về văn hoá-xã hội :

(1). Hồ Chí Minh toàn tập, nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia 2000, T1, tr.126

Thực dân Pháp thi hành cách ngu dẩntiệt để,giam hãm, đầu độc nhân dân ta trong
vòng tăm tối. Chúng xây dựng nhà tù nhiều hơn trường học. Trong các trường học
chúng mở dạy tiếng Pháp nhằm đào tạo một đội ngũ tay sai ở thuộc địa. Chúng còn
có những chính sách bưng bít, ngăn cản ảnh hưởng văn hoá tiến bộ trên thế giới, kể
cả văn hoá xã hội Pháp, chúng khuyến khích phát triển văn hoá đồ truỵ, mê tín dị
đoan…
Xã hội:
Tính chất của xã hội Việt Nam từ một xã hội phong kiến độc lập thành một
xã hội thuộc địa nửa phong kiến, làm mâu thuẫn xã hội thay đổi, hai mâu thuẫn cơ
3



bản của xã hội là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và thực dân Pháp xâm lược và
tay sai phản động mâu thuẫn nhân dân Việt Namcy là nhân dân mâu thuẫn với giai
cấp phong kiến làm kết cấu xã hộithay đổi: Bên cạnh hai giai cấp cũ là địa chủ và
người nông dân xã hội Việt Nam xuất hiện ba giai cấp,tầng lớp mới là:giai cấp
công nhân, giai cấp tư bản và giai cấp tư sản
Tóm lại, chính sách thống trị của thực dân pháp đối với Việt Nam và cả
Đông Dương nói chung là một chính sách tự trị chuyên chế về chính trị, bóc lột
nặng nề về kinh tế, kìm hãm và nô dịch về văn hoá, giáo dục chứ không phải đem
đến cho nhân dân một sự khai hoá và cải tạo thực sự theo kiểu phương tây.
Hồ Chí Minh từng nói về nhà khai hoá như sau: “Khi người ta đã là một
nhà khai hoá thì người ta co thể làm những việc dã man mà vẫn cứ là người văn
minh nhất”1, “nếu dân bản xứ không chịu nhục được, phải vùng lên, thì các nhà
khai hoá điều quân đội, súngliên thanh, súng cối và tàu chiến đến, người ta ra
lệnh giới nghiêm. Người ta bắt bớ và bỏ tù hàng loạt. Đấy công cuộc khai hoá
nhân từ là như thế đấy.”2
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX các phong trào yêu nước Việt Nam theo
khuynh hướng phong kiếnvà tư sản diên ra mạnh mẽ, liên tục , sôi nổi và rộng khắp
tuy nhiên các phong trào yêu nước đều đi đến thất bại do thiếu một đường lối đúng
đắn thiếu một tổ chức cách mạng có khả nằg dẫn dắt dân tộc đến thắng lợi, cuộc
đấu tranh của nhân dân ta rơi vào tình trạng khủng khoảng về đường lối cứu nước,
về giai cấp lẫnh đạo cách mạng.
Cùng với những chuyển biến trên, cách mạng Việt Nam lúc này cũng bắt đầu

(1),(2). Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, 2002, T2, tr. 56, 115

4


có nhiều chuyển biến mới gắn liền với hoạt động của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc ,
những tư tưởng cách mạng của Nguyễn ái Quốc đã bắt đầu được truyền bá vào Việt

Namlàm cho các phong trào công nhân bắt đầu có sự chuyển biến về chất từ tự phát
đến giác ngộ.
1.

Phong trào yêu nước Việt Nam mang khuynh hướng phong kiến
“Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỷ XX giai cấp vô sản Việt Nam chưa thành

hình, nó mới đang mọc, trái lại thì do sự khai thác quy mô của pháp mà giai cấp
vô sản Việt Nam đã thành hình rồi nhưng còn là “giai cấp tự nó” chưa có ý thức
về nhiệm vụ lịch sử của mình. Trong điều kiện đó, cách mạng Việt Nam tất
nhiên là lấy đa số nhân dântức nông dân, làm động lực chủ yếu nhưng làm hoa
tiêu cho cấch mạng thì chưa phải là tư sản chưa phải là vô sản, tất nhiên không
nói đến địa chủ phong kiến nữa, hoa tiêu cho cách mạng lại là tầng lớp sĩ phu
yêu nước mà số đứng đầu là những ngườikhoa bảng xuất thân điều này in một
con dấu đạc sắc cho thời cuộc”1.
Ngay từ cuối thế kỷ XIX , khi triều đình nhà Nguyễn lần lượt ký các hiẹp
ước ác-Măng năm (1883)và Patơnốt năm (1884) đầu hàng thực dân Pháp song
phong trào chống thực dân Pháp vẫn diễn ra mạnh mẽ tiêu biểu nhất là phong trào
Cần Vương năm (1885-1896) một phong trào đấu tranh vũ trang do vua Hàm Nghi
và Tôn Thất Thuyết phát động, phong trào chia làm hai giai đoạn :
Giai đoạn một: Năm (1885-1888)đây là giai đoạn phong trào Cần Vương
đặt dưới sự chỉ huy tương đối thống nhất của triều đình . Mở đầu là các cuộc nổi
dậy của Văn Thân Nghệ An và Hà Tĩnh và sau đó liên tục các cuộc nổi dậy ở
Quảng Bình, Quảng Trị, Thanh Hoá, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh
Hoà, Thái Bình, Nam Định… nên thời kỳ này phong trào nổ ra rầm rộ tại các tỉnh
Bắc vsf Trung Bộ. Khi vua Hàm Nghi bị bắt ngày 1/11/1888, phong trào vẫn tiếp
tục kéo dài đến thế kỷ XIX và có xu hướng ngày càng đi vào chiều sâu .

5



Giai đoạn hai: Năm (1888-1896) phong trào Cần Vương không còn đặt dưới
sự lãnh đạo của triều đìnhkháng chiến nữa, nhưng vẫn tiếp tục được duy trì và quy
tụ xung quanh những cuộc khởi nghĩa lớn như : Khởi nghĩa Ba Đình năm (18811887) do Đốc học Phạm Bành và Đinh Công Tráng lãnh đạo, dựa vào địa thế của
ba làng Mởu Thịnh, ThươngThọ, Mã Khê, nghĩa quân

(1). Trần Văn Dầu, Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến cách mạng tháng Tám , tập 2, tr.23

đã xây dựng Ba Đình thành một cứ điểm kháng Pháp kiên cố. Nghĩa quân Ba Đình
Ba Đình với tinh thần chiến đấu quả cảm, quyết tâm cao và sự giúp đỡ của nhân
dân đã đánh lui nhiều đợt tấn công của địch , tiêu diệt hàng trăm tên. Ngoài việc
xây dựng và bảo vệ căn cứ nghĩa quân Ba Đình còn tổ chức các cuộc phục kích,
chặn đánh các đoàn xe địch và tập kích tiêu diệt các toán qân của giặc đi lẻ. Trước
sự phát triển lớn mạnh của nghĩa quân thựcdân Pháp dã huy động một lực lượng
lớn quân lính đàn áp nghĩa quân tuy chiên đấu dũng cảm nhưng do lực lượng quá
chênh lệch cuối cùng khởi nghĩa đã thất bại, căn cứ Ba Đình vỡ, một bộ phận nghĩa
quân rút lên rừng núi gia nhập các toán nghĩa binh khác .
Khởi nghĩa Bãi Sậy (1882-1893)do Nguyễn Thiện Thuật lãnh đạo, địa bàn
là vùng lau lách um tùm thuọc các huyện Văn Giang, Khoái Châu, Mỹ Hào (Hưng
Yên). Đựoc nhân dân ủg hộ, nghĩa quân Bãi Sậy đã thoắt ẩn, thoắt hiện áp dụng có
hiệu quả chiến thuật du kích, gây cho địch nhiều tổn thất. Trong suốt mười năm,
nghĩa quân Bãi Sậy hoạt động quấy rối, tiến công, tiêu hao sinh lực địch. Nhiều
cuộc phục kích, đánh đòn, chặn đường giao thông diễn ra liên tục ở khắp nơi gây
cho địch những tổn thất nghiêm trọng. Ngày 11/11/1888 nghĩa quân tổ chức đánh
úp đội quân địch ở Liêu Trung (Mĩ Hào, Hưng Yên ) diệt ba mươi mốt tên trong
đó có tên chỉ huy, gây tiếng vang lớn , làm nức lòng nhân dân để đối phó với nghĩa
quân thực dân Pháp đã tập trung binh lực và sử dụng các tên tay sai như Nguyễn
6



Trọng Hợp, Hoàng Cao Khải mở cuộc càn quét lớn nhằm vào xung quanh Bãi Sậy,
rồi bao vây chặt nghĩa quân . Nghĩa quân chiến đấu anh dũng song cuối cùng khởi
nghĩa đã hoàn tàon thất bại, những người lãnh đạo đều hy sinh.
Khởi nghĩa Hùng Lĩnh năm (1887-1892)do Tống Duy Tân và Cao Điển
lãnh đạo căn cứ chính là Hùng Lĩnh, ngoài ra nghĩa quân còn mở rộng hoạt động
đến các vùng tả hữu ngọn sông Mã, phối hợp với Đề Kiều, Đốc Ngữ chống phá ở
vùng hạ lưu sông Đà, với Phan Đình Phùng ở Hưng Khê. Về tổ chức, nghĩa quân
Hùng Lĩnh lập ra các cơ sở (khoảng 200 người) lấy tên huyện đặt tên cho đơn vị
như Tống Thanh Cơ, Nông Thanh Cơ… trong những năm 1889, 1890, nghĩa quân
đã tổ chức những trận đánh lớn, gây cho địch nhiều tổn hại. Sau các cuộc càn quét
của địch, nghĩa quân phải ở dần lên vùngTây Bắc của Thanh Hoá. Tại đây họ được
bổ sung thêm lực lượng và đẩy mạnh hoạt động 3/1980, thựcdân Pháp liên tiếp mở
các cuộc hành quân càn quét, địa bàn hoạt động của nghĩa quân bị thu hẹp nhiều và
cuối cùng cũng bị thất bại.
Khởi nghĩa Hương Khê: Năm (1885-1888) do Phan Đình Phùng lãnh
đạo.Cuộc hởi nghĩa phát triển qua hai giai đoạn: Thời kỳ xây dựng lực lượng năm
(1885-1896)và thời kỳ chiến đấu của nghĩa quân năm (1888-1896)trên cơ sở của
một loạt các cuộc nổi dậy hưởng ứng chiếu cần vương nổ ra từ năm 1885, trong đó
cps các cuộc khởi nghĩa của Lê Ninh (La Sơn) Cao Thắng(Hương Sơn), Nguyễn
Thạch, Ngô Quảng, Hà Văn Mĩ (Nghi Xuân)… Phan Đình Phùng đã tập hợp và
phát triển thành một phong trào chống Pháp có quy mô lớn bao gồm bốn tỉnh, Nghệ
An, Hà Tĩnh, Quảng Bình. Người trợ thủ đắc lực nhất của Phan Đình Phùng là và
cũng là một chỉ huy xuất sắc của khởi nghĩa Hương Khê là Cao Thắng. Dựa vào địa
hình núi non hiểm trở của bốn tỉnh Nghĩa quân Hương Khê lập một căn cứ kháng
Pháp, trong đó có các căn cứ nổi tiếng như là Cồn Chùa, Thương Bồng, Hạ Bồng,
Vụ Quang… và quan trọng nhất là căn cứ Vụ Quang.Điểm nổi bật của khởi nghĩa
Hương Khê là một tổ chức tương đối chặt chẽ và quy mô rộng lớn và họt động dai
7



dẳng của nó. Nghĩa quân Hương Khê được tổ chức thành mười lăm quân quân thứ
các quân thứ này mang tên địa phương là con thứ (Huyện Cam Lộ), Hương Thứ
(Huyện Hương Sơn)…
Sang đầu năm 1891, mặc dù địch đã bình định được Nghệ An, Hà Tĩnh
nhưng nghĩa quân đã vẫn hoạt động mạnh. Đầu năm 1892, họ đánh địch ở khu
Trường Xim, Hói Trùng, ngày 23/8/1892 tập kích thị xã Hà Tĩnh, phá nhà lao, giải
phóng tù nhân. Tuy nhiên sau các cuộc chiến đấu lien tục, lực lượng nghĩa quân
ngày một hao mòn. Trong khi đó các cuộc khởi nghĩa Ba Đình, Bãi Sậy, Hùng Lĩnh
đang lần lượt bị dập tắt. Thực dân Pháp càng có điều kiện tập trung để tiêu diệt
khởi nghĩa cũng ngày càng bị cô lập, không thể liên lạc ứng cứu cho nhau. Sau
cuộc đánh lớn nhằm phá thế bao vây của địch,Cao Thắng bị thương rồi hi sinh. Đây
là tổn thất lớn cho khởi nghĩa và khởi nghĩa Hương Khê bước vào giai đoạn đối
phó bị động chống lại các cuộc càn quét của địch.
Trong cuộc chiến đấu ác liệt dể bảo vệ căn cứ, chủ tướng Phan Đình Phùng
bị thương nặng và hi sinh.Đến đây thì khởi nghĩa Hương Khê chấm dứt. Khởi
nghĩa thất bại song là cuọc khởi nghĩa lớn nhất trong phong trào Cần Vương chông
Pháp cuối thế kỷ XIX. Cuộc khởi nghĩa này đã đựoực duy trì suốt mười năm, hoạt
động trên một địa bàn rộng lớn và được ủng hộ của quần chúng nhaan dân. Sau
khởi nghĩa Hương Khê, phong trào Cần Vương về cơ bản đã chấm dứt nhưng nhiều
nhà yêu nước vẫn nổi dậy chống Pháp. Một số theo khuynh hướng mới, một số
tham gia vào các hoạt động của khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám lãnh đạo
năm (1884-1913). Cùng thời gian này còn có cuộc khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng
Hoa Thám lãnh đạo là cuộc khởi nghĩa lớn nhất, bền bỉ nhất tiêu biểu cho tinh thần
bất khuất của nhân dân trong phong trào chống phá cuối thế kỷ XIX khởi nghĩa
diễn ra âu rộng thu hút dông đảo nhân dân tham gia, dưới nhiều hình thức đấu tranh
khác nhau đã làm cho thực dân Pháp trước sức mạnh của nhân dân và làm tiêu hao
nhiều sinh lực của địch. Cuộc khởi nghĩa diễn ra bốn giai đoạn song nghĩa quân
8



đều rất anh dũng, sẵn sàng hi sinh, lại được sự ủng hộ đông đảo của nhân dân nên
ngày một lớn mạnh. Tuy nhiên thực dân Pháp đã tập trung lực lượng lớn càn quét,
bắn giết trước sự chênh lệch lớn về lực lượng khởi nghĩa đã thất bại. Tuy vậy khởi
nghĩa Yên Thế là phong trào đấu tranh lớn nhất của nhân dân trong nhưng năm
cuối thế kỷ XIX. Sự tồn tại bền bỉ dẻo dai của phong trào đã phản ánh sức mạnh to
lớn tiềm tàng của nhân dân nước ta. Ngoài ra còn một loạt cuộc nổi dậy của nhân
dân ta đã nổ ra tiêu biểu là các cuộc nổi dậy của đồng bào dân tộc Stiêng, Mơnông
ở nam bộ, của đông bào Mường …
Tóm lại: Thất bại của phong trào cần vương chứng tỏ sự bất lực của hệ tư
tưởng phong kiến trong việc giải quyết nhiệm vụ dành độc lập cho lịch sử đặt ra và
từ đây phong trào cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới.
2.

Phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng dân chủ tư sản.
Đầu thế kỷ XIX, châu Á thức tỉnh: Phong trào cách mạng dân chủ tư sản ở

các nước thuộc địa và nửa thuộc địa như Ba Tư, Thổ Nhĩ Kỳ, Trung Quốc, ấn Độ…
mang một nội dung mới đấu tranh yêu nước giải phóng dân tộc kêt hợp với đấu
tranh dành quyền dân chủ ở nước ta vào những năm đầu thế kỷ XX, trước những
yêu cầu mới của lịch sử, những phần tử ưu tú trong trong hàng ngũ trí thức phong
kiến đã nhận thấy “quan niệm trung quân ái quốc” thời kỳ Cần Vương không có tác
dụng tập hợp nhân dân nữa đúng lúc đó, các tân thư, tân báo của Trung Quốc dội
vào nước ta, đáng kể nhất là các tác phẩm, ẩm băng Thất, Trung Quốc hồn, Mậu
Tuất chính biến, Tân dần tuần báo… của Lương Khải Siêu và Khang Hữu Vi cũng
giới thiệu những tư tưởng dân chủ tư sản của phương tây, dưới lăng kính của tư
tưởng lập hiến các trào lưu tư tưởng đó đã cổ vũ, hướng họ theo lý tưởng của cuộc
cách mạng Pháp năm (1789), cuộc vận động Duy Tân năm (1898) và cuộc cách
mạng Tân Hợi năm (1911) ở Trung Quốc, giúp họ đoạn tuyệt những tư tưởng quân
chủ lập hiến chuyển sang tư tưởng cộng hoà. Mặt khác công cuộc xây dựng đất
nước thành công của tư bản Nhật càng củng cố niềm tin của các sỹ phu yêu nước

9


vào con đường cách mạng tư sản. Tiêu biểu cho khuynh hướng này là các phong
trào:
Phan bội châu và phong trào Đông Du.
Với quan điểm “nợ máu chỉ có thể trả bằng máu”, ngay từ đầu Phan Bội
Châu đã kiên trì giành độc lập bằng con đường bạo lực vì vậy ngay từ đầu thế kỷ
XX ông đã chuẩn bị công cuộc bạo động đánh Pháp. Tuy nhiên như ông nói : “ Là
một nghười trong tay không có một miếng sắt , trên mặt đất không có lấy một
chỗ đứng chân, chẳng qua chỉ là một thằng tay không chân trắng , tài hèn sức
yếu, mà lại đòi vật lộn với hùm beo có nanh dài vuốt nhọn”và: “ Đến nỗi này tôi
không thể nào không sang con đường bạo động. Vẫn biết bạo động với tự sát
đều là việc làm của những kẻ kiến thức hẹp hòi, không biết lo xa, nhưng nếu
tình thế buộc phải tự sát thì thà rằng xoay ra bạo động, thà chết còn hơn. Nếu
bạo động thì may ra trông được có chỗ thành công trong muôn một. Huống gì
tôi đã suy đi tính lại, lúc này bỏ sự bạo động ra thì không còn việc gì đáng làm
nữa”1.
Phan Bội Châu chủ trương dựa vào sự giúp đỡ bên ngoài, chủ yếu là Nhật
Bản, để đánh Pháp dành độc lập dân tộc, thiết lập một nhà nước theo mô hình quân
chủ lập hiến của Nhật vào tháng 5/1904, Phan Bội Châu, Cường Để và trên hai
mươi đồng chí họp ại nhà riêng của ông.
Nguyễn Hàm bí mật lập ra Duy Tân hội, mục đích của hội là “ cốt sao khôi
phục được nước Việt Nam, ngoài ra chưa có chủ trương gì khác”. Ông tổ chức
phong trào Đông Du (1906-1908), tức phong trào đi du học ở phương tây và ông
cho rằng nên cầu viện Nhật Bản là nước đồng Văn, đồng chủng. Những người du
học sinh được đào tạo về văn hoá và quân sự cần thiết cho công cuộc đánh Pháp
cứu nước và kiến thiết đất nước. Phong trào đông du ngày càng lớn mạnh , thực
dân Pháp một mặt tiến hành khủng bố, mặt khác tiến hành cấu kết với Nhật trục
xuất những người yêu nước Việt Nam ra khỏi nước Nhật trong đó có cả Phan Bội

10


Châu. Phan Bội Châu nhận thấy được bản chất của chủ nghĩa thực dân chúng đầu
như nhau đầu đàn áp các phong trào cách mạng của nhân dân. Chủ trương dựa vào
Nhật đánh Pháp không thành ông về Xiêm nằm chờ thời cơ. Giữa lúc đó cách mạng
Tân Hợi bùng nổ và thắng lợi (1911). Ông về Trung Quốc lập ra Việt Nam quang
phục hội (1912)vói ý định tập hợp lực lượng rồi kéo quân về nước võ trang bạo
động đánh Pháp, giải phóng dân tộc nhưng cuối cùng cũng thất bại.
Phong tào Duy Tân (1906-1908).
Trong lúc phong trào Đông Du những hoạt động của Duy Tân Hội diễn ra
sôi nổi thì Phan Chu Trương và một số sĩ phu yêu nước chủ trương tiến hành một
phong trào Duy Tân .Phan Chu Trinh kịch liêt lên án bọn vua quan phong kiến thối
nát, tích cực đề xướng tư tưởng dân chủ Tư Sản với các yêu cầu, “ khai dân trí,
chấn dân khí, hậu dân sinh”, hô hào mở mang trường học, phát triển công thương

(1). Trần Văn Dầu, Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến cách mạng tháng Tám , tập 2, tr.152

nghiệp, cải cách phong tục, chống lề thói phong kiến cổ hủ, xem đó là điiêù kiện để
giải phóng dân tộc: “không cần hô hào để đánh Pháp chỉ cần đề xướng dân
quyền , dân đã giác ngộ quyền lợi của mình, bấy giờ mới có thể dần mưu tính
những việc khác"1.
Để thực hiện mục tiêu trên, Phan Chu Trinh chủ trương tạm thờidựa vào
Pháp để đánh đổ phong kiến, dành lại quyền lực cho nhân dân, sau đó sẽ đánh đổ
đế quốc, dành độc lập dân tộc. Phan Châu Trinh đã phản đối biện pháp đấu tranh
bạo động, xem bạo động là chết (bất bạo động, bạo động tắc tử ) và cũng không tán
thành việc cầu viện bên ngoài, xem đó là điều ngu xuẩn (bất vọng ngoại, vọng
ngoại giả ngu). Trong những năm đầu thế kỷ XX, phong trào Duy Tân đã phát triển
mạnh mẽ, ở Bắc Kỳ có việc mở trường học, giảng giạy và học tập thao những nội
dung và phương pháp mới để dạy chữ quốc ngữ mở mang dân trí. Ngoài những

môn khoa học thưởng thức, lịch sử, địa lý, vệ sinh, nhà trường còn dạy học sinh tập
11


hát, tập thể dục thể thao, tiêu biểu là trường Đông Kinh Nghĩa Thục Hà Nội thành
lập năm 1907. Về hoạt động kinh tế, Phan Chu Trinh và những người trong phong
trào Duy Tân đã tiến hành cổ động chấn hưng thực nghiệp mở hiệu buôn, lập
thương hội, các ngành tiêu biểu thủ công nghiệp được khuyến khích phát triển, ở
trung kỳ có cuộc vận động Duy Tân, hô hào thay đổi phong tục, nếp sống, phong
trào còn sôi động hơn khi phái Duy Tân mở cuộc vận động cắt tóc ngắn, để răng
trắng, theo lối sống mới. Phong trào phát triển mạnh thực dân Pháp gọi chung
phong trào này và phong trào chống sưu thuế ở trung kỳ năm 1908 là “phong trào
cắt tóc ngắn”.
Phong trào Đông Du và phong trào Duy Tân đều có nhiều ý nghĩa kích động
lòng yêu nước đòi độc lập dân tộc, xu hướng cải cách không tách rời xu hướng bạo
động. Tuy nhiên do những hoàn cảnh về lịch sử, về giai cấp nên các phong trào yêu
nước đầu thế kỷ XX đều không tìm được đường lối cứu nước đúng đắn để đấu
tranh giải phóng dân tộc nên chỉ sau một thời kỳ phát triển đã bị kẻ thù dập tắt.
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất mặc dù còn nhiều hạn chế về số lượng, về
thế lực kinh tế và chính trị, nhưng với tinh thần dân tộc, dân chủ, giai cấp tư sản
Việt Nam đã hăng hái bước lên vũ đài chính trị với một phong trào yêu nước sôi
nổi, rộng lớn, thu hút đông đảo quần chúng tham gia với những hìng thức đấu tranh
phong phú.
Từ năm 1919-1923 phong trào quốc gia cải lương của bộ phận tư sản và
địa chủ lớp trên đã diễn ra bằng việc vận động chấn hưng nội háo bài trừ ngoại hoá
năm

(1). Phan Bội Châu niên biểu, Sđd, tr. 72

(1919), chống độc quyền thương cảng Sài Gòn năm (1923), cuộc vận động đồi

hưởng nghị định về thể lệ nhân công năm (1924), chống độc quyền nước mắm năm

12


(1920-1926), chống trục xuất người miền trung , miền bắc ra khỏi Nam Kỳ năm
(1925).
Năm 1923 xuất hiện đảng lập hiến của Bùi Quang Chiêu ở Sài Gòn, tập hợp
tư sản và địa chủ lớp trên . Về tổ chức, Đảng chưa cấu tạo thành hệ thống, hình
thức đấu tranh chủ yếu là trên diễn đàn báo chí hoặc trong các kỳ tranh cử vào hội
đồng thuộc địa, hội đồng thành phố. Họ đòi Pháp ban hành một số cải cách về
quyền tự do dân chủ và ban bố một số quyền lợi kinh tế. Nhưng khi bị thực dân
Pháp đàn áp trong nhân nhượng cho một số quyền lợi thì họ lại đi vào con đường
đầu hàng thảo hiệp cộng tác chặt chẽ với Pháp để ra sức chống phá cách mạng.
Từ năm 1925-1926 đã diễn ra phong trào yêu nước dân chủ công khai của
tiểu tư sản thành thị và tư sản lớp dưới. Họ lập ra nhiều tổ chức chính trị như là:
Việt Nam nghĩa đoàn năm (1925) là tổ chức của nhóm thanh niên yêu nước trường
cao đẳng sư phạm Hà Nội với một số người tiêu biểu là Tôn Quang Phiệt, Đặng
Thai Mai…, sau một thời gian đổi tên thành hội Phục Việt, Hưng Nam, Thanh Niên
Cao Vọng năm (1926). Thành lập nhiều nhà xuất bản như Nam Đồng Thư Xã (Hà
Nội), Cường Học Thư Xã (Sài Gòn), Quan Hải Tùng Thư (Huế), ra nhiều báo chí
tiến bộ như Chuông Rạn, Người Nhà Quê, An Nam Trẻ… Có nhiều phong trào đấu
tranh chính trị gây tiếng vang khá lớn như đấu tranh dòi thả Phan Bội Châu năm
(1925), lễ truy điệu và để tang Phan Châu Trinh, đấu tranh đòi thả nhà yêu nước
Nguyễn An Ninh năm (1926). Cùng với phong trào đấu tranh chính trị, tiểu tư sản
Việt Nam còn tiến hành một cuộc vận động văn hoá tiến bộ, tuyên truyền rộng rãi
những tư tưởng tự do dân chủ. Tuy nhiên, càng về sau, cùng sự thay đổi về điều
kiện lịch sử, phong trào trên đây càng bị phân hoá mạnh. Có bộ phận đi sâu hơn
nữa vào khuynh hướng chính trị tư sản (như Nam Đồng Thư Xã), có biện pháp
chuyển dần sang quỹ đạo cách mạng vô sản (tiêu biểu là Phục Việt, Hưng Nam).

Phong trào cách mạng quốc gia tư sản năm (1927-1930)gắn liền với sự ra
đời và hoạt động của Việt Nam Quốc Dân Đảng (25/12/1927). Được thành lập trên
13


cơ sở một nhóm trí thức tư sản, tiểu tư sản tập hợp trong “Nam Đồng Thư Xã” ở
Hà Nội lãnh tụ là Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài, Nguyễn Khắc Nhu và Phó
Đức Chính. Trong bản điều lệ có ghi một cách chung chung : “ Trước làm dân tộc
cách mạng, sau làm thế giới cách mạng” dần đường lối dó được bổ sung , nhưng
là sự tiếp thu đường lối Tam Dân của Tôn Trung Sơn. Đây là tổ chức chính trị tiêu
biểu nhất của khuynh hướng tư sản ở Việt Nam tập hợp các thành phần tư sản, tiểu
tư sản, địa chủ và cả hạ sĩ quan Việt Nam trong quân đội Pháp
Về chính trị, đảng chủ trương đánh đuổi đế quôc Pháp, xoá bỏ chế độ vua
quan , thành lập dân quyền, nhưng chưa bao giờ có một đường lối cụ thể, rõ ràng.
Về tổ chức, đảng chủ trương xây dựng các cấp từ trung ương đến cơ sở,
nhưng chưa bao giờ có một hệ thôngs tổ chức thống nhất .
Hoạt động của đảng còn manh động, nghiêng về khủng bố cá nhân. Đặc biệt
vụ ám sát Ba Danh là trùm mộ phu đồn điền cao su của thực dân Pháp (9/2/1929)đã
gây chấn động sau đó kẻ thù mở cuộc khủng bố dữ dội, hàng loạt cán bộ đảng viên
của Việt Nam Quốc Dân Đảng sa vào lưới giặc. Trước tình thế nguy cấp, tâm lý sốt
ruột manh động càng thôi thúc những người cầm đầu mong muốn tiến hành bạo
động. Họ cho rằng cứ ngồi yên để kẻ thù đưa vào nhà tù hay đưa lên mái chém thì
chi bằng lúc còn tự do bên ngoài dốc hêt lực lượng đánh trận cuối cùng (không
thành công thì cũng thành nhân).
Việt Nam quốc dân đảng triệu tập một hội nghị và vạch ra bản “tổng công
kích kế hoạch” rất chủ quan đề ra kế hoạch đánh vào đô thị, những vị trí xung yếu
của thực dân Pháp, lực lượng chính là binh lính trong hàng ngũ Pháp cùng lực
lượng phù trợ là đảng viên ngoài nhà binh, vũ khí chủ yếu dựa vào súng đạn cướp
được của địch và bom, dao tự chế tạo.Tuy nhiên trước khi khởi nghĩa xảy ra thì một
số cơ sở bị lộ nhưng trong tình thế đó các lãnh tụ trong Việt Nam Quốc Dân Đảng

vẫn chủ trương bạo động xem đó là lối thoát hơn là tin vào thành công. Ngày khởi
nghĩa và sự chuẩn bị của hai miền xuôi ngược đã không khớp, cộng thêm ngày khởi
14


nghĩa liên tục bị hoãn nhiều lần đến khi truyền đạt kế hoạch lại không thông suốt
nên khởi nghĩa diễn ra rời rạc ở các địa phương. Cuộc khởi nghĩa nổ ra có tiếng
vang hưn là ở tỉnh lỵYên Bái vào đêm mùng 9 rạng sáng mùng 10-2-1930.
Việt Nam Quốc Dân Đảng tiến hành khởi nghĩa hoàn toàn bị động, trong tình
thế tổ chức đảng đang tan rã, lực lượng mỏng, rải nhiều nơi, kế hoạch ngày giờ, địa
điểm không thống nhất, bị lộ. Do đó cuộc khởi nghĩa bị dập tắt nhanh chóng. Tuy
khởi nghĩa thất bại nhưng đã nêu cao tấm gương hi sinh quả cảm của cá chiến sĩ
Việt Nam Quốc Dân Đảng trước đồng bào trong nước và kiều bào ở nước ngoài
nên có tác dụng cổ vũ động viên mạnh mẽ.
Nhìn chung, các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở
Việt Nam đã diễn ra liên tục, sôi nổi, lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia với
những hình thức đấu tranh phong phú, thể hiện ý thức dân tộc, tinh thần chống đế
quốc của giai cấp tư sản ở Việt Nam nhưng cuối cùng đều thất bại vì giai cấp tư sản
Việt Nam rất nhỏ yếu cả về kinh tế và chính trị nên không đủ sức giương cao ngọn
cờ lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc, chưa có đường lối chính trị rõ ràng và
một hình thức tổ chức chặt chẽ.
Mặc dù thất bại nhưng các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ
tư sản đã góp phần cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân dân ta, bồi đắp
thêm chủ nghĩa yêu nước ở Việt Nam , đặc biệt góp phần thúc đẩy những nhà yêu
nước, nhất là lớp thanh niên trí thức tiên tiến chọn lựa một con đường mới, một giải
pháp cứu nước, giải phóng dân tộc theo xu thế của thời đại và nhu cầu mới của
nhân dân Việt Nam. Từ đây, ngọn cờ lãnh đạo cách mạng chuyển sang giai cấp vô
sản. Cách mạng Việt Nam bắt đầu một quá trình phát triển mới về chất.

15



CHƯƠNG II :NGUYÊN

NHÂN THẤT BẠI VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA

PHONG TRÀO YÊU NƯỚC VIỆT NAM THEO KHUYNH HƯỚNG PHONG KIẾN VÀ
TƯ SẢN CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX.
I.

NGUYÊN NHÂN THẤT BẠI.

1.

Nguyên nhân khách quan.
Phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng phong kiến và tư sản

cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX thất bại bên cạnh nguyên nhân chủ quan còn có
những nguyên nhân khách quan khác tác động.
Do so sánh lực lượng giữa ta và địch. Thực dân Pháp là nước tư bản phát
triển, có tiềm lực to lớn cả về kinh tế, quân sự, quân lính được trang bị đầy đủ, vũ
khí hiện đại, được huấn luyện chu đáo, được làm quen với chiến tranh hiện đại,
quân chỉ huy có kinh nghiệm trong các cuộc chiến tranh hiện đại. Thực dân Pháp
đã trải qu chiến tranh thế giới lần thứ nhất, qua các cuộc thôn tính nhiều dân tộc
thuộc địa. Ngược lại nước ta là nước nông nghiệp lạc hậu, tiềm lực về kinh tế và
quân sự đều rất hạn chế. Quân của ta tuy đông nhưng chưa được huấn luyện, chưa
quen với các cuộc chiến tranh hiện đại, vũ khí thô sơ chủ yếu là vũ khí tự chế tạo,
quân trang, quân dụng thiếu thốn, thuốc men rất hạn chế. Quân ta lại hoạt động ở
những vùng rừng núi nên mắc nhiều bệnh rừng, mà sự bổ sung, tiếp tế chưa được
chuẩn bị đầy đủ .

Tuy nhiên đây không phải là nguyên nhân thứ yếu làm các phong tào yêu
nước thao khuynh hướng phong kiến và tư sản Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX không giành được thắng lợi. Trước đây nhân dân ta đã từng chiến thắng
trước kẻ thù lớn mạnh hơn chúng ta nhiều lần như : Hai lần chiến thắng quânTống
dưới triều Tiền Lê năm (981) và triều Lý năm (1075-1077) do Lê Hoàn và Lý
Thường Kiệt lãnh đạo , ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông hung bạo và khét
tiếng đi thu đến đâu là chém giết thôn tính đến đó dưới thời nhà Trần thế kỷ thứ
16


XIII do Trần Hưng Đạo chỉ huy ,…Tất cả các cuộc thắng lợi của nhân dân ta thời
trước đều do nhân dân ta đồng lòng, chung sức lại dưới sự chỉ huy tài tình của các
tướng giỏi biết sử dụng nghệ thuật chiến tranh nhân dân, sức mạnh đoàn kết dân…
vì thế các cuộc khởi nghĩa đều dành thắng lợi cho dù so sánh lực lượng rất lớn. Còn
các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX đều thất bại.
Lý luận cách mạng tiên tiến là chủ nghĩa Mác-Lê chưa được truyền bá vào
Việt Nam nên các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản
chưa có lý luận tiên tiến dẫn đường nên chưa đề ra đường lối cách mạng đúng đắn,
chưa có phương pháp cách mạng phù hợp nên đều dẫn đến thất bại
Vào cuối thế kỷ XIXđầu thế kỷ XX nhân dân ta chưa có được nhiều sự giúp
đỡ của các nước tiên tiến trên thế giới trong khi đó thực dân Pháp là nước tư bản đã
phát triển, được sự giúp đỡ hậu thuẫn của nhiều nước đứng đầu là đế quốc Mỹ nên
mọi vũ khí hiện đại nhất thế giới thực dân Pháp đều có để sử dụng vào chiến tranh
đối với Việt Nam.
Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến thất bại còn do một
nguyên nhân nữa là nước ta là nước phong kiến, mang ý thức hệ phong kiến đã lạc
hậu hơn một trình độ so với tư bản Pháp (tuy nhiên dây cngx không phải là lý do
chủ yếu )lúc này bọn phản động ủng hộ thực dân Pháp , phong kiến ta không ủng
hộ nên trong các Đảng của phong kiến có nhièu người phản cách mạng, chỉ điểm

cho thực dân Pháp đàn áp cách mạng Việt Nam .
2.

Nguyên nhân chủ quan
Phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng phong kiến thất bại là

do những nguyên nhân chủ quan sau :
Nguyên nhân quan trọng là thiếu một tư tưởng kiên định, tiên tiến dẫn đường
nên chưa đề ra được đường lối cách mạng đúng đắn, vì vậy chưa thúc đẩy, động
17


viên và khai thác triệt để được sự ủng hộ của nhân dân, chỉ nơi nào có nghĩa quân
hoạt động thì nhân dân mới giúp đỡ, ủng hộ nói cách khác cuộc kháng chiến
chuyển thành một cuộc đấu tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc nên không phát huy
được sức mạnh toàn dân tộc. Các thế kỷ trước các cuộc đấu tranh của nhân dân ta
dành thắng lợi trước những thế lực địch lớn mạnh hơn ta nhiều lần là do những nhà
lãnh đạo khởi nghĩa, lấy chính uy tín và năng lực của họ để đoàn kết toàn dân trước
hết là đoàn kết trong nội bộ những người lãnh đạo. Điều này làm tiền đề để đoàn
kết sức mạnh của toàn dân. Tất cả tạo nên sức mạnh to lớn của dân tộc để chiến
thắng quân xâm lược.
Phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng phong kiến cuối thế kỷ
XIX và đầu thế kỷ XX thành bại còn là do sự bạc nhược và yếu hèn của triều
Nguyễn trước tình hình dân tộc, một triều đình không được lòng dân và không có
năng lực, uy tín để đứng ra tổ chức lãnh đạo nhân dân ta chống Pháp mà còn lần
lượt ký những hiệp định bán nước như trong năm 1884 hiệp ước PaTơNốt với Pháp
. Năm 1883 triều đình ký hiệp ước Hác-Măng Việt Nam rơi vào thảm trạng mất
nước, sự bạc nhược của triều đình phong kiến dẫn đến đông đảo quần chúng nhân
dân và một loạt sĩ phu yêu nước bất bình, phong trào kháng chiến chống Pháp tiếp
tục nổ ra ở nhiều nơi, mặc dù triều đình đã có lệnh bãi binh. Nhiều người thà chết,

nhất định không chịu hợp tác với giặc. Triều Nguyễn là triều phản động toàn diện
thành lập không do năng lực uy tín mà nhờ sự giúp đỡ của nước ngoài, một triều
đình không đại diện cho nhân dân, không chịu canh tân đất nước dù các văn thân sĩ
phu yêu nước đã đề nghị và đưa ra yêu sách tiến bộ nên đã biến khả năng không
mất nước từ chưa hoàn toàn tất yếu đã trở thành hoàn toàn tất yếu, bộ phận phản
động nhất trong triều Nguyễn đã trở thành tay sai cho giặc Pháp đàn áp nhân dân.
Vì thế thái độ chính trị bạc nhược, yếu hèn và đi đến phản động. “Thực ra triều
đình Huế không có quyền hành gì ngoài quyền vâng lệnh Pháp mà đàn áp nhân
dân.Nam triều là cái danh nghĩa cho Pháp tiêu diệt các cuộc khởi nghĩa chóng

18


thực dân Pháp ,hơn là một danh nghĩa, Nam triều cung cấp lính tráng cho sự
tàn sát đó”1.
Một lý do nữa dẫn đến phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng tư
sản thất bại là do hạn chế về nhận thức của những người tư sản mang hệ tư tưởng
phong kiến lạc hậu, không đủ năng lực và uy tín để liên kết các phong trào lạ thành
khối, thiếu tổ chức và lãnh đạo thống nhất. Chính nhược điểm này khiến cho quân
Pháp có thể lần lượt đánh bại từng bộ phận lẻ tẻ để cuối cùng tập trung lực lượng
dập tắt những bộ phận tương đối vững vàng hơn nên hầu hết các cuộc khởi nghĩa
lúc đầu dành thắng lợi do thực dân Pháp bị bất ngờ nhưng càng về sau khi thực dân
Pháp tập trung lực lượng để đàn áp thì tất cả cá cuộc khởi nghĩa đầu thất bại.
(1). Trần Văn Giầu, sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến cách mạng tháng Tám, Tập II, tr. 20

Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến hầu hết chỉ diễn ra
ở những địa bàn rừng núi hiểm trở như cuộc khởi nghĩa bãi sậy năm (1882-1893)
do Nguyễn Thiện Thuật lãnh đạo, địa bàn hoạt động chủ yếu là vùng lau sậy um
tùm, hay ở những vùng biên giới như khởi nghĩa Tây Bắc năm (1885-1892)do
Nguyễn Quang Bính và Nguyễn Văn Giáp lãnh đạo… chính vì địa bàn hoạt động

của các cuộc khởi nghĩa hiểm trở khó khăn nên lực lượng nghĩa binh không kịp bổ
sung và củng cố nên khi Pháp huy động lực lượng lớn đàn áp thì phong trào không
đủ lực lượng đối phó. Lại do hậu cần thiếu thốn, trang bị vũ khí thô sơ, do đó các
toán nghĩa binh chỉ có thể tổ chức phục kích, phía quân địch tại những nơi chúng tỏ
ra sơ hở, thiếu cảnh giác, chứ không thể phát triển thế lực để mở những trận đánh
lớn, những mục tiêu quan trọng vì thế các cuộc khởi nghĩa hưởng ứng chiếi Cần
Vương có làm tiêu hao sinh lực địch và gây cản trở cho địch song hiệu quả chưa
cao và chưa quyết liệt.
Một lý do nữa khiến phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX không dành đuuộc thắng lợi là do thành phần lãnh
đạo của nghĩa quân có một số trung kiên hết lòng, hết sức vì nhân dân, cùng khởi
19


nghĩa nhưng có một số đông khi gặp thất bại hay bị thực dân Pháp mua chuộc thì
nản chí xong quay ra phản lại cách mạng khiến cho cục diện kháng chiến ngày một
yếu ớt.
Các cuộc khởi nghĩa do tổ chức lỏng lẻo, chưa có kỷ luật rõ ràng, biện pháp
và cáh thức hoạt động chưa đề ra một cách đúng đắn mà tuỳ vào hoàn cảnh nên dễ
bị lộ và hoang mang dao động, nên một số cuộc khởi nghĩa trước khi nổ ra đã bị lộ
vì vậy thực dân Pháp biết trước được kế hoạch dễ dàng ứng phó và đàn áp , nhiều
cuộc khởi nghĩa thất bại nặng nề, thiệt hại lớn, nhiều nhà lãnh đạo giỏi đã bị bắt, bị
giết, căn cứ của nghĩa quân bị phá vỡ.
Tóm lại nguyên nhân chủ quan dẫn đến thất bại của phong trào yêu nước
Việt Nam theo khuynh hướng phong kiến là do thiếu đường lối đúng đắn dẫn
đường, chưa đề ra được phương pháp cách mạng đúng đắn phù hợp, chưa tập hợp
được quần chúng nhân dân để tạo ra sức mạnh toàn dân tộc. Trong văn minh tân
học sích, các sỹ phu yêu nước tiến bộ nhận thấy có bốn “nguyên nhân khởi điểm”,
bốn nhận thức tư tưởng căn bản sai lầm đã gây nên tình hình bế tắc lạc hậu đình
đốn ấy : “ một là khởi ở cái điểm nội hạng ngoại di, không thèm hỏi đến chính

thuật và kỹ năng của nước khác, Hai là khởi ở cái điểm trọng vương khih bá,
không thèm giảng đến cái học phú cường cơ xảo của nước ngoài. Ba là khởi ở
cái điểm xưa đúng nay sai không chịu xem xét kiến thức và sự suy nghĩ bàn
luận của người đời sau. Bốn là khởi ở cái điểm trọng quan khinh dân, nên
không thèm để ý đến tình hình hay dở ở chốn hương thôn”1.
Nguyên nhân thất bại chủ quan của phong trào yêu nước Việt Nam theo
khuynh hướng tư sản cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng tư sản cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XXthất bại là do những nguyên nhân chủ quan sau:
Do nhận thức của giai cấp tư sản chưa đúng , chưa xác định được mâu thuẫn
cơ bản của một nước thuộc địa nửa phong kiến . Nên chưa xác định được đâu là
20


bạn đâu là thù từ đó đề ra đường lối cứu nước không đúng, không đúng được
nguyện vọng của nhân dân và xu thế khách quan của thời đại. Tư sản Việt Nam
trước chiến tranh thế giới thứ nhất chỉ là một tầng lớp nhỏ bé kinh doanh chủ yế
trong lĩnh vực thương nghiệp,hoạt động sản xuất còn hạn chế. Từ sau chiến tranh
thế giới lần thứ nhất, hoạt động kinh doanh của tư sản Việt Nam được mở rộng và
có quy mô lớn hơn. Tuy nhiên giai cấp tư sản Việt Nam yếu về kinh tế bị tư bản
Pháp chèn ép không phát triển được và ra đời gắn liền với cuộc khai thác thuộc địa
của thực dân Pháp nên quyền lợi gắn bó mật thiết với Pháp, phụ thuộc vào Pháp.
Nên thái độ chính trị không vững, dễ dao động đi đến thoả hiệp với Pháp khi đã
được đáp ứng một số nghuyện vọng thậm chí còn quay lưng ca ngợi thực dân Pháp
khai hoá phản lại cách mạng. Chính do đặc điểm của tư sản Việt Nam nên các
phong trào yêu nước do tư sản lãnh đạo đều dẫn đến thất bại. Từ đường lối cách
mạng không đúng bởi nếu chống thực dân Pháp thắng lợi sẽ đưa đất nước phát triển
theo con đường tư bản chủ nghĩa điều này không phù hợp với xu thế phát triển của
thời đại nhất là khi cách mạng tháng mười Nga thành công đã mở ra một thời đại
mới – thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Các nhà lãnh đạo phong trào yêu nước

Việt Nam theo khuynh đến tư sản đã không thấy được xu thế tất yếu khách quan
của thời đại, mà dẫn đến phương pháp cách mạng chưa đúng như Phan Bội Châu
với chủ trương bạo động nhưng lại dựa vào Nhật. Một nước đồng văn, đồng chủng
đểt đánh đuổi thực dân Pháp vậy có khác nào dựa vào kẻ thù để đánh kẻ thù hay
sau này, trong tác phẩm “những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch”,
Trần Dật Tiên đã nhận xét con đường đó chẳng khác gì “ đưa hổ cửa trước, rước
beo cửa sau”. Hay phong trào Duy Tân năm (1906-1908)do Phan Châu Trinh lãnh
đạo ông kịch lịch tố cáo bọn quan lại phong kiến sâu mọn, kết tội tên vua bù nhìn
Khải Định và tố cáo tội ác của thực dân Pháp. Ông chủ trương “ khai dân trí, chấn
dân khí, hậu dân sinh”.
(1). Trần Văn Giầu, sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến cách mạng tháng Tám, Tập II, tr. 52

21


Hạn chế lớn nhất cuả Phan Châu Trinh là đường lối cải lương phản đối bạo
động “bạo động tắc tử” và muốn dựa vào Pháp để chống phong kiến. Dù là cải
lương, ông vẫn bị thực dân Pháp bắt giam, đầy đi Côn Đảo. Con đường cứu nước
của Phan Chu Trinh đã thất bại, đúng như lời nhận xét của Trần Dật Tiên, vì đó là
sai lầm chẳng khác gì “xin giặc rủ lòng thương”.
Trong quá trình hoạt động giai cấp tư sản Việt Nam cũng thành lập được một
số Đảng của mình đại diện cho mỗi xu hướng tư sản như xu hướng theo phong trào
quốc gia cải lươngcó Đảng lập hiến thành lập năm 1923 do Bùi Quang Chiêu sáng
lập, tập hợp tư sản và địa chủ lớp trên. Hay phong trào yêu nước dân chủ công khai
của tiểu tư sản thành thị và tư sản lớp dưới cũng lập ra một số tổ chức cho mình
như nhóm thanh niên yêu nước trường cao đẳng sư phạm Hà Nội với một số người
tiêu biểu là Tôn Quang Phiệt, Đặng Thai Mai…đã thành lập ra tổ chức Việt Nam
Nghĩa Đoàn. Sau đổi thành hội Phục Việt, Hưng Nam, Thanh Niên Cao Vọng, và
phong trào cách mạng quốc gia tư sản với sự ra đời và hoạt động của Việt Nam
quốc dân Đảng được thành lập ngày 25/12/1927, thành phần là tiểu tư sản, tiểu tư

sản địa chủ và hạ sĩ quan Việt Nam trong quân đội Pháp. Tất cả các tổ chức của
giai cấp tư sản đều không có tổ chức, kỷ luật rõ ràng, thành phần của Đảng thì phức
tạp nên khó đồng quan điểm, khó thống nhất do đó dễ bị những tên việt gian phản
cách mạng cài vào nên dễ bị lộ hoạt động, khi khởi nghĩa chưa diễn ra tạo điều kiện
cho thực dân Pháp đàn áp. Và nói như trong tác phẩm “sự phát triển của tư tưởng
ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến cách mạng tháng tám” của Trần Văn Dầu thì “
Đảng của Phan Bội Châu không có tổ chức cộng sản, không có hệ thống, chẳng
qua là một số đồng chí hẹn nhau cùng làm một việc lớn, việc cứu nước, theo một
đường lối nhất định. Một hội, một đảng như thế dễ lập mà cũng dễ tan, điều
chắc chắn là không tạo ra một thực lực bền bỉ, không khơi lên nổi phong trào
lâu dài, không làm nổi nhiệm vụ cách mạng ; Chính Đảng kiểu ấy mà đương với
nhiệm vụ cách mạng đánh đuổi thực dân Pháp và phong kiến thì tựa như lấy
dao bổ cau để mà mổ bò, thất bại là không thể tránh khỏi” 1.
22


Phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng tư sản cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX thất bại là còn bởi vì giai cấp tư sản Việt Nam yếu về kinh tế nên
thai độ chinh trị không vững, không đủ năng lực lãnh đạo, tổ chức và tập hợp quần
chúng nhân dân vào mục đích đánh thực dân Pháp giành lại độc lập cho dân tộc.
Một lí do quan trọng nữa là tư tưởng tiến bộ của chủ nghĩa Mác- Lê Nin
chưa

(1). Trần Văn Giầu, sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến cách mạng tháng Tám, Tập II, tr.
155

được truyền bá vàoViệt Nam do chính sách thống trị của chủ nghĩa thực dân Pháp,
chúng bưng bít ngăn chặn các văn hoá, tư tưởng tiến bộ vào nước ta. Nhiều nhà
sách báo tiến bộ đều bị ngăn cấm như trường Đông Kinh Nghĩa Thục thành lập
năm 1907, lúc đầu thực dân Pháp cho hoạt động nhưng sau khi hoạt động trường

tuyên truyền tư tưởng tiến bộ nhằm nâng cao lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc và
chí tiến thủ cho quần chúng, truyền bá một nền tư tưởng học thuật mới và một nếp
sống văn minh tiến bộ. Ngoài việc dạy học “ Đông Kinh Nghĩa Thục” còn tổ chức
các buổi diễn thuyết, bình văn, cổ động học chữ quốc ngữ…Vì thế trường chỉ tồn
tại và hoạt động được 9 tháng. Thực dân Pháp cho là “ lò phiến loạn” ở Bắc Kỳ
chúng thẳng tay đàn áp, những người sáng lập đều bị bắt. Chính do chính sách
thống trị làm ngu dân để dễ cai trị của thực dân Pháp mà tư tưởng văn hoá tiến bộ ít
được truyền bá vào Việt Nam. Điều này cũng ảnh hưởng rất lớn đến nhận thức của
giai tư sản.
Các cuộc khởi nghĩa, các phong trào đều nổ ra lẻ tẻ, thiếu tổ chức, lãnh đạo
vì thế không kết hợp laị thành một khối chính vì thế lúc đầu do địch bị động nên
các cuộc khởi nghĩa tạm thời thắng lợi nhưng khi địch tập trung lực lượng mạnh
đàn áp thì tất cả các phong trào, các cuộc khởi nghĩa đều thất bại.

23


Nhìn lại các phong trào, các tổ chức trên dù là lấy tên hội này hay đảng kia
nhưng đều chưa có đường lối chính trị rõ ràng và một hình thức tổ chức chặt chẽ.
Tính chất rời rạc trong hoạt động của các tổ chức ấy phản ánh thực chất khả năng
lãnh đạo của giai cấp tư sản vì thế không có một tổ chức nào trong số đó đóng được
vai trò lãnh đạo, có khả năng tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân trong cuộc
đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Tuy nhiên dưới chế độ thực dân phong
kiến, do bị bóc lột về kinh tế, áp bức về chính trị, kìm hãm về văn hoá, giai cấp tư
sản dân tộc có tinh thần dân tộc và dân chủ đã vượt xa giới hạn mà giai cấp tư sản
Việt Nam vốn nhỏ yếu có thể vươn tới. Khi bước vào cuộc đấu tranh cho những
quyền lợi của dân tộc và giai cấp mình, lúc đầu trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản đã
tỏ ra có sức hấp dẫn nhất định đối với họ. Dần dần trải qua thực tiến phong trào yêu
nước và dân chủ trong những năm đầu thập kỷ, đồng thời qua sách báo Mác-Xít và
tài liệu tuyên truyền do Nguyễn Ái Quốc gửi từ nước ngoài về, một bộ phận tiên

tiến nhất trong giai cấp tư sản ngày càng nhận thức rõ hơn và ngày càng hướng về
chân lý cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lê. Sự tan rã của các phong trào, dặc biệt từ
sự thất bại của cuộc bạo động non do Việt Nam Quốc Dân Đảng phát động đã dẫn
tới sự đổ vỡ hoàn toàn. Từ đây ngọn cờ cách mạng chuyển sang giai cấp lãnh đạo
mới là giai cấp vô sản đi theo con đường cách mạng vô sản của chủ nghĩa MácLênin vì cách mạng tư sản là những cuộc cách mạng không đến nơi.

24


Ý NGHĨA CỦA PHONG TRÀO YÊU NƯỚC VIỆT NAM THEO KHUYNH
HƯỚNG PHONG KIẾN VÀ TƯ SẢN CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX.

1.

ý nghĩa đối với quốc tế.
Phong trào yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX góp phần

khích lệ, động viên nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc đứng lên tự giải
phóng mình khỏi sự lệ thuộc, sự áp bức bóc lột của chủ nghĩa thực dân dành lại
độc lập cho dân tộc và hạnh phúc cho chính bản thân. Nhất là đối với các dân tộc
thuộc địa và phụ thuộc vào thực dân Pháp.
Qua phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng phong kiến và tư sản
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX thể hiện sức mạnh của dân tộc thuộc địa và phụ
thuộc, các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc hoàn toàn có khả năng tự giải phóng
mình, và có khả năng dành thắng lợi trước cách mạng vô sản chính quốc như Hồ
Chí Minh đã nói : Cách mạng vô sản ở chính quốc và cách mạng vô sản ở thuộc địa
có vị trí và có mối quan hệ mật thiết với nhau và ngang bằng nhau hay đó là mối
quan hệ biện chứng. Hồ Chí Minh ví mối quan hệ đó bằng hình ảnh hai cánh của
một con chim và Người sớm cho rằng: “Cách mạng thuộc địa không những
không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể dành thắng lợi

trước” 1. Và “trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa
tư bản và chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở
phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”2. Đây cũng là luận điểm sáng
tạo của Hồ Chí Minh đối với quan điểm của LêNin, LêNin cho rằng giữa cách
mạng vô sản ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc quan hệ khăng khít với
nhau nhưng cách mạng thuộc địa phải phụ thuộc vào cách mạng chính quốc tức là
phụ thuộc vào sự thắng lợi của giai cấp vô sản ở chính quốc trong cuộc đấu tranh
để dành lại chính quyền về tay giai cấp vô sản, sau đó sẽ gắn với cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Do đó cách mạng thuộc địa có mối quan hệ khăng khít nhưng sẽ nổ ra
và thắng lợi sau cách mạng chính quốc và Lê Nin cũng cho rằng cách mạng thuộc
25


×