Tải bản đầy đủ (.doc) (188 trang)

SỰ RA đời của ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (873.72 KB, 188 trang )

1
Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Khoa lịch sử Đảng
-----------

đề tài khoa học

Tập bài giảng
Học phần I, Chuyên ngành lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Sự ra đời của Đảng Cộng sản
Việt Nam
(1920-1930)

Cơ quan chủ trì: Khoa lịch sử Đảng
Chủ nhiệm đề tài :

Hà Nội 4-2007


2
Khoa lịch sử Đảng
-------Chủ biên
TS. Phạm Xuân Mỹ

Tập bài giảng
Học phần I, Chuyên ngành lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Sự ra đời
của Đảng Cộng sản Việt Nam
(1920-1930)



Tập thể tác giả
TS. Phạm Xuân Mỹ
TS. Hoàng thị điều
Ths. phùng thị hiển
CN. Vũ Ngọc lơng


3
lời giới thiệu
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bớc ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt
Nam. Đảng ra đời đáp ứng đòi hỏi bức thiết của cách mạng Việt Nam, chấm dứt
thời kỳ khủng hoảng và bế tắc về đờng lối cứu nớc ở Việt Nam những năm cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Đảng ra đời là điều kiện cơ bản, có ý nghĩa quyết định, mở đầu cho những
thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam, dấu mốc đầu tiên xây dựng truyền
thống đoàn kết, xác lập vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam. Nó
chứng tỏ rằng, giai cấp vô sản ta đã trởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng.
Đảng ra đời đa cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận của cách mạng thế
giới. Sự ra đời và trởng thành của Đảng gắn liền với tên tuổi của Nguyễn ái
Quốc, ngời sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta.
Thực hiện chủ trơng của Hội đồng khoa học Học viện Báo chí và Tuyên
truyền về u tiên hớng nghiên cứu khoa học vào việc biên soạn đề cơng bài giảng,
giáo trình; nhằm cung cấp tài liệu học tập cho sinh viên chuyên ngành lịch sử
Đảng, Khoa Lịch sử Đảng Học viện Báo chí và Tuyên truyền tổ chức biên soạn
Tập bài giảng Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (1920-1930).
Tập bài giảng này đợc viết theo chơng trình chi tiết môn Học phần I
Cuộc vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (1920-1930) đã đợc Khoa
lịch sử Đảng và Hội đồng t vấn khoa học thông qua. Tập bài giảng đợc biên soạn
theo tiến trình lịch sử, với 6 đơn vị học trình, dành cho sinh viên chuyên ngành

lịch sử Đảng, từ học kỳ II năm thứ hai trở đi. Điều kiện tiên quyết là sinh viên
phải học xong các học phần: Triết học Mác-Lênin, Kinh tế Chính trị Mác-Lênin,
Chủ nghĩa xã hội khoa học.
Ngoài phần mở đầu, học phần gồm 11 chơng, trang bị một cách có hệ
thống cơ bản về cuộc vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, giúp cho
sinh viên hiểu biết một cách hệ thống và tơng đối toàn diện về hoàn cảnh lịch sử,
quá trình hoạt động tích cực của Nguyễn ái Quốc, quy luật sự ra đời, sứ mệnh
lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam. Qua đó nhận rõ Đảng Cộng sản Việt Nam
là đội tiên phong, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và của cả dân tộc Việt Nam .
Mặc dù tập thể tác giả đã cố gắng trình bày với tnh thần cố gắng nhất định
nhng không tránh khỏi những hạn chế. Chúng tôi rất mong nhận đợc những đóng
góp của bạn đọc để giúp cho Tập bài giảng đợc hoàn thiện hơn.
Tập thể tác giả


4
Môc lôc


5
CHƯƠNG I
Quy luật chung Về Sự RA ĐờI CủA ĐảNG CộNG SảN
Đảng là một tổ chức chính trị, xã hội tự nguyện, liên minh của những ngời
có cùng t tởng, theo đuổi những mục đích chính trị nhất định. Đảng gồm một bộ
phận ích cực nhất và có tổ chức của một giai cấp, làm công cụ đấu tranh cho lợi
ích của giai cấp mình. Đảng sản phẩm lịch sử tự nhiên của cuộc đấu tranh giai
cấp trong xã hội có giai cấp. Cơ sở của Đảng chính trị chính là lợi ích của giai
cấp. Đảng chính trị hoạt động bằng giáo dục thuyết phục, truyền bá các quan
điểm t tởng của mình thông qua Cơng lĩnh, Tuyên ngôn, Nghị quyết, có Điều

lệ nêu rõ nguyên tắc tổ chức sinh hoạt. Đảng có các phơng tiện vật chất nh cơ
quan báo chí, thông tin, xuất bản
I. C Mác- Ph. ăngghen về sự ra đời của Đảng cộng sản
1. Đảng Cộng sản ra đời là kết quả tất yếu của lịch sử
Từ nửa sau thế kỷ XVIII cho đến giữa thế kỷ XIX, sản xuất đại công
nghiệp t bản chủ nghĩa hình thành và phát triển mạnh mẽ ở nhiều nớc châu Âu
và trên thế giới. Giai cấp công nhân hiện đại ra đời và phát triển nhng tình cảnh
của họ rất cùng cực và ngày càng sa sút. Mâu thuẫn lực lợng sản xuất mới đang
lên với quan hệ sản xuất T bản chủ nghĩa, về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai
cấp vô sản và giai cấp t sản ngày càng phát triển gay gắt.
Cuộc cách mạng tháng 3-1871 ở Pháp và sự ra đời Công xã Pari, Nhà nớc
vô sản đầu tiên trên thế giới đã chứng minh giai cấp công nhân là giai cấp tiên
tiến, nhất, cách mạng nhất và có khả năng đổi mới trong việc xây dựng xã hội tốt
đẹp hơn. Tuy nhiên, trong bối cảnh ấy tự bản thân mình, giai cấp công nhân,
không thể sản sinh ra lý luận khoa học.
Nghiên cứu nền kinh tế t bản chủ nghĩa Mác và Ăng ghen đã chỉ ra rằng
sự sụp đổ của giai cấp t sản và thắng lợi của giai cấp công nhân đều là tất yếu
nh nhau. Lực lợng có khả năng thực hiện bớc quá độ, đó là giai cấp công nhân.
"Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng rõ vai trò lịch sử
thế giới của giai cấp vô sản là ngời xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa" 1. Trong
tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, hai ông đã chứng minh những yếu tố
khách quan quy định sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân:
Một là, giai cấp công nhân gắn liền với nền đại công nghiệp, đại diện cho
một phơng thức sản xuất tiên tiến. "Trong tất cả các giai cấp hiện đơng đối lập
1

V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.23, tr.1.


6

với giai cấp t sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả
các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công
nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp"2.
Hai là, giai cấp công nhân là giai cấp không có t liệu sản xuất, phải bán
sức lao động và bị bóc lột nên có tinh thần cách mạng triệt để, "trong cuộc cách
mạng ấy, những ngời vô sản chẳng mất gì hết, ngoài những xiềng xích trói buộc
họ. Họ sẽ giành đợc cả thế giới"3.
Ba là, mục đích của giai cấp công nhân là xóa bỏ chế độ t bản chủ nghĩa
và thiết lập một chế độ xã hội mới. Mục đích đó thống nhất với lợi ích nhân dân
lao động nên giai cấp công nhân đợc sự đồng tình, ủng hộ và trở thành đại biểu
của đại đa số nhân dân lao động. Trong các giai đoạn khác nhau của cuộc đấu
tranh giữa vô sản và t sản, giai cấp công nhân luôn đại biểu cho lợi ích của toàn
bộ phong trào, họ có khả năng liên minh, đoàn kết tất cả những ngời lao động.
Bốn là, giai cấp công nhân gắn liền với nền sản xuất hiện đại, nên nó là
giai cấp có tổ chức và kỷ luật cao, có khả năng lãnh đạo thắng lợi sự nghiệp cách
mạng.
Mác và Ăng ghen chỉ rõ, giai cấp công nhân chỉ có thể hoàn thành nhiệm
vụ và mục đích của mình khi đợc tổ chức thành một chính đảng riêng biệt.
"Trong cuộc đấu tranh của mình chống quyền lực liên hợp của các giai cấp hữu
sản, giai cấp công nhân, chỉ khi đợc tổ chức thành một chính đảng độc lập đối
lập với tất cả các chính đảng cũ do các giai cấp hữu sản lập nên, thì mới có thể
hành động với t cách là một giai cấp 4.
Chính đảng của giai cấp công nhân ra đời là một đòi hỏi tất yếu khách
quan của cuộc đấu tranh giai cấp, cần có lực lợng lãnh đạo giai cấp công nhân
thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử thế giới của mình.
2. Đảng Cộng sản ra đời là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa
xã hội khoa học với phong trào công nhân
Phong trào công nhân tự phát ở mọi nớc, dù phát triển đều không vợt khỏi
tổ chức công đoàn. Đây là tổ chức nghề nghiệp nhằm bênh vực quyền lợi của
giai cấp công nhân.

Chủ nghĩa xã hội khoa học do Mác và Ăng ghen sáng lập và đợc Lênin
làm phong phú là một học thuyết có mục tiêu cao đẹp, giá trị khoa học và phơng
pháp to lớn cả về lý luận và thực tiễn. Nó kế thừa và phát triển đỉnh cao t tởng
C.Mác và Ph.ăng ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, T.4, tr.610
C.Mác và Ph.ăng ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, T.4, tr. 646
4
C.Mác và Ph.ăng ghen: Toàn tập, Sđd, t.18, tr.203.
2
3


7
tiến bộ của loài ngời đã tạo ra đầu thế kỷ XIX, đó là triết học Đức, kinh tế chính
trị học Anh và chủ nghĩa xã hội Pháp.
Chủ nghĩa xã hội khoa học và phong trào công nhân có chung nguồn gốc
kinh tế- xã hội đại công nghiệp t bản chủ nghĩa. Phong trào đấu tranh của giai
cấp công nhân chống giai cấp t sản tất yếu đã bùng nổ. Nổi bật và tiêu biểu nhất
cho phong trào đó là các cuộc khởi nghĩa quy mô lớn của công nhân dệt thành
phố Ly - ông ở Pháp (1831-1834), phong trào Hiến chơng của công nhân Anh
(1838 - 1848), cuộc khởi nghĩa của công nhân dệt thành phố Xi - lê - di ở Đức
(1844)... Các cuộc khởi nghĩa đó hoàn toàn tự phát, bộc lộ nhiều hạn chế và tất
cả đều thất bại. Tuy nhiên nó đánh dấu mốc mở đầu thời kỳ đấu tranh có tính
chất độc lập của giai cấp công nhân và cấp thiết đặt ra những yêu cầu đòi hỏi đợc
giải đáp để dẫn đờng cho cuộc đấu tranh này đi tới thắng lợi triệt để.
Những điều kiện kinh tế - xã hội trong lòng xã hội t bản, sự phát triển lớn
mạnh của phong trào công nhân là mảnh đất hiện thực cho sự hình thành và
phát triển lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học của Mác - Ăngghen.
Chủ nghĩa xã hội khoa học thâm nhập và soi sáng vào phong trào công
nhân, giai cấp công nhân thấy rõ bản chất của chủ nghĩa t bản và sứ mệnh lịch sử
vẻ vang của giai cấp mình. Từ đó, họ mới ý thức đợc cần phải tự tổ chức ra chính

đảng độc lập của mình để lãnh đạo cuộc đấu tranh của giai cấp mình đi đến
thắng lợi. Có học thuyết lý luận soi sáng, có chính đảng lãnh đạo, giai cấp công
nhân mới chuyển thành tự giác, đi tiên phong trong cuộc đấu tranh chống chế độ
áp bức và bóc lột.
Quá trình kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội khoa học và phong trào công
nhân là một quá trình đấu tranh t tởng gay gắt chống chủ nghĩa cơ hội, vô chính
phủ và các biểu hiện lệch lạc của mình. Đảng của giai cấp công nhân, ngay từ
khi ra đời đã mang bản chất cách mạng và khoa học.
3. Về tính chất của đảng cách mạng của giai cấp công nhân
Ban đầu, Mác và Ăngghen coi Đảng Cộng sản là sự thống nhất tất cả
những ngời gắn bó với chủ nghĩa cộng sản. Sau đó, hai ông coi Đảng Cộng sản là
một tổ chức của những ngời ủng hộ chủ nghĩa xã hội khoa học, chống lại những
ngời xã hội chủ nghĩa tiểu t sản và không tởng. Cuối cùng, Đảng Cộng sản trở
thành liên minh chiến đấu của những ngời cùng lý tởng, đợc củng cố bằng sự
thống nhất về tổ chức là Đồng minh những ngời cộng sản do Mác và Ăngghen
sáng lập. Đồng minh những ngời cộng sản tuy không lớn, là tổ chức cộng sản
đầu tiên, mẫu mực của một đảng của giai cấp công nhân.
Từ tổ chức này, Mác và Ăngghen đã hình thành t tởng về Đảng Cộng sản.
"Những ngời cộng sản... luôn đại biểu cho lợi ích của toàn bộ phong trào. Vậy là


8
về mặt thực tiễn, những ngời cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng
công nhân ở tất cả các nớc, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên về
mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ
những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản"5
Bản chất cách mạng và khoa học của Đảng Cộng sản là ở chỗ Đảng là đội
tiên phong có tổ chức và là một tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân, gồm
những ngời u tú nhất, giác ngộ nhất, kiên quyết nhất của giai cấp, những ngời đại
biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân. Đó cũng là tiêu chuẩn cơ

bản của ngời cộng sản để lựa chọn, kết nạp đảng viên của mình.
Mác và Ăngghen cho rằng, Đảng mang bản chất giai cấp công nhân, đứng
trên lập trờng của giai cấp công nhân. Mọi chủ trơng chiến lợc, sách lợc của
Đảng đều phải xuất phát từ lợi ích của giai cấp công nhân. Đảng đại biểu cho
quyền lợi của giai cấp công nhân và đại biểu cho quyền lợi của toàn thể nhân dân
lao động. Giai cấp công nhân chỉ có thể giải phóng đợc mình nếu đồng thời giải
phóng cho các tầng lớp nhân dân lao động trong xã hội thoát khỏi ách áp bức,
bóc lột. Mác và Ăngghen nhấn mạnh, khái niệm ngời cộng sản có nghĩa là ngời
gắn bó với một đảng nhất định. Không có một chính đảng nào có thể tồn tại
không có tổ chức. Đảng là tổ chức cách mạng nhằm mục tiêu lật đổ sự thống trị
của giai cấp t sản và thiết lập chuyên chính vô sản. Điều lệ của Đồng minh
những ngời cộng sản đã ghi rõ: "Mục đích của Đồng minh là đánh đổ giai cấp t
sản, xây dựng nền thống trị của giai cấp vô sản, tiêu diệt xã hội t sản cũ xây
dựng trên mâu thuẫn đối kháng giai cấp và thiết lập một xã hội mới, không có
giai cấp, không có chế độ t hữu.
Mác và Ăngghen cho rằng nền tảng t tởng và cơ sở cho mọi hoạt động của
Đảng Cộng sản là thế giới quan của học thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học.
4. Về cách tổ chức xây dựng Đảng cộng sản
Mác và Ăngghen đã đặt cơ sở cho việc xây dựng Đảng về chính trị, t tởng
và tổ chức. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, hai ông đã nêu rõ mục đích,
nhiệm vụ của Đảng, những cơ sở lý luận chung của chiến lợc và sách lợc đấu
tranh cách mạng.
Chính Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là nội dung xây dựng Đảng về mặt
t tởng. Hai ông đã thẳng thắn bóc trần những quan điểm lý luận sai trái của giai
cấp t sản, phong kiến, tiểu t sản, tôn giáo và những t tởng phản động khác. Hoạt
động thực tiễn của các tổ chức Đồng minh những ngời cộng sản và Quốc tế I
(1863- 1876) đã nói lên nguyên tắc xây dựng là nguyên tắc tập trung dân chủ.
5

C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.614-615.



9
Quốc tế I đã xây nền, đắp móng cho sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế. Sau khi Các Mác mất, đến năm 1889, Ph. Ăngghen thành lập
Quốc tế II. Quốc tế này đã góp phần tuyên truyền sâu rộng chủ nghĩa Mác vào
phong trào công nhân quốc tế, mở đầu thời kỳ phát triển theo bề rộng của phong
trào công nhân ở hầu khắp các nớc trên thế giới.
Mác và Ăngghen đã nêu rõ mọi thành viên của Đồng minh đều tham gia
vào việc bầu cử các cơ quan lãnh đạo, vào việc dự thảo và thông qua cơng lĩnh và
điều lệ, các cơ quan cấp dới phải phục tùng các cơ quan cấp trên, thiểu số phục
tùng đa số. Việc phát huy dân chủ đợc thực hiện trong mối liên hệ chặt chẽ với
việc tôn trọng kỷ luật của Đảng, một kỷ luật bắt buộc đối với tất cả mọi đảng
viên. Việc chấp hành đầy đủ nguyên tắc tập trung dân chủ là điều kiện vô cùng
quan trọng để đảm bảo sức chiến đấu của Đảng, để Đảng thực hiện vai trò lãnh
đạo của mình.
Mác và Ăngghen đã luôn luôn đấu tranh để củng cố sự thống nhất các đội
ngũ của các tổ chức vô sản về t tởng và tổ chức, kiên quyết chống lại bọn cơ hội,
xét lại những quan điểm phản xã hội chủ nghĩa và cơ hội khác chui vào Quốc tế
I; chống lại tất cả những ngời vi phạm kỷ luật của Đảng.
Mác và Ăngghen cho rằng, phong trào vô sản nhất định phải trải qua
những bớc phát triển khác nhau, trong mỗi bớc đều có một số ngời dừng lại, họ
không đi xa hơn đợc nữa. Vì vậy, củng cố hàng ngũ của Đảng, đuổi ra khỏi
Đảng những phần tử thù địch và cơ hội, duy trì kỷ luật của Đảng là quy luật phát
triển của Đảng.
Mác và Ăngghen cho rằng thành phần xã hội của Đảng không phải là điều
quyết định tính chất của một đảng, mà điều quyết định là ở lập trờng t tởng, ở thế
giới quan của giai cấp công nhân. Các đại biểu của các giai cấp khác muốn vào
Đảng, trớc hết phải trút bỏ những tàn tích của giai cấp t sản và tiểu t sản, những
thành kiến khác và phải nắm vững thế giới quan của giai cấp công nhân.

Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, hai ông đã nêu ra khẩu hiệu: "Vô
sản tất cả các nớc, đoàn kết lại".. Giai cấp công nhân phải lấy sự thống nhất
quốc tế của mình chống lại sức mạnh quốc tế của t bản. Nhng "Giai cấp vô sản
mỗi nớc trớc hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vơn lên thành giai cấp dân
tộc, phải tự mình trở thành dân tộc tuy hoàn toàn không phải theo cái nghĩa nh
giai cấp t sản hiểu 6.
Những luận điểm trên của Mác và Ăngghen về một số nguyên tắc xây
dựng Đảng là rất quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Đồng minh những ngời
6

C Mác và Ph.ăng ghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.623-624


10
cộng sản và Quốc tế I đã hoàn thành vai trò lịch sử của nó. Nó đã làm cho phong
trào công nhân ở tất cả các nớc trên thế giới phát triển theo chiều rộng, thành lập
hàng loạt đảng công nhân xã hội chủ nghĩa. "Quốc tế I không thể bị lãng quên đợc, nó sống mãi trong lịch sử đấu tranh của giai cấp công nhân nhằm tự giải
phóng. Nó đã xây nền đắp móng cho lâu đài cộng hoà xã hội chủ nghĩa thế giới
mà ngày nay chúng ta đơng đợc vinh hạnh xây dựng"7 .
II. V. I. Lênin về sự ra đời của Đảng vô sản kiểu mới
Kế tục sự nghiệp của Mác và Ăngghen trong thời kỳ chủ nghĩa đế quốc,
V.I Lênin đã phát triển học thuyết của Mác và Ăngghen một cách toàn diện, làm
phong phú thêm tất cả nội dung của nó. Trong lĩnh vực xây dựng Đảng Cộng
sản, Lênin đã có những cống hiến vô cùng to lớn về mặt lý luận và thực tiễn,
hoàn chỉnh học thuyết xây dựng Đảng của chủ nghĩa Mác.
1. Về sự cần thiết thành lập đảng kiểu mới của giai cấp công nhân
V. I. Lênin chủ trơng thành lập một đảng kiểu mới trong hoàn cảnh cuối
thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa t bản chuyển sang giai đoạn đế quốc
chủ nghĩa, giai đoạn mà cách mạng vô sản đã trở thành trực tiếp. Giai cấp công
nhân cũng đã lớn mạnh về số lợng, về tổ chức và về chính trị. Chủ nghĩa đế quốc

tăng cờng việc tuyên truyền hệ t tởng t sản, chia rẽ phong trào công nhân. Chủ
nghĩa cơ hội đủ Quốc tế II, dới mọi màu sắc đang lũng đoạn phong trào công
nhân. Họ đòi xét lại, từ bỏ những nguyên tắc cách mạng của chủ nghĩa Mác, mu
toan hạn chế phong trào công nhân trong khuôn khổ đấu tranh đòi những cải
cách vụn vặt, hữu khuynh theo đuôi giai cấp t sản...
Trong điều kiện đó, để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác, Lênin đã
vạch trần bản chất xét lại, cơ hội chủ nghĩa của các đảng dân chủ - xã hội ở Tây
Âu và kêu gọi cần thiết phải có một đảng kiểu mới thực sự cách mạng, thực sự
cộng sản, thờng xuyên liên hệ thực sự với quần chúng và biết lãnh đạo quần
chúng, đảng đó phải thay thế cho những đảng kiểu cũ, các đảng nghị viện của
Châu Âu.
V.I Lênin đã đấu tranh không khoan nhợng chống phái dân tuý tiểu t sản,
các trào lu cải lơng, cơ hội chủ nghĩa và nhấn mạnh nếu có tổ chức của những
ngời cộng sản sẽ có khả năng đảo lộn nớc Nga phong kiến. Để thành lập ở nớc
Nga một đảng kiểu mới nh vậy, Lênin đã có quá trình chuẩn bị kỹ về công tác t
tởng- lý luận. Sự thành lập Đảng (B) Nga năm 1903 đã đánh dấu sự kết quả đó và
trở thành hình mẫu mực để xây dựng các đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.

7

V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.38, tr.278.


11
Lênin đã nêu rõ cơ sở t tởng của Đảng Cộng sản là học thuyết Mác, ngọn
cờ đoàn kết những ngời cộng sản, là cơ sở đề ra cơng lĩnh, chiến lợc và sách lợc
của Đảng. Ngời nói, chúng ta phải tự gọi mình là Đảng Cộng sản nh Mác và Ăng
ghen đã từng gọi nh vậy. Những ngời mác xít chúng ta có cơ sở là Tuyên ngôn
cộng sản.
Lênin cho rằng, nhiệm vụ hàng đầu và quan trọng nhất của Đảng Cộng

sản là gắn phong trào công nhân với lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học.
Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng. Chỉ
đảng nào đợc một lý luận tiền phong hớng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai
trò chiến sĩ tiên phong8.
Lênin đã chỉ ra cho các đảng ccộng sản phải không ngừng phát triển, bổ
sung lý luận, vận dụng những nguyên lý chung của chủ nghĩa Mác vào điều kiện
cụ thể của nớc mình, định ra cơng lĩnh, sách lợc cách mạng đúng đắn. Trớc khi
thống nhất và muốn thống nhất, chúng ta, trớc hết, phải phân rõ ranh giới, đấu
tranh kiên quyêt về mặt lý luận và t tởng với bọn cơ hội.
Lênin cho rằng việc thống nhất t tởng cha đủ bảo đảm cho giai cấp công
nhân chiến thắng mà cần thiết phải củng cố sự thống nhất t tởng bằng sự thống
nhất vật chất của tổ chức. Ngời coi sức mạnh của giai cấp công nhân đó là tổ
chức. Không có tổ chức, giai cấp công nhân sẽ không là cái gì hết. Giai cấp công
nhân trở thành và tất nhiên sẽ trở thành lực lợng vô địch là vì một lý do duy nhất
là sự thống nhất t tởng dựa trên nguyên lý của chủ nghĩa Mác và đợc củng cố
bằng sự thống nhất của tổ chức. Không có một tổ chức vững vàng gồm những
ngời lãnh đạo để bảo đảm cho sự liên tục công tác thì không thể có phong trào
cách mạng vững chắc đợc
2. Những nguyên tắc tổ chức Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân
V.I. Lênin đã hoàn chỉnh lý luận xây dựng Đảng đảng kiểu mới của giai
cấp công nhân. Trong tác phẩm Một bớc tiến hai bớc lùi (1904), Lênin đã nêu
những nguyên tắc về tổ chức của một đảng kiểu mới của giai cấp công nhân:
a- Đảng Cộng sản là đội tiên phong chính trị có tổ chức và là đội ngũ có
tổ chức chặt chẽ nhất, giác ngộ nhất của giai cấp công nhân.
Đảng là đội tiên phong chính trị và là đội ngũ có tổ chức chặt chẽ, có giác
ngộ cách mạng nhất của giai cấp, Đảng là ngời đa yếu tố tự giác nhất vào phong
trào công nhân, là ngời định hớng chính trị và là ngời giáo dục, động viên, tổ
chức cho quần chúng hành động cách mạng. Không đợc lẫn lộn Đảng, đội tiên
phong của giai cấp công nhân với toàn bộ giai cấp.
8


V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, T.6, tr.30-32.


12
Đảng tiên phong thể hiện trớc hết trên lĩnh vực lý luận. Chỉ đảng nào đợc
một lý luận tiền phong hớng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò ngời chiến
sĩ tiên phong. T cách ngời đảng viên phải là giác ngộ lý tởng xã hội chủ nghĩa,
có trình độ lý luận, nắm đợc thực tiễn phong trào cách mạng của quần chúng.
Đảng tiên phong thể hiện về mặt tổ chức và sự gơng mẫu của mỗi đảng
viên trong thực tiễn. Đảng đợc tổ chức chặt chẽ để bảo đảm là một đội ngũ thống
nhất ý chí và hành động, có kỷ luật nghiêm minh. Đảng chỉ thu hút vào đội ngũ
của mình những ngời giác ngộ nhất, có ý thức và tổ chức kỷ luật cao nhất trong
giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
b - Đảng là lực lợng lãnh đạo các tổ chức và lãnh đạo xã hội.
Đảng là đội tiên phong giác ngộ có tổ chức chặt chẽ nhất của giai cấp, do
đó, Đảng xứng đáng là ngời lãnh đạo xã hội. " đội tiên phong này đủ sức nắm
chính quyền và dẫn dắt toàn dân tiến lên chủ nghĩa xã hội, đủ sức lãnh đạo và tổ
chức một chế độ mới, đủ sức làm thầy, làm ngời dẫn đờng, làm lãnh tụ của tất cả
những ngời lao động và những ngời bị bóc lột để giúp họ tổ chức đời sống xã hội
của họ, mà không cần đến giai cấp t sản và chống lại giai cấp t sản" 9. "Về
nguyên tắc Đảng Cộng sản phải giữ vai trò lãnh đạo, đó là điều không còn phải
nghi ngờ gì nữa"10.
Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là điều kiện tiên quyết bảo đảm xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội. Đảng lãnh đạo quần chúng bằng đờng lối và các
chính sách của Đảng, thông qua công tác t tởng, chính trị và tổ chức, cùng với sự
gơng mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
c. Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng Đảng cộng sản
Tập trung dân chủ là nguyên tắc bản chất của các đảng kiểu mới của giai
cấp công nhân. Có quán triệt đầy đủ nguyên tắc này và chấp hành kỷ luật

nghiêm minh thì Đảng mới phát triển. Nếu thiếu nó thì Đảng có thể biến thành
một câu lạc bộ cãi vã và sẽ mất hết sức chiến đấu.
Trớc hết, Đảng phải dân chủ. Nếu trong Đảng không dân chủ sẽ có nguy
cơ thoái hoá thành một tổ chức quan liêu. Đảng phải có kỷ luật là để nâng cao ý
thức giác ngộ, tính kiên cờng, lòng trung thành với cách mạng; là để liên hệ, gần
gũi với quần chúng lao động; là để thực hiện chiến lợc và sách lợc chính trị của
Đảng. Chỉ có trải qua một công tác lâu dài, một kinh nghiệm gian khổ, mới tạo
ra đợc dân chủ và kỷ luật nhờ có một lý luận cách mạng đúng đắn, không phải là

9
10

V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.33, tr.33.
V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd. t.31, tr.453.


13
giáo điều và chỉ hình thành đợc nhờ có liên hệ chặt chẽ với thực tiễn của một
phong trào thật sự quần chúng và thật sự cách mạng.
d. Đảng là một khối thông nhất về chính trị, t tởng và tổ chức, tự phê bình
và phê bình là quy luật phát triển của Đảng.
Đoàn kết thống nhất trong Đảng bắt nguồn từ bản chất của giai cấp công
nhân, là quy luật trởng thành của Đảng. Đội ngũ của mình gồm những đại biểu u
tú cùng lý tởng, mục đích và lợi ích của giai cấp công nhân tự nguyện xin gia
nhập Đảng. Muốn đa cách mạng đến thắng lợi, Đảng phải có một sự thống nhất
ý chí hết sức chặt chẽ, tuyệt đối. Đó là nguồn gốc sức mạnh chủ yếu, vô địch và
vô tận của Đảng, là điều kiện để đoàn kết giai cấp. Mục tiêu của công tác xây
dựng và củng cố Đảng là nhằm xây dựng và củng cố là thống nhất đội ngũ Đảng.
Nếu để xảy ra chia rẽ trong Đảng thì "không phải chỉ là nguy hiểm mà còn là
cực kỳ nguy hiểm, nhất là nếu trong nớc đó, giai cấp vô sản lại chỉ là thiểu số

nhỏ bé trong dân c"11
Để bảo đảm sự thống nhất và phát triển, Đảng cần thờng xuyên và nghiêm
chỉnh tự phê bình và phê bình. Thái độ của một chính đảng trớc những sai lầm
của mình là một trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất và chắc chắn nhất để
xem xét đảng ấy có nghiêm túc không và có thực sự làm tròn nghĩa vụ của mình
đối với giai cấp mình và đối với quần chúng lao động không. Công khai thừa
nhận sai lầm, tìm ra nguyên nhân sai lầm, phân tích hoàn cảnh đã đẻ ra sai lầm,
nghiên cứu cẩn thận những biện pháp để sửa chữa sai lầm ấy, đó là dấu hiệu
chứng tỏ một đảng nghiêm túc, đó là đảng làm tròn những nghĩa vụ của mình, đó
là giáo dục và huấn luyện giai cấp, rồi đến quần chúng..."12.
e. Đảng luôn luôn liên hệ chặt chẽ và gắn bó với quần chúng
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Đảng đấu tranh vì sự nghiệp giải
phóng quần chúng khỏi ách áp bức và bóc lột. Quần chúng cần Đảng với t cách
là ngời lãnh đạo họ trong cuộc đấu tranh ấy nên họ đồng tình và ủng hộ. Đảng tổ
chức và phát huy đợc tính sáng tạo cách mạng của quần chúng. Những ngời cộng
sản chỉ nh những giọt nớc trong đại dơng nhân dân mênh mông. Riêng những
ngời cộng sản thì không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Tính sáng tạo sinh động của quần chúng, đó là nhân tố cơ bản của xã hội
mới. Chủ nghĩa xã hội không phải là kết quả của những sắc lệnh từ trên ban
xuống. Tính chất máy móc, hành chính và quan liêu không dung hợp đợc với

11
12

V I Lênin: Toàn tập, Sđd, t.42, tr.336.
V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.41, tr.51


14
tinh thần của chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa xã hội sinh động, sáng tạo là sự nghiệp

của bản thân quần chúng nhân dân.
Sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ mối liên hệ mật thiết với quần chúng, từ
sự đồng tình và ủng hộ của quần chúng đối với Đảng. Thiếu điều kiện đó không
những không thể giành chính quyền và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội,
mà còn có thể dẫn đến mất chính quyền.
g. Đảng phải tích cực kết nạp những đại biểu u tú của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động vào Đảng phải thờng xuyên đa những ngời không đủ tiêu
chuẩn và những phần tử cơ hội ra khỏi Đảng.
Đảng chỉ có thể làm tròn vai trò tiên phong nếu trong Đảng có những
chiến sĩ tiên phong. Kết nạp những đại biểu u tú của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động vào Đảng là biện pháp quan trọng nhằm nâng cao chất lợng, uy tín
và giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng. Do nhiều nguyên nhân, sẽ không tránh
khỏi trong Đảng có một số đảng viên không giữ đợc vai trò chiến sĩ tiên phong:
có ngời thiếu kiên định về chính trị, thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, thoái hoá, biến
chất hoặc cơ hội Lênin nhấn mạnh rằng: "Phải đuổi khỏi Đảng những kẻ gian
giảo, những đảng viên cộng sản đã quan liêu hoá, không trung thực, nhu nhợc...
Để đội ngũ của Đảng luôn luôn trong sạch, chỉ bao gồm những chiến sĩ
tiên phong, đợc quần chúng tin yêu thì Đảng phải thờng xuyên đa những ngời
không đủ tiêu chuẩn và những phần tử cơ hội ra khỏi Đảng. Đó là một biện pháp
đặc biệt quan trọng nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng.
h. Tính quốc tế của Đảng Cộng sản.
Chủ nghĩa quốc tế là bản chất của các Đảng Cộng sản. Bản chất đó bắt
nguồn từ vai trò, sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân. Tính chất
quốc tế của Đảng thể hiện trớc hết ở chỗ Đảng đợc tổ chức và hoạt động theo
những nguyên lý của học thuyết Mác - Lênin về Đảng; ở đờng lối chiến lợc, sách
lợc đối nội và đối ngoại của Đảng; ở chỗ Đảng luôn luôn quan tâm giáo dục đội
ngũ đảng viên và nhân dân lao động về chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công
nhân. Trong thời đại ngày nay, chủ nghĩa yêu nớc chân chính phải gắn liền với
chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Đảng kiên quyết chống mọi khuynh hớng của chủ

nghĩa sôvanh nớc lớn hoặc chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa cơ hội các loại.


15
Chơng II
Giới thiệu một số tác phẩm
của Mác - Ăng ghen và Lênin về Đảng cộng sản
A. giới thiệu Tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản
( C. Mác và Ph. Ăngghen Toàn tập, T4. Nxb Sự thật. HN, 1995)
I. Hoàn cảnh lịch sử ra đời Tác phẩm
Giữa thế kỷ XIX, nền đại công nghiệp t bản chủ nghĩa hình thành và phát
triển mạnh mẽ ở nhiều nớc Âu, Mỹ. Giai cấp công nhân hiện đại ra đời và phát
triển nhng tình cảnh của họ rất cùng cực. Biểu hiện về mặt xã hội của mâu thuẫn
lực lợng sản xuất đang lên với quan hệ sản xuất t bản chủ nghĩa là mâu thuẫn
giữa giai cấp vô sản và giai cấp t sản ngày càng phát triển gay gắt.
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân chống giai cấp t sản tất yếu
đã bùng nổ. Nổi bật và tiêu biểu nhất cho phong trào đó là các cuộc khởi nghĩa
quy mô lớn của công nhân dệt thành phố Lyông ở Pháp (1831-1834), phong trào
Hiến chơng của công nhân Anh (1838- 1848), cuộc khởi nghĩa của công nhân
dệt thành phố Xilêdi ở Đức (1844)... Các cuộc khởi nghĩa đó hoàn toàn tự phát,
bộc lộ nhiều hạn chế lớn và tất cả đều thất bại nhng đã mở đầu thời kỳ đấu tranh
có tính chất độc lập của giai cấp công nhân và cấp thiết đòi hỏi giải đáp về mặt
lý luận để có thể dẫn đờng cho cuộc đấu tranh này đi tới thắng lợi. Những điều
kiện kinh tế - xã hội trong lòng xã hội t bản, sự phát triển của phong trào công
nhân là mảnh đất hiện thực cho sự hình thành và phát triển lý luận của Mác Ăngghen.
Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX ở châu Âu đã xuất hiện những đỉnh
cao t tởng và lý luận của thế giới. Các nhà khoa học ở Đức, Anh, Pháp đã kế thừa
và phát triển những tinh hoa văn hoá nhân loại, hình thành những học thuyết lý
luận tiêu biểu. Triết học cổ điển Đức với các luận thuyết biện chứng vĩ đại của
Hêghen, chủ nghĩa duy vật của Phơbách trở thành đỉnh cao triết học đơng thời.

Các ông đã đa ra lý luận chung về nhìn nhận thế giới tự nhiên, xã hội và t duy
con ngời...
Nớc Anh, đầu tiên trên con đờng công nghiệp hoá t bản chủ nghĩa đã xuất
hiện những đỉnh cao về các học thuyết kinh tế. Các đại biểu u tú nh Ađam Xmít,
Đavít Ricácđô đã vạch ra những quy luật vận động cơ bản của sản xuất hàng hoá
trong xã hội t bản chủ nghĩa ...


16
Trong lòng xã hội t bản, các đại biểu u tú của Pháp là H.C Xanhximông
(1760 -1825), C.Phuri-e (1772-1837), R.ÔOen (1771-1859)... đã chỉ ra sự thối
nát của xã hội t bản và đa ra lý tởng xây dựng xã hội mới tốt đẹp, trên cơ sở xoá
bỏ chế độ t hữu, xây dựng chế độ công hữu về t liệu sản xuất... Học thuyết của
các ông đợc gọi là chủ nghĩa xã hội không tởng.
Sau hàng loạt các phát minh và tiến bộ kỹ thuật, thế kỷ XIX ra đời các học
thuyết khoa học mới. Tiêu biểu là học thuyết về sự tiến hoá các loài của Đácuyn;
định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lợng của Lômôlôxốp; học thuyết về sự
phát triển của tế bào của Svác và Slayđen; các học thuyết về vũ trụ và các thành
tựu khoa học khác về hoá học, cơ học...
C. Mác và Ph. Ăngghen là những con ngời có kiến thức thiên tài trên
nhiều lĩnh vực. Đặc biệt các ông là những ngời hoạt động và hiểu biết sâu sắc
phong trào công nhân và nhân dân lao động. Họ đều có điểm giống nhau là tìm
thấy sức mạnh to lớn của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động.
Hai ông đã nắm vững các thành tựu khoa học, kế thừa và phát triển đỉnh cao
triết học cổ điển Đức, Kinh tế chính trị học Anh, CNXH không tởng Pháp để
hình thành học thuyết lý luận lý luận khoa học.
Trớc khi viết Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Mác và Ăngghen đã viết
nhiều tác phẩm "Lời tựa cuốn phê phán triết học pháp luật của Hêghen", "Bản
thảo kinh tế-triết học1844", Tình cảnh giai cấp công nhân Anh", "Gia đình thần
thánh", Hệ t tởng Đức, Sự khốn cùng của triết học.

Từ 1836, tổ chức Đồng minh những ngời chính nghĩa gồm những ngời vô
sản tiên tiến thuộc nhiều dân tộc ra đời nhng còn chịu ảnh hởng của chủ nghĩa
không tởng. Mác và Ăng ghen tham gia tổ chức này nhng muốn cải cách nó khỏi
những quan niệm cũ. Hè năm 1847, Đại hội I của Đồng minh những ngời chính
nghĩa họp ở Luân Đôn với sự có mặt của Ph.ăng ghen, đã cải tổ tổ chức này
thành Đồng minh những ngời cộng sản. Thay khẩu hiệu "Tất cả mọi ngời đều là
anh em", bằng khẩu hiệu "Vô sản tất cả các nớc đoàn kết lại".
Đại hội thông qua Điều lệ, ra tuyên bố rằng mục đích của Đồng minh là
làm cách mạng lật đổ giai cấp t sản, xác lập quyền thống trị của giai cấp công
nhân, xây dựng một xã hội mới không t hữu, không có giai cấp. Sau Đại hội, Ph.
Ăngghen đã soạn thảo dới hình thức vấn đáp bản Cơng lĩnh của Đồng minh,
thành tác phẩm "Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản".
Đầu tháng 12 năm 1847, Đồng minh những ngời cộng sản họp Đại hội lần
thứ hai, có cả C.Mác và Ph.Ăngghen tham gia. Đại hội thảo luận và thông qua
những nguyên lý do hai ông nêu ra và uỷ thác cho hai ông thảo ra bản Tuyên


17
ngôn chính thức. Tuyên ngôn của Đảng cộng sản đợc soạn thảo xong vào tháng
Giêng và đợc xuất bản vào tháng Hai năm l848.
II- Nội dung chủ yếu của tác phẩm
Tác phẩm trình bày thành bốn chơng. Các lời tựa cho bản tiếng Đức, xuất
bản năm 1872; lời tựa viết cho bản tiếng Nga, xuất bản năm 1882; lời tựa viết
cho bản tiếng Đức, xuất bản năm 1883; lời tựa viết cho bản tiếng Anh, xuất bản
năm 1888 đều là bộ phận hữu cơ, gắn liền với tác phẩm.
Trong lời tựa lần xuất bản bằng tiếng Đức năm 1883, Mác và Ăngghen
viết: T tởng cơ bản và chủ đạo của Tuyên ngôn là trong mọi thời đại lịch sử, cơ
cấu xã hội do sản xuất kinh tế mà ra, cái đó cấu thành cơ sở của lịch sử chính trị
và lịch sử t tởng của thời đại. Toàn bộ lịch sử loài ngời là lịch sử của đấu tranh
giai cấp giữa những giai cấp bị trị và những giai cấp thống trị. Cuộc đấu tranh ấy

hiện nay đã đến giai đoạn mà giai cấp vô sản không còn có thể tự giải phóng
mình nếu không đồng thời giải phóng toàn thể xã hội.
1. Chơng I: T sản và vô sản
Mác và Ăngghen phân tích quá trình phát sinh, phát triển của chủ nghĩa t
bản và kết luận sự sụp đổ của chủ nghĩa t bản và sự thắng lợi của chủ nghĩa cộng
sản đều là tất yếu nh nhau. Giai cấp vô sản có sứ mệnh lịch sử dẫn đầu các giai
cấp và tầng lớp lao động bị bóc lột tiến hành cải tạo xã hội t bản và xây dựng xã
hội xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa. So với các xã hội trớc, xã hội t bản có
đặc điểm nổi bật là đối kháng giai cấp tập trung vào hai giai cấp lớn t sản và vô
sản và đấu tranh giai cấp trở nên vô cùng gay gắt. Nguồn gốc ra đời, quá trình
phát triển, thái độ, xu hớng của các giai cấp quy định nội dung, phơng hớng của
cuộc đấu tranh giai cấp. Giai cấp t sản ra đời là phù hợp với tiến hoá của lịch sử,
là sản phẩm của lịch sử. Những nông nô thời trung đại đã nẩy sinh ra những thị
dân của các thành thị đầu tiên; từ đó nẩy sinh ra những phần tử đầu tiên của giai
cấp t sản. Giai cấp t sản tiến hành cách mạng t sản, xoá bỏ những quan hệ phong
kiến kìm hãm nó và thay bằng những quan hệ t sản. Giai cấp t sản là tiến bộ,
cách mạng, trong quá trình cha đầy một thế kỷ, nó đã tạo ra những lực lợng sản
xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lợng sản xuất của tất cả các thế hệ trớc kia gộp
lại.
Tuy thế, vai trò tiến bộ, cách mạng của giai cấp t sản bị hạn chế vì nó là
giai cấp bóc lột. Tính chất phản động của nó cũng dần dần bộc lộ công khai,
những tệ nạn xã hội do nó gây ra ngày càng phổ biến. Nó giống nh một tay phù
thuỷ không còn đủ sức trị những âm binh mà y đã triệu lên. Những lực lợng sản
xuất mà xã hội sẵn có đã tạo ra những nhân tố phủ định bản thân giai cấp t sản.
Giai cấp t sản trở thành một giai cấp lỗi thời bảo thủ giống nh giai cấp địa chủ


18
phong kiến mà trớc đây nó đã lật đổ. Một giai cấp tiên tiến, cách mạng mới xuất
hiện sẽ thay thế địa vị lịch sử của nó, đó là giai cấp vô sản. Giai cấp vô sản là

con đẻ của chính nền đại công nghiệp và là ngời đại biểu của lực lợng sản xuất
hiện đại.
Địa vị của ngời lao động làm thuê bị áp bức, bóc lột nhất trong xã hội t
bản, tạo nên cho giai cấp vô sản tinh thần triệt để cách mạng. Để thiết lập quyền
thống trị, giai cấp t sản đã từng kêu gọi, lôi cuốn giai cấp vô sản tham gia và
buộc phải cung cấp cho giai cáp vô sản những tri thức của mình. Những tri thức
đó trong tay giai cấp vô sản, giờ đây trở thành vũ khí chống lại chính giai cấp t
sản. Giai cấp t sản không những đã rèn vũ khí để giết nó, nó còn sinh ra những
ngời sử dụng vũ khí ấy đó là giai cấp vô sản. Mâu thuẫn trong xã hội t bản chỉ có
một phơng thức duy nhát để giải quyết là cách mạng xã hội chủ nghĩa, thủ tiêu
chế độ t hữu t bản chủ nghĩa. Nh vậy, sự phát triển của giai cấp vô sản, cuộc đấu
tranh của nó chống lại giai cấp t sản phù hợp với nhu cầu phát triển của lịch sử
và đợc tiến trình lịch sử thúc đẩy.
Giai cấp vô sản bị đẩy xuống đáy tận cùng của các nấc thang xã hội, do
đó, nó trở thành nơi tập trung của mọi nguyện vọng giải phóng khỏi áp bức, bóc
lột. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản trùng hợp khách quan với cuộc đấu tranh
giải phóng xã hội. Giai cấp vô sản nhân danh lợi ích toàn xã hội đứng ra tập hợp
các giai cấp, các tầng lớp bị áp bức, bóc lột, những phần tử tiên tiến trong cuộc
đấu tranh đó.
Cuộc đấu tranh ấy đợc bắt đầu ngay từ khi giai cấp vô sản ra đời, trải qua
nhiều giai đoạn, phát triển từ tự phát đến tự giác, cuối cùng kết thúc bằng cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa trong đó giai cấp vô sản lãnh đạo tất cả những ng ời
lao động dùng bạo lực lật đổ quyền thống trị của giai cấp t sản, giành lấy chính
quyền.
Phong trào vô sản mang những đặc điểm khác hẳn với các phong trào
khác. Nó không phải là phong trào của một số ít ngời nhằm mu lợi ích cho một
số ít ngời mà là phong trào của đông đảo nhân dân, vì lợi ích của đông đảo nhân
dân. Nó không nhằm duy trì, củng cố chế độ t hữu, áp bức, bóc lột và thiết chế
chính trị cũ mà nhằm xoá bỏ chế độ, thiết chế đó.
Mặc dù bất cứ ở nớc nào, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản trớc hết đợc

tổ chức trên địa bàn quốc gia, dân tộc nhằm chiến thắng giai cấp t sản nớc đó,
dân tộc đó, nhng cuộc đấu tranh đó bao giờ cũng mang bản chất quốc tế, là một
bộ phận của cuộc đấu tranh chung của giai cấp vô sản quốc tế chống lại giai cấp
t sản là một thế lực quốc tế.


19
Các tầng lớp trung gian trong xã hội t bản cũng đấu tranh chống giai cấp t
sản nhng chỉ khi bị chủ nghĩa t bản đẩy vào phá sản, họ mới chuyển sang lập trờng vô sản để chống giai cấp t sản, tức là đấu tranh để bảo vệ lợi ích tơng lai của
họ, chứ không phải bảo vệ lợi ích hiện tại của họ. Xu hớng khách quan của các
tầng lớp trung gian là ngả dần về phía giai cấp vô sản. Giai cấp vô sản cần biết
kiên trì chờ đợi, biết cách tác động tích cực vào các tầng lớp trung gian bằng
những biện pháp phù hợp, luôn quan tâm đáp ứng lợi ích trớc mắt và lâu dài của
họ, đa ra những khẩu hiệu phù hợp, nâng dần từ thấp đến cao.
2. Chơng II - Những ngời vô sản và những ngời cộng sản
Trong chơng này, Mác và Ăngghen phân tích mối quan hệ giữa giai cấp
vô sản bà Đảng cộng sản; vạch rõ tính chất, nhiệm vụ trớc mắt, mục đích cuối
cùng của Đảng cộng sản, những phơng hớng và giải pháp để thực hiện những
nhiệm vụ và mục đích ấy.
Hai ông trình bày cơng lĩnh và sách lợc của Đảng cộng sản, đồng thời bác
bỏ những lời vu khống, xuyên tạc của giai cấp t sản đối với những ngời cộng sản.
Về quan hệ giữa giai cấp vô sản và Đảng cộng sản Mác và Ăngghen chỉ ra rằng
đó là những bộ phận không thể tách rời mục đích là lợi ích của giai cấp vô sản và
của Đảng cộng sản là thống nhất. Về cả lý luận và thực tiễn, Đảng cộng sản luôn
luôn đại biểu cho lợi ích của giai cấp vô sản, cũng nh của toàn thể nhân dân lao
động. Hơn nữa, cần hiểu rằng Đảng cộng sản đại biểu cho lợi ích chung của toàn
bộ phong trào cộng sản, của toàn bộ giai cấp vô sản quốc tế không phán biệt
nghề nghiệp, địa phơng, dân tộc. Vậy Đảng cộng sản không những mang tính
giai cấp của giai cấp vô sản mà còn mang tính quốc tế vô sản.
Nhng điều đó không có nghĩa là Đảng cộng sản và giai cấp vô sản chỉ là

một. Sự khác nhau giữa Đảng cộng sản và giai cấp vô sản là ở chỗ "Về mặt thực
tiễn những ngời cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các Đảng công nhân ở
tất cả các nớc, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên, về mặt lý luận,
họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện,
tiến trình là kết quả chung của phong trào vô sản". Trong nhận thức cũng nh
trong thực tiễn, tách Đảng cộng sản ra khỏi giai cấp vô sản và ngợc lại "hoà lẫn"
Đảng cộng sản vào giai cấp vô sản đều là sai lầm, đều có nghĩa là phủ nhận sự
tồn tại của Đảng cộng sản.
Mục đích cuối cùng của những ngời cộng sản là xây dựng thành công chủ
nghĩa cộng sản. Nhng để đi tới mục đích đó phải trải qua hai giai đoạn. Giai
đoạn giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị giành lấy dân chủ. Dới sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản, giai cấp vô sản cùng toàn thể những ngời lao động giành
chính quyền bằng cách dùng bạo lực lật đổ giai cấp t sản. Giai đoạn thứ hai là


20
giai đoạn Đảng cộng sản lãnh đạo giai cấp vô sản và toàn thể những ngời lao
động sử dụng chính quyền mới đợc thiết lập nh một công cụ có hiệu lực nhất để
tiến hành công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Công cuộc đó phải đợc giải quyết từ nền tảng là vấn đề sở hữu. Những ngời cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành một luận điểm duy nhất là xoá
bỏ chế độ t hữu. Họ không chủ trơng xoá bỏ quyền t hữu nói chung mà chỉ tớc
bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của ngời khác, không tớc bỏ
của ai cái quyền chiếm hữu những sản phẩm xã hội. Mục đích của việc xoá bỏ
quyền t hữu t sản là để giải phóng lực lợng sản xuất, để tăng thật nhanh số lợng
những lực lợng sản xuất. Đó là con đờng tất yếu để xây dựng nền tảng của xã hội
cộng sản.
Xoá bỏ t hữu t sản không phải là mục đích cuối cùng, đó chỉ là khâu then
chốt, là thủ đoạn có ý nghĩa quyết định trong tiến trình cải tạo xã hội cũ, xây
dựng xã hội mới. Nói cụ thể hơn xoá bỏ quyền t hữu t sản là bớc đi bắt buộc là
có ý nghĩa quyết định để xoá bỏ cái xã hội trong đó lao động sống chỉ là một thủ

đoạn để tăng thêm lao động đã đợc tích luỹ và xây dựng xã hội, trong đó lao
động tích luỹ chỉ là một thủ đoạn mở rộng, làm phong phú và đẹp thêm đời sống
của những ngời lao động. Xoá bỏ cái xã hội trong đó quá khứ thống trị hiện tại
và xây dựng cái xã hội hiện tại thống trị quá khứ, tức là những ngời lao động làm
chủ t liệu sản xuất và t liệu sinh hoạt do họ làm ra.
Cuộc đấu tranh xoá bỏ áp bức, bóc lột giai cấp, gắn liền với cuộc đấu
tranh xoá bỏ tình trạng nô dịch dân tộc. Vấn đề dân tộc chỉ có thể đ ợc giải quyết
trên lập trờng của giai cấp vô sản, trong từng bớc đi của tiến trình cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Hãy xoá bỏ tình trạng ngời bóc lột ngời thì tình trạng dân tộc này
bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xoá bỏ. Khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp
trong nội bộ dân tộc không còn nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng đồng
thời mất theo. Sau khi giành đợc chính quyền giai cấp vô sản phải tự vơn lên
thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc, phải biến lợi ích của mình
thành lợi ích dân tộc, làm cho lợi ích của dân tộc trở thành lợi ích của chính
mình. Khi đó, giai cấp vô sản sẽ sống trong lòng dân tộc và xác lập vai trò lãnh
đạo đối với dân tộc, lấy đợc sức mạnh của dân tộc để chiến thắng kẻ thù nớc
mình, góp phần chiến thắng kẻ thù trên thế giới.
Xã hội cộng sản chủ nghĩa đợc Mác và Ăngghen phác hoạ nếu giai cấp vô
sản thông qua con đờng cách mạng mà trở thành giai cấp thống trị và với t cách
là giai cấp thống trị, nó dùng bạo lực tiêu diệt những quan hệ sản xuất cũ, đồng
thời với việc tiêu diệt những quan hệ sản xuất ấy, tiêu diệt luôn cả những điều


21
kiện tồn tại của sự đối kháng giai cấp, tiêu diệt các giai cấp nói chung và tiêu
diệt cả sự thống trị của chính nó với t cách là một giai cấp.
Thay cho xã hội t sản cũ sẽ xuất hiện một liên hiệp, trong đó sự phát triển
tự do của mỗi ngời là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi ngời. Xã
hội cộng sản tơng lai mà loài ngời nhất định sẽ đi tới sẽ không còn giai cấp và
đấu tranh giai cấp, do đó, nhà nớc với cái nghĩa là một bộ máy thống trị giai cấp

cũng sẽ không còn nữa. Một hình thức liên hiệp của những ngời lao động sẽ xuất
hiện, trong đó con ngời có điều kiện để phát triển toàn diện, lợi ích cá nhân và
lợi ích toàn xã hội sẽ đợc kết hợp hài hoà.
3. Chơng III- Văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa
Trong chơng này Mác và Ăngghen phê phán các trào lu t tởng phản động
và bảo thủ, nhằm làm rõ sự khác biệt căn bản và khẳng định quan điểm của
những ngời cộng sản.
Tính chất phản động của các trào lu t tởng chủ nghĩa xã hội phong kiến,
tiểu t sản là ở chỗ nó lên án giai cấp t sản đã để cho giai cấp vô sản phát triển,
muốn duy trì chế độ sản xuất và chế độ sở hữu nhỏ và phủ nhận đấu tranh giai
cấp vì lợi ích của giai cấp vô sản, phản đối cuộc vận động cho tự do, bình đẳng t
sản đang chín muồi ở Đức.
Khi đó Mác và Ăngghen cha coi chủ nghĩa xã hội t sản là trào lu t tởng
phản động mà coi nó nh một thứ văn học xã hội chủ nghĩa bảo thủ về lịch sử,
muốn duy trì, bào chữa cho chế độ t bản chứ không nhằm kéo lùi lịch sử trở lại
nh các trào lu t tởng phong kiến, tiểu t sản.
Mác và Ăngghen đã nêu lên khi đấu tranh giai cấp càng trở nên gay gắt thì
cuộc đấu tranh t tởng chống trào lu t tởng phản động, bảo thủ càng cần thiết.
Những quan điểm lý luận của những ngời cộng sản tuyệt nhiên không dựa trên
những ý niệm, những nguyên lý do một nhà cải cách thế giới nào phát minh hay
phát hiện ra. Nó chỉ là biểu hiện khái quát của những quan hệ thực tại của cuộc
đấu tranh giai cấp hiện có.
4. Chơng IV- Thái độ của những ngời cộng sản đối với các đảng đối lập
Trong chơng này Mác và Ăngghen chỉ rõ t tởng cách mạng triệt để và
không ngừng, sách lợc liên minh của những ngời cộng sản đối với các đảng đối
lập. Những ngời cộng sản chiến đấu cho những mục đích và những lợi ích trớc
mắt của giai cấp công nhân, nhng đồng thời trong phong trào hiện tại, họ cũng
bảo vệ và đại biểu cho tơng lai của phong trào. Mục đích và những lợi ích trớc
mắt của giai cấp công nhân chính là đánh đổ chế độ phong kiến và thực hiện
quyền tự do, dân chủ chính trị. Còn tơng lai của phong trào chính là cuộc cách

mạng vô sản. T tởng về hai giai đoạn của cách mạng không ngừng đợc Mác và


22
Ăngghen thể hiện trong đoạn nói về nớc Đức đang ở vào đêm trớc của một cuộc
cách mạng t sản.
Trong từng giai đoạn cách mạng, đảng vô sản cần xác định rõ nhiệm vụ
chính và lực lợng chủ yếu, những đảng phái khác cần liên hiệp, phấn đấu cho sự
đoàn kết và sự liên hợp của các đảng dân chủ ở tất cả các nớc. Nhng trong khi
đoàn kết và liên hợp với các đảng dân chủ, những ngời cộng sản vẫn dành cho
mình cái quyền phê phán những lời nói suông và những ảo tởng của các đảng
phái ấy; vẫn luôn giữ vững tính độc lập về chính trị, t tởng và tổ chức, giữ vững
mục tiêu chiến lợc của mình. Họ không một phút nào quên giáo dục cho công
nhân một ý thức hết sức sáng rõ về sự đối kháng kịch liệt giữa giai cấp t sản và
giai cấp vô sản, để khi có thời cơ thì công nhân biết sử dụng những điều kiện
chính trị và xã hội do giai cấp t sản tạo ra nh là vũ khí chống lại giai cấp t sản.
III. ý nghĩa của tuyên ngôn của Đảng cộng sản
Sự xuất hiện tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản (2-1848) là sự kiện
vĩ đại trong lịch sử nhân loại. Từ đây, t tởng xã hội chủ nghĩa từ không tởng bắt
đầu chuyển thành khoa học. Phong trào vô sản bớc vào giai đoạn tự giác vì có lý
luận tiên tiến dẫn đờng. V. Lênin nói Cuốn sách mỏng ấy có giá trị bằng hàng
bộ sách, tinh thần của nó đến bây giờ vẫn cổ vũ và thúc đẩy toàn thể giai cấp vô
sản có tổ chức và đang chiến đấu trong thế giới văn minh"13
Gần 160 năm qua, những nguyên lý của Tuyên ngôn của đảng cộng sản
vẫn còn giá trị và đòi hỏi vận dụng sáng tạo. Giai cấp t sản đã từng đóng vai trò
là giai cấp tiến bộ, cách mạng, giờ đây, sự thống trị của họ không còn thích hợp.
Chủ nghĩa t bản có những thành tựu đáng kể trong sự phát triển kinh tế - xã hội,
giải quyết đợc ở mức độ nhất định vấn đề việc làm, thu nhập cho ngời lao động,
nhng bản chất bóc lột, mâu thuẫn nội tại của nó căn bản không hề mất đi.
Năm 1885 tổng số công nhân thế giới là 10 triệu; năm 2000 tổng số công

nhân thế giới đã lên tới 800 triệu. Dân số thế giới qua một thế kỷ tăng khoảng 3
lần, tổng số công nhân tăng 80 lần. Cơ cấu giai cấp công nhân cũng có sự biến
đổi. Công nhân các ngành nghề mới, hiện đại, sự lành nghề, có trình độ học vấn,
khoa học kỹ thuật tăng nhanh Giai cấp công nhân hiện nay có sở hữu tài sản
nhất định, mức sống, trí tuệ cao hơn. Trong các nớc xã hội chủ nghĩa họ là giai
cấp nắm quyền, là chủ nớc nhà. Trong các nớc t bản chủ nghĩa, công nhân có cổ
phần, đợc tham gia quản lý. Về tiêu chí nghề nghiệp công nhân luôn là ngời lao
động không có t liệu sản xuất chủ yếu. Họ vẫn là ngời làm thuê, bán sức lao
động. Tỷ số bị bóc lột giá trị thặng d và lao động vẫn ngày càng tăng. Đại đa số
công nhân (9/10) trong các nớc t bản vẫn là đối lập của t hữu t bản xã hội chủ
13

Lênin, Toàn tập. NXB Tiến bộ, Mátxcơva. 1981, tập 2. tr. 10.


23
nghĩa và tiếp tục bị bần cùng hoá tơng đối và tuyệt đối.Giai cấp công nhân vẫn là
chủ thể chân chính, đại diện cho lực lợng sản xuất tiên tiến nhất nhất.
Chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài học thành công và thất bại
cũng nh từ khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và khả năng
tạo ra bớc phát triển mới. Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài ngời nhất định
sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.
Tuyên ngôn đòi hỏi vận dụng sáng tạo những nguyên lý để giải quyết
những vấn đề nẩy sinh từ hiện thực, đấu tranh chống khuynh hớng sai lầm. Đi
lên chủ nghĩa xã hội là sự phát triển quá độ bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa, tức là
bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thợng tầng t
bản chủ nghĩa, nhng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt đợc dới chế độ t bản chủ nghĩa, để phát triển nhanh lực lợng sản xuất.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến
đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn phức tạp,
có sự đan xen và đấu tranh quyết liệt giữa cái mới và cái cũ, giữa cái chủ nghĩa

xã hội và cái không phải chủ nghĩa xã hội, phải sử dụng một số hình thức trung
gian, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đờng,
nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong thời kỳ quá
độ, mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu
tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài.
Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, khắc phục tình trạng nớc
nghèo, kém phát triển; thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu
tranh ngăn chặn và khắc phục những t tởng và hành động tiêu cực, sai trái; đấu
tranh làm thất bại mọi âm mu và hành động chống phá của các thế lực thù địch;
bảo vệ độc lập dân tộc xây dựng nớc ta thành một nớc xã hội chủ nghĩa phồn
vinh, nhân dân hạnh phúc.
Động lực chủ yếu để phát triển đất nớc là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở
liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài
hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và toàn xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn
lực của các thành phần kinh tế của toàn xã hội, coi trọng phát huy nguồn lực tinh
thần, nhất là lòng yêu nớc, ý chí tự lực tự cờng và trí sáng tạo của nhân dân ta để
phát triển đất nớc.
B. giới thiệu tác phẩm Làm gì của V.I. Lê-nin
(Lênin, Toàn tập. NXB Tiến bộ, Mátxcơva. 1975, tập 6)


24

I. Hoàn cảnh lịch sử ra đời Tác phẩm
Từ thế kỷ XVIII đến khi nổ ra Công xã Pari ở Pháp (1871) là thời kỳ xác
lập và phát triển tơng đối hoà bình của chủ nghĩa t bản. Cuối thế kỷ XIX, đầu thế
kỷ XX, các nớc t bản ở Tây Âu, Mỹ và Nhật bản chuyển dần sang giai đoạn đế
quốc chủ nghĩa.
Từ khi Tuyên ngôn Đảng cộng sản ra đời (2-1848) đến Công xã Pari

(1871) là thời kỳ chủ nghĩa Mác truyền bá sâu rộng vào phong trào công nhân
các nớc và chuẩn bị cho việc thành lập các đảng vô sản. Sau khi Quốc tế thứ nhất
(1864-1876) giải tán, Ph. Ăngghen đã đứng ra thành lập Quốc tế II (1889).
Phong trào công nhân phát triển theo bề rộng, các Đảng công nhân, xã hội dân
chủ ở Đức, Pháp, Anh ... lần lợt ra đời và thừa nhận chủ nghĩa Mác Lê-nin là vũ
khí t tởng và nền tảng lý luận của mình. Nhng Quốc tế II, sau khi Ph. Ăngghen
mất (1895) ngày càng sa vào chủ nghĩa cơ hội, từ bỏ đấu tranh chính trị và
chuyên chính vô sản ( điển hình là lãnh tụ Bestanh, Cauxky...).
Cuối thế kỷ XIX, trung tâm cách mạng thế giới đã chuyển dần sang nớc
Nga, nơi chứa đựng tất cả các mâu thuẫn cơ bản của thời đại và lực lợng để giải
quyết mâu thuẫn ấy. Đến những năm 60 của thế kỷ XIX chủ nghĩa t bản ở nớc
Nga mới bắt đầu phát triển, chậm hơn các nớc khác ở Tây Âu. Dới chế độ Nga
Hoàng, nông nghiệp rất lạc hậu, những tàn tích phong kiến còn rất nặng nề. Nga
hoàng thủ tiêu tất cả mọi quyền tự do chính trị và dân chủ của mọi ngời dân.
Giai cấp công nhân Nga phát triển rất nhanh đuổi kịp và vợt Anh, Mỹ.
Trong 25 năm (1865 - 1890) số công nhân Nga ở các nhà máy và đờng xe lửa
tăng từ 7 vạn đến 1 triệu 50 vạn ngời. Các cuộc đấu tranh tự phát phá máy, phá
cửa kính, bãi công đang lan rộng. Các tổ chức đầu tiên của giai cấp công nhân
Nga đã xuất hiện. Năm 1875 tại Ô-đéc-xa Hội liên hiệp công nhân miền Nam
Nga và năm 1878 tại Pê-téc-bua Hội liên hiệp công nhân Nga Miền Bắc đợc
thành lập nhng bị Nga Hoàng tập trung đàn áp nên sớm bị tan vỡ. Dù vậy phong
trào bãi công của công nhân vẫn tiếp tục tăng nhanh. Trong 5 năm 1881-1886
đã có 48 cuộc bãi công thu hút 8 vạn công nhân tham gia. Cùng thời gian này
những sách báo mác xít từ nớc ngoài đã đợc bí mật đa vào Nga.
Các tổ chức mác xít Nga đầu tiên đã đợc thành lập. Nhóm Mác xít Nga
đầu tiên ra đời năm 1883 là nhóm Giải phóng lao động do Pơlêkhanốp tổ chức ở
Giơnevơ, Thuỵ sĩ. Họ xuất bản báo chí tuyên truyền chủ nghĩa Mác vào trong nớc Nga, nhng đang thiếu một phong trào vận động quần chúng rộng lớn. Khi đó
ở Nga phái Dân tuý, xuất hiện trớc các tổ chức Mácxít cũng đấu tranh chống
Nga Hoàng nhng có quan điểm và phơng pháp khác, đối lập chủ nghĩa Mác. Phái



25
Dân tuý cho rằng nông dân là lực lợng có thể lật đổ Nga hoàng. Họ chủ trơng
ám sát cá nhân; phủ nhận vai trò của quần chúng và cho rằng tính tích cực chủ
yếu là do những vĩ nhân, anh hùng. Sự nguy hiểm của phái Dân tuý là làm lạc hớng đấu tranh chống giai cấp bóc lột, xoá bỏ sự thống trị của nó mà chỉ chú
trọng khủng bố cá nhân. Họ làm mờ nhạt và phủ nhận vai trò lãnh đạo cách
mạng của giai cấp công nhân do đó kìm hãm sự thành lập chính Đảng độc lập
của nó. Muốn đa chủ nghĩa Mác vào Nga phải chống phái Dân tuý.
Nhóm Giải phóng lao động đã có công đấu tranh chống sai lầm của phái
Dân tuý nhng họ cũng mắc những sai lầm. Trong dự án cơng lĩnh đầu tiên của
nhóm cũng tán thành phơng pháp khủng bố cá nhân, nhng lại phủ nhận vai trò
của nông dân, liên minh công nông và đề cao vào vai trò giai cấp t sản tự do.
Trong thực tiễn, nhóm GPLĐ cha có liên hệ với phong trào công nhân. Trong
hoàn cảnh ấy, tính tự phát trong phong trào công nhân càng tăng, yêu cầu đa chủ
nghĩa Mác vào phong trào công nhân đã đến độ chín muồi.
Năm 1895, khi Lênin đễn Pêtécbua, Ngời hợp nhất các tổ chức mác xít ở
đây thành lập Hội liên hiệp chiến đấu giải phóng giai cấp công nhân Pêtécbua.
Cuối năm 1895, Lê-nin và một số lãnh tụ khác bị bắt. Trong Hội có những ngời
phê phán Lênin là "phái già" và tự xng là phái trẻ". Họ coi rằng đấu tranh chính
trị là của giai cấp t sản tự do. Giai cấp công nhân chỉ nên đấu tranh kinh tế, đòi
cải thiện đời sống. Ngời ta gọi đây là Phái kinh tế, phái cơ hội thoả hiệp đầu
tiên trong hàng ngũ các tổ chức mác xít ở Nga.
Phái Kinh tế phủ nhận sự cần thiết phải có chính Đảng độc lập của giai
cấp công nhân, muốn biến công nhân phụ thuộc chính trị vào giai cấp t sản. Phái
này có hai cơ quan ngôn luận riêng là tờ báo T tởng công nhân ở Nga và tờ Sự
nghiệp công nhân ở nớc ngoài. Hai tờ báo này đều tuyên truyền cơ hội chủ nghĩa
cho rằng đấu tranh chính trị của giai cấp vô sản phụ thuộc vào đấu tranh kinh tế.
Họ sùng bái tính tự phát của phong trào công nhân và phủ nhận sự cần thiết phải
có một chính Đảng độc lập, tập trung thống nhất của giai cấp công nhân. Trong
khi đó, Nga Hoàng đang đàn áp dã man, bắt tù và đầy ải các lãnh tụ của phong

trào. Nội bộ các tổ chức mác xít ở Nga đang có sự không thống nhất về t tởng và
tổ chức.
Đại hội lần thứ nhất Đảng công nhân dân chủ xã hội Nga họp vào 3/1898
tại Minxcơ. Đại hội tuyên bố thành lập Đảng nhng trên thực tế Đảng cha thực sự
hình thành. Đảng cha ra đợc Cơng lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng, Ban chấp hành
Trung ơng vừa đợc bầu ra đã bị Nga Hoàng bắt hầu hết và không có ngời thay
thế. Do ảnh hởng nặng nề của Phái Kinh tế, sự dao động về t tởng và tổ chức


×