1
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA LỊCH SỬ ĐẢNG
-----------
TẬP BÀI GIẢNG
Học phần I, Chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
SỰ RA ĐỜI
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
(1920-1930)
Cơ quan chủ trì: Khoa lịch sử Đảng
Chủ nhiệm đề tài :
Hà Nội 4-2007
2
KHOA LỊCH SỬ ĐẢNG
-------CHỦ BIÊN
TS. PHẠM XUÂN MỸ
TẬP BÀI GIẢNG
Học phần I, Chuyên ngành lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
SỰ RA ĐỜI
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
(1920-1930)
TẬP THỂ TÁC GIẢ
TS. PHẠM XUÂN MỸ
TS. HOÀNG THỊ ĐIỀU
THS. PHÙNG THỊ HIỂN
CN. VŨ NGỌC LƯƠNG
LỜI GIỚI THIỆU
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa MácLênin và phong trào công nhân, phong trào yêu nước Việt Nam. Đảng ra đời là
3
bước ngoặt vĩ đại, đáp ứng đòi hỏi bức thiết của cách mạng Việt Nam, chấm dứt
thời kỳ khủng hoảng và bế tắc về đường lối cứu nước ở Việt Nam những năm cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Đảng ra đời là điều kiện cơ bản, có ý nghĩa quyết định,
mở đầu cho những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam; là dấu mốc đầu tiên
xây dựng truyền thống đoàn kết của giai cấp công nhân Việt Nam và chứng tỏ rằng
giai cấp này đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng. Đảng ra đời đã đưa
cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận của cách mạng thế giới. Sự ra đời và
trưởng thành của Đảng gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc- người sáng lập,
lãnh đạo và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thực hiện chủ trương của Hội đồng khoa học của Học viện, hướng ưu tiên
nghiên cứu khoa học vào việc biên soạn giáo trình cung cấp tài liệu học tập cho
sinh viên, chúng tối biên soạn Tập bài giảng Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam (1920-1930).
Cuốn sách này được viết dưới dạng tập bài giảng theo chương trình Học
phần I- Cuộc vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (1920-1930) của Khoa
lịch sử Đảng, có sự đổi mới theo sự tư vấn cúa các nhà khoa học Học viện. Tập bài
giảng được biên soạn trên cơ sở lý luận Mác- Lênin và theo tiến trình lịch sử, với
lượng kiến thức 6 đơn vị học trình, dành cho sinh viên chuyên ngành lịch sử Đảng,
từ học kỳ II năm thứ hai trở đi, sau khi sinh viên học xong học phần Mác- Lênin:
Triết học, Kinh tế Chính trị, Chủ nghĩa xã hội khoa học.
Ngoài phần mở đầu, cuốn sách này có 11 chương, trang bị một cách có hệ
thống cơ bản về cuộc vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, giúp cho sinh
viên hiểu biết một cách hệ thống và tương đối toàn diện về hoàn cảnh lịch sử, quá
trình hoạt động tích cực của Nguyễn Ái Quốc; quy luật sự ra đời và sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân Việt Nam. Qua đó nhận rõ Đảng Cộng sản Việt Nam là đội
tiên phong, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động
và của cả dân tộc Việt Nam.
Để khuyến khích sinh viên đọc trực tiếp vào tác phẩm kinh điển và Văn kiện
Đảng, một số câu trích hoặc tư liệu… chúng tôi chỉ nêu tư tưởng chủ yếu mà không
trích nguyên văn và chú dẫn nguồn.
Mặc dù tập thể tác giả đã có cố gắng nhất định nhưng không tránh khỏi
những hạn chế. Chúng tôi rất mong nhận được những đóng góp của bạn đọc để
giúp cho Tập bài giảng được hoàn thiện hơn.
TẬP THỂ TÁC GIẢ
4
MỤC LỤC
5
CHƯƠNG I
QUY LUẬT CHUNG VỀ SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
Đảng là một tổ chức chính trị, xã hội tự nguyện, liên minh của những người
có cùng tư tưởng, theo đuổi những mục đích chính trị nhất định. Đảng gồm một bộ
phận ích cực nhất và có tổ chức của một giai cấp, làm công cụ đấu tranh cho lợi ích
của giai cấp mình. Đảng sản phẩm lịch sử tự nhiên của cuộc đấu tranh giai cấp
trong xã hội có giai cấp. Cơ sở của Đảng chính trị chính là lợi ích của giai cấp.
Đảng chính trị hoạt động bằng giáo dục thuyết phục, truyền bá các quan điểm tư
tưởng của mình thông qua Cương lĩnh, Tuyên ngôn, Nghị quyết…, có Điều lệ nêu
rõ nguyên tắc tổ chức sinh hoạt. Đảng có các phương tiện vật chất như cơ quan báo
chí, thông tin, xuất bản…
I. C MÁC- PH. ĂNGGHEN VỀ SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
1. Đảng Cộng sản ra đời là kết quả tất yếu của lịch sử
Từ nửa sau thế kỷ XVIII cho đến giữa thế kỷ XIX, sản xuất đại công nghiệp
tư bản chủ nghĩa hình thành và phát triển mạnh mẽ ở nhiều nước châu Âu và trên
thế giới. Giai cấp công nhân hiện đại ra đời và phát triển nhưng tình cảnh của họ rất
cùng cực và ngày càng sa sút. Mâu thuẫn lực lượng sản xuất mới đang lên với quan
hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và
giai cấp tư sản ngày càng phát triển gay gắt.
Cuộc cách mạng Pháp tháng 3-1871 và sự ra đời Công xã Pari- nhà nước vô
sản đầu tiên trên thế giới chứng minh giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến, nhất,
cách mạng nhất có khả năng đổi mới và xây dựng xã hội tốt đẹp xã hội tư bản. Tuy
nhiên, khi đó tự giai cấp công nhân chưa đủ khả năng sinh ra lý luận khoa học.
Nghiên cứu nền kinh tế tư bản chủ nghĩa Mác và Ăng ghen chỉ ra rằng sự
sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp công nhân đều là tất yếu như
nhau. Lực lượng có khả năng thực hiện bước quá độ là giai cấp công nhân. "Điểm
chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng rõ vai trò lịch sử thế giới
của giai cấp vô sản là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa" 1.
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản chỉ rõ những yếu tố khách quan quy định sứ
mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân:
Một là, giai cấp công nhân gắn liền với nền đại công nghiệp, đại diện cho
một phương thức sản xuất tiên tiến. "Trong tất cả các giai cấp hiện đương đối lập
với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả
1
V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.23, tr.1.
6
các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công
nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp" 2.
Hai là, giai cấp công nhân là giai cấp không có tư liệu sản xuất, phải bán sức
lao động và bị bóc lột nên có tinh thần cách mạng triệt để, "trong cuộc cách mạng
ấy, những người vô sản chẳng mất gì hết, ngoài những xiềng xích trói buộc họ. Họ
sẽ giành được cả thế giới" 3.
Ba là, mục đích của giai cấp công nhân là xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa và
thiết lập một chế độ xã hội mới. Mục đích đó thống nhất với lợi ích nhân dân lao
động nên giai cấp công nhân được sự đồng tình, ủng hộ và trở thành đại biểu của
đại đa số nhân dân lao động. Trong các giai đoạn khác nhau của cuộc đấu tranh
giữa vô sản và tư sản, giai cấp công nhân luôn đại biểu cho lợi ích của toàn bộ
phong trào, họ có khả năng liên minh, đoàn kết tất cả những người lao động.
Bốn là, giai cấp công nhân gắn liền với nền sản xuất hiện đại, là giai cấp có
tính cách mạng, họ có tổ chức chặt chẽ, có tính kỷ luật cao. "Trong cuộc đấu tranh
của mình chống quyền lực liên hợp của các giai cấp hữu sản, giai cấp công nhân,
chỉ khi được tổ chức thành một chính đảng độc lập đối lập với tất cả các chính đảng
cũ do các giai cấp hữu sản lập nên, thì mới có thể hành động với tư cách là một giai
cấp” 4.
Chính đảng của giai cấp công nhân ra đời là một đòi hỏi tất yếu khách quan
của cuộc đấu tranh giai cấp, cần có lực lượng lãnh đạo giai cấp công nhân thực hiện
thắng lợi sứ mệnh lịch sử thế giới của mình.
2. Đảng Cộng sản ra đời là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa xã
hội khoa học với phong trào công nhân
Phong trào công nhân tự phát ở mọi nước, phát triển cao nhất là đến tổ chức
công đoàn- tổ chức nghề nghiệp nhằm bênh vực quyền lợi của giai cấp công nhân.
Còn chủ nghĩa xã hội khoa học do Mác và Ăngghen sáng lập và được Lênin làm
phong phú là một học thuyết có chung nguồn gốc kinh tế- xã hội đại công nghiệp tư
bản chủ nghĩa nhưng kế thừa và phát triển đỉnh cao tư tưởng tiến bộ của loài người
là triết học Đức, kinh tế chính trị học Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp.
Các cuộc khởi nghĩa tự phát quy mô lớn của công nhân dệt thành phố Ly ông
(Pháp, 1831-1834), phong trào Hiến chương của công nhân Anh (1838 - 1848),
cuộc khởi nghĩa của công nhân dệt thành phố Xi - lê - di ở Đức (1844)... đánh dấu
mốc mở đầu thời kỳ đấu tranh có tính chất độc lập của giai cấp công nhân. Thất bại
2
3
4
C.Mác và Ph.ăng ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, T.4, tr.610
C.Mác và Ph.ăng ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, T.4, tr. 646
C.Mác và Ph.ăng ghen: Toàn tập, Sđd, t.18, tr.203.
7
của các cuộc đấu tranh ấy cấp thiết đặt ra những yêu cầu giải đáp về mặt lý luận.
Chính những điều kiện kinh tế - xã hội tư bản và sự phát triển của phong trào công
nhân là “mảnh đất hiện thực” cho sự hình thành lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học.
Được lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học soi sáng, giai cấp công nhân thấy rõ
bản chất của chủ nghĩa tư bản và sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình. Họ ý thức
được việc cần phải tự tổ chức ra chính đảng độc lập của mình để lãnh đạo cuộc đấu
tranh đi đến thắng lợi. Có học thuyết lý luận soi sáng, có chính đảng lãnh đạo, giai
cấp công nhân từ đó mới chuyển thành tự giác, đi tiên phong trong cuộc đấu tranh
chống chế độ áp bức và bóc lột tư bản.
Sự kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội khoa học và phong trào công nhân là một
quá trình đấu tranh tư tưởng gay gắt chống chủ nghĩa cơ hội, vô chính phủ và các
biểu hiện lệch lạc của mình. Vì vậy, ngay từ khi ra đời, Đảng của giai cấp công
nhân, đã mang bản chất cách mạng và khoa học.
3. Về tính chất của đảng cách mạng của giai cấp công nhân
Mác và Ăngghen coi Đảng Cộng sản là sự thống nhất tất cả những người gắn
bó với chủ nghĩa cộng sản. Đảng là một tổ chức của những người ủng hộ chủ nghĩa
xã hội khoa học, chống lại những người xã hội chủ nghĩa tiểu tư sản và không
tưởng. Đảng trở thành liên minh chiến đấu của những người cùng lý tưởng, được
củng cố bằng sự thống nhất về tổ chức. Đó là Đồng minh những người cộng sản do
Mác và Ăngghen sáng lập từ năm 1847. Tổ chức này tuy không lớn nhưng là tổ
chức cộng sản đầu tiên của một đảng của giai cấp công nhân.
Từ tổ chức này, Mác và Ăngghen đã hình thành tư tưởng "Những người
cộng sản... luôn đại biểu cho lợi ích của toàn bộ phong trào. Vậy là về mặt thực
tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở
tất cả các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên về mặt lý luận, họ
hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến
trình và kết quả chung của phong trào vô sản"5
Bản chất cách mạng và khoa học của Đảng Cộng sản là ở chỗ Đảng là đội
tiên phong có tổ chức và là một tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân, gồm
những người ưu tú nhất, giác ngộ nhất, kiên quyết nhất của giai cấp, những người
đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân.
Mác và Ăngghen cho rằng, Đảng mang bản chất và đứng trên lập trường của
giai cấp công nhân. Mọi chủ trương chiến lược, sách lược của Đảng đều xuất phát
từ lợi ích của giai cấp công nhân. Đảng đại biểu cho quyền lợi của giai cấp công
nhân và của toàn thể nhân dân lao động. Giai cấp công nhân chỉ có thể giải phóng
được mình nếu đồng thời giải phóng cho các tầng lớp nhân dân lao động trong toàn
5
C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.614-615.
8
xã hội thoát khỏi ách áp bức, bóc lột. Hai ông nhấn mạnh, người cộng sản là người
gắn bó với một tổ chức đảng nhất định, có mục tiêu lật đổ sự thống trị của giai cấp
tư sản và thiết lập chuyên chính vô sản. Điều lệ của Đồng minh những người cộng
sản đã ghi rõ: "Mục đích của Đồng minh là đánh đổ giai cấp tư sản, xây dựng nền
thống trị của giai cấp vô sản, tiêu diệt xã hội tư sản cũ xây dựng trên mâu thuẫn đối
kháng giai cấp và thiết lập một xã hội mới, không có giai cấp, không có chế độ tư
hữu”.
4. Về cách tổ chức xây dựng Đảng cộng sản
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Mác và Ăngghen đã nêu rõ mục
đích, nhiệm vụ của Đảng, những cơ sở lý luận chung của xây dựng Đảng về chính
trị, tư tưởng. Xây dựng Đảng về mặt tư tưởng là theo lý luận chủ nghĩa xã hội khoa
học và đấu tranh chống quan điểm sai trái của giai cấp tư sản, phong kiến, tiểu tư
sản, tôn giáo và những tư tưởng phản động khác.
Xây dựng Đảng về tổ chức là theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Hoạt động
thực tiễn của các tổ chức Đồng minh những người cộng sản và Quốc tế I (18631876) đã nói lên điều đó. "Quốc tế I không thể bị lãng quên được, nó sống mãi
trong lịch sử đấu tranh của giai cấp công nhân nhằm tự giải phóng. Nó đã xây nền
đắp móng cho lâu đài cộng hoà xã hội chủ nghĩa thế giới mà ngày nay chúng ta
đương được vinh hạnh xây dựng" 6 . Sau khi Các Mác mất, năm 1889, Ph. Ăngghen
thành lập Quốc tế II, mở đầu thời kỳ tuyên truyền sâu rộng chủ nghĩa Mác, làm cho
phong trào công nhân quốc tế phát triển khắp các nước trên thế giới.
Mác và Ăngghen đã nêu rõ mọi thành viên của Đồng minh đều tham gia vào
việc bầu cử các cơ quan lãnh đạo, dự thảo và thông qua cương lĩnh và điều lệ. Các
cơ quan cấp dưới phải phục tùng các cơ quan cấp trên, thiểu số phục tùng đa số.
Việc phát huy dân chủ được thực hiện trong mối liên hệ chặt chẽ với việc tôn trọng
kỷ luật của Đảng, một kỷ luật bắt buộc đối với tất cả mọi đảng viên. Việc chấp
hành đầy đủ nguyên tắc tập trung dân chủ là điều kiện vô cùng quan trọng để đảm
bảo Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo của mình.
Để củng cố sự thống nhất các đội ngũ của các tổ chức vô sản, Mác và
Ăngghen đã luôn kiên quyết chống lại bọn cơ hội, xét lại và những bọn phản xã hội
chủ nghĩa và cơ hội khác. Hai ông cho rằng, phong trào vô sản nhất định phải trải
qua những bước phát triển khác nhau, trong mỗi bước sẽ có một số người dừng lại.
Vì vậy, củng cố hàng ngũ của Đảng, đuổi ra khỏi Đảng những phần tử thù địch và
cơ hội, duy trì kỷ luật của Đảng là quy luật phát triển của Đảng.
Mác và Ăngghen cho rằng thành phần xã hội của Đảng không phải là điều
quyết định tính chất của một đảng. Điều quyết định là ở lập trường tư tưởng, ở thế
6
V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.38, tr.278.
9
giới quan của giai cấp công nhân. Các đại biểu của các giai cấp khác muốn vào
Đảng, trước hết phải trút bỏ những thành kiến của giai cấp mình và phải mang thế
giới quan của giai cấp công nhân.
Về mối quan hệ vấn đề giai cấp và dân tộc, Mác và Ăngghen khẳng định
"Giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên
thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc tuy hoàn toàn không phải
theo cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu” 7. Giai cấp công nhân phải lấy sự thống
nhất quốc tế của mình chống lại sức mạnh quốc tế của tư bản. Với lẽ đó, Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản kêu gọi "Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại".
II. V. I. LÊNIN VỀ SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG VÔ SẢN KIỂU MỚI
Kế tục sự nghiệp của Mác và Ăngghen trong thời kỳ chủ nghĩa đế quốc, V.I
Lênin đã phát triển học thuyết của Mác và Ăngghen một cách toàn diện, làm phong
phú thêm tất cả nội dung của nó. Trong lĩnh vực xây dựng Đảng Cộng sản, Lênin
đã có những cống hiến vô cùng to lớn về mặt lý luận và thực tiễn, hoàn chỉnh học
thuyết xây dựng Đảng của chủ nghĩa Mác.
1. Về sự cần thiết thành lập đảng kiểu mới của giai cấp công nhân
Trong hoàn cảnh cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, khi chủ nghĩa tư bản
chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản đâng đặt ra trực tiếp,
Mặc dù chủ nghĩa đế quốc tăng cường tuyên truyền hệ tư tưởng tư sản và chia rẽ
phong trào công nhân; chủ nghĩa cơ hội Quốc tế II đang lũng đoạn, từ bỏ những
nguyên tắc cách mạng của chủ nghĩa Mác, mưu toan đưa phong trào công nhân vào
những cải cách vụn vặt nhưng giai cấp công nhân quốc tế cũng đã lớn mạnh về số
lượng, về tổ chức và chính trị.
Trong điều kiện đó, để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác, V.I Lênin
đã vạch trần bản chất cơ hội chủ nghĩa của các đảng dân chủ - xã hội ở Tây Âu và
kêu gọi cần thiết phải có một đảng kiểu mới thay thế cho những đảng kiểu cũ, đảng
nghị viện của Châu Âu. Đảng đó phải thực sự cách mạng, thường xuyên liên hệ và
biết cách lãnh đạo quần chúng.
Lênin đã nêu rõ cơ sở tư tưởng, đề ra cương lĩnh, chiến lược và sách lược
của Đảng Cộng sản là học thuyết Mác mà cốt lõi là Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản. Đây là ngọn cờ đoàn kết những người cộng sản. Người nói, chúng ta phải tự
gọi mình là Đảng Cộng sản như Mác và Ăng ghen đã từng gọi như vậy.
Lênin cho rằng, nhiệm vụ hàng đầu, quan trọng nhất của đảng cộng sản là
gắn phong trào công nhân với lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học. Không có lý luận
cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng. “Chỉ đảng nào được một
7
C Mác và Ph.Ăng ghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.623-624
10
lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên
phong”8. Bởi vậy, các đảng cộng sản phải không ngừng phát triển lý luận, vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác vào điều kiện cụ thể của nước mình, định ra cương lĩnh,
sách lược cách mạng đúng đắn. Muốn vậy, trước khi thống nhất và muốn thống
nhất, chúng ta phải phân rõ ranh giới, đấu tranh kiên quyêt về mặt lý luận và tư
tưởng với bọn cơ hội.
Lênin cho rằng việc thống nhất tư tưởng chưa đủ bảo đảm cho giai cấp công
nhân chiến thắng mà cần thiết phải củng cố sự thống nhất tư tưởng bằng sự thống
nhất tổ chức. Người đấu tranh không khoan nhượng chống phái dân tuý tiểu tư sản,
các trào lưu cải lương chủ nghĩa ở Nga và nhấn mạnh: Nếu có tổ chức của những
người cộng sản sẽ, Người sẽ làm đảo lộn cả nước Nga phong kiến. Để có tổ chức
đảng kiểu mới như vậy, Lênin đã có quá trình chuẩn bị kỹ về công tác tư tưởng- lý
luận. Đảng xã hội dân chủ Nga, do Người sáng lập đã ra đời năm 1903, chính là
đảng kiểu mới của giai cấp công nhân Nga.
Người coi sức mạnh của giai cấp công nhân đó là tổ chức. Không có tổ
chức, giai cấp công nhân sẽ không là cái gì hết. Giai cấp công nhân trở thành và tất
nhiên sẽ trở thành lực lượng vô địch là vì một lý do duy nhất là sự thống nhất tư
tưởng dựa trên nguyên lý của chủ nghĩa Mác và được củng cố bằng sự thống nhất
của tổ chức. Không có một tổ chức vững vàng gồm những người lãnh đạo để bảo
đảm cho sự liên tục công tác thì không thể có phong trào cách mạng vững chắc
được
2. Những nguyên tắc tổ chức Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân
V.I. Lênin đã hoàn chỉnh lý luận xây dựng Đảng đảng kiểu mới của giai cấp
công nhân. Trong tác phẩm Một bước tiến hai bước lùi (1904), Lênin đã nêu những
nguyên tắc về tổ chức của một đảng kiểu mới của giai cấp công nhân:
a- Đảng Cộng sản là đội tiên phong chính trị có tổ chức và là đội ngũ có tổ
chức chặt chẽ nhất, giác ngộ nhất của giai cấp công nhân.
Đảng là đội tiên phong chính trị và là đội ngũ có tổ chức chặt chẽ, có giác
ngộ cách mạng nhất của giai cấp, Đảng là người đưa yếu tố tự giác nhất vào phong
trào công nhân, là người định hướng chính trị và là người giáo dục, động viên, tổ
chức cho quần chúng hành động cách mạng. Không được lẫn lộn Đảng, đội tiên
phong của giai cấp công nhân với toàn bộ giai cấp.
Đảng tiên phong thể hiện trước hết trên lĩnh vực lý luận. Chỉ đảng nào được
một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò người chiến
sĩ tiên phong. Tư cách người đảng viên phải là giác ngộ lý tưởng xã hội chủ nghĩa,
có trình độ lý luận, nắm được thực tiễn phong trào cách mạng của quần chúng.
8
V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, T.6, tr.30-32.
11
Đảng tiên phong thể hiện về mặt tổ chức và sự gương mẫu của mỗi đảng
viên trong thực tiễn. Đảng được tổ chức chặt chẽ để bảo đảm là một đội ngũ thống
nhất ý chí và hành động, có kỷ luật nghiêm minh. Đảng chỉ thu hút vào đội ngũ của
mình những người giác ngộ nhất, có ý thức và tổ chức kỷ luật cao nhất trong giai
cấp công nhân và nhân dân lao động.
b - Đảng là lực lượng lãnh đạo các tổ chức và lãnh đạo xã hội
Đảng là đội tiên phong giác ngộ có tổ chức chặt chẽ nhất của giai cấp, do đó,
Đảng xứng đáng là người lãnh đạo xã hội. "đội tiên phong này đủ sức nắm chính
quyền và dẫn dắt toàn dân tiến lên chủ nghĩa xã hội, đủ sức lãnh đạo và tổ chức
một chế độ mới, đủ sức làm thầy, làm người dẫn đường, làm lãnh tụ của tất cả
những người lao động và những người bị bóc lột để giúp họ tổ chức đời sống xã hội
của họ, mà không cần đến giai cấp tư sản và chống lại giai cấp tư sản" 9. "Về
nguyên tắc Đảng Cộng sản phải giữ vai trò lãnh đạo, đó là điều không còn phải
nghi ngờ gì nữa"10.
c. Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng Đảng cộng sản
Tập trung dân chủ là nguyên tắc bản chất của các đảng kiểu mới của giai cấp
công nhân. Có quán triệt đầy đủ nguyên tắc này và chấp hành kỷ luật nghiêm minh
thì Đảng mới phát triển. Nếu thiếu nó thì Đảng có thể biến thành một câu lạc bộ cãi
vã và sẽ mất hết sức chiến đấu.
Trước hết, Đảng phải dân chủ. Nếu trong Đảng không dân chủ sẽ có nguy cơ
thoái hoá thành một tổ chức quan liêu. Đảng phải có kỷ luật là để nâng cao ý thức
giác ngộ, tính kiên cường, lòng trung thành với cách mạng; là để liên hệ, gần gũi
với quần chúng lao động; là để thực hiện chiến lược và sách lược chính trị của
Đảng. Chỉ có trải qua một công tác lâu dài, một kinh nghiệm gian khổ, mới tạo ra
được dân chủ và kỷ luật nhờ có một lý luận cách mạng đúng đắn, nhờ có liên hệ
chặt chẽ với thực tiễn phong trào cách mạng của quần chúng.
d. Đảng là một khối thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức, tự phê bình
và phê bình là quy luật phát triển của Đảng.
Đoàn kết thống nhất trong Đảng bắt nguồn từ bản chất của giai cấp công
nhân, là quy luật trưởng thành của Đảng. Đội ngũ của Đảng gồm những đại biểu ưu
tú cùng lý tưởng, mục đích và lợi ích của giai cấp công nhân tự nguyện xin gia
nhập Đảng. Muốn đưa cách mạng đến thắng lợi, Đảng phải có một sự thống nhất ý
chí hết sức chặt chẽ. Đó là nguồn gốc sức mạnh chủ yếu, vô địch và vô tận của
Đảng, là điều kiện để đoàn kết giai cấp và xã hội. Nếu để xảy ra chia rẽ trong Đảng
9
10
V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.33, tr.33.
V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd. t.31, tr.453.
12
thì "không phải chỉ là nguy hiểm mà còn là cực kỳ nguy hiểm, nhất là nếu trong
nước đó, giai cấp vô sản lại chỉ là thiểu số nhỏ bé trong dân cư"11
Để bảo đảm sự thống nhất và phát triển, Đảng cần thường xuyên và nghiêm
chỉnh tự phê bình và phê bình. “Thái độ của một chính đảng trước những sai lầm
của mình là một trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất và chắc chắn nhất để xem
xét đảng ấy có nghiêm túc không và có thực sự làm tròn nghĩa vụ của mình đối với
giai cấp mình và đối với quần chúng lao động không. Công khai thừa nhận sai lầm,
tìm ra nguyên nhân sai lầm, phân tích hoàn cảnh đã đẻ ra sai lầm, nghiên cứu cẩn
thận những biện pháp để sửa chữa sai lầm ấy, đó là dấu hiệu chứng tỏ một đảng
nghiêm túc, đó là đảng làm tròn những nghĩa vụ của mình, đó là giáo dục và huấn
luyện giai cấp, rồi đến quần chúng..."12.
e. Đảng luôn luôn liên hệ chặt chẽ và gắn bó với quần chúng
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Đảng đấu tranh vì sự nghiệp giải
phóng quần chúng khỏi ách áp bức và bóc lột. Quần chúng cần Đảng với tư cách là
người lãnh đạo họ trong cuộc đấu tranh ấy nên họ đồng tình và ủng hộ. Đảng tổ
chức và phát huy được tính sáng tạo cách mạng của quần chúng. Những người
cộng sản chỉ như những giọt nước trong đại dương nhân dân mênh mông. Riêng
những người cộng sản thì không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Tính sáng tạo sinh động của quần chúng, đó là nhân tố cơ bản của xã hội
mới. Chủ nghĩa xã hội không phải là kết quả của những sắc lệnh từ trên ban xuống.
Tính chất máy móc, hành chính và quan liêu không dung hợp được với tinh thần
của chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa xã hội sinh động, sáng tạo là sự nghiệp của bản
thân quần chúng nhân dân. Sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ mối liên hệ mật thiết
với quần chúng, từ sự đồng tình và ủng hộ của quần chúng đối với Đảng. Thiếu
điều kiện đó không những không thể giành chính quyền và xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội, mà còn có thể dẫn đến mất chính quyền.
g. Đảng phải tích cực kết nạp những đại biểu ưu tú của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động vào Đảng phải thường xuyên đưa những người không đủ tiêu
chuẩn và những phần tử cơ hội ra khỏi Đảng
Đảng chỉ có thể làm tròn vai trò tiên phong nếu trong Đảng có những chiến
sĩ tiên phong. Kết nạp những đại biểu ưu tú của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động vào Đảng là biện pháp quan trọng nhằm nâng cao chất lượng, uy tín và giữ
vững vai trò lãnh đạo của Đảng.
11
12
V I Lênin: Toàn tập, Sđd, t.42, tr.336.
V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.41, tr.51
13
Do nhiều nguyên nhân, sẽ không tránh khỏi trong Đảng có một số đảng viên
không giữ được vai trò chiến sĩ tiên phong: có người thiếu kiên định về chính trị,
thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, thoái hoá, biến chất hoặc cơ hội. Lênin nhấn mạnh
rằng: "Phải đuổi khỏi Đảng những kẻ gian giảo, những đảng viên cộng sản đã quan
liêu hoá, không trung thực, nhu nhược...”
Để đội ngũ của Đảng luôn luôn trong sạch, chỉ bao gồm những chiến sĩ tiên
phong, được quần chúng tin yêu thì Đảng phải thường xuyên đưa những người
không đủ tiêu chuẩn và những phần tử cơ hội ra khỏi Đảng. Đó là một biện pháp
đặc biệt quan trọng nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
h. Tính quốc tế của Đảng Cộng sản.
Chủ nghĩa quốc tế là bản chất của các Đảng Cộng sản. Bản chất đó bắt
nguồn từ vai trò, sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân. Tính chất
quốc tế của Đảng thể hiện trước hết ở chỗ Đảng được tổ chức và hoạt động theo
những nguyên lý của học thuyết Mác - Lênin về Đảng; ở đường lối chiến lược, sách
lược đối nội và đối ngoại của Đảng; ở chỗ Đảng luôn luôn quan tâm giáo dục đội
ngũ đảng viên và nhân dân lao động về chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
Đảng kiên quyết chống mọi khuynh hướng của chủ nghĩa sôvanh nước lớn hoặc
chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa cơ hội các loại.
14
CHƯƠNG II
GIỚI THIỆU MỘT SỐ TÁC PHẨM
CỦA MÁC - ĂNG GHEN VÀ LÊNIN VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN
A. GIỚI THIỆU TÁC PHẨM “TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN”
( C. Mác và Ph. Ăngghen Toàn tập, T4. Nxb Sự thật. HN, 1995)
I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ RA ĐỜI TÁC PHẨM
Giữa thế kỷ XIX, nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa hình thành và phát
triển mạnh mẽ ở nhiều nước Âu, Mỹ. Giai cấp công nhân hiện đại ra đời và phát
triển nhưng tình cảnh của họ rất cùng cực. Biểu hiện về mặt xã hội của mâu thuẫn
lực lượng sản xuất đang lên với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa là mâu thuẫn
giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ngày càng phát triển gay gắt.
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản tất yếu đã
bùng nổ. Nổi bật và tiêu biểu nhất cho phong trào đó là các cuộc khởi nghĩa quy
mô lớn của công nhân dệt thành phố Lyông ở Pháp (1831-1834), phong trào Hiến
chương của công nhân Anh (1838- 1848), cuộc khởi nghĩa của công nhân dệt thành
phố Xilêdi ở Đức (1844)... Các cuộc khởi nghĩa đó hoàn toàn tự phát, bộc lộ nhiều
hạn chế lớn và tất cả đều thất bại. Những điều kiện kinh tế - xã hội trong lòng xã
hội tư bản, sự phát triển của phong trào công nhân là “mảnh đất hiện thực” cho sự
hình thành lý luận của Mác - Ăngghen.
Đầu thế kỷ XIX ở châu Âu đã xuất hiện những đỉnh cao tư tưởng và lý luận
của thế giới. Các nhà khoa học ở Đức, Anh, Pháp… đã kế thừa và phát triển những
tinh hoa văn hoá nhân loại, hình thành những học thuyết. Tiêu biểu là triết học cổ
điển Đức với các thuyết biện chứng của Hêghen, chủ nghĩa duy vật của Phơbách;
các học thuyết kinh tế Anh với các đại biểu ưu tú như Ađam Xmít, Đavít Ricácđô;
tư tưởng chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp như H.C Xanhximông (1760 -1825),
C.Phuri-e (1772-1837), R.ÔOen (1771-1859)...
Thế kỷ XIX ra đời hàng loạt các học thuyết khoa học mới. Tiêu biểu là học
thuyết về sự tiến hoá các loài của Đácuyn; định luật bảo toàn và chuyển hoá năng
lượng của Lômôlôxốp; học thuyết về sự phát triển của tế bào của Svác và Slayđen;
các học thuyết về vũ trụ và các thành tựu khoa học khác về hoá học, cơ học...
C. Mác và Ph. Ăngghen là những con người có kiến thức thiên tài trên nhiều
lĩnh vực. Đặc biệt các ông là những người hoạt động và hiểu biết sâu sắc phong
trào công nhân và nhân dân lao động. Họ đều có điểm giống nhau là tìm thấy sức
mạnh to lớn của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động. Nắm bắt các
15
thành tựu khoa học, kế thừa và phát triển đỉnh cao tư tưởng lý luận, hai ông đã viết
nhiều tác phẩm "Lời tựa cuốn phê phán triết học pháp luật của Hêghen", "Bản thảo
kinh tế-triết học1844",” Tình cảnh giai cấp công nhân Anh", "Gia đình thần thánh",
“Hệ tư tưởng Đức”, “Sự khốn cùng của triết học”…
Từ 1836, tổ chức Đồng minh những người chính nghĩa gồm những người vô
sản tiên tiến thuộc nhiều dân tộc ra đời nhưng còn chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa
không tưởng. Hè năm 1847, Đại hội I của Đồng minh họp ở Luân Đôn.
Ph.Ăngghen đã cải tổ tổ chức này thành Đồng minh những người cộng sản. Thay
khẩu hiệu "Tất cả mọi người đều là anh em", bằng khẩu hiệu "Vô sản tất cả các
nước đoàn kết lại". Đại hội thông qua Điều lệ, ra tuyên bố rằng mục đích của Đồng
minh là làm cách mạng lật đổ giai cấp tư sản, xác lập quyền thống trị của giai cấp
công nhân, xây dựng một xã hội mới không tư hữu, không có giai cấp. Sau Đại hội,
Ph.Ăngghen đã soạn thảo dưới hình thức vấn đáp bản Cương lĩnh của Đồng minh,
thành tác phẩm "Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản".
Đầu tháng 12 năm 1847, Đồng minh những người cộng sản họp Đại hội hai,
có sự tham gia của C.Mác và Ph.Ăngghen. Đại hội thảo luận và thông qua những
nguyên lý do hai ông nêu ra và uỷ thác cho hai ông thảo ra bản Tuyên ngôn chính
thức. Tuyên ngôn của Đảng cộng sản được soạn thảo xong vào tháng Giêng và
được xuất bản vào tháng Hai năm l848.
II- NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA TÁC PHẨM
Tác phẩm chính gồm bốn chương. Các lời tựa cho bản tiếng Đức, xuất bản
năm 1872; lời tựa viết cho bản tiếng Nga, xuất bản năm 1882; lời tựa viết cho bản
tiếng Đức, xuất bản năm 1883; lời tựa viết cho bản tiếng Anh, xuất bản năm 1888
đều là bộ phận hữu cơ của tác phẩm.
Trong lời tựa lần xuất bản bằng tiếng Đức năm 1883, Mác và Ăngghen nói
rõ tư tưởng cơ bản và chủ đạo của Tuyên ngôn là: Trong mọi thời đại lịch sử, cơ
cấu xã hội do sản xuất kinh tế mà ra cấu thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử
tư tưởng của thời đại. Toàn bộ lịch sử loài người là lịch sử của đấu tranh giai cấp
giữa những giai cấp bị trị và những giai cấp thống trị. Cuộc đấu tranh ấy nay đã đến
giai đoạn mà giai cấp vô sản không còn có thể tự giải phóng mình nếu không đồng
thời giải phóng toàn thể xã hội.
1. Chương I: Tư sản và vô sản
Mác và Ăngghen phân tích quá trình phát sinh, phát triển của chủ nghĩa tư
bản và kết luận sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản và sự thắng lợi của chủ nghĩa cộng
sản đều là tất yếu như nhau. Giai cấp vô sản có sứ mệnh lịch sử dẫn đầu các giai
cấp và tầng lớp lao động bị bóc lột tiến hành cải tạo xã hội tư bản và xây dựng xã
hội xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa. So với các xã hội trước, xã hội tư bản có
16
đặc điểm nổi bật là đối kháng giai cấp tập trung vào hai giai cấp lớn tư sản và vô
sản và đấu tranh giai cấp trở nên vô cùng gay gắt. Nguồn gốc ra đời, quá trình phát
triển, thái độ, xu hướng của các giai cấp quy định nội dung, phương hướng của
cuộc đấu tranh giai cấp. Giai cấp tư sản ra đời là sản phẩm và phù hợp với tiến hoá
của lịch sử. Những nông nô thời trung đại đã sinh ra những thị dân của các thành
thị đầu tiên; từ đó sinh ra những phần tử đầu tiên của giai cấp tư sản. Giai cấp tư
sản tiến hành cách mạng tư sản, xoá bỏ những quan hệ phong kiến kìm hãm nó và
thay bằng những quan hệ tư sản. Giai cấp tư sản là giai cấp tiến bộ và cách mạng.
Trong quá trình chưa đầy một thế kỷ, nó đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều
hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại.
Tuy thế, vai trò tiến bộ, cách mạng của giai cấp tư sản bị hạn chế vì nó là
giai cấp bóc lột. Tính chất phản động của nó cũng dần dần bộc lộ công khai, những
tệ nạn xã hội do nó gây ra ngày càng phổ biến. Nó giống như một tay phù thuỷ
không còn đủ sức trị những âm binh mà y đã triệu lên. Những lực lượng sản xuất
mà xã hội sẵn có đã tạo ra những nhân tố phủ định bản thân giai cấp tư sản. Giai
cấp tư sản trở thành một giai cấp lỗi thời bảo thủ giống như giai cấp địa chủ phong
kiến mà trước đây nó đã lật đổ. Một giai cấp tiên tiến, cách mạng mới xuất hiện là
giai cấp vô sản tất yếu sẽ thay thế địa vị lịch sử của nó. Giai cấp vô sản là con đẻ
của chính nền đại công nghiệp- người đại biểu của lực lượng sản xuất hiện đại.
Địa vị của người lao động làm thuê bị áp bức, bóc lột nhất trong xã hội tư
bản, tạo nên cho giai cấp vô sản tinh thần triệt để cách mạng. Để thiết lập quyền
thống trị, giai cấp tư sản đã từng kêu gọi, lôi cuốn giai cấp vô sản tham gia và buộc
phải cung cấp cho giai cáp vô sản những tri thức của mình. Những tri thức đó trong
tay giai cấp vô sản, giờ đây trở thành vũ khí chống lại chính giai cấp tư sản. Giai
cấp tư sản không những đã rèn vũ khí để giết nó, nó còn sinh ra những người sử
dụng vũ khí ấy đó là giai cấp vô sản. Mâu thuẫn trong xã hội tư bản chỉ có một
phương thức duy nhát để giải quyết là cách mạng xã hội chủ nghĩa, thủ tiêu chế độ
tư hữu tư bản chủ nghĩa. Như vậy, sự phát triển của giai cấp vô sản, cuộc đấu tranh
của nó chống lại giai cấp tư sản phù hợp với nhu cầu phát triển của lịch sử và được
tiến trình lịch sử thúc đẩy.
Giai cấp vô sản bị đẩy xuống đáy tận cùng của các nấc thang xã hội, do đó,
nó trở thành nơi tập trung của mọi nguyện vọng giải phóng khỏi áp bức, bóc lột.
Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản phù hợp khách quan với cuộc đấu tranh giải
phóng xã hội. Giai cấp vô sản nhân danh lợi ích toàn xã hội đứng ra tập hợp các
giai cấp, các tầng lớp bị áp bức, bóc lột, những phần tử tiên tiến trong cuộc đấu
tranh đó.
17
Cuộc đấu tranh ấy được bắt đầu ngay từ khi giai cấp vô sản ra đời, trải qua
nhiều giai đoạn, phát triển từ tự phát đến tự giác, cuối cùng kết thúc bằng cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa trong đó giai cấp vô sản lãnh đạo tất cả những người lao
động dùng bạo lực lật đổ quyền thống trị của giai cấp tư sản, giành lấy chính
quyền.
Phong trào vô sản mang những đặc điểm khác hẳn với các phong trào khác.
Nó không phải là phong trào của một số ít người nhằm mưu lợi ích cho một số ít
người mà là phong trào của đông đảo nhân dân, vì lợi ích của đông đảo nhân dân.
Nó không nhằm duy trì, củng cố chế độ tư hữu, áp bức, bóc lột và thiết chế chính
trị cũ mà nhằm xoá bỏ chế độ, thiết chế đó.
Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản trước hết được tổ chức trên địa bàn quốc
gia, dân tộc nhằm chiến thắng giai cấp tư sản nước đó, nhưng cuộc đấu tranh đó
bao giờ cũng mang bản chất quốc tế, là một bộ phận của cuộc đấu tranh chung của
giai cấp vô sản quốc tế chống lại giai cấp tư sản là thế lực quốc tế.
Các tầng lớp trung gian trong xã hội tư bản cũng đấu tranh chống giai cấp tư
sản. Nhưng chỉ khi bị tư bản đẩy vào phá sản, họ mới chuyển sang lập trường vô
sản, đấu tranh để bảo vệ lợi ích tương lai của họ. Đây là xu hướng khách quan mà
giai cấp vô sản cần biết kiên trì chờ đợi, biết cách tác động tích cực bằng những
biện pháp phù hợp, luôn quan tâm đáp ứng lợi ích trước mắt và lâu dài của họ, đưa
ra những khẩu hiệu phù hợp, nâng dần giác ngộ của họ từ thấp đến cao.
2. Chương II - Những người vô sản và những người cộng sản
Trong chương này, Mác và Ăngghen bác bỏ những lời vu khống, xuyên tạc
của giai cấp tư sản đối với những người cộng sản, phân tích mối quan hệ giữa giai
cấp vô sản và Đảng cộng sản; vạch rõ tính chất, nhiệm vụ trước mắt, mục đích cuối
cùng của Đảng cộng sản, những phương hướng và giải pháp để thực hiện những
nhiệm vụ và mục đích ấy.
Mác và Ăngghen chỉ ra rằng mục đích và lợi ích của giai cấp vô sản và của
Đảng cộng sản là thống nhất. Về cả lý luận và thực tiễn, Đảng cộng sản luôn luôn
đại biểu cho lợi ích của giai cấp vô sản, cũng như của toàn thể nhân dân lao động.
Hơn nữa, Đảng cộng sản đại biểu cho lợi ích chung của toàn bộ phong trào cộng
sản, của toàn bộ giai cấp vô sản quốc tế không phân biệt nghề nghiệp, địa phương,
dân tộc. Vậy Đảng cộng sản không những mang tính giai cấp của giai cấp vô sản
mà còn mang tính quốc tế vô sản.
Điều đó không có nghĩa là Đảng cộng sản và giai cấp vô sản là một. Sự khác
nhau giữa Đảng cộng sản và giai cấp vô sản là "Về mặt thực tiễn những người cộng
sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các Đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ
phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên, về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại
18
của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình là kết quả chung
của phong trào vô sản". Trong nhận thức cũng như trong thực tiễn, tách Đảng cộng
sản ra khỏi giai cấp vô sản và ngược lại hoà lẫn Đảng cộng sản và giai cấp vô sản
đều là sai lầm, đều có nghĩa là phủ nhận sự tồn tại của Đảng cộng sản.
Mục đích cuối cùng của những người cộng sản là xây dựng thành công chủ
nghĩa cộng sản. Để đi tới mục đích đó phải trải qua hai giai đoạn. Giai đoạn giai
cấp vô sản dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản thành giai cấp thống trị giành lấy
dân chủ, giành chính quyền bằng cách dùng bạo lực lật đổ giai cấp tư sản. Giai
đoạn thứ hai, Đảng cộng sản lãnh đạo giai cấp vô sản và toàn thể những người lao
động sử dụng chính quyền mới được thiết lập như một công cụ có hiệu lực nhất để
tiến hành công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Công cuộc đó phải được giải quyết từ nền tảng là vấn đề sở hữu. Những
người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành một luận điểm duy nhất là
xoá bỏ chế độ tư hữu. Họ không chủ trương xoá bỏ quyền tư hữu nói chung mà chỉ
tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác, không
tước bỏ của ai cái quyền chiếm hữu những sản phẩm xã hội. Mục đích của việc xoá
bỏ quyền tư hữu tư sản là để giải phóng lực lượng sản xuất, để tăng thật nhanh số
lượng lực lượng sản xuất- nền tảng của xã hội cộng sản.
Xoá bỏ tư hữu tư sản không phải là mục đích cuối cùng, đó chỉ là khâu then
chốt, là thủ đoạn có ý nghĩa quyết định trong tiến trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng
xã hội mới. Xoá bỏ quyền tư hữu tư sản là bước đi bắt buộc là có ý nghĩa quyết
định để xoá bỏ cái xã hội trong đó lao động sống chỉ là một thủ đoạn để tăng thêm
lao động đã được tích luỹ và xây dựng xã hội, trong đó lao động tích luỹ chỉ là một
thủ đoạn mở rộng, làm phong phú và đẹp thêm đời sống của những người lao động.
Xoá bỏ cái xã hội trong đó quá khứ thống trị hiện tại và xây dựng cái xã hội hiện tại
thống trị quá khứ, tức là những người lao động làm chủ tư liệu sản xuất và tư liệu
sinh hoạt do họ làm ra.
Cuộc đấu tranh xoá bỏ áp bức, bóc lột giai cấp, gắn liền với cuộc đấu tranh
xoá bỏ tình trạng nô dịch dân tộc. Vấn đề dân tộc chỉ có thể được giải quyết trên
lập trường của giai cấp vô sản, trong từng bước của tiến trình cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Hãy xoá bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột
dân tộc khác cũng sẽ bị xoá bỏ. Khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ
dân tộc không còn nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng đồng thời mất theo.
Sau khi giành được chính quyền, giai cấp vô sản phải tự vươn lên thành giai cấp
dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc, phải biến lợi ích của mình thành lợi ích dân
tộc, làm cho lợi ích của dân tộc trở thành lợi ích của chính mình. Khi đó, giai cấp
19
vô sản sẽ sống và xác lập vai trò lãnh đạo đối với dân tộc, lấy được sức mạnh của
dân tộc để chiến thắng kẻ thù nước mình, góp phần thắng kẻ thù trên thế giới.
Xã hội cộng sản được Mác và Ăngghen phác hoạ: Giai cấp vô sản thông qua
cách mạng trở thành giai cấp thống trị; với tư cách là giai cấp thống trị, dùng bạo
lực xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, đồng thời tiêu diệt luôn cả những điều kiện tồn tại
của sự đối kháng giai cấp, tiêu diệt các giai cấp nói chung và tiêu diệt cả sự thống
trị của chính nó với tư cách là một giai cấp. Thay cho xã hội cũ sẽ xuất hiện một
liên hiệp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển
tự do của tất cả mọi người. Xã hội cộng sản tương lai mà loài người nhất định sẽ đi
tới sẽ không còn giai cấp và đấu tranh giai cấp, do đó, nhà nước với cái nghĩa là
một bộ máy thống trị giai cấp cũng sẽ không còn nữa. Một hình thức liên hiệp của
những người lao động sẽ xuất hiện, trong đó con người có điều kiện để phát triển
toàn diện, lợi ích cá nhân và lợi ích toàn xã hội sẽ được kết hợp hài hoà.
3. Chương III- Văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa
Trong chương này Mác và Ăngghen phê phán các trào lưu tư tưởng phản
động và bảo thủ, nhằm làm rõ sự khác biệt căn bản và khẳng định quan điểm của
những người cộng sản.
Tính chất phản động của các trào lưu tư tưởng chủ nghĩa xã hội phong kiến,
tiểu tư sản là ở chỗ nó lên án giai cấp tư sản đã để cho giai cấp vô sản phát triển,
muốn duy trì chế độ sản xuất và chế độ sở hữu nhỏ và phủ nhận đấu tranh giai cấp
vì lợi ích của giai cấp vô sản, phản đối cuộc vận động cho tự do, bình đẳng tư sản
đang chín muồi ở Đức. Khi đó Mác và Ăngghen chưa coi chủ nghĩa xã hội tư sản là
trào lưu tư tưởng phản động mà coi nó như một thứ văn học xã hội chủ nghĩa bảo
thủ về lịch sử, muốn duy trì, bào chữa cho chế độ tư bản chứ không nhằm kéo lùi
lịch sử trở lại như các trào lưu tư tưởng phong kiến, tiểu tư sản.
Mác và Ăngghen đã nêu, khi đấu tranh giai cấp càng trở nên gay gắt thì cuộc
đấu tranh tư tưởng chống trào lưu tư tưởng phản động, bảo thủ càng cần thiết. Quan
điểm của những người cộng sản tuyệt nhiên không dựa trên những ý niệm, những
nguyên lý do một nhà cải cách thế giới nào phát minh hay phát hiện ra. Nó chỉ là
biểu hiện khái quát của những quan hệ thực tại của cuộc đấu tranh giai cấp hiện có.
4. Chương IV- Thái độ của những người cộng sản đối với các đảng đối lập
Trong chương này Mác và Ăngghen chỉ rõ tư tưởng cách mạng triệt để và
không ngừng, sách lược liên minh của những người cộng sản đối với các đảng đối
lập. Những người cộng sản chiến đấu cho những mục đích và những lợi ích trước
mắt của giai cấp công nhân, nhưng đồng thời trong phong trào hiện tại, họ cũng bảo
vệ và đại biểu cho tương lai của phong trào. Mục đích và những lợi ích trước mắt
của giai cấp công nhân chính là đánh đổ chế độ phong kiến và thực hiện quyền tự
20
do, dân chủ chính trị. Còn tương lai của phong trào chính là cuộc cách mạng vô
sản. Khi nói về nước Đức đang ở vào đêm trước của một cuộc cách mạng tư sản,
Mác và Ăngghen đã nói về hai giai đoạn của quá trìnhg cách mạng không ngừng.
Trong từng giai đoạn cách mạng, đảng vô sản cần xác định rõ nhiệm vụ
chính và lực lượng chủ yếu, những đảng phái khác cần liên hiệp, phấn đấu cho sự
đoàn kết và sự liên hợp của các đảng dân chủ ở tất cả các nước. Nhưng trong khi
đoàn kết và liên hợp với các đảng dân chủ, những người cộng sản vẫn có quyền phê
phán những lời nói suông, những ảo tưởng của các đảng phái ấy; vẫn luôn giữ vững
tính độc lập về chính trị, tư tưởng và tổ chức, giữ vững mục tiêu chiến lược của
mình. Họ không một phút nào quên giáo dục cho công nhân một ý thức hết sức
sáng rõ về sự đối kháng kịch liệt giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, để khi có
thời cơ thì công nhân biết sử dụng những điều kiện chính trị và xã hội do giai cấp
tư sản tạo ra như là vũ khí chống lại giai cấp tư sản.
III. Ý NGHĨA CỦA “TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN”
Sự xuất hiện tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản (2-1848) là sự kiện vĩ
đại trong lịch sử nhân loại. Từ đây, tư tưởng xã hội chủ nghĩa từ không tưởng bắt
đầu chuyển thành khoa học. Phong trào vô sản bước vào giai đoạn tự giác vì có lý
luận tiên tiến dẫn đường. V. Lênin nói “ Cuốn sách mỏng ấy có giá trị bằng hàng
bộ sách, tinh thần của nó đến bây giờ vẫn cổ vũ và thúc đẩy toàn thể giai cấp vô sản
có tổ chức và đang chiến đấu trong thế giới văn minh" 13
Gần 160 năm qua, những nguyên lý của Tuyên ngôn của đảng cộng sản vẫn
còn giá trị và đòi hỏi vận dụng sáng tạo. Giai cấp tư sản đã từng đóng vai trò là giai
cấp tiến bộ, cách mạng, giờ đây, sự thống trị của họ không còn thích hợp. Chủ
nghĩa tư bản có những thành tựu đáng kể trong sự phát triển kinh tế - xã hội, nhưng
bản chất bóc lột, mâu thuẫn nội tại của nó căn bản không hề mất đi.
Nhận thức về giai cấp công nhân hiện nay có nhiều nét mới. Năm 2000 tổng
số công nhân thế giới đã lên tới 800 triệu (1885, mới có 10 triệu). Tổng số công
nhân qua một thế kỷ tăng 80 lần (dân số thế giới tăng 3 lần). Cơ cấu giai cấp công
nhân cũng có sự biến đổi. Công nhân các ngành nghề mới, hiện đại, sự lành nghề,
có trình độ học vấn, khoa học kỹ thuật tăng nhanh. Công nhân đã có sở hữu tài sản
nhất định, mức sống, trí tuệ cao hơn. Trong các nước xã hội chủ nghĩa họ là giai
cấp nắm quyền, là chủ nước nhà. Trong các nước tư bản, công nhân có cổ phần,
được tham gia quản lý. Về tiêu chí nghề nghiệp, công nhân luôn là người lao động
không có tư liệu sản xuất chủ yếu. Họ vẫn là người làm thuê, bán sức lao động. Tỷ
số bị bóc lột giá trị thặng dư và lao động vẫn ngày càng tăng. Đại đa số công nhân
(9/10) trong các nước tư bản vẫn là đối lập của tư hữu tư bản xã hội chủ nghĩa và
13
Lênin, Toàn tập. NXB Tiến bộ, Mátxcơva. 1981, tập 2. tr. 10.
21
tiếp tục bị bần cùng hoá tương đối và tuyệt đối. Giai cấp công nhân vẫn là chủ thể
chân chính, đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến nhất nhất.
Từ những bài học thành công và thất bại gần thế kỷ qua, từ khát vọng và sự
thức tỉnh của các dân tộc, chủ nghĩa xã hội trên thế giới có điều kiện và khả năng
tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định
sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.
Tuyên ngôn đòi hỏi vận dụng sáng tạo những nguyên lý để giải quyết những
vấn đề nẩy sinh từ hiện thực, đấu tranh chống khuynh hướng sai lầm. Đi lên chủ
nghĩa xã hội là sự phát triển quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua
việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản
chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới
chế độ tư bản chủ nghĩa, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến
đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn phức tạp, có
sự đan xen và đấu tranh quyết liệt giữa cái mới và cái cũ, giữa cái chủ nghĩa xã hội
và cái không phải chủ nghĩa xã hội, phải sử dụng một số hình thức trung gian, cho
nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình
thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ, mối quan hệ giữa các giai cấp, các
tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ, đoàn kết và hợp tác
lâu dài.
Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp hiện nay là thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát
triển; thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và
khắc phục những tư tưởng, hành động tiêu cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi
âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc
xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc.
Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở
liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài
hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và toàn xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn
lực của các thành phần kinh tế của toàn xã hội, coi trọng phát huy nguồn lực tinh
thần, nhất là lòng yêu nước, ý chí tự lực tự cường và trí sáng tạo của nhân dân ta để
phát triển đất nước.
B. GIỚI THIỆU TÁC PHẨM “LÀM GÌ “ CỦA V.I. LÊ-NIN
(Lênin, Toàn tập. NXB Tiến bộ, Mátxcơva. 1975, tập 6)
I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ RA ĐỜI TÁC PHẨM
22
Từ thế kỷ XVIII đến khi cuối thế kỷ XIX là thời kỳ xác lập và phát triển
tương đối hoà bình của chủ nghĩa tư bản. Đầu thế kỷ XX, các nước tư bản ở Tây
Âu, Mỹ và Nhật bản chuyển dần sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
Từ khi Tuyên ngôn Đảng cộng sản ra đời (2-1848) đến Công xã Pari (1871)
là thời kỳ chủ nghĩa Mác truyền bá sâu rộng vào phong trào công nhân các nước.
Sau khi Quốc tế thứ nhất (1864-1876) giải tán, Ph.Ăngghen đã đứng ra thành lập
Quốc tế II (1889). Phong trào công nhân phát triển theo bề rộng, các Đảng công
nhân, xã hội dân chủ ở nhiều nước lần lượt ra đời và thừa nhận chủ nghĩa Mác là vũ
khí tư tưởng và nền tảng lý luận của mình. Quốc tế II, sau khi Ph. Ăngghen mất
(1895) ngày càng sa vào chủ nghĩa cơ hội, từ bỏ đấu tranh chính trị và chuyên
chính vô sản ( điển hình là lãnh tụ Bestanh, Cauxky...).
Đến những năm 60 của thế kỷ XIX chủ nghĩa tư bản ở nước Nga mới bắt
đầu phát triển, chậm hơn các nước khác ở Tây Âu. Dưới chế độ Nga Hoàng, nông
nghiệp rất lạc hậu, những tàn tích phong kiến còn rất nặng nề. Nga hoàng thủ tiêu
tất cả mọi quyền tự do chính trị và dân chủ của mọi người dân. Đến đầu thế kỷ XX,
trung tâm cách mạng thế giới chuyển sang nước Nga, nơi chứa đựng tất cả các mâu
thuẫn cơ bản của thời đại và lực lượng để giải quyết mâu thuẫn ấy.
Giai cấp công nhân Nga phát triển rất nhanh đuổi kịp và vượt Anh, Mỹ.
Trong 25 năm (1865 - 1890) số công nhân Nga ở các nhà máy và đường xe lửa tăng
từ 7 vạn đến 1 triệu 50 vạn người. Các cuộc đấu tranh tự phát phá máy, phá cửa
kính, bãi công đang lan rộng. Các tổ chức đầu tiên của giai cấp công nhân Nga đã
xuất hiện. Năm 1875 tại Ô-đéc-xa Hội liên hiệp công nhân miền Nam Nga và năm
1878 tại Pê-téc-bua Hội liên hiệp công nhân Nga Miền Bắc được thành lập nhưng
bị Nga Hoàng tập trung đàn áp nên sớm bị tan vỡ. Dù vậy phong trào bãi công của
công nhân vẫn tiếp tục tăng nhanh. Trong 5 năm 1881-1886 đã có 48 cuộc bãi công
thu hút 8 vạn công nhân tham gia. Cùng thời gian này những sách báo mác xít từ
nước ngoài đã được bí mật đưa vào Nga.
Các tổ chức mác xít Nga đầu tiên đã được thành lập. Nhóm Mác xít Nga đầu
tiên ra đời năm 1883 là nhóm Giải phóng lao động do Pơlêkhanốp tổ chức ở
Giơnevơ, Thuỵ sĩ. Họ xuất bản báo chí tuyên truyền chủ nghĩa Mác vào trong nước
Nga. Trước đó ở Nga đã có phái Dân tuý, cũng đấu tranh chống Nga Hoàng nhưng
có quan điểm và phương pháp khác. Phái Dân tuý cho rằng nông dân là lực lượng
có thể lật đổ Nga hoàng. Họ chủ trương ám sát cá nhân; phủ nhận vai trò của quần
chúng và cho rằng tính tích cực chủ yếu là do những vĩ nhân, anh hùng. Sự nguy
hiểm của phái Dân tuý là làm lạc hướng đấu tranh chống giai cấp bóc lột, xoá bỏ sự
thống trị của nó. Họ làm mờ nhạt và phủ nhận vai trò lãnh đạo cách mạng của giai
23
cấp công nhân do đó kìm hãm sự thành lập chính Đảng độc lập của nó. Muốn đưa
chủ nghĩa Mác vào Nga phải chống phái Dân tuý.
Nhóm Giải phóng lao động đã đấu tranh chống sai lầm của phái Dân tuý
nhưng họ cũng mắc những sai lầm tán thành phương pháp khủng bố cá nhân, phủ
nhận vai trò của nông dân, liên minh công nông, đề cao vai trò của giai cấp tư sản
tự do. Trong thực tiễn, nhóm nàychưa có liên hệ với phong trào công nhân. Năm
1895, khi Lênin14 đễn Pêtécbua, Người hợp nhất các tổ chức mác xít ở đây thành
lập Hội liên hiệp chiến đấu giải phóng giai cấp công nhân Pêtécbua. Cuối năm
1895, Lê-nin và một số lãnh tụ khác bị bắt. Trong Hội có những người phê phán
Lênin là "phái già" và tự xưng là “phái trẻ". Họ coi rằng đấu tranh chính trị là của
giai cấp tư sản tự do. Giai cấp công nhân chỉ nên đấu tranh kinh tế, đòi cải thiện đời
sống. Người ta gọi đây là “Phái kinh tế”, phái cơ hội thoả hiệp đầu tiên trong hàng
ngũ các tổ chức mác xít ở Nga.
Phái Kinh tế phủ nhận sự cần thiết phải có chính Đảng độc lập của giai cấp
công nhân, muốn biến công nhân phụ thuộc chính trị vào giai cấp tư sản. Phái này
có hai cơ quan ngôn luận riêng là tờ báo Tư tưởng công nhân ở Nga và tờ Sự
nghiệp công nhân ở nước ngoài. Hai tờ báo này đều tuyên truyền cơ hội chủ nghĩa
cho rằng đấu tranh chính trị của giai cấp vô sản phụ thuộc vào đấu tranh kinh tế. Họ
sùng bái tính tự phát của phong trào công nhân và phủ nhận sự cần thiết phải có
một chính Đảng độc lập, tập trung thống nhất của giai cấp công nhân. Trong khi
đó, Nga Hoàng đang đàn áp dã man, bắt tù và đầy ải các lãnh tụ của phong trào.
Nội bộ các tổ chức mác xít ở Nga đang có sự không thống nhất về tư tưởng và tổ
chức.
Đại hội lần thứ nhất Đảng công nhân dân chủ xã hội Nga họp vào 3/1898 tại
Minxcơ. Đại hội tuyên bố thành lập Đảng nhưng trên thực tế Đảng chưa thực sự
hình thành. Đảng chưa ra được Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng, Ban chấp
hành Trung ương vừa được bầu ra đã bị Nga Hoàng bắt hầu hết và không có người
thay thế. Do ảnh hưởng nặng nề của Phái Kinh tế, sự dao động về tư tưởng và tổ
chức trong ban chấp hành và địa phương ngày càng lớn. Do đó Đại hội này không
được coi là Đại hội thành lập Đảng.
V.I.Lê-nin sinh 1870 tại Ximbiếcxcơ nay là thành phố Ulianốpxcơ. Sau khi học đại học, năm
1895, Lê-nin về Pêtécbua hoạt động trong các nhóm mác xít đầu tiên ở đây. Tháng 12-1895, Lê-nin
bị Nga Hoàng bắt tù, đến năm1897, Người bị Nga Hoàng kết án, đày ở Xibêri. Tháng 1-1900, hết
hạn tù, Lê-nin tiếp tục hoạt động cách mạng. Nga Hoàng không cho phép Lê-nin ở thủ đô và các
thành phố lớn và cho người theo dõi, thủ tiêu. Tháng 7-1900, Người bí mật sang Đức, bắt đầu
quãng đời lưu vong. Tại thành phố Muy khen, Người tham gia sáng lập (1900) tờ báo Tia lửa và tờ
Mác xít bất hợp tác đầu tiên cho toàn nước Nga. Qua 52 số phát hành có V.I. Lê-nin tham gia biên
tập, Tia lửa thực sự là trung tâm đoàn kết các lực lượng cách mạng đấu tranh chống Nga Hoàng
và bàn về những vấn đề cơ bản để xây dựng Đảng của giai cấp công nhân Nga.
14
24
Bắt đầu từ đâu? làm gì để giải quyết khó khăn đó. Trong các nhóm mác xít ở
Nga có hai xu hướng là họp Đại hội II để thành lập Đảng, hai là, theo Lê-nin, cần
xác định rõ mục đích, nhiệm vụ của Đảng, phân định rõ ranh giới với phái cơ hội
trước khi lập Đảng.
Từ tháng 5-1901, V.I. Lê-nin viết bài báo Bắt đầu từ đâu? đăng trên báo Tia
lửa, là sơ khảo dàn bài tác phẩm Làm gì? Mùa thu năm đó, Người viết bài Mạn
đàm với những người bảo vệ chủ nghĩa kinh tế, là bản tóm tắt tác phẩm Làm gì?
Cuốn sách được Lênin viết xong tháng giêng năm 1902, viết lời tựa tháng Hai và
ngày 10 tháng 3 tờ Tia lửa số 18 ra thông báo là cuốn sách đã xuất bản.
Cuốn Làm gì? được V.I. Lênin cho tái bản thành tập Trong12 năm (xuất bản
1907). Lần này, Lê-nin chỉnh lý, rút ngắn, bớt phần luận chiến. Tác phẩm "Làm
gì?" mà ta nghiên cứu là bản xuất bản năm 1902, có đối chiếu bản 1907.
II. NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA TÁC PHẨM "LÀM GÌ ?"
1- Tính tự phát và tính tự giác trong phong trào công nhân
Giai cấp công nhân là con đẻ của nền đại công nghiệp, nó ra đời và lớn lên
cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp. Tính tự phát của phong trào công
nhân là yếu tố chủ quan, yếu tố nhận thức lý luận, công tác tổ chức và tư tưởng là
yếu tố khách quan của phong trào.
Phái Kinh tế phê phán những người dân chủ-xã hội theo Lê-nin là đánh giá
thấp ý nghĩa của yếu tố khách quan hoặc yếu tố tự phát. Họ viện câu nói của Mác là
một bước tiến của thực tiễn còn hơn một tá cương lĩnh để nhấn mạnh, với công
nhân làm thêm một đồng rúp còn hơn thân thiết và quý hơn là theo đuổi mục đích
chính trị. Đây là quan điểm duy vật kinh tế, phủ nhận vai trò tích cực tác động trở
lại của ý thức và hoạt động tự giác của con người. Trong điều kiện bị Nga Hoàng
đàn áp dã man, luận điểm trên rất nguy hiểm, ru ngủ công nhân vào nhiệm vụ
trước mắt mà quên mất nhiệm vụ lâu dài. Họ sùng bái tính tự phát của phong trào
công nhân, thực chất là họ theo đuổi và ủng hộ tư tưởng cơ hội của Bextanh
"Phong trào là tất cả, mục đích cuối cùng chẳng là cái gì cả".
V.I. Lê-nin đã chỉ rõ sùng bái tính tự phát mà hạ thấp yếu tố chủ quan, vai
trò của lý luận là sai lầm cơ hội chủ nghĩa. Kinh tế không phải là yếu tố duy nhất và
thường xuyên quyết định. Chính trị, tư tưởng, ý thức có vai trò tác động trở lại rất
quan trọng. Phủ nhận vai trò tác động trở lại của ý thức là rơi vào chủ nghĩa duy vật
tầm thường. Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử thủ tiêu chế độ bóc lột tư bản chủ
nghĩa, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, giai cấp vô sản không thể tự phát
theo xu thế khách quan mà phải hoạt động, tự mình trở thành lực lượng chính trị
độc lập, có đường lối lãnh đạo của đội tiên phong của mình là Đảng cộng sản .
25
Điều kiện khách quan chi phối hoạt động của con người nhưng vai trò nhân
tố chủ quan có thể có vai trò quyết định biến khả năng thành hiện thực. Con người
không chỉ nhận thức thế giới mà còn cải tạo thế giới. Con người không thụ động
trước sự biến đổỉ khách quan mà luôn phát hiện, tác động để chuẩn bị cho điều kiện
khách quan sớm chín muồi phục vụ cho nhiệm vụ của mình. Nhưng chủ quan
không phải tuỳ ý mà phải chứa đựng nội dung khách quan. Trên thực tế, điều kiện
khách quan cần thiết cho những biến đổi cách mạng ở Nga đã chín muồi, phong
trào công nhân phát triển rất nhanh. Lịch sử báo trước một cách mạng sắp đến gần
và đòi hỏi phải đẩy những điều kiện khách quan đến chín muồi. Để làm được điều
đó và đảm bảo cho cách mạng thành công, giai cấp công nhân phải được huấn
luyện, phải có tính tự giác cao, đặc biệt là phải có một tổ chức lãnh đạo vững mạnh.
Phái Kinh tế khuyên nhủ những người xã hội- dân chủ chỉ nên phục vụ cho
phong trào công nhân mà không nên lãnh đạo họ. Vì như thế là đẩy họ vào thế thụ
động, theo đuôi phong trào. Trong bối cảnh đó, để đưa nhân tố tự giác vào phong
trào công nhân, nhiệm vụ hàng đầu của những người dân chủ - xã hội là phải vạch
trần rõ quan điểm lý luận sùng bái tính tự phát của phong trào công nhân của phái
Kinh tế, đấu tranh, phải hoạt động để cải tạo hiện thực.
Trong mục a, b, c, đầu tác phẩm. V.I. Lê-nin đã luận chiến với tờ báo Tư
tưởng công nhân và tờ Sự nghiệp công nhân của Phái Kinh tế và chỉ rõ lúc đó nhiều
người dân chủ - xã hội đang trong thiếu sáng kiến và nghị lực, thiếu quy mô tuyên
truyền cổ động và tổ chức chính trị. Trong những giờ phút rối loạn, hỗn loạn về lý
luận mà sùng bái tự phát và đấu tranh kinh tế thì chỉ là tầm thường hoá chủ nghĩa
Mác về lý luận, thực tiễn là kéo lùi Đảng lại. Vấn đề này có ý nghĩa thực tiễn rất
quan trọng. Mọi biểu hiện của tư tưởng giáo điều sách vở hoặc xét lại, đều dẫn đến
tai hại không lường trước được.
2. Vai trò quan trọng của lý luận cách mạng
So với tất cả các lý luận đương thời, chủ nghĩa Mác là đỉnh cao khoa học,
vạch ra những quy luật khác nhau vận động của xã hội loài người. Lý luận khoa
học khi đã thâm nhập vào quần chúng thì sẽ biến thành sức mạnh vật chất. V.I. Lênin đã chỉ rõ, những người dân chủ - xã hội Nga đang đứng trước nhiệm vụ hết sức
nặng nề. Một cuộc cách mạng lật đổ Nga Hoàng đang đến gần. Người đã xác định
rõ chỉ có giai cấp vô sản Nga là người đầu tiên và phong trào cộng sản công nhân
quôc tế đấu tranh lật đổ Nga Hoàng, thế lực phản động nhất ở Châu Âu và châu Á
lúc đó.
Nhưng để làm tròn sứ mệnh cao cả ấy thì giai cấp vô sản Nga phải có đảng
tiên phong được vũ trang lý luận cách mạng và khoa học là chủ nghĩa Mác. Không
có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng. Không bao giờ