Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Thực hiện dân chủ cấp cơ sở hiện nay (qua khảo sát ở tỉnh ninh bình)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1000.05 KB, 122 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

LÊ MINH NAM

THỰC HIỆN DÂN Ở CẤP CƠ SỞ
(Qua khảo sát ở tỉnh Ninh Bình)

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học

Hà Nội - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

LÊ MINH NAM

THỰC HIỆN DÂN Ở CẤP CƠ SỞ
(Qua khảo sát ở tỉnh Ninh Bình)

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 60 22 03 08

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS, TS. Ngô Thị Phƣợng

Hà Nội - 2015




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn với đề tài “Thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở
(Qua khảo sát ở tỉnh Ninh Bình)” do tôi thực hiện dƣới sự hƣớng dẫn của
Phó Giáo sƣ, Tiến sĩ Ngô Thị Phƣợng. Các số liệu, kết quả trong luận văn là
hoàn toàn trung thực, chƣa từng công bố trong công trình nghiên cứu nào
trƣớc đó. Các thông tin trích dẫn trong luận văn đƣợc trích dẫn đầy đủ, chính
xác từ các sách, báo, tạp chí.
Hà Nội, ngày 26 tháng 04 năm 2015
Tác giả

Lê Minh Nam


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNTB

Chủ nghĩa tƣ bản

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

CSCN

Cộng sản chủ nghĩa

TBCN


Tƣ bản chủ nghĩa

UBND

Ủy ban nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 2
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DÂN CHỦ CẤP CƠ SỞ VÀ
CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN DÂN CHỦ CẤP CƠ SỞ Ở TỈNH NINH
BÌNH ............................................................................................................... 10
1.1. Dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ cấp cơ sở ............................ 10
1.2. Khái quát về cấp cơ sở và các yếu tố tác động đến thực hiện dân
chủ ở cấp cơ sở ở tỉnh Ninh Bình ......................................................... 34
Chƣơng 2: THỰC HIỆN DÂN CHỦ CẤP CƠ SỞ Ở TỈNH NINH BÌNH –
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ................................................................... 48
2.1. Thực trạng thực hiện dân chủ cấp cơ sở ở tỉnh Ninh Bình ............ 48
2.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm tăng cƣờng việc thực hiện dân chủ
ở cấp cơ sở trên địa bàn tình Ninh Bình hiện nay ................................ 80
KẾT LUẬN .................................................................................................... 92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 94

1



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thực hiện dân chủ ở cơ sở góp phần tích cực vào việc thúc đẩy, phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ vững an ninh trật tự ở cơ sở. Xây dựng và
thực hiện dân chủ ở cơ sở đã góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, chính quyền và chất lƣợng đội ngũ cán bộ,
đảng viên. Quán triệt quan điểm chỉ đạo của Trung ƣơng, các cấp ủy đảng,
chính quyền đã chỉ đạo việc xây dựng và thực hiện các quy chế, quy định, quy
trình dân chủ, công khai, bảo đảm thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân
chủ trong công tác đảng. Việc các cấp ủy đảng, chính quyền tổ chức đối thoại
trực tiếp với dân, lấy ý kiến nhân dân tham gia các công việc đã góp phần
nâng cao chất lƣợng hoạt động của các cấp ủy và chất lƣợng đảng viên, từng
bƣớc xây dựng tổ chức đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh.
Thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở, không ngừng nâng cao năng lực lãnh
đạo của tổ chức Đảng, nâng cao chất lƣợng hoạt động của các cơ quan nhà
nƣớc và nhất là trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ở cơ sở
đang là nhu cầu bức xúc hiện nay. Những năm qua, việc thông báo công khai
và truyền hình trực tiếp các phiên chất vấn, công khai kết quả hoạt động giám
sát và các kiến nghị của cử tri tại các kỳ họp của Quốc hội, Hội đồng nhân
dân các cấp đã thu hút sự quan tâm, theo dõi của nhân dân, nâng cao trách
nhiệm của cơ quan đại diện và của ngƣời đại biểu nhân dân. Việc thực hiện
công khai, dân chủ đã trở thành phƣơng thức quản lý, điều hành của các cơ
quan nhà nƣớc và nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức đối với nhân
dân; đồng thời, khuyến khích nhân dân tham gia xây dựng, giám sát các hoạt
động của cơ quan nhà nƣớc, góp ý cho cán bộ, công chức về đạo đức lối sống,
phong cách làm việc và tôn trọng nhân dân.

2



Quá trình thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở đã làm chuyển biến đáng kể
nhận thức của cấp ủy đảng, chính quyền và đoàn thể, phát huy đƣợc quyền
làm chủ trực tiếp của cán bộ, công chức, ngƣời lao động, góp phần tích cực,
hiệu quả vào công tác xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh,
nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, xây
dựng khối đoàn kết trong cơ quan, đơn vị, giữ vững ổn định chính trị từ cơ sở,
tạo động lực quan trọng để hoàn thành nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị.
Bên cạnh những thành tựu bƣớc đầu đạt đƣợc, việc thực hiện dân chủ ở
từng địa phƣơng còn có những hạn chế, thiếu sót, do những nguyên nhân khách
quan và chủ quan khác nhau. Có nơi, có lúc, quyền làm chủ của nhân dân chƣa
đƣợc tôn trọng thậm chí vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. Các chủ thể
thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở chƣa thực sự làm tròn vai trò, trách
nhiệm, quyền và nghĩa vụ trong thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở. Việc
tổng kết quá trình thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở là một việc làm cấp bách
mang tính thƣờng xuyên, liên tục để đánh giá những mặt tích cực, hạn chế… để
sửa chữa hoặc khuyến khích, nhân rộng những kinh nghiệm trong quá trình
thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở trên địa bàn cả nƣớc.
Ninh Bình là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, trong những
năm qua, đặc biệt từ năm 1998 đến nay có Chỉ thị số 30 của Bộ Chính trị Ban
chấp hành trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam về Xây dựng và thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở kế đến là các Nghị định của Chính phủ, Pháp lệnh của Ủy
ban thƣờng vụ Quốc hội về thực hiện dân chủ ở xã, phƣờng, thị trấn. Các địa
phƣơng trên toàn tỉnh đã tích cực triển khai thực hiện dân chủ nhằm góp phần
dân chủ hóa đời sống xã hội. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và
chủ quan, đặc biệt là về nhận thức chƣa đầy đủ của đội ngũ cán bộ và nhân dân
ở cơ sở. Triển khai thực hiện dân chủ ở cơ sở còn nhiều lúng túng. Do vậy,
quyền lực và lợi ích hợp pháp của một bộ phận nhân dân chƣa đƣợc đảm

3



bảo.Với những lý do đó, tôi đã chọn vấn đề Thực hiện dân chủ ở cấp cơ
sởhiện nay (Qua khảo sát ở tỉnh Ninh Bình) làm đề tài luận văn thạc sĩ,
chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Liên quan đến đề tài luận văn, ở Việt Nam đã có nhiều công trình đƣợc
công bố, những năm gần đây các công trình đó đƣợc phân chia theo ba nhóm
vấn đề sau.
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu về dân chủ
TS. Đoàn Minh Huấn: “Dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp và quá
trình mở rộng dân chủ XHCN ở nước ta”, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 82004; Tác giả đã làm rõ đặc trƣng của hai hình thức dân chủ là dân chủ trực
tiếp và dân chủ đại diện, đồng thời làm rõ vai trò, ƣu thế của mỗi hình thức
cũng nhƣ sự cần thiết phải kết hợp chặt chẽ hai hình thức dân chủ này trong
quá trình mở rộng dân chủ XHCN ở nƣớc ta hiện nay.
GS. TS. Hoàng Chí Bảo: “Dân chủ và dân chủ ở nông thôn trong tiến
trình đổi mới”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008; Trong công trình này
tác giả đã nêu lên tầm quan trọng của dân chủ và dân chủ ở cơ sở, nhất là tầm
quan trọng của thực hiện dân chủ ở nông thôn; thực trạng và những hạn chế
trong thực hiện dân chủ ở nông thôn trong thời gian qua. Qua đó tác giả đề ra
các giải pháp thực hiện dân chủ trong tiến trình đổi mới ở nông thôn.
PGS. TS. Nguyễn Văn Mạnh - Th.s. Tào Thị Quyên: “Dân chủ trực tiếp
ở Việt Nam, lý luận và thực tiễn”, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội 2010. Đây là
kỷ yếu Hội thảo Công trình nghiên cứu đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và
thực tiễn về dân chủ và dân chủ trực tiếp của một số nƣớc và Việt Nam, các tác
giả đã đánh giá thực trạng thực hiện dân chủ trực tiếp và nêu ra các giải pháp
nhằm phát huy các hình thức dân chủ trực tiếp.

4



Đào Trí Úc (Chủ biên), Trịnh Đức Thảo, Vũ Công Giao...: “Một số vấn
đề lý luận, thực tiễn về dân chủ trực tiếp, dân chủ cơ sở trên thế giới và ở Việt
Nam”, Nxb: Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2014; Trình bày một loạt vấn
đề về lý luận, thực tiễn và các mô hình tổ chức thực hiện dân chủ trực tiếp,
dân chủ cơ sở trên thế giới và Việt Nam. Đề xuất những quan điểm, giải pháp
hoàn thiện khuôn khổ pháp luật và các cơ chế bảo đảm dân chủ trực tiếp và
dân chủ cơ sở ở nƣớc ta trong thời gian tới.
Thứ hai, các công trình nghiên cứu về dân chủ ở cấp cơ sở
Phạm Ngọc Trâm: “Nhìn lại quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ
sở 1998 - 2012”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 11/ 2012.
Bài viết trên bổ sung nhận thức mới, đề xuất cách làm mới để xây
dựng, thực hiện dân chủ phù hợp với đặc điểm lịch sử, truyền thống của dân
tộc, đặc điểm của thời kỳ quá độ ở Việt Nam.
Nguyễn Hồng Chuyên: “Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã phục
vụ xây dựng nông thôn mới”, Nxb: Tƣ pháp, Hà nội, 2013. Đây là cuốn sách
chuyên khảo giới thiệu một số vấn đề lý luận về xây dựng nông thôn
mới.Trình bày chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng, chính quyền, pháp luật của
Nhà nƣớc về thực hiện dân chủ ở cấp xã và xây dựng nông thôn mới. Phân
tích lý luận vấn đề thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã phục vụ xây dựng
nông thôn mới. Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã
phục vụ xây dựng nông thôn mới qua thực tế của tỉnh Thái Bình. Đề xuất các
giải pháp đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp
xã phục vụ xây dựng nông thôn mới ở nƣớc ta hiện nay.
Nguyễn Văn Phƣơng: “Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc xã, phường,
thị trấn tỉnh Bắc Ninh trong thực hiện dân chủ ở cơ sở hiện nay”, Luận án
Tiến sĩ khoa học Chính trị bảo vệ tại Học viện Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2014. Trên cơ sở luận giải làm rõ những vấn đề cơ bản lý luận về dân chủ ở
cơ sở và thực tiễn hoạt động của Mặt trận tổ quốc (MTTQ) trong thực hiện

5



dân chủ ở cơ sở, góp phần xây dựng MTTQ xã, phƣờng, thị trấn tỉnh Bắc
Ninh vững mạnh, tăng cƣờng hoạt động của MTTQ xã, phƣờng, thị trấn trong
thực hiện dân chủ ở cơ sở hiện nay.
Thứ ba, các công trình nghiên cứu về thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở tỉnh
Ninh Bình
“Ninh Bình phát huy quyền làm chủ của nhân dân, rèn luyện đội ngũ
cán bộ, công chức cơ sở” của Đinh Văn Hùng, Tạp chí Cộng sản, Chuyên đề
cơ sở, số 30/2009. Trên cơ sở khảo sát, đánh giá mặt đƣợc và mặt chƣa đƣợc
trong thực hiện Pháp lệnh dân chủ, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp
tục thực hiện tốt hơn Pháp lệnh dân chủ gắn với rèn luyện đội ngũ cán bộ,
công chức.
“Ninh Bình thực hiện quy chế dân chủ” của Đỗ Tấn, đăng trên Báo
Nhân dân điện tử, ngày 22-8-2013. Tác giả khẳng định những thành công
trong thực hiện Quy chế dân chủ Ninh Bình, rút ra kinh nghiệm của Ninh
Bình là tạo ra nhiều kênh để ngƣời dân thực hiện quyền làm chủ. Quy chế dân
chủ chính là cầu nối giữa nhân dân với cấp ủy đảng và chính quyền để qua đó
tạo sự đồng thuận giúp cho việc thực hiện thắng lợi các chƣơng trình, mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội ở địa phƣơng, khơi thông mọi nguồn lực
nhằm xóa đói, giảm nghèo, không ngừng cải thiện đời sống nhân dân.
“Khi Quy chế dân chủ đi vào đời sống” của Quốc Khang, đăng trên báo
Ninh Bình điện tử, ngày 24 - 9-2013. Qua khảo sát các quá trình thực hiện
Quy chế dân chủ cơ sở trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, tác giả nhận định: Thời
gian qua, việc thực hiện Quy chế dân chủ (QCDC) ở cơ sở trên địa bàn tỉnh
đã đạt đƣợc nhiều kết quả rõ nét, quyền làm chủ của ngƣời dân ngày càng
đƣợc phát huy, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Những nội
dung cơ bản của QCDC đã và đang trở thành phƣơng châm hành động của đội
ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ sở và góp phần tăng thêm sự đoàn kết, nhất trí
trong Đảng và tạo sự đồng thuận trong các tầng lớp nhân dân... Tác giả trình

6


bày các sáng kiến thực thi quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, đề xuất
những giải pháp tiếp tục nâng cao chất lƣợng thực hiện quy chế dân chủ ở cơ
sở trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
Nhìn chung, các công trình khoa học trên cho thấy, chƣa có một công
trình độc lập nào đi sâu vào nghiên cứu một cách có hệ thống quá trình triển
khai thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. Tuy nhiên, đó
là những tài liệu quý để tác giả tham khảo trong nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở những vấn đề lý luận chung về dân chủ và dân chủ cấp cơ sở,
Luận văn trình bày thành tựu và hạn chế việc thực hiện dân chủ cấp cơ sở trên
địa bàn tỉnh Ninh Bình, từ đó đƣa ra các giải pháp tăng cƣờng hơn nữa hiệu quả
việc thực hiện dân chủ cấp cơ sở trên địa bàn này.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt đƣợc mục đích trên luận văn thực hiện các nhiệm vụ:
- Trình bày khái niệm và bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa
- Những nội dung cơ bản của dân chủ cấp cơ sở.
- Nêu những yếu tố tác động đến thực hiện dân chủ cấp cơ sở ở tỉnh Ninh
Bình.
- Phân tích, đánh giá thành tựu và hạn chế việc thực hiện dân chủ cấp
cơ sở trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
- Đề xuất một số giải pháp tăng cƣờng hơn nữa hiệu quả của việc thực
hiện dân chủ cấp cơ sở trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận văn đƣợc tiến hành trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng và Nhà nƣớc, nhất là chỉ thị

30- CT/TW của Bộ Chính trị, Nghị Định 29 NĐ- CP của Chính phủ ban hành

7


kèm theo quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phƣờng, thị trấn; Pháp lệnh số
34/2007/PL - UBTVQH của Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội về thực hiện dân
chủ ở xã, phƣờng, thị trấn. Đồng thời ngƣời viết cũng kế thừa có chọn lọc các
công trình và các bài viết khác của một số tác giả đã công bố.
4.2. Cơ sở thực tiễn
Những hoạt động triển khai thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bản tỉnh
Ninh Bình.
4.3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn đƣợc thực hiện dựa trên phƣơng pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, trong đó sử dụng kết hợp các phƣơng pháp nghiên
cứu nhƣ: phƣơng pháp lịch sử và logic, phân tích - tổng hợp, thống kê - so
sánh, điều tra xã hội học, nghiên cứu tài liệu…
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
5.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Dân chủ cấp cơ sở đƣợc thực hiện bằng hai hình thức, dân chủ trực tiếp
và dân chủ đại điện. Luận văn tập trung nghiên cứu dân chủ trực tiếp, thông
qua “Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phƣờng, thị trấn” trên địa bàn tỉnh
Ninh Bình.
5.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Tiến hành nghiên cứu việc thực hiện dân chủ ở cơ sở chỉ bao gồm xã,
phƣờng, thị trấn trên một số địa bàn Ninh Bình từ năm 1998 nay (từ khi có
Quy chế dân chủ cơ sở đến nay).
6. Đóng góp của luận văn
Làm rõ thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế,
xác định các vấn đề đặt trong quá trình thực hiện dân chủ cơ sở trên địa bàn

tỉnh Ninh Bình.

8


Luận văn đề xuất một số giải pháp chủ yếu có tính khả thi phù hợp với
quá trình thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở trên địa bàn tỉnh Ninh Bình trong giai
đoạn hiện nay.
7. Ý nghĩa của luận văn
7.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của việc thực
hiện dân chủ ở cấp cơ sở để phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở xã,
phƣờng, thị trấn ở nƣớc ra nói chung, ở Ninh Bình nói riêng.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, giảng dạy và
học tập về dân chủ cơ sở, là tài liệu tham khảo đối với cơ quan chức năng của
tỉnh trong việc thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng
hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 2 chƣơng, 4 tiết.

9


Chƣơng 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DÂN CHỦ CẤP CƠ SỞ
VÀ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN DÂN CHỦ CẤP CƠ SỞ
Ở TỈNH NINH BÌNH
1.1. Dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ cấp cơ sở

1.1.1. Dân chủ xã hội chủ nghĩa
Thuật ngữ dân chủ có gốc từ tiếng Hy lạp cổ: Demokratos đƣợc ghép từ
hai chữ demos có nghĩa là dân chúng, nhân dân và kratos có nghĩa là quyền
lực. Và nghĩa khởi thủy của dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân. Cho đến
ngày nay, cùng với lịch sử phát triển của xã hội, thuật ngữ dân chủ đƣợc dùng
với nhiều nội dung khác nhau, tùy theo từng góc độ tiếp cận nhất định. Ở góc
độ chính trị - xã hội, dân chủ là một hiện tƣợng chính trị - xã hội, gắn liền với
nhà nƣớc, dân chủ cũng dùng để chỉ một hình thức tổ chức nhà nƣớc. Ở góc
độ văn hóa, dân chủ là một hiện tƣợng, một yếu tố cấu thành đời sống văn hóa
của xã hội - văn hóa dân chủ. Dân chủ còn đƣợc xem xét nhƣ một giá trị xã
hội, mọi cuộc đấu tranh giành dân chủ đều hƣớng tới giải phóng con ngƣời,
nâng cao vị trí của con ngƣời trong lịch sử, hình thành và phát triển ở con
ngƣời ý thức, năng lực làm chủ xã hội. Do vậy, dân chủ là một lý tƣởng nhân
đạo, một giá trị nhân văn.
Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin, dân chủ nghĩa là quyền lực
thuộc về nhân dân; dân chủ là hình thức tổ chức của các xã hội có giai cấp và
đấu tranh giai cấp, một hình thức nhà nƣớc. Với tính cách là một hình thức tổ
chức nhà nƣớc, dân chủ là sự thống nhất biện chứng của hai mặt. Thứ nhất,
dân chủ đảm bảo quyền lực cho giai cấp thống trị xã hội, giai cấp mà nó đại
diện. Thứ hai, dân chủ cũng chính là thực hiện chuyên chính với các lực
lƣợng đối lập. Dân chủ và chuyên chính là hai mặt thống nhất trong bất cứ
một hình thức nhà nƣớc nào. Theo cách tiếp cận này, dân chủ là một phạm trù

10


lịch sử. Dân chủ ra đời, tồn tại và phát triển trong một giai đoạn lịch sử nhất
định, khi xã hội có sự phân chia giai cấp. Gắn với mỗi giai đoạn lịch sử, một
xã hội có giai cấp, xã hội tồn tại một hình thức dân chủ khác nhau. Mỗi hình
thức dân chủ lại có bản chất, hình thức tổ chức khác nhau nhằm thể hiện và

thực hiện quyền lực của giai cấp cầm quyền.
Khi giai cấp công nhân giành đƣợc chính quyền, thiết lập nhà nƣớc
chuyên chính vô sản (nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa), một hình thức dân chủ mới
ra đời - Dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là dân chủ của đa
số nhân dân lao động (giai cấp công nhân, nông dân, và các tầng lớp lao động
khác) bảo vệ quyền, lợi ích của đa số nhân dân lao động, đồng thời trấn áp
mọi sự phản kháng của giai cấp bóc lột - giai cấp có lợi ích đối kháng với lợi
ích của nhân dân lao động.
Để thực hiện mục tiêu ấy, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng
sản lãnh đạo. Sự lãnh đạo của Đảng thể hiện bản chất của giai cấp công nhân
của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nói lên tính chất nhất nguyên của dân chủ
xã hội chủ nghĩa đồng thời là điều kiện hàng đầu thể hiện tính định hƣớng
trong tổ chức và hoạt động của nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa và tính tự giác của
toàn thể nhân dân lao động trong quá trình xây dựng, củng cố, hoàn thiện nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa nói chung và tham gia vào công việc quản lý nhà
nƣớc, quản lý xã hội nói riêng.
Chế độ dân chủ XHCN, trong bản chất của nó, gắn chặt với cuộc đấu
tranh vì dân chủ nhằm giải phóng con ngƣời khỏi áp bức, bóc lột.
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản C. Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ
rõ: “Giai cấp vô sản mỗi nƣớc trƣớc hết phải tự mình giành lấy chính quyền,
phải tự vƣơn lên thành giai cấp dân tộc”[39, tr 623,624], phải giành lấy dân
chủ với ý nghĩa là trực tiếp giành lấy quyền lực nhà nƣớc (quyền lực dân chủ
về chính trị) và tổ chức quyền lực đã giành đƣợc đó thành nhà nƣớc dân chủ

11


vô sản. Chế độ dân chủ vô sản “chế độ sẽ tự thi hành ngay lập tức những biện
pháp để chặt tận gốc rễ chế độ quan liêu và sẽ có thể thi hành những biện
pháp ấy tới cùng, tới chỗ hoàn toàn phá bỏ chế độ quan liêu, tới chỗ hoàn toàn

xây dựng một chế độ dân chủ nhân dân”[34,tr 135]. Chỉ có chế độ dân chủ vô
sản, chế độ dân chủ đƣợc thiết lập trên cơ sở của chế độ kinh tế mà ở đó các
tƣ liệu sản xuất thuộc về toàn xã hội, lực lƣợng sản xuất không ngừng tăng
lên, sự đối kháng giai cấp bị thủ tiêu thì quyền làm chủ của nhân dân lao động
mới đƣợc thực hiện đầy đủ. V. I. Lênin đã chỉ rõ: “Dƣới chế độ xã hội chủ
nghĩa, nhiều mặt của chế độ dân chủ nguyên thủy tất nhiên sẽ sống lại, vì lần
đầu tiên trong lịch sử những xã hội văn minh, quần chúng nhân dân đang
vƣơn lên tham gia một cách độc lập không những vào việc bầu cử và tuyển
cử, mà cả vào việc quản lý hàng ngày nữa”[34, tr 143]. Với ý nghĩa đó, chế
độ dân chủ xã hội chủ nghĩa đóng vai trò to lớn trong các cuộc đấu tranh giải
phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con ngƣời.
Tƣ tƣởng về dân chủ xã hội chủ nghĩa còn đƣợc V.I. Lênin cụ thể hoá
hơn nữa khi đề cập đến quyền của công dân. Ngƣời viết: “Tính chất xã hội
chủ nghĩa của chính quyền Xô viết - tức là dân chủ vô sản (dân chủ xã hội chủ
nghĩa) nếu đƣợc áp dụng một cách cụ thể là: Các cử tri đều là quần chúng bị
bóc lột, phải xoá bỏ mọi hạn chế có tính chất quan liêu, quần chúng hoàn toàn
có quyền bãi miễn những ngƣời mà họ bầu ra, dƣới sự lãnh đạo của đội tiền
phong của giai cấp công nhân, toàn dân đều học tập quản lý và bắt đầu đảm
nhận công tác quản lý” [37, tr 259] và “nhà nƣớc - Xô viết - đảm bảo cho họ
tham gia quản lý nhà nƣớc”[38, tr 116].
Để đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân thì phải chống chủ nghĩa quan
liêu, chống tính bảo thủ, trì trệ và cuộc đấu tranh ấy chỉ có thể thắng lợi một
khi có sự tham gia của đông đảo nhân dân. V. I. Lênin khẳng định: “Chỉ khi

12


nào toàn thể nhân dân đều tham gia quản lý thì khi ấy mới có thể đả phá chủ
nghĩa quan liêu đến cùng, đến thắng lợi hoàn toàn đƣợc”[37, tr 205] t38.
V. I. Lênin chỉ rõ: “Để chống các bệnh lề mề, quan liêu, xa hoa, lãng

phí, ăn hối lộ, thực hành tiết kiệm và phát hiện tốt hơn nữa các hiện tƣợng lạm
dụng, cũng nhƣ để vạch mặt và sa thải các công chức bất lƣơng đã chui vào
các cơ quan Xô viết, nay đặt ra các quy tắc sau: Quy chế về ngày giờ mở cửa
tiếp công chúng cần phải đƣợc yết thị ở từng cơ quan chẳng những ở trong mà
còn ở ngoài nữa để ai cũng có thể đến các cơ quan Xô viết mà không cần có
giấy phép gì cả… Trong mỗi cơ quan Xô viết, phải có một quyển sổ để ghi
hết sức vắn tắt tên ngƣời có việc yêu cầu, tính chất yêu cầu và chuyển việc ấy
đến đâu”[36, tr 449].
V. I. Lênin cũng đặt ra yêu cầu với nhà nƣớc về việc mở các lớp học đào
tạo cán bộ của nhà nƣớc về quản lý. Biên soạn giáo trình quản lý nhà nƣớc, cử
ngƣời sang Anh, sang Đức học về khoa học quản lý. Vì theo V. I. Lênin: “Muốn
quản lý đƣợc phải hiểu công việc. Không thể quản lý đƣợc nếu không có kiến
thức đầy đủ, nếu không tinh thông khoa học quản lý”[37, tr 257] “Cán bộ phải
học tập, học tập nữa, học tập mãi. Phải làm cho việc học không hình thức, không
nằm trên giấy, hoặc chỉ là lời nói theo mốt nữa, phải làm cho việc học ăn sâu vào
trí não, trở thành bộ phận khăng khít của cuộc sống”[38, tr 444].
Một trong nhiều điều kiện để thực hiện dân chủ là phải thực hiện nhiệm
vụ kiểm tra, thanh tra.V. I. Lênin đặc biệt quan tâm đến vấn đề này. Ngƣời
cho rằng phải cải tổ “bộ dân uỷ thanh tra công nông” để có thể hoàn thành
nhiệm vụ thanh tra hoạt động của bộ máy Nhà nƣớc, đồng thời phải phát động
và tạo điều kiện để chính nhân dân có thể kiểm tra công việc của nhân viên
nhà nƣớc.
Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ chính trị mà ở đó những giá
trị dân chủ, quyền lực của nhân dân đƣợc thể chế hóa thành pháp luật, thành

13


nguyên tắc, mục tiêu của sự phát triển xã hội nói chung và thành hệ thống
chính trị trong CNXH nói riêng. Các giá trị và chuẩn mực dân chủ thâm nhập

và chi phối mọi hoạt động xã hội. Mọi công dân và tổ chức có khả năng nhận
thức, vận dụng các giá trị dân chủ và biến thành những nguyên tắc phổ biến
trong mọi hoạt động cũng nhƣ trong những quan hệ xã hội.
Quá trình hình thành và phát triển dân chủ XHCN là quá trình mang
tính biện chứng sâu sắc. Nó kế thừa những giá trị và kinh nghiệm về dân chủ
mà loài ngƣời đã tích lũy đƣợc trong lịch sử, đặc biệt là những giá trị và kinh
nghiệm trong nền dân chủ tƣ sản. Đồng thời, khi hoàn thiện, nền dân chủ
XHCN lại là sự phát triển mang tính cách mạng so với các nền dân chủ trong
lịch sử.
Dân chủ XHCN là thành quả của quá trình hoạt động tự giác của quần
chúng nhân dân, nó với tƣ cách là quyền lực của nhân dân lao động, đồng thời
với tƣ cách là chế độ chính trị, dân chủ XHCN sẽ đƣợc từng bƣớc xây dựng
và hoàn thiện, phát huy vai trò là động lực to lớn trong tiến trình cách mạng,
dƣới sự lãnh đạo duy nhất của đảng mácxít. Tuy nhiên, trình độ chín muồi của
dân chủ XHCN tùy thuộc vào trình độ trƣởng thành về tính xã hội chủ nghĩa
của các quan hệ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, trong đó quan hệ kinh tế có
vai trò quan trọng nhất, quyết định nhất.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ dân chủ cuối cùng trong lịch sử, khi
tất cả mọi ngƣời đã tự học đƣợc cách quản lý nhà nƣớc, quản lý xã hội, không
còn sự quản lý giữa ngƣời với ngƣời mà chỉ còn là sự quản lý ngƣời với vật.
Chế độ dân chủ XHCN sẽ tiêu vong cùng với sự tiêu vong của nhà nƣớc. Khi
đó, dân chủ với tƣ cách là quyền lực của con ngƣời trong việc sử dụng mọi
sức mạnh để thực hiện quyền lực và lợi ích của chính mình sẽ hiện hữu một
cách đích thực nhƣ bản chất vốn có của nó, trở thành giá trị nhân văn, đóng
vai trò cho sự phát triển bền vững của xã hội.

14


Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ cho nhân dân lao động, phục

vụ lợi ích cho số đông. Dân chủ thực sự đƣợc thống nhất giữa quyền đƣợc ghi
trong hiến pháp, pháp luật với quyền lực ở thực tế. Nhà nƣớc có nghĩa vụ tạo
đầy đủ điều kiện vật chất để có thể thực hiện dân chủ nhƣ trong luật quy định.
Nền dân chủ XHCN là nền dân chủ toàn diện trên các lĩnh vực chính trị, kinh
tế, văn hóa. Nhƣng dân chủ không thể vƣợt qua trình độ phát triển kinh tế,
đồng thời sự phát triển của kinh tế, văn hóa cũng không thể tách ra khỏi dân
chủ. Theo V.I. Lênin: “Chủ nghĩa xã hội chiến thắng sẽ không giữ đƣợc thắng
lợi của mình và sẽ không dẫn đƣợc nhân loại đi đến chỗ thủ tiêu nhà nƣớc,
nếu không thực hiện đƣợc đầy đủ chế độ dân chủ”[33, tr 167].
Để phát huy đầy đủ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, V. I. Lênin đặc biệt
nhấn mạnh quyền tham gia quản lý nhà nƣớc của ngƣời lao động, coi sự tham
gia của những ngƣời lao động là mục đích của chính quyền Xô viết, Ngƣời
viết: “Việc thu hút đƣợc ngƣời lao động tham gia quản lý là một trong những
ƣu thế quyết định của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa… Vì rằng, một thiểu số
ngƣời, tức là Đảng không thể thực hiện đƣợc chủ nghĩa xã hội”[34, tr 67,68].
Thực chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự tham gia một cách thực
sự bình đẳng và ngày càng rộng rãi của ngƣời lao động vào quản lý công việc
của nhà nƣớc và của xã hội. Chính sự tham gia ấy đã tạo nên chất lƣợng mới
của nền dân chủ, làm thay đổi căn bản đời sống chính trị - xã hội, từ vai trò
làm chủ của nhân dân, tính chất nhà nƣớc kiểu mới đến sự thống nhất giữa
quyền và nghĩa vụ của công dân. Từ đó dân chủ trở thành mục tiêu và động
lực của sự phát triển xã hội. Theo V. I. Lênin, “Chủ nghĩa xã hội sẽ không có
nếu không có dân chủ với hai ý nghĩa: 1. Giai cấp vô sản không thể hoàn thành
cách mạng xã hội chủ nghĩa nếu không có sự chuyển bị dân chủ cho mình
thông qua cuộc đấu tranh vì dân chủ. 2. Chủ nghĩa xã hội sẽ không thể giữ
đƣợc thắng lợi và không dẫn đến sự tiêu vong của nhà nƣớc nếu thiếu thực hiện
dân chủ một cách trọn vẹn”[33, tr 28].

15



Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, khi lực lƣợng sản xuất chƣa phát triển
cao, trình độ dân trí của ngƣời dân còn thấp, bên cạnh đó là sự chống phá
mạnh mẽ của các thế lực thù địch thì cần phải thấy vai trò và phải biết kết hợp
giữa dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp, nhằm phát huy quyền làm chủ của
nhân dân lao động. Theo V.I. Lênin, tính chất của chế độ vô sản, “nếu áp
dụng một cách cụ thể và nhất định là ở chỗ: Trƣớc hết các cử tri đều phải là
quần chúng lao động và bị bóc lột, còn giai cấp tƣ sản thì bị loại ra; hai là,
mọi thủ tục và những chế độ có tính chất quan liêu đều bị xóa bỏ, quần chúng
tự quy định lấy thể thức và thời hạn bầu cử, hoàn toàn có quyền tự do bãi
miễn những ngƣời mà họ đã bầu ra; ba là, hình thành một tổ chức quần chúng
tốt nhất của đội tiền phong của những ngƣời lao động - giai cấp vô sản đại
công nghiệp, tổ chức đó giúp cho đội tiền phong có thể lãnh đạo đƣợc đại đa
số quần chúng bị bóc lột, có thể thu hút số quần chúng đó độc lập tham gia và
sinh hoạt chính trị, và do đó có thể bắt tay, lần đầu tiên, vào việc thi hành
nhiệm vụ sau đây: làm thế nào cho thực sự toàn thể nhân dân đều học tập
đƣợc công tác quản lý và bắt đầu đảm nhận công tác quản lý”[35, tr 240].
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Đảng cầm quyền nhƣng dân là chủ. Mọi
“quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”[42, tr 698]. Ngƣời luôn nhấn mạnh
vấn đề quyền lực thuộc về dân là vấn đề nguyên tắc, là bản chất chế độ mới
mà Đảng ta, nhân dân ta đang ra sức xây dựng. Đảng lãnh đạo cách mạng,
lãnh đạo chính quyền là nhằm thiết lập và củng cố quyền làm chủ của dân,
mọi quyền lực phải thuộc về nhân dân.
Dân làm chủ - mọi quyền hành, mọi lực lƣợng ở dân. Nhân dân thực sự
tham gia vào việc quản lý nhà nƣớc. Hồ Chí Minh dạy rằng: “Dân chủ là thế
nào? Là dân làm chủ. Dân làm chủ thì Chủ tịch, Bộ trƣởng, thứ trƣởng, ủy
viên này khác làm gì? Làm đày tớ cho nhân dân chứ không phải làm quan
cách mạng”[44, tr 375]. Nền dân chủ chúng ta đã và đang phấn đấu xây dựng

16



là nền dân chủ triệt để, trong đó nội dung cơ bản nhất của nền dân chủ là toàn
bộ quyền lực thuộc về nhân dân. Mặt khác, không thể tách rời là dân chủ phải
đi liền với kỷ luật, kỷ cƣơng, pháp chế. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có sự
kết hợp hài hoà giữa quyền và trách nhiệm, gắn lợi ích cá nhân với lợi ích của
sự phát triển xã hội.
Vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh về dân chủ, về mối quan hệ giữa dân chủ và nhà nƣớc, giữa Đảng
và nhân dân, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bƣớc xây dựng nền dân chủ
XHCN và qua đó phát huy quyền lực của nhân dân trong mọi hoạt động đời
sống xã hội.
Nhìn chung, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một nền dân chủ rộng rãi
nhất, toàn diện nhất và phổ biến nhất, đặc điểm nổi bật nhất của chế độ dân
chủ xã hội chủ nghĩa là nó đƣợc mở rộng đến tất cả các tầng lớp trong nhân
dân lao động. Nói đến dân chủ xã hội chủ nghĩa không phải là nói đến một
nền dân chủ hình thức, mà là dân chủ trong thực tế, quyền lực của nhân dân
từng bƣớc đƣợc thực thi trong hiện thực.
1.1.2. Cấp cơ sở và vị trí, vai trò của cấp cơ sở
Cấp cơ sở và cấu trúc của cấp cơ sở
Trong tiếng Việt, khái niệm cơ sở rất phong phú, sinh động, đƣợc sử
dụng trong khá nhiều trƣờng hợp và biểu đạt những nghĩa không hoàn toàn
nhƣ nhau. Cơ sở có khi đƣợc hiểu là chỗ dựa, là căn cứ của một tổ chức, lực
lƣợng, một phong trào. Có khi cơ sở lại đƣợc hiểu là nền móng, nền tảng.
Thuật ngữ cơ sở trong luận văn này đƣợc hiểu là một cấp trong hệ thống bốn
cấp quản lý của tổ chức hành chính nƣớc ta hiện nay.
Hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay, xét theo cấu trúc dọc, bao gồm
cấp Trung ƣơng, cấp Tỉnh (Thành phố), cấp Quận (Huyện) và cấp cơ sở. Cấp
cơ sở bao gồm Xã, Phƣờng, Thị trấn.


17


Cấp cơ sở cũng là cấp tiếp xúc trực tiếp với nhân dân. Nói cách khác là
“nơi chính quyền trong lòng dân” [8, tr177] là cấp thấp nhất trong hệ thống
quản lý nhà nƣớc nhƣng lại là nền tảng của chế độ chính trị và đời sống xã
hội, là nơi diễn ra cuộc sống của dân, đồng thời là cấp cụ thể hóa mọi chủ
trƣơng, đƣờng lối, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc.
Cấu trúc của hệ thống chính trị cấp cơ sở bao gồm: Tổ chức Đảng cơ sở
(Đảng ủy cơ sở); Chính quyền cấp cơ sở (Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân
dân) và các tổ chức chính trị - xã hội cấp cơ sở (Mặt trận Tổ quốc, Hội nông
dân, Liên hiệp Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, hội Cựu
chiến binh, Công đoàn). Hệ thống này đóng vai trò rất quan trọng trong tổ
chức thực hiện dân chủ ở cơ sở, đây là nơi hƣớng dẫn thực hiện, triển khai,
thực hiện và giám sát toàn bộ quá trình thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở.
Tổ chức Đảng cấp cơ sở bao gồm và đảng bộ cơ sở và chi bộ cơ sở. Tổ
chức Đảng cơ sở là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở, bao gồm
Đảng ủy xã, phƣờng, thị trấn, chi bộ thôn (xóm).
Chính quyền cấp cơ sở bao gồm Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nƣớc ở địa phƣơng, đại
diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa
phƣơng bầu ra, chịu trách nhiệm trƣớc nhân dân địa phƣơng và cơ quan nhà
nƣớc cấp trên.
Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu, là cơ quan chấp hành của
Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính Nhà nƣớc ở địa phƣơng, chịu trách
nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật pháp và các văn bản của cơ quan nhà nƣớc
cấp trên, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp.
Ở cấp cơ sở, chính quyền cơ sở có vai trò quan trọng đặc biệt, là trụ cột
của hệ thống chính trị cơ sở. Chính quyền cơ sở thực hiện quản lý, điều hành
các hoạt động kinh tế - xã hội cũng nhƣ mọi mặt đời sống của nhân dân theo


18


thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ đƣợc quy định. Do đó, tổ chức bộ máy và
phƣơng thức hoạt động của chính quyền cơ sở phải gắn bó với nhân dân, gần
gũi với dân, phục vụ lợi ích của nhân dân. Thực tiễn cho thấy, việc chính
quyền cơ sở gắn bó mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sức
mạnh của chính quyền cơ sở.
Các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể cấp cơ sở, gồm Mặt trận Tổ
quốc, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, hội Cựu chiến binh, Liên
hiệp Hội Phụ nữ, Hội nông dân và Công đoàn.
Trong đó, Mặt trận Tổ quốc là một thành viên chiến lƣợc, có vị trí vô
cùng quan trọng trong hệ thống chính trị nƣớc ta. Trong Điều 9, Hiến Pháp
năm 2013 đã quy định: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính
trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức xã hội và cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc,
tôn giáo, ngƣời Việt Nam định cƣ ở nƣớc ngoài.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân
dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập
hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng
cƣờng đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng
Đảng, Nhà nƣớc, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Mặt trận Tổ quốc là nơi thể hiện ý chí và nguyện vọng, tập hợp khối
đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện các
đƣờng lối chủ trƣơng chính sách của đảng và nhà nƣớc, giám sát hoạt động của
các cơ quan nhà nƣớc, đại biểu dân cử, cán bộ công chức, đảng viên nghiêm
chỉnh thi hành hiến pháp và pháp luật. Mặt trận Tổ quốc cùng nhà nƣớc chăm lo
và bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân.


19


Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị - xã hội của
thanh niên. Trong xã hội, thanh niên là một lực lƣợng trẻ, đông đảo trong dân
cƣ, với các đặc điểm khỏe, thông minh, năng động, sáng tạo, dám nghĩ dám
làm; họ là một lực lƣợng quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ
quốc. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đƣợc thành lập để tập hợp, giáo
dục và phát huy vai trò của lực lƣợng trẻ này. Đoàn Thanh niên có vai trò quan
trọng trọng việc nâng cao nhận thức, giáo dục truyền thống cho thanh niên,
khơi dậy trong họ tình yêu quê hƣơng, đất nƣớc, lòng tự hào dân tộc. Đoàn
Thanh niên còn là tổ chức vận động, tổ chức thực hiện các phong trào “Thanh
niên lập nghiệp”, “Tuổi trẻ giữ nƣớc”. Đoàn Thanh niên là tổ chức chính trị xã hội đƣợc tổ chức từ Trung ƣơng đến cơ sở.
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam là tổ chức đƣợc tổ chức chặt chẽ từ
Trung ƣơng tới cơ sở, là nơi thu hút toàn bộ phụ nữ Việt Nam, không phân
biệt tuổi tác, nghề nghiệp, dân tộc cũng nhƣ địa vị xã hội. Hội Phụ nữ có vai
trò quan trọng trong tập hợp, tổ chức, hƣớng dẫn phụ nữ tham gia các hoạt
động sản xuất, phát triển đời sống xã hội, giúp cho sự phát triển của bản thân
mình, trẻ em, gia đình và toàn xã hội.
Hội cựu Chiến binh đƣợc thành lập 1990, là tổ chức đƣợc cơ cấu từ
Trung ƣơng đến cơ sở dƣới sự lãnh đạo của Đảng. Cựu chiến binh là lực
lƣợng đông đảo trong dân cƣ. Đây là những ngƣời lính đã đƣợc tôi luyện
trong đấu tranh cách mạng và trong cuộc sống, là những ngƣời hết tuổi phục
vụ trong quân đội đã trở về địa phƣơng tham gia sản xuất phát triển kinh tế,
giữ gìn an ninh trật tự. Họ là những ngƣời có ý thức kỷ luật cao, có niềm tin
vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nƣớc.
Lực lƣợng cựu chiến binh gồm nhiều thế hệ, có độ tuổi tƣơng đối cao,
từ 50 tuổi trở lên, song họ là những ngƣời có kiến thức, trình độ văn hóa nhất
định và có nhiều ngƣời rất giỏi trong một số lĩnh vực.


20


Hội Nông dân Việt Nam: Việt Nam là quốc gia nông nghiệp, nông dân
chiếm gần 80% dân số và là đội quân chủ lực trong các cuộc cách mạng.
Ngày 14/ 10/ 1930, tại Hội nghị lần thứ nhất khóa I, tổ chức “Nông hội
đỏ”, tiền thân của Hội Nông dân Việt Nam, đƣợc thành lập dƣới sự lãnh đạo
của Đảng. Hội là cầu nối trong việc tuyên truyền, phổ biến đƣờng lối, chính
sách của Đảng cho nông dân, tổ chức, động viên nhân dân thực hiện đƣờng
lối đó. Hội Nông dân là nơi nông dân phản ánh tâm tƣ, nguyện vọng đối với
Đảng, là đại diện cho lợi ích chính đáng của giai cấp nông dân.
Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công
nhân và của ngƣời lao động đƣợc thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho
ngƣời lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của
ngƣời lao động; tham gia quản lý nhà nƣớc, quản lý kinh tế - xã hội; tham gia
kiể m tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nƣớc, tổ chức, đơn vị,
doanh nghiệp về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của ngƣời lao
động; tuyên truyền, vận động ngƣời lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ
năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đặc điểm của cấp cơ sở
Thứ nhất, cấp cơ sở là cấp đƣợc nhân dân bầu ra, gần dân nhất, là nơi
chính quyền trong lòng dân.
Cấp cơ sở là cấp chính quyền gần dân nhất, đƣợc nhân dân trực tiếp
bầu ra, các cán bộ chủ chốt hoàn toàn phụ thuộc vào lá phiếu trong các kỳ bầu
cử. Đặc điểm này vừa mang tính chất thể chế, vừa mang tính chất thực tế. Cấp
cơ sở nƣớc ta từ sau Cách mạng Tháng Tám cho đến nay, về cơ bản cũng
mang đặc điểm đó. Nó là cấp gần dân nhất và thể hiện rõ nhất tính nhân dân.
Nhà nƣớc xác định cấp cơ sở là một cấp chính quyền, song khác với các cấp
chính quyền trên nó, Nhà nƣớc cho phép nhân dân ở cấp cơ sở tự lựa chọn

những ngƣời xứng đáng lãnh đạo chính quyền thông qua bầu cử. Nếu đƣợc

21


×