Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

Xây dựng chương trình ngoại khóa văn học cho học sinh lớp 11 trường THPT tỉnh Trà Vinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (407.1 KB, 113 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong định hướng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng
u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, Nghị quyết số 29-NQ/TW của Hội nghị
Trung ương 8 khóa XI cũng xác định: “Đối với giáo dục phổ thơng, tập trung phát
triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực cơng dân, phát hiện và bồi
dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo
dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, năng
lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng
sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời”. Và để thực hiện những yêu cầu
trên, toàn ngành Giáo dục – Đào tạo cần: “Đa dạng hóa nội dung, tài liệu học tập,
đáp ứng yêu cầu của các bậc học, các chương trình giáo dục, đào tạo và nhu cầu học
tập suốt đời của mọi người. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học
theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến
thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ
máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để
người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ
học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động
xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin
và truyền thông trong dạy và học”.
Trong lí luận và phương pháp dạy học chung, hoạt động giáo dục ngồi giờ
lên lớp (cịn gọi là hoạt động ngoại khoá) từ lâu đã được xác định như một phần
không thể thiếu của hoạt động giáo dục. Điều lệ Trường trung học cơ sở, trường
trung học phổ thông và trường phổ thơng có nhiều cấp học (Ban hành kèm theo
Quyết định số 12/2011/TT-BGDĐT ngày 28/3/2011 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo), điều 26 cũng nêu rõ: “Các hoạt động giáo dục bao gồm hoạt động trong
giờ lên lớp và hoạt động ngoài giờ lên lớp nhằm giúp học sinh phát triển tồn diện
về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá
nhân, tính năng động và sáng tạo, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn



bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động”. “Hoạt động giáo
dục ngoài giờ lên lớp bao gồm các hoạt động ngoại khoá về khoa học, văn học, nghệ
thuật, thể dục thể thao, an tồn giao thơng, phịng chống tệ nạn xã hội, giáo dục giới
tính, giáo dục pháp luật, giáo dục hướng nghiệp, giáo dục kỹ năng sống nhằm phát
triển toàn diện và bồi dưỡng năng khiếu; các hoạt động vui chơi, tham quan, du lịch,
giao lưu văn hố, giáo dục mơi trường; hoạt động từ thiện và các hoạt động xã hội khác
phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh”.
Đối với lí luận và phương pháp dạy học Văn, hoạt động ngoại khố văn học
ln được xem là một hình thức tự học tích cực, hiệu quả nhằm mở rộng kiến thức
văn học, kiến thức xã hội, giáo dục đạo đức, lòng yêu thiên nhiên, yêu quê hương,
đất nước, con người, phát triển kĩ năng sống cho học sinh, góp phần nâng cao chất
lượng của giờ học chính khóa, v.v. “Hoạt động ngoại khóa về văn học sẽ mở ra một
con đường thênh thang cho sự sáng tạo của thầy giáo và học sinh, những khả năng
của hoạt động ngoại khóa là vơ tận và trong mỗi trường, khả năng đó sẽ rất độc đáo
tùy thuộc vào hồn cảnh của trường và thành phần các giáo viên”. “Hoạt động
ngoại khóa văn học cũng góp phần chống lại sự xâm nhập từ bên ngồi của nền văn
hóa nghệ thuật tư sản; những thế lực thù địch không ngừng tấn cơng tồn diện vào
thanh thiếu niên”.
Tuy nhiên, thực tế dạy học Văn trong nhà trường phổ thông hiện nay chưa
thật sự chú trọng đến hoạt động ngoại khoá; trong quá trình triển khai thực hiện
hoạt động ngoại khố, các cơ sở giáo dục và giáo viên cịn gặp khơng ít lúng túng,
khó khăn. Các tài liệu tham khảo, hướng dẫn về tổ chức hoạt động ngoại khoá văn
học trong trường phổ thơng cũng chưa thực sự phong phú và ít nhiều cịn tản mạn,
thiếu tính chun sâu...
Xuất phát từ những lí do nêu trên, với mong muốn góp phần nâng cao chất
lượng, hiệu quả dạy học Văn, phát triển toàn diện tiềm năng, năng lực sáng tạo, tự
học của HS, đa dạng hố các hình thức giáo dục – dạy học trong chương trình Ngữ
văn THPT hiện hành, tơi quyết định lựa chọn thực hiện đề tài Xây dựng chương
trình ngoại khóa văn học cho học sinh lớp 11 trường THPT tỉnh Trà Vinh.



2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong khoảng hai mươi năm trở lại đây, vấn đề ngoại khoá văn học đã được
một số cơng trình nghiên cứu chú ý, đề cập.
Đáng chú ý nhất là trong giáo trình Phương pháp dạy học Văn (Phan Trọng
Luận chủ biên, NXB ĐHQGHN, 1996), toàn bộ nội dung chương IX được dành cho
Hoạt động ngoại khố văn học ở trường phổ thơng trung học (tr.378-390). Ở đây,
những định hướng cơ bản của hoạt động ngoại khoá văn học được các tác giả triển
khai qua các tiểu mục: 1) Vị trí, mục đích, nhiệm vụ của hoạt động ngoại khoá văn
học ở nhà trường PTTH trong điều kiện mới; 2) Khả năng đào tạo, giáo dục học
sinh qua hoạt động ngoại khoá văn học ở PTTH; 3) Nguyên tắc hoạt động ngoại
khoá văn học ở PTTH; 4) Hình thức hoạt động ngoại khố văn học ở PTTH. Tuy
nhiên, trong những giáo trình, tài liệu hướng dẫn về phương pháp dạy học văn xuất
bản trong thời gian gần đây (Phan Trọng Luận, Trương Dĩnh, Phương pháp dạy học
Văn, NXB ĐHSP, 2004; Nguyễn Thanh Hùng, Lê Thị Diệu Hoa, Phương pháp dạy
học Ngữ văn THPT, những vấn đề cập nhật, NXB ĐHSP, 2006, v.v.), nội dung
ngoại khoá văn học khơng được chính thức đề cập đến.
Trong số các bài báo, Trần Thanh Bình có bài Tổ chức và hướng dẫn học
sinh đọc ngoại khóa văn học (Tạp chí Giáo dục số 223, tháng 10/2009) đề cập đến
cách thức triển khai vấn đề đọc ngoại khoá - một nội dung trong hoạt động ngoại
khoá văn học. Cũng với cách tiếp cận tương tự, Nguyễn Trọng Hoàn trong bài Một
số vấn đề về đọc hiểu văn bản Ngữ văn (Tạp chí Giáo dục số 156, tháng 4/2004),
Trần Thanh Bình trong bài Mấy ý kiến về đọc hiểu văn bản văn học Việt Nam lớp
10 chương trình chuẩn (Tạp chí Dạy và học ngày nay, tháng 11/2007 v.v.) đều đánh
giá cao vai trị hỗ trợ tích cực của các “văn bản phụ” được tiếp nhận qua chương
trình ngoại khố đối với hoạt động đọc hiểu các văn bản văn học trong chương trình
chính khố v.v.
Gần đây, qua một số hội thảo như: “Hiệu quả của hoạt động ngoại khóa đối
với việc nâng cao chất lượng dạy- học trong nhà trường phổ thông” của Viện

Nghiên cứu giáo dục Trường ĐHSP Thành phố Hồ Chí Minh, “Cơng tác quản lí
hoạt động giáo dục ngồi giờ lên lớp ở trường phổ thơng” của Trường Cán bộ quản
lí giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh v.v., một số vấn đề lí luận và thực tiễn của hoạt


động ngoại khố nói chung cũng đã được đề cập và được làm sáng tỏ hơn. Tuy
nhiên, những nội dung liên quan trực tiếp đến công tác tổ chức và hướng dẫn ngoại
khố văn học ở trường phổ thơng vẫn chưa thu hút được sự quan tâm chú ý của các
nhà nghiên cứu.
Có liên quan gần gũi với đề tài chúng tôi là một số luận văn Thạc sĩ do các
học viên sau Đại học thực hiện trong những năm gần đây; ví dụ luận văn “Tác động
của hoạt động ngoại khóa đến tính tích cực học tập của học sinh THPT” của
Nguyễn Thị Thảo (Viện Đảm bảo chất lượng giáo dục – ĐHQGHN, 2013), luận văn
“Hoạt động ngoại khóa văn học ở trường THPT” của Đoàn Thuỵ Bảo Châu
(Trường ĐHSP TPHCM, 2010), luận văn “Tổ chức và hướng dẫn học sinh lớp 10
đọc ngoại khoá phần Văn học Việt Nam” của Hồ Thị Kim Chung (Trường ĐHSP
TPHCM, 2014) v.v. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa một tài liệu nào đề cập đến
quy trình xây dựng một chương trình ngoại khoá văn học cho học sinh với đầy đủ
cả hai phương diện: hoạt động ngoại khoá và đọc ngoại khoá. Do vậy, trong thời
điểm hiện nay, đề tài của chúng tôi thực sự là một đề tài cần thiết, có tính thời sự và
tính khoa học – sư phạm cao.

3. Mục tiêu nghiên cứu
Đề xuất quy trình, cách thức xây dựng và vận dụng chương trình ngoại khố
văn học cho học sinh lớp 11 trường THPT trên cả hai phương diện: hoạt động ngoại
khố và đọc ngoại khố, góp phần nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn, đa dạng
hố các hình thức tổ chức dạy học trong chương trình hiện hành theo định hướng
phát triển năng lực người học.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Xác định cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc xây dựng chương trình
ngoại khố văn học cho học sinh lớp 11 trường THPT.
- Đề xuất quy trình, cách thức xây dựng và vận dụng chương trình ngoại
khố văn học cho học sinh lớp 11 trường THPT trên cả hai phương diện: đọc ngoại
khoá và hoạt động ngoại khoá.


- Thực nghiệm: Thiết kế một kế hoạch triển khai thực hiện cụ thể nhằm minh
hoạ cho quy trình đã xây dựng; tổ chức thực nghiệm để rút kinh nghiệm, đánh giá
kết quả và tính khả thi của việc ứng dụng đề tài vào thực tiễn.

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: giáo viên Ngữ văn, học sinh Trường THPT Phạm
Thái Bường- thành phố Trà Vinh và một số trường THPT trong tỉnh.
- Phạm vi nghiên cứu: chương trình Ngữ văn lớp 11 THPT (chương trình
chuẩn).

6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: được sử dụng để nghiên cứu lịch sử vấn
đề và phát hiện, rút ra những kết luận cần thiết về cơ sở lí luận thơng qua việc tìm
hiểu các tư liệu, giáo trình, các bài nghiên cứu có liên quan trực tiếp đến đề tài.
- Phương pháp điều tra, khảo sát: được sử dụng để thu thập những tư liệu
thực tế về tình hình dạy học LV ở địa phương.
- Phương pháp thực nghiệm: thực nghiệm các giáo án đề xuất để rút kinh
nghiệm, kiểm nghiệm khả năng ứng dụng cũng như xem xét mức độ đúng đắn, tính
khả thi của đề tài.
- Phương pháp thống kê: được sử dụng để xử lí các số liệu thu thập trong quá
trình khảo sát, thực nghiệm, hỗ trợ cho phương pháp phân tích, tổng hợp nhằm đạt
tới kết luận chính xác, khách quan.


7. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa những vấn đề cơ bản của giáo dục học, lí luận dạy học, lí luận
và phương pháp dạy học văn về các khái niệm: hoạt động ngoại khoá, hoạt động
giáo dục ngồi giờ lên lớp, hoạt động ngoại khố văn học, đọc ngoại khoá văn học
v.v. nhằm làm nổi bật vai trị, vị trí của chương trình ngoại khố văn học trong
chương trình Ngữ văn hiện hành.


- Xác định mối liên hệ giữa hoạt động giáo dục ngồi giờ lên lớp trong
chương trình giáo dục hiện hành với chương trình hoạt động trải nghiệm sáng tạo
của chương trình giáo dục sau 2015, góp phần đưa chương trình giáo dục hiện hành
tiếp cận với chương trình giáo dục theo định hướng phát triển năng lực người học
sau 2015.
- Góp phần đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng dạy học Văn, đa dạng
hố các hình thức dạy học Văn theo hướng phát triển năng lực người học.

8. Cấu trúc luận văn:
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Thư mục tham khảo, Phụ lục, nội dung
của Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn.
Chương 2: Đề xuất chương trình ngoại khố văn học lớp 11 trường THPT.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.

NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Cơ sở giáo dục học
Để xây dựng chương trình ngoại khóa văn học, chúng ta cần quan tâm
tới những luận điểm nền tảng, chỉ dẫn toàn bộ các hoạt động của hệ thống

giáo dục nói chung và hoạt động giáo dục ngồi giờ lên lớp nói riêng. Một
trong số đó là các quan điểm về giáo dục học có liên quan tới hoạt động ngoại
khóa.


1.1.1.1. Ngun lí giáo dục
Đầu tiên, phải nói tới ngun lí giáo dục được qn xuyến trên tồn bộ
các nền giáo dục và xuyên suốt trong hệ thống giáo dục của nước ta. Nguyên
lí ấy được ghi rõ trong luật giáo dục: “Hoạt động giáo dục phải được thực
hiện theo ngun lí học đi đơi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản
xuất, lí luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục
gia đình và giáo dục xã hội” (Luật Giáo dục 2005, điều 3). Theo ngun lí
này, hoạt động học khơng chỉ hiểu lí thuyết mà phải biết áp dụng thực tế. Nói
về điều này, Bác cũng đã có hình ảnh so sánh thú vị. Người chỉ ra: “Lý luận
phải đem ra thực hành. Thực hành phải nhằm theo lý luận. Lý luận cũng như
cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để bắn. Có tên mà
khơng bắn, hoặc bắn lung tung, cũng như khơng có tên. Lý luận cốt để áp
dụng vào thực tế. Chỉ học thuộc lịng, để đem l thiên hạ thì lý luận ấy cũng
vơ ích. Vì vậy, chúng ta phải gắng học, đồng thời học thì phải hành” [16]. Từ
đó, ta thấy, học là một hoạt động nhận thức tích cực. Việc học của mỗi người
bao giờ cũng gắn với một động cơ nhất định. Chính động cơ học tập quyết
định phương hướng, thái độ, nội dung, phương pháp học tập. Còn “hành” là
sự vận dụng những điều đã học vào giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt
ra. Trong quá trình học tập “hành” có tính chất tồn diện với mức độ khác
nhau. Đó là sự vận dụng những hiểu biết để giải quyết bài tập , thực hành
trong phịng thí nghiệm, ở vườn trường… Đó cịn là sự vận dụng tri thức đã
học để tổ chức cuộc sống của mình, của mơi trường xung quanh mình, làm
cho nó trở nên phong phú, đẹp đẽ. Từ mỗi trường phổ thông cần có chiến
lược và kế hoạch cho các nội dung phối hợp ở ba phương diện: kiến thức, thái
độ, kỹ năng. Những nội dung phối hợp này có thể dựa vào mục tiêu, nhiệm

vụ, chương trình học hoặc những sự kiện, phong trào, hoạt động… hiện tại
trong môi trường giáo dục, xã hội. Dựa vào thực tế của trường và các mối
quan hệ với gia đình, và cộng đồng xã hội mà chúng ta xác định nội dung nào


sẽ được tổ chức phối hợp. Hoạt động này không những nâng cao hiệu quả
giảng dạy mà cịn có ý nghĩa trong cuộc sống nhằm nâng cao ý thức, thái độ
và kỹ năng sống cho học sinh. Như vậy, học khơng chỉ là ngồi ở trường lớp
mà cịn biết tổ chức ngoại khóa để mở mang, khắc sâu hiểu biết.
1.1.1.2. Mục tiêu giáo dục
Ngoài ra, mục tiêu giáo dục hiện nay cũng góp phần nâng cao vai trị
của hoạt động ngoại khóa. Cụ thể, mục tiêu hiện nay của giáo dục là học theo
nhiều cấp độ và phải biết áp dụng vào thực tế. Nó được nói dễ hiểu và súc tích
qua phát biểu giáo dục của UNESCO: học để biết, học để làm, học để chung
sống, học để tự khẳng định mình. Đây là mục tiêu giáo dục thế kỉ XXI vừa
hiện đại vừa thực tế vừa dân chủ và nhân văn. Mục đích học tập mà UNESCO
đề ra khơng chỉ phù hợp với thời đại mà cịn là mục đích rất nhân văn. Mục
đích học tập phải đáp ứng 2 ycầu: tiếp thu kiên thức và yêu cầu thực hành,
vận dụng kiến thức, từng bước hoàn thiện nhân cách. Trước hết :" học để
biết". Bài học đầu tiên của mỗi học sinh là học chữ cái, con sô rồi cách viết,
cách đọc. Chính từ nền tảng cơ bản nhất ấy đã dần hình thành nên 1 hệ thống
kiến thức tồn diện ở mức phổ thơng. Học ở đây là quá trình tiếp nhận kiến
thức do người khác truyền lại và tự mình làm giàu vốn kiên thức cho mình.
Qua việc học, chúng ta biết được những quy luật vận động của tự nhiên,
những quy tắc chuẩn mực của xã hội, cách sống và hiểu hơn về giá trị cuộc
sống. Thứ hai, học để làm, để sau này tham gia lao động sản xuất, tạo ra
những giá trị tinh thần và vật chất nuôi dưỡng cả bản thân, gia đình và đóng
góp cho xã hội. Nhờ học để làm, ta tăng khả năng quan sát, đúc rút kinh
nghiệm trong lao động của họ. Những người hay nói mà khơng hay làm là
những người vơ dụng. Đó là những con người chỉ biết trang trí bản thân chứ

ko biết rèn luyện bản thân. Bên cạnh việc đề cao giữa thu nhận kiến thức và
thực hành, UNESCO đã chỉ ra:" học để chung sống, học để tự khẳng định
mình". Đây chính là mục đính học tập rất nhân văn. Học tập giúp ta hiểu hơn


về thế giới xung quanh, làm cho những trạng thái tâm hồn ta trở nên linh hoạt
hơn, đa dạng phong phú hơn. Ta đã biết mỉm cười trước niềm vui của người
khác, biết đau trước những nỗi đau của con người, biết giúp đỡ, chia sẻ, cảm
thơng và tìm được chính mình. Tri thức tự nó đã là sức mạnh giúp cho con
người rộng lượng hơn, vị tha hơn và tự tin hơn trong cuộc sống. Như vậy, học
hiện nay khơng phải chỉ để thi cử với nội dung bó hẹp ở trường lớp, học trên
sách vở mà còn học để có kĩ năng sống tốt hơn. Mục đích học tập này, ta có
thể tìm thấy trong hoạt động ngoại khóa.
Bằng những luận điểm nền tảng trên, ta có thêm kim chỉ nam chỉ dẫn
toàn bộ các hoạt động của hệ thống giáo dục nói chung và hoạt động giáo dục
ngồi giờ lên lớp nói riêng đồng thời từ đó ta khẳng định rõ hơn vai trò quan
trọng của hoạt động ngoại khóa.
1.1.2. Cơ sở lí luận dạy học:
Để xây dựng chương trình ngoại khóa văn học, chúng ta khơng chỉ dựa
trên cơ sở giáo dục học mà còn dựa trên cơ sở lí luận dạy học. Đây là cơ sở lí
luận mang tính định hướng cho hoạt động ngoại khóa. Trong đó, ta đi sâu vào
lí luận về hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. Đây là phần lí thuyết nền tảng
của hoạt động ngoại khóa văn học.
1.1.2.1. Khái niệm hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
Theo nghĩa rộng, khái niệm hoạt động giáo dục bao gồm hoạt động giáo
dục trong giờ lên lớp (hoạt động dạy học) và hoạt động giáo dục ngoài giờ lên
lớp; theo nghĩa hẹp, hoạt động giáo dục dùng để chỉ riêng các hoạt động giáo
dục ngoài giờ lên lớp (hoạt động tập thể, hoạt động giáo dục theo chủ đề, hoạt
động hướng nghiệp, hoạt động giáo dục nghề phổ thông…). Hoạt động giáo
dục ngoài giờ lên lớp là những hoạt động được tổ chức ngồi giờ học các bộ

mơn văn hóa, được thực hiện có mục đích, kế hoạch, có tổ chức giúp học sinh
nâng cao hiểu biết, mở rộng kiến thức đã học trên lớp, củng cố các kỹ năng,
hình thành thái độ đúng đắn trước những vấn đề của cuộc sống [9,54].


Hoạt động này là sự nối tiếp bổ sung hoạt động trên lớp, là con đường gắn
lý luận với thực tiễn nhằm tạo ra sản phẩm đáp ứng mục tiêu của xã hội. Nội
dung của hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp rất đa dạng và phong phú liên
quan đến các mặt giáo dục như giáo dục đạo đức, lối sống, giáo dục thẩm mỹ,
giáo dục pháp luật,… Các nội dung này được chia thành 10 chủ đề hoạt động
trong cả năm học.
Việc tổ chức các hoạt động này phải mang tính chất mềm dẻo, linh hoạt
(về thời điểm, thời lượng hoạt động, quy mô hoạt động phù hợp với điều kiện
thực tế, hình thức tổ chức hoạt động, lực lượng giáo dục tham gia hoạt động ,
…). Các nội dung hoạt động phải mang tính tích hợp nhiều mơn học, nhiều
lĩnh vực đời sống XH. Hơn thế, nó phải tạo cơ hội cho học sinh được trải
nghiệm, thực hành những kiến thức, kỹ năng đã học vào thực tiễn cuộc sống.
Ví dụ như: Thi tìm hiểu (dưới nhiều hình thức); thi văn nghệ, thể dục, thể
thao; thi khéo tay hay làm; tổng vệ sinh trường, lớp; trang trí lớp học, trường
học; trồng cây, trồng hoa ở nơi ở; rang hoàng, bày biện nhà cửa; làm đồ chơi,
đồ dùng đơn giản từ các phế liệu ( que kem, vỏ hộp, vỏ lon, giấy báo cũ,...).
Quá trình tổ chức tập thể cần phải tạo cơ hội cho học sinh được tự khẳng định
bản thân; được phát triển tiềm năng của bản thân. Hoạt động cần được tổ chức
dưới các hình thức phong phú, đa dạng của hoạt động GD NGLL giúp
chuyển tải các nội dung giáo dục tới HS một cách nhẹ nhàng, hấp dẫn. Khi tổ
chức các hoạt động GD NGLL phải có khả năng thu hút sự tham gia của các
lực lượng trong và ngoài nhà trường như Cơng đồn, Đồn Thanh niên, Cơng
an xã, Hội cựu chiến binh, Hội Phụ nữ, Hội chữ thập đỏ, Hội nông dân, Ban
đại diện cha mẹ học sinh, phụ huynh học sinh…, tạo cơ hội cho học sinh được
lĩnh hội các nội dung giáo dục bằng nhiều kênh khác nhau, với nhiều cách

tiếp cận khác nhau.
1.1.2.2. Vai trò của hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp


Để đảm bảo tính thống nhất, tồn diện của hoạt động giáo dục (theo
nghĩa rộng), nội dung kế hoạch giáo dục các mơn học trong chương trình giáo
dục phổ thơng cần phải bao gồm đầy đủ cả hoạt động giáo dục trong giờ lên
lớp và hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. Nó tạo điều kiện gắn bó các kiến
thức môn học với đời sống, địa phương, cộng đồng, đất nước. Từ đó, hoạt
động giáo dục ngồi giờ lên lớp có vai trị giúp cho học sinh được củng cố,
mở rộng, khắc sâu một số kiến thức cơ bản đã được học qua các mơn văn hố,
rèn luyện sức khỏe, nâng cao thể lực, phát triển nhận thức về một số lĩnh vực
đời sống xã hội phù hợp với lứa tuổi. Thơng qua các hoạt động này, ta cịn
góp phần hình thành, phát triển những phẩm chất, tư tưởng, ý chí, tình cảm,
giá trị, kỹ năng sống và những năng lực chung cần có ở con người trong xã
hội hiện đại, nhất là trách nhiệm với bản thân, cộng đồng, đất nước, mơi
trường tự nhiên; tính tự lập, tự tin, tự chủ; các năng lực sáng tạo, hợp tác, giao
tiếp, tự quản lí bản thân, hình thành cho học sinh những kỹ năng hoạt động
tập thể, kỹ năng giao tiếp ở mức độ phù hợp với lứa tuổi, bao gồm các kỹ
năng hợp tác, kỹ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề, kỹ năng kiên định,
kỹ năng đặt mục tiêu, kỹ năng ứng phó với căng thẳng; giúp các em biết vận
dụng, thực hành những kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống như biết tự
trọng, tự tin, có trách nhiệm với bản thân, gia đình và tập thể; có hứng thú,
tích cực, chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong các hoạt động tập thể của lớp,
trường. Có thể nói hoạt động giáo dục ngồi giờ lên lớp là sự nối tiếp bổ sung
hoạt động trên lớp, là con đường gắn lý luận với thực tiễn, tạo ra sản phẩm
đáp ứng mục tiêu của xã hội và đáp ứng mục tiêu tiêu giáo dục.
Cụ thể, nó thể hiện ở các mặt sau:
Về nhận thức: Củng cố và khắc sâu kiến thức của các môn học, mở
rộng và nâng cao hiểu biết cho học sinh về các lĩnh vực của đời sống xã hội,

làm phong phú thêm vốn tri thức, kinh nghiệm hoạt động tập thể của học sinh.


Về rèn luyện kỹ năng: Mục tiêu của hoạt động là rèn luyện những kỹ
năng cơ bản, cần thiết như kỹ năng giao tiếp ứng xử có văn hóa, kỹ năng tổ
chức quản lý và xử lý các hoạt động, kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá kết quả
học tập, rèn luyện. Thơng qua hoạt động các em sẽ nhìn nhận đánh giá được
kết quả hoạt động của mình, biết rút kinh nghiệm để tự điều chỉnh hoàn thiện
bản thân và giúp người khác hướng tới mục tiêu giáo dục tồn diện.
Về giáo dục thái độ: Hoạt động hình thành cho học sinh những tình
cảm đạo đức trong sáng với thầy cô, bạn bè, quê hương đất nước, bồi dưỡng
cho các em lòng tự trọng, các chuẩn mực đạo đức và những giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, biết tơn trọng pháp luật. Hình thành cho các em
tính tích cực, năng động, chủ động, sáng tạo khi tham gia các hoạt động xã
hội, hoạt động tập thể của nhà trường.
Tóm lại, đây là cơ sở định hướng cho việc xây dựng các chương trình
hoạt động giáo dục ngồi giờ lên lớp cho tất cả các môn học trong chương
trình giáo dục phổ thơng, trong đó có mơn Ngữ văn.
1.1.3. Cơ sở lí luận và phương pháp dạy học Văn
Đặc thù bộ môn Văn vừa ảnh hưởng tới mức độ áp dụng ngoại khóa vừa
quy định cách thức tiến hành cụ thể các hoạt động ngoại khóa văn học trong
nhà trường. Trong mơn Văn, nội dung ngoại khóa là một phần quan trọng. Nó
bắt nguồn từ các cơ sở lí luận sau:
1.1.3.1. Mục tiêu bộ mơn Ngữ văn:
Mơn Ngữ văn khơng chỉ có nhiệm vụ “bồi dưỡng tâm hồn” mà quan
trọng hơn là môn “công cụ” để học sinh có thể vận dụng những kiến thức và
kỹ năng đã học vào trong cuộc sống và công việc.
Mục tiêu dạy học Ngữ văn hiện nay là sự cụ thể hóa mục tiêu giáo dục
nói chung, chú trọng dạy chữ, dạy người và hướng nghiệp.
Đi vào cụ thể, môn Ngữ văn nhấn mạnh ba mục tiêu chính sau:



1) Trang bị những kiến thức phổ thông, cơ bản, hiện đại, có tính hệ
thống về ngơn ngữ và văn học – trọng tâm là tiếng Việt và văn học Việt Nam
– phù hợp với trình độ phát triển của lứa tuổi và yêu cầu đào tạo nhân lực
trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2) Hình thành và phát triển ở học sinh các năng lực sử dụng tiếng Việt,
tiếp nhận văn bản, cảm thụ thẩm mỹ, phương pháp học tập tư duy, đặc biệt là
phương pháp tự học, năng lực ứng dụng những điều đã học vào cuộc sống. Ở
cấp THPT mục tiêu trực tiếp, chủ yếu của mơn Ngữ văn THPT là hình thành
và rèn luyện cho học sinh năng lực đọc - hiểu cũng như tạo lập các loại văn
bản. Chính vì thế, theo GS Đỗ Ngọc Thống , chương trình được tạo dựng theo
hai trục tích hợp: Đọc văn và Làm văn [6]. Phân mơn Văn học có chức năng
cung cấp một hệ thống tri thức phổ thông, cơ bản, hiện đại về văn học Việt
Nam và thế giới, thông qua việc phân tích tác phẩm văn chương mà bồi
dưỡng cho học sinh những giá trị Chân - Thiện - Mỹ. Học sinh khơng chỉ
được rèn luyện năng lực phân tích, cảm thụ tác phẩm nghệ thuật, mà còn biết
vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống. Phân môn Làm văn có chức năng
rèn luyện kỹ năng viết văn bản. Ban đầu các đề thi chỉ yêu cầu làm nghị luận
văn học, càng về sau, nghị luận xã hội càng được chú trọng. Hiện nay, trong
các đề thi Ngữ văn tốt nghiệp THPT và tuyển sinh Đại học có câu nghị luận
xã hội 3 điểm, bàn về một tư tưởng đạo lý hoặc một vấn đề xã hội. Nghĩa là
việc dạy học Ngữ văn ngày càng xích lại gần đời sống. Cịn chức năng của
phân mơn Tiếng Việt là hình thành và rèn luyện cho HS năng lực sử dụng
thành thạo tiếng mẹ đẻ với bốn kỹ năng cơ bản: đọc, viết, nghe, nói, qua đó
mà rèn luyện tư duy. Đồng thời, giúp các em có những hiểu biết nhất định về
hệ thống tri thức tiếng Việt và ngôn ngữ để sử dụng tiếng mẹ đẻ một cách
thành thạo, có ý thức.
3) Bồi dưỡng cho học sinh tình yêu tiếng Việt, văn học, văn hóa, tình
u gia đình, thiên nhiên, đất nước, lịng tự hào dân tộc, ý chí tự lập, tự

cường, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, tinh thần dân chủ nhân văn, giáo dục cho


học sinh trách nhiệm công dân, tinh thần hữu nghị hợp tác quốc tế, ý thức tôn
trọng và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại. “Văn học là
nhân học”, từ xưa tới nay trong việc giáo dục con người, văn chương vẫn
được sử dụng như một cơng cụ đắc hiệu, khơng ai có thể phủ nhận tầm quan
trọng của văn chương trong việc xây dựng và giữ gìn đạo đức xã hội. Người
giáo viên là những “kĩ sư tâm hồn” – điều đó rất đúng với các thầy cơ dạy văn
vì Ngữ văn là một bộ môn dễ tác động nhất đến thế giới nội tâm con người,
bồi đắp cả kiến thức, kĩ năng lẫn tâm hồn cho học sinh.
1.1.3.2. Đặc điểm bộ môn Ngữ văn
Văn là cuộc sống, do vậy dạy văn và học văn phải gắn liền với cuộc
sống. Dạy học văn gắn với đời sống trở thành nguyên tắc dạy học quan trọng
nhất. Chương trình mơn văn, ngay từ đầu đã khẳng định: Muốn phát huy chức
năng của văn học, giáo viên cần gắn liền việc giảng dạy văn học với đời sống.
Nguyên tắc dạy học gắn liền với đời sống cịn được diễn đạt theo cách khác
như học đi đơi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn và là nguyên tắc chi
phối hoạt động dạy học của mọi mơn học trong nhà trường. Xét theo mục
đích cuối cùng của việc dạy học thì khơng phải chỉ là việc học sinh có nắm
vững kiến thức hay khơng mà có thực sự vận dụng được những kiến thức, kĩ
năng của bài học vào hoạt động thực tiễn hay không. Để làm được điều đó,
trong giờ học, giáo viên ln chú ý lấy những ví dụ từ thực tế để minh họa
cho bài học; phát huy tối đa vai trò của thiết bị dạy học, máy chiếu, công nghệ
thông tin để có hình ảnh sống động; đồng thời chú trọng tích hợp kiến thức
liên môn… Đồng thời, giáo viên luôn tổ chức bài học theo hướng mở, để học
sinh có thể thoải mái thể hiện quan điểm cá nhân, từ đó phát huy năng lực
sáng tạo, sự hứng khởi học tập. Những câu hỏi ln có mở rộng liên hệ thực
tế. Ví dụ câu hỏi cuối trong phần Hướng dẫn học bài của tác phẩm “Bình Ngơ
đại cáo” (Nguyễn Trãi): Qua bài cáo em thấy nội dung nhân nghĩa của

Nguyễn Trãi là gì? Liên hệ với cuộc kháng chiến chống Pháp, cuộc kháng
chiến chống Mỹ.


Văn còn là nghệ thuật, do vậy dạy và học Văn phải sáng tạo. Không thể
chỉ phụ thuộc vào vài bài văn mẫu mà đủ, người học người dạy phải phát huy
tư duy năng động để phá hiện ra cái mới. Đương nhiên, cái mới không thể ra
đời với những người chỉ biết ngồi bàn, đọc kiến thức SGK. Phải tham gia
nhiều hoạt động, mở mang hiểu biết thì mới sáng tạo được. Các văn bản trong
chương trình ngữ văn THCS đều được chọn lọc rất kỹ và là những tác phẩm
nghệ thuật tiêu biểu, đặc sắc. Nó giúp HS nhận thức cuộc sống, đưa đến
những bài học, những cảm xúc thẩm mỹ cao đẹp, sâu lắng trong tâm hồn và
tình cảm con người. Những điều này lại phụ thuộc vào bề dày vốn sống, tri
thức kinh nghiệm sống của mỗi cá nhân. Do vậy tiếp nhận văn bản là một hệ
thống mở và kết quả tiếp nhận ở mỗi HS có thể khác nhau, thậm chí có nhiều
mới lạ chưa hẳn trùng khớp với dự kiến của GV. Dạy văn thực chất là giúp
cho HS biến tác phẩm của nhà văn thành tác phẩm của mình. Chính vì thế đổi
mới PPDH cịn có nghĩa là tơn trọng và đề cao những tìm tịi, khám phá, cảm
thụ phân tích văn bản tích cực của HS. Đây cũng là một biểu hiện của tính cá
thể hóa và sáng tạo trong tiếp nhận văn bản.
Từ những điều trên, ta thấy, việc dạy học Ngữ văn ngày càng xích lại gần
đời sống và phải có sự sáng tạo cao. Điều đó địi hỏi các cơ sở giáo dục phải
quan tâm xây dựng và ngày càng hồn thiện chương trình ngoại khố văn học
một cách thích hợp, phù hợp với những điều kiện cụ thể của mình để làm mơn
Văn đi đúng tính chất của nó.
1.2. Cơ sở thực tiễn:
1.2.1. Thực tiễn xây dựng chương trình ngoại khố văn học ở trường trung
học phổ thông
1.2.1.1. Ý kiến, dư luận xã hội trên các phương tiện thơng tin đại chúng
Có một mâu thuẫn lớn đang xảy ra giữa vai trị của mơn Văn với sự quan

tâm của học sinh và xã hội. Môn Văn đều được coi là mơn chính ở bất kì cấp


học nào tuy nhiên, hiện nay môn Ngữ Văn đang bị tuyệt đại đa số học sinh
phổ thông chối bỏ. Chẳng hạn số lượng học sinh đăng ký học và thi ban Xã
hội & Nhân văn (còn được gọi là ban C) ngày càng ít đi. Đã vậy, chất lượng
lại không cao khi phần lớn các em học ban này chỉ vì khơng đủ năng lực theo
học các ban khác. Gần 100% học sinh THPT chỉ cần học văn để thi đỗ tốt
nghiệp mà thơi [6].
Tại sao lại vậy? Đó là vì chúng ta chưa thực hiện đúng mục tiêu và
phương pháp môn Ngữ văn. Thực trạng trên là hệ quả của việc dạy học văn
trong nhà trường hiện nay. Chương trình - SGK hiện hành thiếu thiết thực,
tính phục vụ cuộc sống của chương trình và SGK mơn Ngữ Văn hiện nay cịn
yếu. Ví dụ, từ lớp 10 đến lớp 12 học sinh phải học tổng cộng 94 tiết Làm văn
nhưng trong đó chỉ có 5 tiết dạy học nói. Chính sự q tải như thế mà rất
nhiều giờ văn kiểu cưỡi ngựa xem hoa phần nào tước mất sự hứng thú và say
mê của học sinh. Giáo viên khó mà tạo được sự lắng đọng, những ấn tượng
văn chương ở các em qua những giờ văn như thế. Cả thầy và trò đều phải
chạy đua với thời gian để hồn thành kế hoạch dạy học, để đối phó với thi cử.
Một khi học sinh đã quá nhàm chán với kiểu học văn thầy giảng, trò nghe, ghi
chép thụ động, thỉnh thoảng rụt rè trình bày vài ý kiến theo gợi ý của thầy…
nảy sinh thực trạng học đối phó, thụ động, thậm chí chán học bộ mơn [6].
Đổi mới dạy học Văn là yêu cầu cấp thiết. Trước hết GV phải biết thiết
kế tổ chức HS thực hiện các hoạt động học tập ngữ văn nhằm phát triển tư
duy ngơn ngữ, rèn luyện kỹ năng nghe - nói - đọc - viết, năng lực cảm thụ tác
phẩm văn chương. Thường xuyên điều chỉnh các hoạt động học tập của HS,
động viên và luôn tạo điều kiện cho các em tham gia tích cực, chủ động, sáng
tạo trong quá trình tiếp nhận, giải mã và sản sinh văn bản. Song song đó, GV
phải biết sử dụng và hướng dẫn HS sử dụng các thiết bị đồ dùng và ứng dụng
CNTT để khai thác và vận dụng kiến thức ngữ văn có hiệu quả. Bằng mọi

cách GV phải tạo điều kiện cho HS rèn luyện kỹ năng học tập tích cực, chủ


động, hình thành thói quen vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết các vấn
đề thực tiễn. Trong giảng dạy cần chú ý khai thác vốn kiến thức, kinh nghiệm,
kỹ năng nghe - nói - đọc - viết mà HS đã có. Sự vận dụng các PPDH phải đi
từ cái HS đã có đến cái HS cần có, từ thực tiễn cuộc sống của HS tới kiến
thức trong sách vở và quay trở về phục vụ cuộc sống. So với cách dạy truyền
thống, sự vận dụng PPDH trong giờ ngữ văn đã có sự thay đổi cơ bản về chất:
từ thông báo, tái hiện sang tổ chức cho HS tiếp nhận, cảm thụ; từ dạy học tính
chất tĩnh sang tính chất động…
Một trong những biện pháp đổi mới là kết hợp dạy Văn chính khóa với
thực hành ngoại khóa văn học. Hoạt động ngoại khóa vừa là một hoạt động
giải trí vừa là một phương pháp giáo dục - một phương pháp đã được nhiều
nền giáo dục tiên tiến trên thế giới vận dụng. Lồng ghép ngoại khóa trong dạy
và học môn Ngữ văn, kết hợp với những phương pháp dạy học khác sẽ có ý
nghĩa tích cực đối với yêu cầu đổi mới hiện nay. Thực hiện ngoại khóa nhằm
bổ sung và đổi mới những phương pháp dạy học Ngữ văn truyền thống. Giải
pháp này sẽ làm thay đổi khơng khí căng thẳng trong các giờ học, tăng thêm
hứng thú cho người học, học sinh sẽ chú ý hơn, chủ động hơn trong chuẩn bị,
mạnh dạn hơn trong đề xuất ý kiến của mình, phát huy tư duy sáng tạo,…
Hứng thú và chủ động trong học tập là sự khởi đầu tốt cho việc nắm bắt kiến
thức, hình thành kĩ năng và phát triển nhân cách ở học sinh qua bộ mơn Văn.
Hoạt động ngoại khố Văn học theo quan niệm đổi mới phương pháp
dạy học là một hình thức tự học tích cực, bổ ích và có hiệu quả, nối
liền bục giảng với thực tiễn đời sống, mở rộng, kéo dài trường suy
tưởng - thẩm định về bài học cho học sinh; phát huy tính tích cực,
chủ động sáng tạo của người học, kiểm tra lại chất lượng dạy học
trong giờ chính khố. Hoạt động ngoại khố Văn học, vì thế, vừa là
hoạt động giáo dục, vừa là hoạt động thẩm mỹ, "góp phần tạo ra lối

sống văn hoá và khả năng hưởng thụ văn hoá nghệ thuật cho học
sinh.


Tuy nhiên, tham khảo ở các trường, tôi thấy giáo viên tâm huyết thường
cũng áp dụng ngoại khóa một cách tự phát, khơng theo chương trình. Có
người lại cho rằng đây là hoạt động lãng phí thời gian. Chúng ta chỉ áp dụng
được ngoại khóa trong một tiết sinh hoạt hay khoảng thời gian nhỏ trong giờ
chào cờ. Càng lên THPT, việc tổ chức ngoại khóa càng thành gáng nặng và bị
cắt xén, như THPT Đống Đa – Hà Nội, ngoại khóa biến thành buổi tham quan
mỗi năm một lần, tuy nhiên khơng đả động gì tới văn học. Các trường khác
trong Hà Nội, đan xen trong giờ giáo dục ngoài giờ lên lớp với nội dung chủ
yếu là giáo dục đạo đức [23]. Việc triển khai hoạt động ngoại khóa trong
thực tiễn dạy học cịn nhiều khó khăn vướng mắc nên vẫn chưa tháo gỡ được
hết những khó khăn cho cả người dạy và người học.
1.2.1.2. Ý kiến chuyên gia qua các cơng trình nghiên cứu
Nghiên cứu về ngoại khóa văn học khơng phải mới. Nó đã được các nhà
nghiên cứu cả trong và ngoài nước đề cập tới, tuy nhiên, trong bối cảnh dạy
và học văn hiên nay, vấn đề ngoại khoá văn học được chú ý trở lại và trở
thành trọng tâm của nhiều cơng trình nghiên cứu mới. Nó khẳng đinh: ngoại
khóa văn học thực sự có tầm quan trọng trong đổi mới văn học.
Đáng chú ý nhất là những cơng trình của GS. GS. Phan Trọng Luận. GS
là người tâm huyết nhất với nghiên cứu phương pháp dạy văn nói chung và
hoạt động ngoại khóa nói riêng. Thầy đã viết nhiều cuốn sách, trong đó có đề
cập tới ngoại khóa văn học như giáo trình Phương pháp dạy học Văn (Phan
Trọng Luận chủ biên, NXB ĐHQGHN, 1996). Toàn bộ nội dung chương IX
được dành cho Hoạt động ngoại khố văn học ở trường phổ thơng trung học
(tr.378-390). Ở đây, những định hướng cơ bản của hoạt động ngoại khoá văn
học được các tác giả triển khai qua các tiểu mục: 1) Vị trí, mục đích, nhiệm
vụ của hoạt động ngoại khoá văn học ở nhà trường PTTH trong điều kiện

mới; 2) Khả năng đào tạo, giáo dục học sinh qua hoạt động ngoại khoá văn
học ở PTTH; 3) Nguyên tắc hoạt động ngoại khoá văn học ở PTTH; 4) Hình


thức hoạt động ngoại khố văn học ở PTTH. Ngồi ra, thầy cịn viết cuốn:
“Hoạt động văn học ngồi nhà trường, vị trí của cơng tác ngoại khóa văn
học”. Trong cuốn “Hoạt động văn học ngồi nhà trường, vị trí của cơng tác
ngoại khóa văn học”, thầy đã chỉ rõ phải kết hợp cả hoạt động văn học ngoài
nhà trường, giảng dạy trên lớp chỉ là phần xác, phải đem tới phần hồn bằng
chính các trải nghiệm bên ngồi. Ngoại khóa văn học là một cách đem tới
phần hồn. Thầy có chỉ ra một số hình thức ngoại khóa như: đọc ngoại khóa,
sưu tầm tư liệu, đóng kịch,….Cuốn thứ ba là “Cơng tác ngoại khóa văn học
với nhiệm vụ đào tạo con người toàn diện của nhà trường xã hội chủ nghĩa”.
Cuốn sách này cũng tương tự như cuốn trên, trong đó, thầy chủ yếu đi vào tác
dụng của ngoại khóa, phần biện pháp cụ thể cũng có nhưng chưa rõ ràng.
Cuốn thứ tư là “Nguyên tắc hoạt động ngoại khóa văn học” có phần lí thuyết
về ngoại khóa đầy đủ, rõ ràng hơn. Ta có thể lấy cuốn sách này làm cơ sở lí
luận cho đề tài luận văn này. Với cách trình bày khoa học, có dẫn chứng cụ
thể trong chương trình, cuốn sách đã giúp chúng ta mường tượng được hướng
đi trong thiết kế, thực hiện hoạt động ngoại khóa. Tuy vậy, cuốn sách mới
dùng ở lí thuyết. Tóm lại, các cuốn sách đều nêu được tác dụng lớn lao của
ngoại khóa, coi ngoại khóa là bộ phận khơng thể thiếu để giáo dục học sinh.
Thầy cịn dẫn chứng các hoạt động ngoại khóa từng được tổ chức tại các
trường THPT. Từ đó, thầy đề ra một số hướng dẫn quan trọng giúp chúng ta
xây dựng chương trình ngoại khóa và tiến hành hiệu quả trong hồn cảnh đất
nước cịn nhiều khó khăn. Tuy nhiên, cuốn sách viết từ lâu nên có một số nội
dung khá cũ, chưa cập nhật. Chúng ta chỉ tham khảo được tư tưởng đề cao
ngoại khóa xuyên suốt trong cuốn sách của thầy. Nhiều phần viết nặng về lí
thuyết. Thiết kế cụ thể ra sao, đặc biệt ở chương trình lớp 11 thì chưa được
nhắc tới. Ngồi ra, trong những giáo trình, tài liệu hướng dẫn về phương pháp

dạy học văn xuất bản trong thời gian gần đây (Phan Trọng Luận, Trương
Dĩnh, Phương pháp dạy học Văn, NXB ĐHSP, 2004; Nguyễn Thanh Hùng,
Lê Thị Diệu Hoa, Phương pháp dạy học Ngữ văn THPT, những vấn đề cập


nhật, NXB ĐHSP, 2006, v.v.), nội dung ngoại khoá văn học khơng được
chính thức đề cập đến.
Người cũng quan tâm tới ngoại khóa văn học trong số các nhà nghiên
cứu cịn có GS Trần Thanh Bình. Trong các bài báo, Trần Thanh Bình có bài
Tổ chức và hướng dẫn học sinh đọc ngoại khóa văn học (Tạp chí Giáo dục số
223, tháng 10/2009) đề cập đến cách thức triển khai vấn đề đọc ngoại khoá một nội dung trong hoạt động ngoại khoá văn học. Bài viết đã đi sâu vào hoạt
động đọc sáng tạo cho học sinh trong ngoại khóa, đề ra các bước tiến hành cụ
thể từ lúc chuẩn bị cho tới kết thúc của phần ngoại khóa để chúng ta học hỏi
cách tiến hành ngoại khóa. Ngồi ra, trong bài viết, có đề cập tới một phần
chương trình lớp 11 làm cơ sở tham khỏa cho luận văn.
Thứ ba, chúng ta có thể nhắc tới các cơng trình của GS Nguyễn Trọng
Hồn. Trong bài Một số vấn đề về đọc hiểu văn bản Ngữ văn (Tạp chí Giáo
dục số 156, tháng 4/2004), GS đã đánh giá cao vai trị hỗ trợ tích cực của các
“văn bản phụ” được tiếp nhận qua chương trình ngoại khố đối với hoạt động
đọc hiểu các văn bản văn học trong chương trình chính khố v.v.
Ngồi ra, gần đây, có một số hội thảo đáng chú ý đề cập đến vấn đề
hoạt động ngoại khóa như:
- Hội thảo “Hiệu quả của hoạt động ngoại khóa đối với việc nâng cao
chất lượng dạy-học trong nhà trường phổ thông” của Viện Nghiên cứu giáo
dục, Trung tâm Đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục.
- Hội thảo “Cơng tác quản lí hoạt động giáo dục ngồi giờ lên lớp ở
trường phổ thơng” của Trường Cán bộ quản lí giáo dục Thành phố Hồ Chí
Minh
Các hội thảo cũng đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề xung quanh hoạt động
ngoại khóa, hoạt động ngoại khóa văn học. Trong hội thảo, các bài hầu hết

đều chỉ ra tác dụng lớn của ngoại khóa và việc cần thiết phải áp dụng trong
trường THPT. Song cũng có bài nêu lên sự hạn chế khi tiến hành hoạt động


này, đó là bởi chúng ta cịn đi theo lối dạy cũ, cơ sở vật chất và kinh phí quá
hạn hẹp trong khi tổ chức ngoại khóa “ra hồn” thì tốn kém vô cùng. Thực tế,
ở thành phố, may ra các em có vài buổi sinh hoạt chung trước cờ hoặc đi tham
quan. Ở nơng thơn thì hầu như khơng có. Ngay cả đi tham quan cũng chỉ
mang tính chất đi chơi, ngoại khóa văn học ít có “đất sống”. Các em thích ca
hát và các trị chơi hiện đại thay vì học văn. Đó là thực tế phổ biến mà một số
bài trong hội thảo đã thẳng thắn chỉ ra.
Có liên quan gần gũi với đề tài chúng tơi là một số luận văn thạc sĩ do
các học viên sau đại học thực hiện trong những năm gần đây; ví dụ
- Luận văn “Tác động của hoạt động ngoại khóa đến tính tích cực học
tập của học sinh THPT” của Nguyễn Thị Thảo (Viện Đảm bảo chất lượng
giáo dục – ĐHQGHN, 2013).
- Luận văn “Hoạt động ngoại khóa văn học ở trường THPT” của Đoàn
Thuỵ Bảo Châu (Trường ĐHSP TPHCM, 2010)
- Luận văn “Tổ chức và hướng dẫn học sinh lớp 10 đọc ngoại khoá phần
Văn học Việt Nam” của Hồ Thị Kim Chung (Trường ĐHSP TPHCM, 2014).
Các luận văn trên đều triển khai phần lí luận cụ thể, trong đó, tư tưởng
bám sát là coi ngoại khóa văn học là phân môn riêng, không thể sát nhập với
hoạt động ngoài giờ lên lớp ở trường. Luận văn “Tác động của hoạt động
ngoại khóa đến tính tích cực học tập của học sinh THPT” của Nguyễn Thị
Thảo chỉ rõ được vai trị của ngoại khóa với việc làm học sinh thêm u thích
mơn học, trong đó đặc biệt là mơn Văn. Lí do chính bởi Văn là mơn có đất
cho ngoại khóa và cũng là mơn dễ bị đánh giá là nhàm chán nếu không kết
hợp kiến thức từ bên ngồi. Luận văn “Hoạt động ngoại khóa văn học ở
trường THPT” của Đồn Thuỵ Bảo Châu cũng có phần lí luận và thực tiễn rõ
nét, nhưng đóng góp lớn nhất của luận văn này là tác giả đã chỉ rõ các hình

thức ngoại khóa văn học cụ thể, chi tiết, làm tiền để để chúng ta áp dụng vào
ngoại khóa văn học 11. Cuối cùng là luận văn “Tổ chức và hướng dẫn học


sinh lớp 10 đọc ngoại khoá phần Văn học Việt Nam” của Hồ Thị Kim Chung.
Luận văn đưa ra phương hướng cụ thể cho phần đọc ngoại khóa của lớp 10.
Biện pháp và cách thức tiến hành rất rõ ràng, song phần đọc ngoại khóa, nhất
là ngoại khóa văn học dân gian, đã có nhiều nơi nghiên cứu, thực hiện rồi. Cái
thiếu của ngoại khóa văn học bây giờ là chương trình lớp 11, 12. Vậy tóm lại,
qua các cuốn luận văn trên, ta thấy các tác giả đã tìm hiểu sâu sắc về các hình
thức hoạt động ngoại khóa cũng như cách thiết kế, tiến hành, sự đa dạng của
các chủ đề mà học sinh có thể tham gia và phát huy được các kĩ năng dựa vào
kiến thức chương trình SGK. Tuy nhiên, các tác giả chỉ dừng lại nội dung có
thể thực hiện ở qui mơ nhỏ, trong phạm vi một lớp. Đồng thời, chưa có cuốn
luận án nào vạch ra cụ thể chương trình ngoại khóa văn học cho lớp 11.
Tóm lại, chúng ta có thể thấy rằng việc nghiên cứu và triển khai vấn đề
ngoại khóa này đã được các nhà nghiên cứu quan tâm song như vậy vẫn chưa
đủ cho mơn Văn. Có cuốn sách, luận văn đề cập cụ thể tới hoạt động Văn học
song cũng chỉ chú ý tới ngoại khóa văn học dân gian lớp 10. Lớp 11 chưa có
tài liệu ngoại khóa. Đây là phần thiếu sót cần phải bổ sung ngay. Chính vì
vậy, tơi mong muốn xây dựng chương trình ngoại khóa văn học cho học sinh
lớp 11 trường trung học phổ thơng để đóng góp một phần vào việc triển khai
hoạt động ngoại khóa văn học hiện nay.
1.2.2. Thực tiễn xây dựng chương trình ngoại khố văn học ở các trường
phổ thông tỉnh Trà Vinh
1.2.2.1. Khái quát về tổ chức nghiên cứu thực tiễn.
a. Mục đích yêu cầu: Khảo sát thực tiễn xây dựng chương trình ngoại
khố văn học ở các trường phổ thông tỉnh Trà Vinh. Cụ thể: tần số tổ chức
ngoại khóa văn học, cách thức giáo viên tổ chức, nội dung ngoại khóa, kết
quả đạt được và nhận thức của giáo viên các lớp khảo sát về ngoại khóa văn

học. Từ đó, đưa ra những nhận xét chuẩn xác về thực trạng xây dựng chương
trình ngoại khố văn học ở các trường phổ thơng tỉnh Trà Vinh.


b. Phương pháp nghiên cứu gồm:
- Phương pháp quan sát với đối tượng quan sát là các giờ hoạt động ngoại
khóa, cách thức giáo viên tổ chức ngoại khóa, hoạt động tham gia của học
sinh. Phương pháp quan sát được phối hợp cùng phương pháp trò chuyện với
giáo viên và học sinh ngay sau buổi ngoại khóa được quan sát.
- Phương pháp điều tra bằng phiếu câu hỏi với đối tượng điều tra: Giáo
viên và học sinh khối 11 các trường THPT Trà Vinh. Nội dung điều tra là
nhận thức của giáo viên về bản chất, ý nghĩa, vai trò cũng như cách thức tổ
chức hoạt động ngoại khóa văn học cho học sinh khối 11, những khó khăn và
đề xuất của giáo viên đối với việc tổ chức hoạt động này.
c. Đối tượng, địa bàn, thời gian khảo sát:
- Đối tượng, địa bàn khảo sát: Giáo viên, học sinh các trường THPT
thành phố Trà Vinh (44 GV, 200 HS). Các trường này có đội ngũ cán bộ; giáo
viên nhiệt tình, ham học hỏi và có kinh nghiệm trong giảng dạy, có những
điều kiện thuận lợi cho việc chăm sóc và giáo dục trẻ.
- Thời gian khảo sát: từ tháng 1-2015 đến 2-2015
d. Nội dung khảo sát:
- Tìm hiểu nhận thức của giáo viên và học sinh về ngoại khóa.
- Khảo sát cách thức giáo viên tổ chức ngoại khóa văn học và khảo sát số
lượng, tần suất tổ chức ngoại khóa văn học.
- Khảo sát hoạt động tham gia ngoại khóa của học sinh
1.2.2.2. Kết quả nghiên cứu thực tiễn
a. Thực trạng tổ chức hoạt động ngoại khóa của giáo viên
a1. Thực trạng số lượng, tần suất tổ chức ngoại khóa văn học



Để tìm hiểu thực tế số lượng, tần suất tổ chức ngoại khóa, chúng tơi nêu
câu hỏi 3 ở mẫu khảo sát số 1 (phụ lục 1). Kết quả thu được theo tỉ lệ phần
trăm như sau:
Bảng 1.1 Đánh giá của giáo viên về số lượng, tần suất sử dụng các hình
thức tổ chức hoạt động ngoại khóa

STT Các hình thức

Thường

Thỉnh

Chưa thực

1
2
3

Đọc ngoại khóa
Đố vui văn học
Sân khấu hóa tác

xuyên
30%
10%
0%

thoảng
40%
40%

20%

hiện
30%
60%
80%

4
5

phẩm
Sáng tác văn học
Tọa đàm văn học

0%
0%

50%
20%

50%
80%

Nhận xét:
Bảng thống kê cho thấy thực trạng chung của các trường trong tổ chức
ngoại khóa. Nhìn chung, số lượng, tần suất sử dụng các hình thức tổ chức
hoạt động ngoại khóa cịn ít. Các trường chỉ thỉnh thoảng tổ chức nhân một
dịp nào đó hoặc phải do giáo viên đầu tư tổ chức riêng trong các tiết sinh hoạt
ở lớp. Giờ sinh hoạt dưới cờ rất ít khi tổ chức ngoại khóa văn học, chủ yếu là
tổ chức kiểm điểm, một số trường câu lạc bộ tiếng Anh được ưu tiên hơn.

Trong đó, hoạt động sân khấu hóa, dã ngoại, tọa đàm văn học ít được tổ chức
hơn vì mất nhiều thời gian, cơng sức chuẩn bị. Cịn hình thức đọc ngoại khóa,
đố vui văn học thì tổ chức dễ hơn, dễ dàng áp dụng trong phạm vi lớp nên
được tổ chức nhiều hơn.
a2. Thực trạng hiệu quả của hoạt động ngoại khóa
Để khảo sát hiệu quả của hoạt động ngoại khóa, chúng tơi nêu ra câu hỏi
4 trong mẫu khảo sát 2 (phụ lục 1). Kết quả thu được được tính % như sau:


Bảng 1.2. Thực trạng hiệu quả của hoạt động ngoại khóa

STT Các hình thức

Hiệu quả

Bình thường Chưa hiệu

1
2
3

Đọc ngoại khóa
Đố vui văn học
Sân khấu hóa tác

60%
50%
60%

30%

30%
40%

4
5

phẩm
Sáng tác văn học
Tọa đàm văn học

30%
40%

50%
50%

quả
10%
20%

20%
10%

Nhận xét:
Từ kết quả khảo sát trên, chúng tôi nhận thấy cả 5 loại hình hoạt
động ngoại khóa được đưa ra đều đạt hiệu quả khá cao. Điều này cho thấy
hoạt động ngoại khóa đã được tổ chức có chiều sâu, tác động nhất định tới
học sinh. Tuy nhiên để chuẩn bị cho một buổi ngoại khóa đạt được kết quả tốt
là công sức, tâm huyết của nhiều người; đồng thời chương trình và cách thức
thường vẫn cịn tự phát. Nếu có hướng dẫn cụ thể thì việc tiến hành sẽ đơn

giản hơn. Ngồi ra, hai hình thức sáng tác văn học và một số loại hình khác
như tổ chức tọa đàm văn học,…chưa thu được hiệu quả cao. Có lẽ vì những
hình thức này gần với hoạt động học trên lớp nên học sinh chưa hứng thú.
b. Thực trạng tham gia hoạt động ngoại khóa của học sinh
Mức độ tham gia là kết quả của quá trình nhận thức, thái độ, niềm tin đối
với các nội dung hoạt động ngoại khóa. Trên cơ sở kết quả nhận thức của học
sinh về các nội dung hoạt động ngoại khóa cụ thể, chúng tôi nêu câu hỏi 3
trong mẫu khảo sát số 1 (phụ lục 1) về các nội dung và hình thức hoạt động
ngoại khóa để tìm hiểu mức độ tự đánh giá của các em về việc thực hiện các
nội dung hoạt động ngoại khóa. Kết quả thu được qua bảng 1.5 theo tỉ lệ như
sau:


×