Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Giáo trình lý luận dạy học sinh học chương 1 nguyễn phúc chỉnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.32 MB, 83 trang )

NGUYỄN PHÚC CHỈNH

LÝ LUẬN DẠY HỌC SINH HỌC

NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC

1


Với sinh viên
Học để trở thành một người giáo viên là cả một quá trình đầy gian khổ,
để trở thành một người giáo viên tốt lại còn gian khổ hơn rất nhiều. Quá trình
này bắt đầu từ những bài học đầu tiên mà bố mẹ bạn đã dạy cho bạn, tích lũy
dần qua quá trình học phổ thông, rồi qua trường sư phạm dưới sự dạy dỗ của
các thày cô giáo. Kinh nghiệm cứ được tích lũy dần khi bạn tốt nghiệp đại
học, đến các trường phổ thông trực tiếp dạy học.
Có những người, ngay từ lần đầu tiên lên lớp đã có những bài dạy hay.
Nhưng có những người cả đời đi dạy học đến lúc hưu trí vần chỉ là những bài
dạy khô khan, kém hấp dẫn. Có lẽ cần phải có một tấm lòng yêu nghề, yêu
trẻ, một khả năng sư phạm vốn có của mỗi người và sự nỗ lực phấn đấu vươn
lên để trở thành một người giáo viên tốt.
Để trở thành một giáo viên Sinh học, bạn phải có kiến thức về sinh học
và những kiến thức nghiệp vụ. Bạn phải hiểu biết những quy luật dạy học sinh
học để từ đó phát triển những mô hình dạy học nhằm giúp cho học sinh không
những có kiến thức sinh học mà còn có văn hoá sinh học. Trước hết mỗi thày,
cô giáo phải giúp học sinh hình thành nhân cách, có năng lực đáp ứng những
thách thức trong cuộc sống.
Bạn phải tập soạn bài, lên lớp, tập quản lý – giáo dục học sinh, tập tạo
lập mối quan hệ tốt với mọi người và không thể không học hỏi thêm rất nhiều
kiến thức và lối sống. Thời gian để trở thành một giáo viên thực thụ dài hay
ngắn tùy thuộc vào mỗi người và mỗi hoàn cảnh cụ thể.


Ở trường sư phạm, bạn đã học kiến thức Sinh học, đã học Tâm lý học,
Giáo dục học và phương pháp dạy học sinh học, đến trường phổ thông, bạn
phải chuyển những kiến thức đã học thành thực tế giảng dạy. Tài liệu này
muốn giúp bạn có những năng lực ban đầu để tự phấn đấu trở thành một giáo
viên Sinh học ở trường phổ thông.
Chúc các bạn thành công trong cuộc sống.
Thái nguyên, tháng 3 năm 2013

2


MỤC LỤC
Chương 1. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA LÝ LUẬN DẠY HỌC
SINH HỌC
1. 1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
1.2. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
1.3. Ứng dụng tin học để xử lý số liệu
1.4. Quy trình tổ chức một đề tài nghiên cứu khoa học
Chương 2. DẠY HỌC SINH HỌC TRONG NỀN KINH TẾ TRI THỨC
2.1. Thế nào là nền kinh tế tri thức?
2.2. Vai trò của sinh học trong nền kinh tế tri thức.
2.3. Người giáo viên sinh học trong nền kinh tế tri thức
Chương 3. CÁC NGUYÊN TẮC DẠY HỌC SINH HỌC
3.1. Nguyên tắc tiếp cận cấu trúc - hệ thống.
3.2. Nguyên tắc trực quan.
3.3. Nguyên tắc lấy không gian bù thời gian
Chương 4. CHƯƠNG TRÌNH VÀ SÁCH GIÁO KHOA SINH HỌC Ở
TRƯỜNG PHỔ THÔNG
4.1. Chương trình và sách giáo khoa sinh học ở một số nước trên thế giới
4.2. Chương trình và sách giáo khoa sinh học ở Việt nam

4.4. Phát triển chương trình và sách giáo khoa Sinh học
Chương 5. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC SINH HỌC
5.1. Cơ sở phương pháp luận dạy học
- Các bình diện lý luận dạy học
- Mối quan hệ giữa các thành phần của quá trình dạy học
- Khái niệm về phương pháp dạy học
5.2. Mô hình dạy học tương tác lấy Giáo viên làm trung tâm
- Giới thiệu và giải thích.
- Giảng dạy trực tiếp.
- Giảng dạy khái niệm.
5.3. Mô hình dạy học tương tác lấy Học sinh làm trung tâm.
- Học tập mang tính hợp tác.
3


- Dạy học theo vấn đề.
- Thảo luận trong lớp (tương tác nhóm).
- Dạy học định hướng hành động
- Dạy học theo dự án
5.4. Các kỹ thuật dạy học sinh học
- Các kỹ thuật liên kết suy nghĩ.
- Các kỹ thuật thông tin phản hồi.
Chương 6. PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC SINH HỌC
6.1. Các loại phương tiện dạy học - đa phương tiện
6.2. Phương tiện dạy học và lý thuyết học tập.
6.3. Các đặc điểm của phương tiện dạy học .
6.4. Dạy học với phương tiện điện tử (E-Learning)
Chương 7. TỔ CHỨC DẠY HỌC SINH HỌC Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG
7.1. Kế hoạch giáo viên
7.2. Học tập cộng đồng và động lực học sinh.

7.3. Quản lý lớp học
7.4. Lãnh đạo trường học và sự hợp tác
Chương 8. ĐO LƯỜNG, ĐÁNH GIÁ VÀ KIỂM ĐỊNH CHẤT LƯỢNG
8.1. Đánh giá học sinh
- Các hình thức kiểm tra đánh giá trong dạy học sinh học.
- Kỹ thuật trắc nghiệm trong dạy học sinh học.
- Các chuẩn đánh giá học sinh
8.2. Đánh giá giáo viên
- Các tiêu chuẩn đánh giá giờ dạy tốt.
- Chuẩn giáo dục.
8.3. Kiểm định chất lượng giáo dục

4


MỞ ĐẦU
Trong chương trình đào tạo giáo viên Sinh học, môn “Phương pháp dạy
học sinh học” (PPDHSH) có vai trò quan trọng trong việc hình thành nghề
cho sinh viên. Ở Việt Nam, môn học này đã từng có những tên gọi khác nhau.
Trong những năm 60 của thế kỷ XX, môn học này được gọi là Giáo học pháp
(theo cách gọi của Trung quốc), sau đó gọi là Phương pháp dạy học sinh học
(cách gọi của Liên xô). Trong thập kỷ 70 của thế kỷ XX lại đổi tên thành Lý
luận dạy học sinh học. Từ năm học 1996 – 1997, theo chương trình của Bộ
Giáo dục và Đào tạo môn học này chính thức có tên là Phương pháp dạy học
sinh học. Việc gọi tên môn học phản ánh trình độ phát triển của môn khoa học
tương ứng và tuỳ thuộc vào mục tiêu của môn học trong từng giai đọan lịch
sử nhất định.
Nội dung Phương pháp dạy học Sinh học gồm hai phần: Phần thứ nhất
là phần lý luận chung (Đại cương PPDH sinh học) nghiên cứu những nguyên
tắc chung, những quy luật cơ bản của việc xây dựng nội dung chương trình,

những vấn đề lý luận của PPDH sinh học ở trường phổ thông.v.v.. Phần thứ
hai là phần PPDH cụ thể (PPDH các phân môn của sinh học ở trường phổ
thông) ví dụ PPDH thực vật học, PPDH động vật học, PPDH sinh học tế
bào.v.v…
Giáo trình này trình bày những vấn đề chung mang tính chất lý luận về
dạy học Sinh học nên gọi là “Đại cương Lý luận dạy học sinh học”, còn các
giáo trình về PPDH cụ thể gồm “Dạy học Sinh học ở trường trung học cơ sở”
và “Dạy học Sinh học ở trường phổ thông”.
MỤC ĐÍCH VÀ ĐỐI TƯỢNG
Giáo trình Đại cương Lý luận dạy học Sinh học dành cho sinh viên các
hệ được đào tạo để trở thành giáo viên Sinh học ở trường phổ thông. Giáo
trình cũng dành cho các giáo viên Sinh học ở trường phổ thông tham khảo để
nâng cao trình độ lý luận dạy học. Các học viên Cao học và nghiên cứu sinh
cũng có thể tham khảo để viết luận văn, luận án.
Giáo trình này tập trung nghiên cứu các mô hình chung, chiến lược, và
chiến thuật áp dụng cho việc giảng dạy Sinh học. Mặc dù, giáo trình dành cho
những đối tượng khác nhau sử dụng. Nhưng hầu hết các đối tượng sử dụng
đều có thể chia sẻ những mục tiêu chung sau:

5


• Phát triển các mô hình dạy học cơ bản, các chiến lược và chiến thuật
dạy học Sinh học;
• Hiểu được nền tảng lý thuyết đằng sau hoạt động dạy và học Sinh học
ở trường phổ thông;
• Hiểu được động lực giảng dạy Sinh học, cả bên trong và bên ngoài
lớp học;
• Phát triển ý thức và sự đánh giá cao của các cơ sở tri thức hỗ trợ thực
tiễn hiện tại trong giảng dạy;

• Đánh giá cao cơ hội và thách thức trong việc giảng dạy Sinh học ở
các lớp học đặc trưng và sự đa dạng;
• Biết làm thế nào để thích ứng với chỉ dẫn đáp ứng nhu cầu của tất cả
các học sinh;
• Có được những kỹ năng quan sát, ghi âm, và nghiên cứu về dạy học
sinh học;
• Biết phát hiện một vấn đề và tổ chức một đề tài nghiên cứu thuộc lĩnh
vực giáo dục học.
CẤU TRÚC NỘI DUNG CỦA GIÁO TRÌNH
Lý luận dạy học Sinh học cung cấp một cái nhìn toàn diện và cân bằng
về dạy học Sinh học ở trường phổ thông, từ những vấn đề lý thuyết đến thực
tiễn. Để thực hiện việc này, giáo trình được tổ chức thành 9 chương.
Chương 1, trình bày những vấn đề chung của lý và những phương pháp
nghiên cứu của lý luận dạy học Sinh học. Trong giáo dục có rất nhiều vấn đề
phát sinh hàng ngày, cần phải được nghiên cứu để đưa ra những kết luận
mang tính khoa học. Đôi khi giáo viên hoặc các nhà quản lý giáo dục thường
đưa ra những quyết sách chưa đúng quy luật, dẫn tới những thất bại trong dạy
học và quản lý giáo dục. Mỗi người giáo viên cần biết phương pháp nghiên
cứu khoa học giáo dục, biết phát hiện vấn đề, biết tổ chức một đề tài nghiên
cứu khoa học giáo dục, biết xử lý số liệu để đưa ra các kết luận khách quan và
chính xác.
Chương 2, chương 3, chương 4, chương 5 là trung tâm của cuốn sách,
nội dung các chương xoay quanh vấn đề giáo viên phải làm những gì và làm
như thế nào để đạt mục tiêu dạy học.

6


Chương 2, giới thiệu nhiệm vụ dạy học Sinh học trong xã hội tri thức.
Những mục tiêu, nhiệm vụ dạy học Sinh học ở trường phổ thông đề ra trước

đây, đến nay vẫn còn đúng nhưng không còn phù hợp khi kinh tế văn hoá và
xã hội đã có nhiều thay đổi trên phạm vi toàn cầu. Sinh học và đặc biệt công
nghệ sinh học đã trở thành một ngành kinh tế mang nhiều lợi nhuận. Trong xã
hội tri thức, sinh học đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế
và đời sống của mỗi quốc gia. Dạy học Sinh học ở trường phổ thông không
chỉ là hình thành cho học sinh tri thức Sinh học mà phải hình thành cho học
sinh đạo đức sinh học, tiến tới hình thành văn hoá Sinh học, đặc biệt là văn
hóa sinh thái – môi trường cho thế hệ tương lai. Làm thế nào để môn học này
trở thành môn khoa học về sự sống, học sinh phấn khởi tiếp nhận các tri thức
sinh học và biết vận dụng để nâng cao chất lượng cuộc sống. Mục tiêu cơ bản
nhất của dạy học Sinh học ở trường phổ thông là phát triển năng lực cho học
sinh.
Chương 3 gồm các nguyên tắc dạy học Sinh học. Có nhiều nguyên tắc
chi phối hoạt động dạy và học ở trường phổ thông. Sinh học là môn khoa học
mang tính thực nghiệm, nghiên cứu về thế giới sống; Vì vậy, dạy và học môn
học này phải tuân theo một số nguyên tắc đặc thù của bộ môn. Đó là nguyên
tắc tiếp cận cấu trúc - hệ thống; nguyên tắc trực quan và nguyên tắc lấy không
gian bù thời gian.
Nội dung chương 4 gồm các vấn đề về chương trình và sách giáo khoa
Sinh học ở trường phổ thông, đó chính là nội dung dạy học Sinh học ở trường
phổ thông. Người giáo viên cần biết các nguyên tắc xây dựng chương trình và
biên soạn sách giáo khoa; muốn vậy cần tìm hiểu để so sánh chương trình và
sách giáo khoa của một số nước phát triển trên thế giới (Mỹ, Nga, Úc, Đức,
Pháp…). Nghiên cứu lịch sử phát triển chương trình và sách giáo khoa ở Việt
nam. Muốn dạy tốt, phải hiểu chương trình và sách giáo khoa, phải biết ý đồ
của người biên soạn sách và phải biết chấp nhận những mẫu thuẫn nhỏ và kể
cả những khiếm khuyết vô tình xuất hiện trong hệ thống kiến thức của sách
giáo khoa.
Chương 5, trình bày về phương pháp dạy học sinh học ở trường phổ
thông. Người giáo viên phải hiểu rõ cơ sở lý thuyết của việc định nghĩa và

phân loại phương pháp dạy học sinh học. Hệ thống hoá các quan điểm truyền
thống về phân loại phương pháp dạy học Sinh học. Dạy và học Sinh học thực
chất là mối tương tác giữa thày và trò, theo quan điểm truyền thống – mô hình
7


dạy học lấy giáo viên làm trung tâm bao gồm các phương pháp như giảng
giải, thuyết trình, dạy khái niệm v.v… Mô hình dạy học lấy học sinh làm
trung tâm gồm các kiểu dạy học: Học tập mang tính hợp tác; Dạy học theo
vấn đề; Thảo luận trong lớp (tương tác nhóm); Dạy học định hướng hành
động; Dạy học theo dự án...
Trong khi lên lớp giáo viên thường sử dụng các kỹ thuật dạy học,
(trước đây gọi là các biện pháp dạy học). Kỹ thuật dạy học gồm 2 nhóm: kỹ
thuật liên kết suy nghĩ và kỹ thuật lấy thông tin phản hồi. Đổi mới phương
pháp dạy học Sinh học ở trường phổ thông thực ra là đổi mới cách sử dụng
phương pháp dạy học và đổi mới các kỹ thuật dạy học sinh học nhằm giúp
học sinh chủ động và tích cực thu nhận kiến thức.
Phương tiện dạy học là một trong những yếu tố cấu thành nên quá trình
dạy học nói chung và dạy học Sinh học nói riêng, đây là nội dung chương 6.
Theo sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin,
phương tiện dạy học Sinh học đã thay đổi một cách nhanh chóng trong vòng
gần 20 năm trở lại đây. Sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại sẽ góp phần
nâng cao chất lượng dạy học.
Tăng cường dạy và học với công nghệ thông tin. Các phòng học được
trang bị máy vi tính, nhiều tài liệu giảng dạy có sẵn trên đĩa CD-ROM, và
Internet càng trở nên thuận lợi cho học sinh, giáo viên nghiên cứu và thảo
luận sôi nổi. Cần phải trang bị cho giáo viên những kiến thức và kỹ năng sử
dụng máy tính và các công nghệ viễn thông. Để đối phó với thực tế này,
chương 6 có nội dung tăng cường giảng dạy với các tính năng nổi bật của
công nghệ phần mềm và công nghệ máy tính – dạy học với đa phương tiện

(Multimedia).
Nội dung chương 7 đề cập tới vấn đề tổ chức dạy học sinh học ở trường
phổ thông. Trong đó bao gồm các vấn đề về việc lập kế hoạch của giáo viên,
cách thiết kế bài soạn, tăng cường các hình thức dạy học mang tính cộng
đồng, những giáo viên tương lai cần học cách quản lý lớp học và quản lý nhà
trường.
Mặc dù việc giảng dạy được dựa trên kiến thức xuất phát từ lý thuyết
và nghiên cứu giáo dục, nó còn có một mặt áp dụng và thực tế quan trọng.
Nội dung chương 8, “tổ chức dạy học Sinh học ở trường phổ thông” giúp giáo
viên giải quyết nhiều vấn đề phải đối mặt hàng ngày. Tổ chức dạy học không

8


chỉ riêng môn Sinh học mà việc tổ chức dạy học này phải được đặt trong môi
trường học tập của nhà trường và của xã hội. Chương này cung cấp hướng
dẫn cụ thể về cách lập kế hoạch và cách tiến hành một loạt các bài học, làm
thế nào để tạo và quản lý môi trường học tập.
Đánh giá là một khâu quan trọng trong quá trình dạy học, đánh giá học
sinh cần phải được tiến hành một cách khách quan có tác dụng kích thích học
sinh học tập và sáng tạo. Đánh giá giáo viên để đảm bảo giáo viên đủ chuẩn
giảng dạy.
Hiện nay một vấn đề đang được ngành giáo dục quan tâm đó là kiểm
định chất lượng giáo dục. Đó là kiểm định chương trình, kiểm định nhà
trường, kiểm định các cơ sở giáo dục theo những chuẩn quốc gia và quốc tế.
Thiết nghĩ, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, phát triển kinh
tế và văn hóa, lý luận dạy học nói chung và lý luận dạy Sinh học nói riêng
cũng cần có sự phát triển cả về lý luận và cách thực hiện.

9



Chương 1
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
CỦA LÝ LUẬN DẠY HỌC SINH HỌC
MỤC TIÊU
Sau khi nghiên cứu chương này, sinh viên phải đạt được những yêu
cầu sau:
- Hiểu và trình bày được đối tượng nghiên cứu của lý luận dạy học Sinh
học.
- Mô tả được các phương pháp nghiên cứu của khoa học giáo dục nói
chung và của lý luận dạy học Sinh học nói riêng.
- Biết phát hiện, đề xuất và tổ chức thực hiện một đề tài nghiên cứu khoa
học giáo dục thuộc chuyên ngành Lý luận và phương pháp dạy học Sinh
học
1.1. Đối tượng nghiên cứu của lý luận dạy học Sinh học (LLDHSH)
Đối tượng nghiên cứu của LLDH Sinh học là những quy luật của quá
trình dạy học Sinh học; những mối quan hệ giữa dạy và học, đó là mối quan
hệ giữa các yếu tố cơ bản cấu thành nên quá trình dạy học sinh học (mục đích;
nội dung; phương pháp; phương tiện dạy học; các hình thức tổ chức dạy học;
kiểm tra – đánh giá…). Những quy luật này nhằm hình thành tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo ở học sinh, qua đó góp phần hình thành nhân cách con người.
LLDH Sinh học nghiên cứu quá trình dạy học và giáo dục của bộ môn
Sinh học ở nhà trường phổ thông. Cụ thể, nó nghiên cứu các đặc điểm, các
hiện tượng sư phạm của quá trình dạy học Sinh học, nội dung dạy học Sinh
học, những nguyên tắc, những quy luật của việc dạy và học ở trường phổ
thông.
Quá trình dạy học là một hệ toàn vẹn bao gồm hai mặt liên quan mật
thiết với nhau: Hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của học trò.
Hai hoạt động này được tiến hành trong sự thống nhất biện chứng với

nhau, qui định lẫn nhau, tác động qua lại với nhau và với QTDH. Trong đó,
người học vừa là đối tượng của hoạt động dạy, vừa là chủ thể của hoạt động
học. Phân tích mối quan hệ này, đánh giá vai trò, chức năng của mỗi chủ thể

10


đó trong QTDH là một vấn đề lớn của LLDH; từ đó đã hình thành những
chiến lược tiếp cận dạy học khác nhau.
Như vậy, hoạt động dạy và học là hoạt động cơ bản của nhà trường, là
con đường chủ yếu để thực hiện các mục tiêu giáo dục. Muốn nâng cao chất
lượng và hiệu quả dạy học phải hiểu rõ bản chất các hiện tượng sư phạm
trong hoạt động dạy và học, phải nắm vững các quy luật của QTDH để tổ
chức các hoạt động dạy và học phù hợp với các quy luật khách quan đó. Bởi
vậy, đã hình thành một bộ phận chuyên nghiên cứu về QTDH, đó là bộ môn
LLDH (didatics) xây dựng cơ sở lí thuyết cho hoạt động dạy và học trong nhà
trường.
 Hoạt động học
Học là một khái niệm chủ đạo trong giáo dục, có nhiều cách giải thích
khác nhau về việc học.
Cũng như tất cả các sinh thể, con người được chương trình hoá, nhưng
được chương trình hoá để học1. Học là hiểu và truyền đạt. Lĩnh vực học có
phạm trù rộng hơn lĩnh vực dạy để học. Nếu như bất kỳ điều gì cũng phải học,
thì không hẳn đã phải dạy. Học đồng thời là có một đề án, thực thi hoạt động
trí tuệ do đòi hỏi của mục tiêu muốn đạt tới và sử dụng những trình tự hành
động cá nhân có hiệu quả nhất đối với bản thân.
Tuy nhiên bất kỳ quá trình học tập nào cũng kéo theo một sự mất mát về
tiềm năng, vì vậy "Học là loại bỏ" 2.
Theo giáo sư Ph.Meirieu (Pháp), học có các đặc điểm sau:
1. Học không tự ban ra giáo lệnh và không có gì bắt buộc phải áp đặt cho bất

kỳ ai, nói đơn giản: học mang tính tự nguyện, tự giác.
2. Bất kỳ người nào cũng học được, với óc sáng kiến riêng và đòi hỏi chính
người học phải có lòng dũng cảm ngay từ những bước đầu tiên.
3. Mỗi người học theo một chiến lược riêng thích hợp nhưng không có tính cố
định. Người học có thể biến đổi làm phong phú thêm chiến lược học theo
kinh nghiệm bản thân.
4. Do hiểu được học là khó khăn, nên quan trọng nhất là cung ứng cho người
học những điểm tựa giúp cho người học có thể học tập và có được môi
trường thuận lợi cho học tập.

1
2

E.Jacob, 1981.
J.P. Changeux.

11


5. Trong học tập không thể tách được phương pháp và nội dung học; không
có phương pháp họat động trong chân không, và cũng không có nội dung
học được truyền thụ không có phương pháp.
6. Trong học tập không thể tách được nhận thức và cảm xúc: học đòi hỏi một
công việc về hình ảnh bản thân và bất kỳ sự tiếp thu nào cũng tạo ra sự tái
tạo lại cảm xúc.
7. Trong học tập không thể tách được cá nhân và xã hội: không có ai học
hoàn toàn cô đơn và cách học bao giờ cũng cần tới khái niệm về tính thích
giao lưu giữa những quan hệ về kiến thức với xã hội.
8. Học là sự tự vươn lên khỏi cái được cho và lật đổ dạng định vị xã hội,
trong đó mỗi người sẽ tìm được một địa vị xứng đáng với tài đức qua học

tập.
Theo quan điểm nhận thức luận có thể định nghĩa khái niệm Học theo
nhiều cách khác nhau:
- Học là hiểu.
- Học là sự tiếp thu thông tin, tạo năng lực.
- Học là hội nhập những dạng thức mới vào cấu trúc nhận thức.
- Học là biến đổi cách trình bày tư duy.
Tóm lại:
- Học là một hoạt động với đối tượng, trong đó học sinh là chủ thể, khái
niệm khoa học là đối tượng. Học là quá trình tự giác, tích cực, tự lực chiếm
lĩnh khái niệm khoa học.
- Mục đích của học là chiếm lĩnh khái niệm khoa học. Nghĩa là học sinh
phải nắm vững, hiểu sâu ý hàm chứa trong khái niệm, nghĩa càng sâu ý càng
phong phú. Chiếm lĩnh khái niệm còn có thể hiểu là tái tạo lại khái niệm cho
bản thân, thao tác với khái niệm, sắp xếp các khái niệm vào những hệ thống
nhất định và sử dụng nó như công cụ phương pháp để chiếm lĩnh những khái
niệm khác. Tư duy khái niệm là trình độ tư duy lý thuyết - đây chính là một
trong những mục đích quan trọng của sự phát triển năng lực trí tuệ cho học
sinh thông qua học tập.
Hoạt động học của trò nhằm nắm vững những tri thức và hình thành kỹ
năng, kỹ xảo. Trong nhà trường, hoạt động học tập của trò dưới sự điều khiển
của thày, song nó giữ vai trò chủ động, tích cực và tự lực. Trong quá trình học
tập học sinh vừa là khách thể, vừa là chủ thể của sự nhận thức. Học sinh phải
chủ động, tích cực thu nhận lấy kiến thức, vận dụng kiến thức trong đời sống.
12


 Hoạt động dạy
Hoạt động dạy của thày nhằm mục đích truyền đạt và tổ chức học sinh
thu nhận lại kiến thức của nhân loại, đồng thời thày còn có nhiệm vụ phát

triển năng lực nhận thức và năng lực hành động cho học sinh, hình thành
thế giới quan duy vật biện chứng và những hành vi đạo đức của học sinh.
Dạy là sự điều khiển tối ưu quá trình học sinh chiếm lĩnh khái niệm
khoa học để phát triển và hình thành nhân cách học sinh.
Dạy và học có những mục đích cụ thể khác nhau, nếu học nhằm vào
việc chiếm lĩnh khái niệm khoa học thì dạy lại có mục đích là điều khiển sự
học tập.
Như vậy hoạt động dạy học của thày đóng vai trò chủ đạo, nghĩa là tổ
chức, điều khiển hoạt động nhận thức của học sinh. Dù khoa học phát triển
đến đâu, áp dụng phương tiện máy móc hiện đại như thế nào cũng không
thể thay thế được vai trò của người thầy giáo.
Phân tích, đánh giá vai trò chức năng của mỗi chủ thể trong quá trình
dạy học để hình thành những chiến lược dạy học khác nhau.
 Quá trình dạy học
Trước đây, LLDH nghiên cứu QTDH chủ yếu tập trung vào mối quan hệ
của các thành tố trong tam giác giáo dục: mục tiêu, nội dung và phương pháp
dạy học nhằm trả lời cho các câu hỏi:
- Dạy học nhằm mục đích gì?
- Dạy và học cái gì?
- Dạy và học như thế nào?
Ngày nay, LLDH nghiên cứu QTDH toàn diện hơn. Theo quan điểm hệ
thống, QTDH được xác định như là một hệ thống gồm 6 yếu tố cấu trúc cơ
bản: mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện, tổ chức, đánh giá có liên
quan mật thiết với nhau. Các yếu tố cấu trúc của QTDH tương tác với nhau và
có quan hệ chặt chẽ với môi trường Kinh tế - Xã hội, với sự phát triển Khoa
học và Công nghệ. Mối quan hệ của QTDH và môi trường bên ngoài là mối
quan hệ biện chứng. Trong đó, môi trường Kinh tế - Xã hội và những thành
tựu của Khoa học và Công nghệ có mối quan hệ qua lại ảnh hưởng sâu sắc
nhất đối với QTDH, đến từng yếu tố cấu trúc của QTDH, tới chất lượng và
hiệu quả giáo dục, đào tạo. Ngược lại, sản phẩm giáo dục là những người có

tri thức văn hoá, khoa học, có kỹ năng nghề nghiệp, có phẩm chất đạo đức và
thái độ đúng đắn… sẽ phát huy ảnh hưởng tích cực trở lại đối với sự phát
13


triển xã hội… Với ý nghĩa đó, giáo dục có vai trò là động lực, là điều kiện cơ
bản cho sự phát triển Kinh tế - Xã hội.
Do đó, các nhà giáo dục phải thiết kế hợp lí hệ thống này để khi nó vận
hành trong môi trường giáo dục của nhà trường sẽ đáp ứng được mục tiêu của
nền kinh tế - xã hội.

Hình 1.1. Mối quan hệ giữa các yếu tố cấu trúc cơ bản của quá trình dạy học
MT: Mục tiêu dạy học
ND: Nội dung dạy học
PP: Phương pháp dạy học

PT: Phương tiện dạy học
TC: Hình thức tổ chức dạy học
ĐG: Kiểm tra – đánh giá

Tóm lại, đối tượng nghiên cứu của LLDHSH (phần đại cương) là
QTDH Sinh học ở trường phổ thông, trong đó nghiên cứu những mối quan hệ
có tính qui luật giữa các yếu tố cấu trúc của QTDH với nhau và với mối liên
hệ bản chất, tất yếu của hoạt động dạy và hoạt động học. Qua đó, đặt cơ sở lí
luận cho việc tổ chức hoạt động dạy và học phù hợp với đặc điểm riêng từng
phân môn Sinh học ở trường phổ thông và đặc điểm tâm sinh lí HS, giúp GV
tổ chức và chỉ đạo QTDH một cách hợp lí nhằm hình thành tri thức, kỹ năng,
kỹ xảo và thái độ đúng đắn, góp phần hình thành nhân cách cho HS.
Lý luận dạy học Sinh học là một môn khoa học vì nó thể hiện chức
năng xã hội của khoa học và khẳng định có mục đích trong hoạt động của nó.

Lý luận dạy học Sinh học có những đặc điểm chung của giáo dục học đồng
thời nó cũng có những tính chất độc đáo cần phải được nghiên cứu để từ đó
phát hiện ra những quy luật khách quan, khái quát lên thành lý luận (theory)
nhằm giải thích, tiên đoán nhiều hiện tượng phục vụ cho quá trình dạy học
Sinh học ở trường phổ thông
1.2. Nhiệm vụ của môn lí luận dạy học Sinh học

14


1.2.1. Nhiệm vụ chung
Môn LLDHSH có nhiệm vụ chính là nghiên cứu phát triển lí thuyết và
tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, phục vụ cho việc nâng cao chất lượng, hiệu
quả dạy và học bộ môn Sinh học, góp phần tích cực vào việc thực hiện mục
tiêu đào tạo của nhà trường phổ thông trong nền kinh tế tri thức hiện nay. Để
hòan thành nhiệm vụ đó, LLDHSH phải thực hiện các nhiệm vụ cơ bản sau:
 Phát triển chương trình, hiện đại hóa nội dung dạy học môn Sinh học
Sự đổi mới của xã hội ta từ nền kinh tế quan liêu bao cấp sang nền kinh
tế thị trường và kinh tế tri thức, cùng với sự bùng nổ thông tin khoa học và
công nghệ đã dẫn đến yêu cầu đổi mới quá trình dạy học trong nhà trường
theo yêu cầu của xã hội: từ mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ
chức dạy học đến hệ thống phương tiện dạy học, các điều kiện cơ sở vật chất
kỹ thuật phục vụ dạy học nói chung. Trong đó, việc thường xuyên xem xét,
chỉnh lí, hoàn thiện chương trình và hiện đại hóa nội dung các môn học ở
trường phổ thông có vị trí đặc biệt quan trọng để kịp thích ứng với đà phát
triển nhanh của xã hội hiện đại.
SH phát triển rất nhanh đặc biệt trong 5 thập kỉ vừa qua, với những
phát hiện quan trọng đang phát huy tác dụng rộng rãi đối với nhiều lĩnh vực
của sản xuất và đời sống, đặc biệt là Công nghệ Sinh học. Sinh học hiện đại
đang có sự xâm nhập ngày càng mạnh mẽ của các lí thuyết và PP nghiên cứu

của các khoa học khác như Toán học, Lí học, Hoá học, Điều khiển học, Công
nghệ học… Vì vậy, việc phát triển chương trình và hiện đại hóa nội dung sách
giáo khoa (SGK) SH càng đòi hỏi vận dụng các thành tựu của LLDH hiện đại
để xác định hợp lí khối lượng, chiều sâu, trình tự và hệ thống các kiến thức
đưa vào chương trình và nội dung SGK SH phổ thông sao cho phù hợp với
từng cấp học, lớp học. Bên cạnh đó, việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa kiến
thức SH với các kiến thức liên môn và yêu cầu tích hợp các nội dung giáo dục
như: giáo dục môi trường, dân số và các mặt giáo dục khác đòi hỏi ngày càng
nhiều hơn đang là những vấn đề cấp thiết trong việc xác định nội dung dạy
học SH.
Chương trình và SGK SH THPT hiện nay được xây dựng theo tiếp cận
“Sinh học hệ thống” các cấp độ tổ chức sống (CĐTCS) và quán triệt đồng
thời hai quan điểm “Sinh thái và Tiến hóa” theo xu thế chung của thế giới. Vì
vậy LLDHSH cần phải nghiên cứu lí thuyết tiếp cận xây dựng chương trình,
và vận dụng tiếp cận đó để chuyển hóa nội dung của khoa học Sinh học hiện
đại thành nội dung môn học Sinh học ở trường phổ thông. Cụ thể là việc quán
triệt tiếp cận “Sinh học hệ thống” các CĐTCS và quan điểm “Sinh thái và

15


Tiến hóa” trong cấu trúc nội dung và biên soạn SGK SH THPT theo hướng
làm nổi bật các đặc trưng sống qua từng CĐTCS từ cấp độ Phân tử -> Tế
bào/cơ thể đơn bào -> Cơ thể đa bào -> Quần thể/loài -> Quần xã/Hệ sinh thái
-> Sinh thái quyển theo hướng giảm bớt chức năng thông báo, tăng cường các
hoạt động tìm tòi độc lập hoặc hoạt động theo nhóm của học sinh với SGK để
tự chiếm lĩnh kiến thức.
 Phát triển các hình thức tổ chức dạy học (HTTCDH):
Trong điều kiện phát triển ngày càng mạnh mẽ của CNTT, đặc biệt là
Internet, xuất hiện các HTTCDH mới như là một xu thế tất yếu. Bên cạnh

HTTCDH truyền thống (Traditional Learning hoặc Face to face), đã xuất hiện
hình thức dạy học điện tử (E-learning) bao gồm dạy học trực tuyến (Online
learning) và dạy học từ xa (Distance Learning). Mỗi HTTCDH đều có những
ưu, nhược điểm khác nhau, cần kết hợp tốt các hình thức này để nâng cao chất
lượng dạy - học. HTTCDH kết hợp (Blended learning) đã phối hợp được ưu
điểm của dạy học điện tử (E-learning) và ưu điểm của DH truyền thống, nó
đang nổi lên như là mô hình giảng dạy chủ yếu của tương lai3.
HTTCDH là hình thái tồn tại của quá trình dạy học - là mặt bên ngoài
phản ánh mối quan hệ biện chứng có tính qui luật giữa các yếu tố cấu trúc của
quá trình dạy học, trong đó đặc biệt là mối quan hệ gắn bó hữu cơ giữa: Mục
tiêu, Nội dung và Phương pháp dạy học. Do đó, khi kết hợp các hình thức dạy
học với nhau, ta không nên tách biệt các yếu tố cấu trúc của quá trình dạy học
như các quan niệm chỉ nhấn mạnh sự kết hợp về nội dung 4 hay sự kết hợp về
phương pháp dạy học 5; hoặc chỉ nhấn mạnh sự kết hợp về hình thức tổ chức
dạy học là mặt bên ngoài 6 mà không quan tâm đến mặt bên trong phản ánh
mối quan hệ biện chứng có tính qui luật giữa các yếu tố cấu trúc của quá trình
dạy học.
Ta có thể hiểu khái niệm dạy học kết hợp giữa hai hình thức dạy học
truyền thống và dạy học e – learning qua sơ đồ dưới đây:

3

Bài phát biểu của Hamadoun Touré ngày 26/01/2011 tại Room 10, Palais des Nations, Geneva.
Horn and Staker. Online and Blended Learning: A Survey of Policy and Practice of K-12 Schools Around
the World, novembe, 2011
5
Dziuban, C., Hartman, J., Moskal, P. “Blended Learning,” EDUCAUSE Review, Volume 2004, Issue 7,
2004)
6
Driscoll, M.(2002). Blended learning: Let's get beyond the hype. LTI Newsline: Learning & Training

Innovation from />4

16


Mô hình dạy học kết hợp
Có thể định nghĩa khái niệm Dạy học kết hợp như sau: Dạy học kết hợp
là mô hình dạy học có sự kết hợp giữa hình thức dạy học truyền thống và thức
dạy học điện tử (E-learning), trong đó hình thức dạy học là mặt bên ngoài
phản ánh mối quan hệ có tính qui luật giữa Mục tiêu – Nội dung – Phương
pháp dạy học.
HTTCDH kết hợp không chỉ phát huy được ưu điểm của hai HTTCDH
truyền thống và dạy học điện tử (E-learning), mà còn làm xuất hiện thêm
những ưu điểm nổi trội mà 2 HTTCDH trên không có được. Đó là:
- Những buổi học trên lớp sẽ cho phép giải thích các nội dung trừu
tượng, phức tạp.
- Không chỉ cung cấp nội dung kiến thức mà qua những buổi học, các
hoạt động liên quan tới các kỹ năng, đặc biệt là kỹ năng viết, nói – diễn đạt
vấn đề, các thao tác và vận động được củng cố, phát triển.
- Sự hợp tác của GV với nhau và với các nhà kĩ thuật ngày càng chặt
chẽ, thống nhất và dễ dàng chia sẻ trong việc thiết kế các nội dung, đưa ra các
chỉ dẫn cho người tham gia.
- Thông qua hoạt động học trên lớp "thật" GV có thể kích thích được sự
hoạt động tích cực của HS trên lớp học "ảo" một cách có kế hoạch. Từ đó HS

17


không chỉ có được kiến thức hình tượng, chắc chắn, sâu sắc, đúng tiến độ mà
còn trau dồi được kỹ năng tiếp cận và làm chủ công nghệ.

- Việc sử dụng những phương tiện CNTT & TT để hỗ trợ trong DH
truyền thống kích thích nhu cầu nâng cao và khai thác những tiện ích từ các
phương tiện hiện đại khác của GV và HS, bao gồm cả máy tính và Internet.
- Với các ưu điểm nổi trội như vậy, HTTCDH kết hợp đang và sẽ là xu
thế tất yếu cần được nghiên cứu và phát triển nhằm tối ưu hóa quá trình học
tập của HS, từ đó nâng cao chất lượng dạy và học.
 Phát triển phương pháp dạy
SH là một khoa học thực nghiệm nghiên cứu các đối tượng sống trong
thiên nhiên. Dạy học SH trong nền kinh tế mới đòi hỏi sự đổi mới phương
pháp theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức cho học sinh. Vì vậy ngoài
bài lên lớp cần tăng cường công tác độc lập, thực hành thí nghiệm, tham quan
thực tế, thực tập, các hoạt động ngoài trường, ngoài lớp, tăng cường trang
thiết bị kỹ thuật dạy học, phòng học bộ môn, các điều kiện cơ sở vật chất,
nghiên cứu phát triển các phương tiện dạy học multimedia ở dạng kĩ thuật
số,... Đặc biệt là phải cải tiến cách thức kiểm tra đánh giá theo hướng khuyến
khích học tập thông minh sáng tạo, phát triển tư duy.
Dạy học là dạy phát triển tư duy để thực hiện mục tiêu đào tạo những
con người năng động sáng tạo, chủ động phát hiện kịp thời và giải quyết hợp
lí những vấn đề nảy sinh trong phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường
phát triển bền vững và gia tăng dân số. Đây là nhiệm vụ đặt ra cho LLDHSH
phải nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm tiên tiến trên thế giới và kinh nghiệm
giáo dục thực tiễn ở nước ta, chọn lọc và phối hợp vận dụng các PPDH để tạo
nên các tổ hợp PPDH tích cực, đặc biệt nhanh chóng ứng dụng những thành
tựu của Công nghệ thông tin nhằm tạo nên sự chuyển biến tích cực trong đổi
mới phương pháp dạy học.
Trước đây, LLDHSH tập trung nghiên cứu những nét đặc trưng của
PPDH môn học. Ngày nay, LLDHSH cần phải nghiên cứu PPDH theo quan
điểm hệ thống theo các tầng bậc như sau:
- Tầng vĩ mô (phương pháp luận) bao gồm các nguyên tắc tiếp cận dạy
học xuất phát từ đặc điểm nội dung môn học như: Nguyên tắc tiếp cận hệ

thống, nguyên tắc trực quan, nguyên tắc khái quát hóa, trừu tượng hóa…
- Tầng trung gian (phương pháp & biện pháp dạy học) bao gồm các
nhóm phương pháp dạy – học như: Nhóm các phương pháp dùng lời, nhóm

18


các phương pháp trực quan, nhóm các phương pháp thực hành, nhóm các
phương pháp kiểm tra, đánh giá.
- Tầng vi mô (kỹ thuật dạy học) tập trung vào 2 nhóm kĩ năng chính
sau: Kĩ năng diễn đạt nội dung dạy học dưới các dạng ngôn ngữ khác nhau
(như các kĩ năng thiết kế và sử dụng câu hỏi, bài tập, PHT, sơ đồ Graph, Bản
đồ khái niệm, các phương tiện dạy học...). Kĩ năng thiết kế và tổ chức các
hoạt động học tập (như các kĩ năng thiết kế các hoạt động dạy và hoạt động
học, tổ chức các hoạt động nhóm và phối hợp các nhóm, khuyến khích thái độ
và hành động chia xẻ, trao đổi ý kiến, suy nghĩ của HS…)
 Phát triển phương pháp học
Theo hướng dạy học lấy học sinh làm trung tâm của QTDH. Ngày nay,
LLDH đi sâu hơn nghiên cứu về PP học. Xuất phát từ quan niệm học tập tốt
nhất là tự khám phá. Việc dạy chỉ đạt hiệu quả cao khi người thầy biết khơi
dậy và phát huy tiềm năng vốn có ở mỗi học sinh. Dạy PP học trở thành một
mục tiêu dạy học và ngày càng được chú trọng. Trong lớp học hiện đại, bài
học được tổ chức thành một chuỗi hoạt động phù hợp với năng lực của từng
đối tượng HS, trong đó GV là người gợi mở, hướng dẫn, tổ chức, cố vấn,
trọng tài cho các hoạt động tranh luận, tìm tòi, phát hiện kiến thức mới cho
HS. HS không những được khuyến khích chủ động tự chiếm lĩnh kiến thức
mới, mà còn được tạo điều kiện phát triển năng lực tự đánh giá kết quả học
tập. Qua đó, giúp cho HS có năng lực tự học, hoàn thiện nhân cách, thích ứng
nhanh nhạy với những thách thức mới của cuộc sống trong bối cảnh hội nhập
quốc tế trong nền kinh tế tri thức.

Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã tạo ra khối lượng
kiến thức tăng một cách “siêu tốc” mâu thuẫn với quỹ thời gian học tập ở nhà
trường có hạn, nên giáo dục phải dựa trên nguyên tắc “học tập thường xuyên,
suốt đời”. Do đó, cùng với việc dạy kiến thức đã được lựa chọn cẩn thận, cập
nhật thường xuyên thì phải hướng vào một phạm trù khác nữa, đó là dạy
phương pháp học trong mối quan hệ với nội dung kiến thức, phải coi việc dạy
phương pháp học là quan trọng và còn quan trọng hơn cả dạy kiến thức.
Tuy nhiên, cho đến nay PP học nói chung, PP học SH nó riêng, đặc biệt
là PP tự học chưa được nghiên cứu phát triển. Nhiều quan niệm cho rằng môn
SH có tính lôgic không cao như các môn khoa học tự nhiên khác, nhưng sự
thực chính lôgic của tự nhiên, của sự sống là cao nhất. Họ cho rằng, môn SH
chỉ cần học thuộc lòng và có trí nhớ tốt là đủ để đạt điểm cao. Quan niệm sai
lầm như vậy đã làm thui chột tư duy đổi mới PP dạy hiện nay và dẫn đến hạn
chế PP học bộ môn, không thể đáp ứng yêu cầu đổi mới PPDH.

19


Như vậy, nhiệm vụ của LLDHSH không chỉ giới hạn ở nghiên cứu hoạt
động dạy của thầy mà phải nghiên cứu sâu hơn vào hoạt động học của trò,
không chỉ tập trung nghiên cứu PP dạy mà còn nghiên cứu các yếu tố cấu trúc
khác của QTDH trong một hệ thống tác động qua lại với nhau, tương tác với
môi trường, trực tiếp là môi trường giáo dục trong nhà trường và rộng hơn là
môi trường cộng đồng xã hội.
 Phát triển các phương tiện dạy học Sinh học
Một trong những nguyên tắc cơ bản là khi vận dụng PPDH không thể
tách rời việc sử dụng các PTDH, trong đó có phương tiện trực quan. Đảm bảo
nguyên tắc này là đảm bảo cung cấp tối đa tri thức cho HS. Nguồn tư liệu
Multimedia đảm bảo tính trực quan trong dạy - học, là điều kiện quan trọng
hỗ trợ cho quá trình quan sát tìm tòi phát hiện tri thức mới của HS. Do đó, cần

nghiên cứu, sáng tạo và sử dụng có hiệu quả hệ thống các phương tiện dạy
học như:
- Các mẫu vật thật: gồm có các loại mẫu vật tươi, khô, ngâm, ép.
- Các vật tượng hình: gồm có tranh vẽ, sơ đồ, biểu bảng, và mô hình.
- Các phương tiện dạy học điện tử: gồm có các hình ảnh tĩnh và động,
Phim, video, phần mềm dạy học, chương trình mô phỏng.
- Phòng học đa phương tiện, phòng học bộ môn, phòng thí nghiệm thực
hành sinh học.
Trong hệ thống các phương tiện dạy học nêu trên, cần tập trung phát
triển các phương tiện dạy học điện tử. Các tư liệu Multimedia khai thác từ
trên mạng nhiều vô kể, nhưng không phải tư liệu nào cũng có thể sử dụng
hiệu quả được. Cần thiết phải gia công sư phạm và gia công kĩ thuật bằng các
phần mềm tin học. Các hình ảnh trực quan không những cung cấp tối đa tri
thức cho HS, mà còn rèn luyện phong cách tư duy và hành động cho HS, tạo
điều kiện tốt nhất cho các em hiểu đầy đủ và sâu sắc hơn kiến thức môn học .
Kiến thức trong SGK được viết theo kiểu hoạt động. Tuy nhiên, các
hoạt động mà SGK nêu ra chỉ bằng một lệnh hay bằng câu hỏi mang tính chất
định hướng. Như vậy, yếu tố hướng dẫn, tổ chức các hoạt động tìm tòi mờ
nhạt. Do đó, muốn tổ chức các hoạt động tìm tòi cho HS một cách tích cực,
GV phải thiết kế hệ thống các thao tác dạy và thao tác học bằng một “tổ hợp
nghe nhìn” tương ứng với một hoạt động tìm tòi theo hướng tích hợp truyền
thông đa phương tiện nhằm khắc phục mặt “tĩnh” của các phương tiện dạy
học truyền thống và của sách giáo khoa.

20


Tóm lại, nhiệm vụ chính của LLDHSH là nghiên cứu những mối liên hệ
biện chứng giữa mục đích, nội dung, PP, phương tiện, HTTCDH để xác lập
qui luật hình thành kiến thức, kỹ năng và thái độ đúng đắn cho học sinh phổ

thông nhằm nâng cao chất lượng dạy học bộ môn.
1.2.2. Nhiệm vụ cụ thể
Môn LLDHSH là môn học đặc thù của chương trình sư phạm Sinh học
ở các trường sư phạm, có chức năng đào tạo GV dạy môn SH ở trường phổ
thông. Vì vậy, nó có các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Trang bị cho SV hệ thống LLDHSH gồm: Mục đích, đối tượng, nội
dung, phương pháp nghiên cứu môn LLDHSH và mục đích, nội dung,
phương pháp, hình thức tổ chức và những điều kiện vật chất cho dạy và học
môn SH ở trường phổ thông.
- Rèn cho SV hệ thống kĩ năng dạy học SH như: Kĩ năng xác định mục
tiêu, phân tích lôgic cấu trúc nội dung từ cấp độ chương trình, SGK đến từng
chương, từng bài, lập kế hoạch dạy học, chuẩn bị bài lên lớp, làm và sử dụng
phương tiện dạy học đặc biệt là phương tiện dạy học multimedia, thiết kế giáo
án và bài giảng điện tử, tổ chức các hoạt động nhận thức trong bài lên lớp.
- Hình thành và phát triển cho SV năng lực dạy học và giáo dục thông
qua thực hành, năng lực nghiên cứu khoa học giáo dục, góp phần bồi dưỡng
tình cảm nghề nghiệp, phẩm chất và năng lực của người GV sinh học.
1.3. Mối quan hệ giữa lí luận dạy học Sinh học với các khoa học khác
1.3.1. Quan hệ với Triết học duy vật biện chứng
SH nghiên cứu bản chất và các qui luật của sự sống. Sống là phương
thức vận động của vật chất, nên nó cũng tuân theo những qui luật chung của
vật chất là đối tượng nghiên cứu của Triết học. Cho đến nay, nhiều hiện tượng
của sự sống, nhiều vấn đề của thiên nhiên hữu cơ mà con người vẫn chưa giải
thích được bản chất và tính qui luật của nó. SH vẫn là nơi tiếp tục diễn ra sự
đấu tranh gay gắt giữa 2 thế giới quan: duy vật biện chứng và duy tâm siêu
hình. Vì thế, trong nghiên cứu SH cũng như trong nghiên cứu LLDHSH cần
có sự chỉ đạo của Triết học duy vật biện chứng để có một quan điểm và
phương pháp tư tưởng đúng đắn trong việc nhận thức các hiện tượng, qui luật
của giới hữu cơ, cũng như trong QTDHSH.
1.3.2. Quan hệ với Lôgic học

Dạy học thực chất là tổ chức quá trình nhận thức, phải tuân thủ những
qui luật của tư duy. Vì vậy, LLDHSH có quan hệ với lôgic học. Có nắm vững

21


các nguyên tắc cơ bản của lôgic học thì mới có thể trình bày nội dung tòan bộ
giáo trình, từng chương, từng bài một cách mạch lạc và súc tích.
Khi dạy các khái niệm, qui luật, quá trình SH cần dựa vào lôgic học thì
mới có thể hình thành và phát triển lôgic nội dung và xác định PPDH đúng
đắn, từ đó rèn luyện cho HS các thao tác tư duy như phân tích, so sánh, hệ
thống hóa, khái quát hóa, trừu tượng hóa…
1.3.3. Quan hệ với lí luận dạy học đại cương
Các qui luật chung của LLDH đại cương được vận dụng vào LLDH bộ
môn, trong đó có LLDHSH. Sự phát triển của LLDH đại cương tạo những cơ
sở lí thuyết vững chắc cho LLDHSH, ngược lại sự phát triển của LLDHSH bổ
sung, cụ thể hóa những minh chứng thực tế phong phú cho LLDH đại cương.
Đây là quan hệ 2 chiều giữa cái chung và cái riêng.
1.3.4. Quan hệ với Sinh lí học lứa tuổi và Tâm lí học sư phạm
Việc dạy học phải phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của trẻ mới đạt
hiệu quả cao, vì vậy LLDHSH có quan hệ mật thiết với Sinh lí học lứa tuổi và
Tâm lí học sư phạm. HS THPT đang ở lứa tuổi từ 16-19. Lứa tuổi này có một
số đặc điểm tâm sinh lí sau:
- Ý thức, động cơ học tập rõ hơn .
- Tính chủ động trong quá trình nhận thức đã phát triển .
- Tri giác có mục đích đã đạt mức khá cao .
- Ghi nhớ có chủ định giữ vai trò chủ đạo trong quá trình học .
- Năng lực tư duy trừu tượng, tư duy lí luận, độc lập trong tư duy đã
phát tương đối tốt.
- Có năng lực phân tích, phê phán, nhận định khi phải đối mặt với các

sự kiện, vấn đề học tập.
- Có năng lực tự đáng giá, tự khẳng định mình.
Trong xu thế quan tâm nhiều hơn đến hoạt động học, dạy cho HS PP
học, nhất là tự học, thì người GV càng phải hiểu biết sâu sắc về tâm sinh lí
của HS thì mới có thể thiết kế các hoạt động dạy và học một cách hợp lí. Một
định hướng đang được quan tâm trong LLDH là nghiên cứu sâu về quy luật
của quá trình học tập để thiết kế hoạt động học của trò, dựa trên thiết kế hoạt
động học của trò mà thiết kế hoạt động dạy của thầy. Điều này khác với cách
làm truyền thống lâu nay trong GV là nghiên cứu kĩ nội dung dạy để thiết kế
cách truyền đạt của thầy, ít nghĩ đến việc trò sẽ phải làm gì để có thể tự lực
chiếm lĩnh tri thức mới dưới sự tổ chức chỉ đạo của thầy.
22


1.3.5. Quan hệ với các khoa học Sinh học
Nội dung chương trình SH ở trường phổ thông phản ánh nội dung của
các khoa học SH, nhưng đã qua quá trình xử lí của các nhà khoa học và các
nhà sư phạm phù hợp với lôgic khoa học và lôgic nhận thức. Đây là những
kiến thức cơ bản nhất ở trình độ phổ thông, được lựa chọn và sắp xếp theo
tiếp cận “Sinh học hệ thống” các CĐTCS và quán triệt đồng thời hai quan
điểm “Sinh thái và Tiến hóa” phù hợp với mục tiêu của cấp học, phù hợp đặc
điểm tâm sinh lí của HS, phù hợp với hoàn cảnh dạy và học của nhà trường
nước ta trong giai đoạn hiện nay và theo xu thế chung của thế giới. Những
kiến thức cơ bản này được cấu trúc thành hệ thống, kết hợp lôgic phát triển
của khoa học SH với lôgic sư phạm trong tổ chức quá trình nhận thức của HS.
Như vậy, nội dung và phương pháp của khoa học SH qui định nội dung và
PPDH môn SH ở trường phổ thông.
1.4. Phương pháp nghiên cứu của lý luận dạy học Sinh học
1.4.1. Phương pháp luận và phương pháp hệ
Trong khoa học, người ta phân biệt giữa phương pháp luận và phương

pháp hệ.
Phương pháp luận (methodology) là những quy luật chung và những
nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Chữ
Methodology bắt nguồn từ tiếng Hy lạp Methodos là phương pháp và logos
là lí thuyết, học thuyết. Phương pháp luận là lý thuyết về phương pháp.
Phương pháp hệ mang tính chất cá biệt hơn và thực chất có tính chất
ứng dụng bởi vì nó liên quan đến kỹ thuật cụ thể, những phương tiện, phương
thức thu thập và phân tích tài liệu thực tế.
Phương pháp luận và phương pháp hệ liên quan chặt chẽ với nhau.
Trong các phương pháp hệ biểu hiện những nguyên lý phương pháp luận
chung. Phương pháp hệ phải bảo đảm về mặt kỹ thuật cho việc thực hiện
phương pháp luận trong việc nghiên cứu cụ thể. Phương pháp luận khoa học
và phương pháp hệ đúng đắn sẽ cho phép chúng ta thu thập và phân tích được
không phải chỉ những sự kiện ngẫu nhiên mà là những sự kiện trong tổng thể
của chúng, và đó là cơ sở để rút ra những kết luận khách quan, đúng đắn từ
các sự kiện đó.
1.4.2. Thế nào là nghiên cứu khoa học?
Khó có thể đưa ra một định nghĩa nào đó khả dĩ để trả lời cho câu hỏi
trên mà mọi người đều có thể chấp nhận. Nghiên cứu khoa học là một hoạt
động vừa mang tính bao trùm vừa đa dạng. Nó có thể là một hoạt động nhận
23


thức hay tư duy của bất cứ ai trong sinh hoạt hàng ngày, nhưng nó cũng có thể
là việc làm của một nhà khoa học trong suốt cả cuộc đời. Có khi nó là một
việc làm đơn giản, cũng có lúc nó trở nên vô cùng phức tạp. Nhưng dù dưới
những điều kiện như thế nào chăng nữa, nghiên cứu bắt buộc phải là một hoạt
động có hệ thống nhằm đạt đến sự hiểu biết được kiểm chứng.
Nghiên cứu khoa học là một hoạt động tìm hiểu có hệ thống. Điều này
có nghĩa là hoạt động nghiên cứu là một nỗ lực có chủ đích, có tổ chức nhằm

thu thập những thông tin, xem xét thật kỹ, phân tích xếp đặt các dữ kiện lại
với nhau rồi đánh giá các thông tin ấy. Công việc làm như vậy, về thực chất
không khác bao nhiêu so với kinh nghiệm tìm hiểu và tư duy thông thường
của chúng ta trong sinh hoạt hàng ngày. Sự khác biệt là ở mức độ hệ thống
hóa trong công việc và mức độ xác định vấn đề nghiên cứu. Người nghiên
cứu thực hiện công tác của mình với một mức độ tổ chức cao xung quanh một
vấn đề được xác định rõ ràng và theo đuổi công việc tìm hiểu với với hy vọng
đi đến một kết luận.
Có thể tiến hành nghiên cứu theo lối “quy nạp” hay “diễn dịch”. Mặc
dầu việc phân biệt diễn dịch với quy nạp chỉ mang tính hình thức hơn là đúng
trong thực tế.
Quy nạp là lối lập luận đi từ sự quan sát các hiện tượng rồi khái quát
chúng lên dưới dạng các quy luật hay nguyên lý chung.
Diễn dịch là sự lập luận khởi đầu bằng sự công nhận một quy luật hay
nguyên lý chung rồi áp dụng nó vào việc giải thích các hiện tượng riêng biệt.
Có ý kiến cho rằng quy nạp là các phương pháp của khoa học tự nhiên,
còn diễn dịch là phương pháp của triết học. Nhìn chung, quy nạp và diễn dịch
là những phương pháp nghiên cứu khác nhau nhưng không độc lập với nhau.
Phương pháp biện chứng dựa cả vào quy nạp và diễn dịch vì chúng liên hệ
với nhau và bổ sung cho nhau.
1.4.3. Cơ sở phương pháp luận trong nghiên cứu lí luận dạy học Sinh học
Phương pháp luận chung nhất, phổ biến nhất và duy nhất đúng đắn của
các khoa học cụ thể là triết học duy vật biện chứng, vì nó vũ trang cho các
khoa học cụ thể thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng để tiếp
cận đối tượng nghiên cứu và cải tạo hiện thực. Nó vạch ra những quy luật
phát triển chung nhất của thế giới và được khái quát hoá lên từ những thành
tựu của các khoa học cụ thể. Nội dung phương pháp luận của các khoa học cụ
thể vừa thống nhất với phương pháp luận phổ biến, vừa có những nét đặc
trưng nảy sinh từ đặc điểm của đối tượng. Mối quan hệ giữa phương pháp
luận phổ biến với phương pháp luận của các khoa học cụ thể là mối quan hệ

24


giữa cái chung và cái riêng. Cho nên, không thể tách biệt phương pháp luận
phổ biến với phương pháp luận riêng trong nghiên cứu các khoa học cụ thể.
Ph.Ăng ghen 7 đã chỉ rõ, "Chính phép biện chứng là một hình thức tư
duy quan trọng nhất đối với khoa học tự nhiên, bởi vì chỉ có nó mới có thể là
cái tương đồng và do đó mới đem lại phương pháp giải thích những quá trình
phát triển diễn ra trong giới tự nhiên, giải thích những mối quan hệ chung,
những bước quá độ từ một lĩnh vực nghiên cứu này sang một lĩnh vực nghiên
cứu khác... Chỉ có phép biện chứng mới có thể giúp cho khoa học tự nhiên
thoát ra khỏi những khó khăn về lý luận".
Như vậy, phương pháp luận là một bộ phận không thể thiếu được của
mỗi khoa học, là lý luận về các phương pháp được sử dụng trong khoa học ấy.
Mỗi khoa học đều có phương pháp luận riêng có liên quan chặt chẽ với
phương pháp luận chung. Phương pháp luận có nhiều loại: có phương pháp
luận riêng chỉ đúng cho từng khoa học nhất định, có phương pháp luận chung
áp dụng được cho một số khoa học và có phương pháp luận chung nhất áp
dụng cho các khoa học.
Để xây dựng phương pháp luận trong nghiên cứu các khoa học cụ thể,
việc xác định đúng đối tượng nghiên cứu của nó là vấn đề quan trọng hàng
đầu và có ý nghĩa quyết định, vì nếu không có đối tượng thì sẽ không xác
định được phải nghiên cứu cái gì. Lưu ý rằng đối tượng nghiên cứu của mỗi
khoa học cụ thể chỉ là một bộ phận rất nhỏ của thế giới hiện thực nằm trong
mối liên hệ nhiều mặt và tác động qua lại hết sức phức tạp với các đối tượng
khác.
Sau khi xác định được đối tượng nghiên cứu rồi, ta mới có thể xác định
được khách thể nghiên cứu. Khách thể nghiên cứu là môi trường chứa đựng
đối tượng nghiên cứu, nên tuỳ theo điều kiện và khả năng mà người nghiên
cứu có thể lựa chọn khách thể nghiên cứu rộng hay hẹp. Tuy nhiên, người ta

thường xác định khách thể nghiên cứu có liên quan trực tiếp đến đối tượng
nghiên cứu. Tiếp đó, người nghiên cứu mới tìm ra được những nhiệm vụ
nghiên cứu cụ thể và phương pháp nghiên cứu tương ứng, đặc trưng cho đối
tượng nghiên cứu.
Việc xác định phương pháp cụ thể đó là những phương pháp nào, nội
dung của mỗi phương pháp là gì, mối quan hệ giữa các phương pháp đó ra
sao, cách áp dụng nó như thế nào và phạm vi áp dụng đến đâu v.v. đều do lý
luận về phương pháp của môn khoa học này giải quyết. Lý luận về phương
7

C.Mác và Ph.Ăng ghen. Toàn tập, t.22, tr.367 (tiếng Nga)

25


×