LỜI MỞ ĐẦU.
Cho đến nay, Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp chậm phát triển quy
mô dân số lớn, tốc độ tăng dân số cao. Thời kỳ Hùng Vương dựng nước, dân
số Việt Nam mới khoảng một triệu người. Nhưng trong thế kỷ 20, dân số nước
ta tăng rất nhanh. Năm 1945 mới có 23 triệu người; 1960: 30 triệu người;
1979: gân 53 triệu; 1989: trên 64 triệu; 1999: trên 76 triệu và đến nay đã trên
80 triệu. “Sự gia tăng dân số quá nhanh là một trong những nguyên nhân quan
trọng cản trở tốc độ phát triển kinh tế – xã hội, gây khó khăn cho việc cải thiện
đời sống, hạn chế điều kiện phát triển về mặt trí tuệ, văn hoá và thể lực của
giống nòi. Nếu xu thế này cứ tiếp tục diễn ra thì tương lai không xa đất nước
ta sẽ đứng trước những khó khăn rất lớn, thậm chí gây ra những nguy cơ về
nhiều mặt”. Các quan điểm trên thế giới hầu hết đều cho rằng giữa dân số và
kinh tế luôn có mối quan hệ tương tác theo cả hai chiều. Trong hoàn cảnh này
thì dân số tăng sẽ có lợi về kinh tế những trong hoàn cảnh khác thì ngược lại
vì phát triển kinh tế không chỉ đơn thuần dựa vào nguồn nhân lực.
Dân số vừa là lực lượng sản xuất, vừa là lực lượng tiêu dùng. Bởi vậy,
quy mô, cơ cấu dân số có ảnh hưởng lớn đến quy mô, cơ cấu sản xuất tiêu
dùng và tích luỹ của xã hội.
1
PHẦN I : THỰC TRẠNG DÂN SỐ VIỆT NAM
Ngày dân số thế giởi năm nay đến với nước ta trong niềm tự hào và phấn
khởi bởi những thành tựu của sự nghiệp đổi mới. Đúng vào lúc dân số thế giới
đạt tới con số 3 tỷ người và dân số Việt Nam vừa vượt qua con số 30 triệu
người thì Chính phủ Việt Nam ban hành quyết định số 216/CP ngày
26/12/1961 về việc sinh đẻ có hướng dấn với mục đích: “Vì sức khoẻ của bà
mẹ, vì hạnh phúc và hoà thuận trong gia đình và để nuôi dạy con cái được chu
đáo, việc sinh đẻ của nhân dân cần được hướng dẫn chu đáo”. Ngày
26/12/1961 trở thành một mốc lịch sử quan trọng của chương trình dân số Việt
Nam, ngày Việt Nam chính thức tuyên bố tham gia chương trình dân số toàn
cầu, đánh dấu sự khởi đầu về nhận thức được ý nghĩa của mối quan hệ giữa
dân số và phát triển trong tiếng chuông báo động về tình hình gia tăng dân số
quá nhanh trên thế giới.
Sau nhiều năm phán đấu kiên trì và gian khổ, công tác dân số kế hoạch
hoá gia đình ( DS - KHHGĐ) ở nước ta đã có chuyển biến đáng kể và đạt kết
quả đáng khích lệ. Nhiều mục tiêu nêu ra trong chiến lược DS – KHHG đến
năm 2000 về mặt giảm mức sinh, về quy mô dân số và thực hiện kế hoạch hoá
gia đình đã được thực hiện vượt mức. Số con trung bình của một phụ nữ Việt
Nam ở tuổi sinh đẻ (từ 15 đến 49) ngày càng giảm. Lấy năm 1960 làm mốc,
lúc đó số con trung bình của họ và 6,39 con (tương đương với mức sinh tiềm
năng) đến năm 1975, tức sau 14 năm thực hiện sinh đẻ có kế hoạch là 5,25
con; năm 1985 là 3,95 con; năm 1994 là 3,1 con, năm 1999 là 2,3 con và năm
2002 là 2,28 con.
Tỷ lệ sinh con cũng ngày càng giảm. Năm 1960, tỷ lệ sinh ở miền Bắc là
43,9%, đến năm 1975 giảm xuống còn 33,2%. Sau khi thực hiện Nghị quyết
Trung ương 4, tỷ lệ sinh giảm rất nhanh, năm 1994 giảm còn 2,53%; năm
2000 còn 1,90%. Tỷ lệ sinh con thứ 3 cũng giảm dần nhưng chưa ổn định.
2
Như vậy, thực hiện cuộc vận động kế hoạch hoá gia đình, chúng ta đã
giảm được mức sinh đáng kể. Tuy nhiên, quy mô dân số của nước ta vân lớn
và có chiều hướng ngày càng lớn. Năm 1921 dân số Việt Nam mới có 15,58
triệu người, sau 40 năm là 30,17 triệu và hiện nay khoảng 80,5 triệu người.
Dân số tăng nhanh, trong khi diện tích đất đai của Việt Nam không tăng, chỉ
có 33,1 triệu KM
2
, do đó, mật độ dân số tăng rất nhanh. Đến nay, mật độ dân
số nước ta là 243 ngươi/km2 và gấp 6 lần mật độ dân số chuẩn của quốc tế.
Do quy mô dân số lớn, mật độ dân số cao, kinh tế còn nghèo, nên chất
lượng dân số của Việt Nam còn thấp. Các tổ chất về thể lực của người Việt
Nam hiện nay còn hạn chế, đặc biêt là chiều cao, cân nặng, sức bền. Năm
1998, tỷ lệ trẻ em sơ sinh cân nặng dưới 2500 gam chiếm 8%. Năm 1999, tỷ lệ
trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng cao chiếm 36,7%. Đáng lưu ý là vẫn còn
1,5% số dân bị thiểu năng về trí lực và thể lực. Tính đến ngày 1/4/1999 cả
nước vẫn còn 6,8 triệu người từ 10 tuổi trở lên chưa bao giờ đến trường, trong
đó có 5,3 triệu người không hoàn toàn biết chữ. Tỷ lệ số người đã qua đào tạo
nghề nghiệp và chuyên môn kỹ thuật chiếm 7,6% dân số từ 13 tuổi trở lên,
trong đó có 2,3% là công nhân kỷ thuật và nhân viên nghiệp vụ có bằng cấp,
2,8% có trình độ trung học chuyên nghiệp; 0,7% cao đẳng; 1,7% đại học và
0,1% có trình độ trên đại học. Tuy nhiện, cũng cần thấy rằng những kết quả
đạt được của công tác dân số kế hoạch hoá gia đình còn chưa thực sự vững
chắc, thể hiện ở việc giảm chẩm tỷ lệ sinh con thứ 3, cơ cấu sử dụng các biện
pháp tránh thai còn chưa hợp lý, chất lượng dịch vụ kế hoạch hoá gia đình còn
chưa cao, do đó dẫn đến tỷ lệ nạo phá thai còn cao, tỷ lệ tai biến và thất bại
còn ở mức đáng lo ngại.
Từ đó, chúng ta có thể rút ra đặc điểm cơ bản của dân số nước ta là:
- Quy mô dân số quá lớn với 87 triệu dân, nước ta xếp thứ 13 trên thế
giới về quy mô dân số. Mật độ dân số thì nước ta còn gấp đôi thế giới,
gấp 6 lần mật độ mà các nhà khoa học thế giới cho là hợp lý. Dân
3
số nước ta lại phát triển nhanh, từ năm 1921 đến 1975, dân số nước ta
tăng gấp 5 lần, trong khi thế giới tăng khoảng 3 lần.
- Cơ cấu dân số trẻ: hiện nay tỷ lệ trẻ em 14 tuổi trở xuống của nước ta
chiếm 33% trong khi Nhật Bản khoảng 16%.
- Dân số phân bố không đều và chủ yếu tập trung ở nông thôn, chỉ có
23% dân số sông ở đô thị.
- Quy mô dân số lớn nên lực lượng lao động dồi dào, Việt Nam vừa có
khả năng phát triển toàn diện các ngành kinh tế, vừa có thể chuyên môn
hoá lao đông sâu sắc, tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động, thúc
đẩy xã hội phát triển. Lực lượng lao động của nước ta vào loại trẻ, dễ
chuyển dịch và tạo ra tính năng động cao trong hoạt động kinh tế.
Với 80,5 triệu dân cũng là 80,5 triệu người tiêu dùng. Đây là một thị
trường rộng lớn, hấp dẫn đầu tư, kích thích sản xuất, phát triển kinh tế. Tuy
nhiên, những đặc điểm dân số nói trên cũng có tác động tiêu cực đến sự
nghiệp phát triển kinh tế. Điều này có thể tập trung xem xét trên các khía
cạnh, tác động của dân số đến nguồn lao động, việc làm tăng trưởng kinh tế,
tiêu dùng và tích luỹ.
1. Dân số với lao động và việc làm:
a/ Đặc điểm dân số với lao động, việc làm:
Dân số và phát triển nguồn nhân lực tạo việc làm có mối quan hệ hữu cơ
với nhau, tác động lẫn nhau trong các quá trình phát triển. Quá trình tăng,
giảm dân số có quan hệ vơi sự phát triển quy mô và chất lượng nguồn nhân
lực xã hội, tác động đến quan hệ cung – cầu lao động trên thị trường lao động
Quan hệ dân số – lao động và việc làm ở nước ta có những đặc trưng
sau:
Một là, Việt Nam có quy mô dân số lớn và phát triển nhanh nên quy mô
của nguồn lao động cũng rất lớn và thường phát triển nhanh hơn so vơi tổng
dân số. Luật pháp nước CHXHCN Việt Nam quy định tuổi lao động của nam
4
từ 15 đến 60, còn đối với nữ là 15 đến 65 tuổi. Tỷ lệ dân số trong tuổi lao
động Việt Nam năm 1997 là gần 58% vơi khoảng 44 triệu người. Nguồn lao
động ở nước ta có quy mô lớn và tăng rất nhanh. Số người bước vào tuổi lao
động hàng năm không ngừng tăng lên. Năm 1990: 1,448 nghìn người; 1995:
1,651 nghìn người; dự báo năm 2000: 1,76 nghìn người; 2010: 1,830 nghìn
người và tổng số người trong độ tuổi lao động lên tới gần 58 triệu. Từ nay đên
năm 2010, mặc dù dân số có thể tăng chậm lại nhưng nguồn lao động của
nước ta vẫn tăng nhanh liên tục. Biểu đồ cho thấy dân số nam có việc nhiều
hơn dân số nữ. So với nam (khoảng 77%) số phần trăm nữ có việc làm cao
hơn ở khu vực nông thôn (gần bằng 80% tổng số), phản ánh tỷ lệ tham gia lao
động của phụ nữ ở khu vực thành thị tương đối thấp.
Biểu đồ 1.1: Phân bổ dân cư có việc làm từ 15 tuổi trở lên theo khu vực
thành thị/nông thôn và theo giới tính ở Việt Nam năm 1999.
Đơn vị: 1000 người.
Thành thị/
Nông thôn
Nam Nữ Tổng số
Số lượng
Tỷ lệ
(%)
Số lượng
tỷ lệ
(%)
Số lượng
tỷ lệ
(%)
Nông thôn 14.330 77,4 13.796 79,6 28.126 78,5
Thành thị 4.178 22,6 3.543 20,4 7.721 21,5
Tổng số 18.508 100.0 17.339 100.0 35.847 100.0
Sự già hoá rõ nét của lực lượng lao động trong 10 năm qua được thể hiện qua
biểu 1.2: Phân bố phần trăm dân số có việc làm chia theo nhóm tuổi trong năm
1989 và 1999 Đơn vị: Tỷ lệ %
Nhóm tuổi 1989
1999
Nam Nữ Tổng
15 – 24 30,5 24,2 27,1 25,6
25 – 34 32,6 31,9 29,6 30,8
35 – 44 17,4 24,8 24,9 24,9
45 –54 10,8 11,4 11,5 11,4
Trên 55 8,7 7,7 6,9 7,3
Tổng số 100.0 100.0 100.0 100.0
Về mức tăng tuyệt đối, nêu trong 5 năm từ 1976 đến 1986, bình quân
mỗi năm tăng thêm 75 – 80 vạn lao động, trong 5 năm gần đây, mỗi năm thêm
5
1,06 triệu và giữ nguyên mức tăng trên 1 triệu người/ năm kéo dài đến suốt
năm 2005. Từ năm 2005 mức tăng dân số trong tuổi lao động mới có thê giảm
dần và ngừng tăng vào những năm 30 của thế kỷ 21.
Biểu 1.3: Mức tăng số lượng tuyệt đối nguồn lao động.
Năm
Số lượng
198
9
1990 1995 2000 2005
Tổng dân số ở độ tuổi lao động (triệu
người)
30,3 35,6 40,7 46,2 51,5
Tỷ lệ so với tổng dân số (%) 50,2 53,5 55,5 57,8 59,8
Mức tăng bình quân hàng năm qua
các thời kỳ (trăm nghìn người)
900 1.060 1.023 1.090 1.055
Nguồn lao động nước ta hiện nay đông đảo và tăng nhanh, một mặt do
sự bùng nổ dân số ở các thời kỳ trước, mặt khác, do sự vận động tự nhiên
của dân số cơ cấu dân số đang chuyển dần từ loại hình cơ cấu dân số trẻ
sang loại hình dân số ngày càng hợp lý hơn. Sự biến đổi này làm cho nguồn
lao động tiếp tục tăng và tiếp tục trẻ hoá. Số lượng lao động trẻ (từ 16 đến
35 tuổi) tăng lên không ngừng suốt từ nay đến năm 2005; từ 25 triệu tăng
năm 1990 lên 26,8 triệu năm 1995 và 30,4 triệu năm 2005. Đây rõ ràng là
một thế mạnh của nguồn lao động nước ta trong công cuộc xây dựng đất
nước trong thời gian tới, trong điều kiện đất nước có nguồn vốn đầu tư it,
trang bị kỹ thuật thấp. Số thanh niên trẻ trong tổng số nguồn lao động là
những người trẻ, khoẻ, nhanh nhạy, dễ tiếp thu và nắm bắt kỹ thuật mới,
công nghệ mới, nếu được đào tạo và bồi dưỡng một cách chu đáo chắc chắn
sẽ là một nguồn lực mạnh để xây dựng đất nước.
Nhưng chỉ riêng về măt số lượng, chúng ta thấy nguồn lao động của nước
ta tăng mạnh trong thập kỷ 90 và tiếp tục tăng với tỷ lệ cao trong nhiều năm
sắp tới. Điều đó đã gây ra sức ép rất lớn về giải quyết việc làm, làm phát sinh
6
mâu thuẩn căng thẳng giữa khả năng tạo việc làm còn hạn chế với nhu cầu giải
quyết việc làm ngày càng tăng.
Hai là, xét về mặt cơ cấu ngành nghề, trong quá trình CNH – HĐH, lao
động nông nghiệp có xu hướng giảm dần, còn lao động trong khu vực công
nghiệp, xây dựng và dịch vụ đang tăng lên, song cho đến nay Việt Nam vẫn
con có một cơ cấu lao động theo ngành hết sức lạc hậu, lao động chủ yếu làm
việc trong khu vực nông, lâm, ngư nghiệp. Việc cải thiện cơ cấu lạc hậu này
diễn ra rất chậm chạp. Điều này phụ thuộc nhiều nguyên nhân, trong đó có yếu
tố mức sinh ở nông thôn luôn luôn cao khoảng gấp đôi ở thành phố. Do vây,
lao động tích tụ ở đây cũng ngày một nhiều và tỷ trọng giảm chậm, mặc dù đã
diễn ra luồng di dân mạnh mẽ từ nông thôn ra đô thị, kèm theo sự chuyển đổi
ngành nghề.
Trong nông nghiêp, trong khi số dân và lao động khu vực tăng lên nhanh
chóng thì quỹ đất canh tác lại có hạn. Hơn nữa, quá trình CNH đất nước càng
diễn ra mạnh mẽ thì đất nông nghiệp ngày càng phải chuyển giao cho công
nghiệp, dịch vụ, các công trình công cộng khác. Diện tích đất nông nghiệp
bình quân đầu người không ngừng giảm xuống trong thời gian qua. Năm 1921
bình quân 0,4 ha/người, năm 1993 còn 0,098 ha/người. Bình quân hộ giàu ở
nông thôn Việt Nam mới có 1,2 ha đất canh tác trong khi ở Mỹ là 80 ha, ở
châu Âu là 9 ha.
Sức ép của dân số, lao động trên đất đai hạn hẹp gây ra tình trạng thiếu
việc làm phổ biến. Lao động nông nghiệp làm việc theo mùa vụ, mà ruộng đất
là tư liệu sản xuất chính có ít nên số ngày công của lao động trong năm
thường rất thấp (187 ngày/ năm). Hiện tại hình thức kinh tế trang trại đang
được Nhà nước khuyến khích phát triển cũng gặp nhiều khó khăn khi diện tích
đất đai bình quân của các hộ gia đình ngày càng bị thu hẹp. Thêm nữa là tình
trạng khó khăn trong tạo việc làm ở các ngành khác đã dẫn tới hiện tượng tồn
đọng thêm lao động nông thôn vào khu vực nông nghiệp. Năm 1997, có tới
7
7.358,199 người từ 15 tuổi trở lên, chiếm 25% tổng số lao động hoạt động
kinh tế thường xuyên ở khu vực nông thôn thiếu việc làm. Tình trạng khan
hiếm đất dẫn tới đồng ruộng manh muốn, phân tán, khó thúc đẩy việc áp dụng
các tiến bộ khoa học, kỹ thuật như cơ giới hoá, thuỷ lợi hoá, tổ chức lao động
khoa học. Tình trạng di dân tự do từ nông thôn lên thành thị hoặc từ đồng
bằng sông Hồng lên miền núi phía Bắc và Tây nguyên đã phát sinh và ngày
càng tăng mạnh, dẫn đến nạn phá rừng trầm trọng. Diện tích rừng suy giảm
theo tốc độ tăng của dân số, dân số năm 1981 so với năm 1943 tăng 2,5 lần,
diện tích rừng chỉ còn lại 40%.
Công nghiệp và dịch vụ là những ngành cần tập trung vốn đầu tư lớn,
nhưng do quy mô dân số tăng nhanh, cơ cấu dân số trẻ đòi hỏi phải sử dụng
nhiều thu nhập quốc dân (GDP) cho giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội, ... dẫn đến
tình trạng thiếu trầm trọng vốn tích luỹ đầu tư cho công nghiệp, dịch vụ.
Cơ cấu lao động theo ngành nghề của Việt Nam thể hiện tình trạng lạc hậu của
nền kinh tế, cho đến năm 1998, lao động công nghiệp mới chỉ chiếm 13%,
dịch vụ 21%, còn chủ yếu 66% vẫn làm việc trong ngành nông nghiệp.
ở khu vực kinh tế có sự khác biệt rõ rệt về cơ cấu lao động làm việc theo
nhóm ngành kinh tế. ở khu vực kinh tế Nhà nước lao động chủ yếu làm vịêc
trong nhóm ngành dịch vụ, ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài thành phần
kinh tế hỗn hợp và ở thành phần kinh tế tư nhân, lao động chủ yếu làm việc
trong nhóm ngành công nghiệp và xây dựng, ở khu vực kinh tế tập thể, cá thể,
lao động chủ yếu làm việc trong nhóm ngành nông lâm, ngư nghiệp ... Đến
năm 1999 số người làm việc trong khu vực tập thể giảm xuống một nửa so với
năm 1989, hiện còn chiếm 27% lực lao động. Lao động làm việc trong thành
phần kinh tế Nhà nước giảm xuông tương tự đến năm 1999 chỉ còn 10%. Số
lao động giảm xuống trong hai thành phần kinh tế nói trên dẫn đến sự mở rộng
các thành phần kinh tế khác lên gần gấp đôi (tăng 63%).
Các thành phần kinh tế (%)
8
Nhà
nước
Tập
thể
Tư
nhân
Cá
thể
Hỗn
hợp
100% vốn
nước ngoài
Tổng
số
Thành thị 27,0 5,8 1,9 60,7 3,3 1,3 100,0
Nông thôn 9,8 32,8 0,4 61,1 0,3 0,3 100,0
Tổng số 9,8 27,0 0,7 61,0 1,0 0,5 100,0
Dân số có việc làm: Hiện tại, chất lượng lao động thấp, cơ cấu đào tạo nghề
không hợp lý, phân bố không phù hợp là những nhân tố quan trọng cùng với
yếu tố thiếu vốn, khủng hoảng tài chính, tiền tệ gây khó khăn trong quá trình
tạo thêm việc làm trong khu vực công nghiệp, dịch vụ. Tỷ lệ công nhân kỹ
thuật được đào tạo ở nước ta còn thấp, chỉ chiếm 4,37% lực lượng lao động và
một nửa trong số đó tuy đã được đào tạo nhung không có bằng.
So với các nước trên thế giới và trong khu vực, tỷ lệ thất nghiêp của Việt Nam
hiện nay tương đối cao và không ổn định (năm 1996: 5,62%, năm
1997:5,81%) và tập chung ở những vùng đông dân hay các đô thị lớn
Bảng 1.4: Tỷ lệ thất nghiệp của lao động Việt Nam phân theo vùng.
Đơn vị: Tỷ lệ %.
Năm
Vùng
1996 1997 1998
Miền núi và trung du phía Bắc 6,13 6,01 6,25
Đồng bằng sông Hồng 7,31 7,56 8,25
Bắc Trung bộ 6,67 6,69 7,62
Duyên hải miền trung 5,3 5,2 6,67
Đông Nam bộ 5,3 5,79 6,44
Tây Nguyên 4,08 4,48 5,88
Đồng bằng sông Cửu Long 4,59 4,56 6,44
Bình quân cả nước 5,62 5,81 6,85
Ba là, tuy số lượng lao động lớn nhưng chât lượng lao động lại thấp:
Về mặt sức khoẻ: Các chỉ tiêu quan trọng nhất là thể lực, tầm vóc, tuổi
thọ trung bình, ... của lực lượng lao động đều đang ở mức báo động. Do tình
trạng thiếu dinh dưỡng nên thể chất, sức khoẻ của người lao động ngày càng
sa sút. Đặc biệt báo động là vấn đề trẻ em suy dinh dưỡng, số trẻ em suy dinh
9
dưỡng ở độ tuổi dưới 5 tuổi. Điều này rõ ràng ảnh hưởng trực tiếp đến các thế
hệ lao động trong các thập kỷ sau này.
Về trình độ văn hoá: Theo thống kê của cuộc tổng điều tra dân số năm
1999, số lượng dân số từ 10 tuổi trở lên chưa bao giờ đến trường chiếm
12,6%. Do công tác xoá nạm mù chữ đã được triển khai nên bước đầu tỷ lệ
người biết chữ tăng từ 85% năm 1979 lên 88% năm 1989. Đặc biệt là ở nông
thôn, nơi chiếm hơn 80% dân số và 25 triệu lao động, chỉ có 1,5 triệu người có
trình độ PTTH, 0,67 triệu có trình độ Trung cấp và 0,25 triệu có trình độ đại
học, cao đẳng trở lên. Từ những con số nói trên có thể rút ra kết luận rằng
trình độ văn hoá hay dân trì nói chung của người lao động nước ta hiện nay
còn quá thấp so với yêu cầu để phát triển đất nước và so với trình độ chung
của thế giới.
Về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ tay nghề của người lao động nước ta
hiện nay cũng đang ở mức rất thấp. Hiện nay, chỉ số phát triển con người
(HDI) của nước ta còn thấp. Theo đánh giá của Liên hợp quốc, Việt Nam xếp
thứ 108/174 nước. Tỷ lệ lao động qua đào tạo mới đạt khoảng 21,9% lực
lượng lao động xã hội, phần lớn lao động dư thừa, cung cầu lao động bất cân
đối, phản ứng của cung với cầu lao động rất thấp, tiền lương, tiền công của đại
bộ phận lao động làm công ăn lương mới chỉ đảm bảo mức sống tổi thiểu.
Đến đây, chúng ta đã có một bức tranh khá đầy đủ về nguồn lao động
nước ta. Nguồn lao động nước ta có đặc điểm trí, khoẻ trong những điều kiện
và môi trường thuận lợi đã tỏ rõ sự nhanh nhạy, thông minh, tháo vát,... nhưng
nhìn chung chất lượng còn thấp, nhiều mặt đang ở mức báo động. Tất cả
những điều trên đã gây ra những khó khăn lớn trong việc đáp ứng những nhu
cầu để phát triển kinh tế – xã hội, đặc biệt trong việc giải quyết sắp xêp việc
làm cho người lao động.
Thực tế cho thấy, ở các địa phương có tỷ lệ tăng dân số cao kinh tế – xã
hội cũng thường chậm phát triển, chất lượng nguồn nhân lực thấp. Đời sống
10
của người lao động và dân cư tại các địa phương này chậm được cải thiện, thể
hiện ở thu nhập bình quân/người/ năm thấp so với mức bình quân chung cả
nước (năm 2000 cả nước thu nhập bình quân đầu người là 651,5 nghìn đồng
thì Hoà Bình: 383,7 nghìnđồng; Gia Lai: 499,2 nghìn đồng, ...), số hộ có thu
nhập thấp không có điều kiện để đầu tư phát triển vốn nhân lực.
Quá trình CNH – HĐH sẽ tạo thêm nhiều việc làm trong các ngành nghề
mới với công nghệ và quản lý hiện đại (đặc biệt là khu công nghệ cao), đòi hỏi
chất lượng nguồn nhân lực phải đổi mới, nâng cao để thoã mãn nhu cầu phát
triển. Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập, tính cạnh tranh kinh tế, nâng
cấp công nghệ và nhu cầu đào tạo lại người lao động ngày càng tăng, dẫn đến
sự biến động và tình trạng thất nghiệp thường xuyên. Do đó, chất lượng dân
số, suy cho cùng là chất lượng nguồn nhân lực có ý nghĩa quyết định đối với
khả năng tìm việc làm và tạo việc làm. Cơ hội việc làm đối với lao động có kỹ
năng cao hơn rất nhiều so với lao động không có kỹ năng. Các mối quan hệ
dân số, việc làm đã được các nhà kinh tế nước ngoài tổng kết với tính quy luật
như sau:
+ Tăng dân số kéo theo tăng nhu cầu việc làm để thoã mãn sự tăng thu
nhập và tiêu dùng của số lượng người phải nuôi có quy mô và tăng
nhanh trong dân số, trong khi khả năng tạo thêm việc làm lại có hạn tại
các nước có nền kinh tế chậm phát triển. Mâu thuẫn này tạo nên vấn đề
việc làm một cách gay gắt.
+ Dân số tăng nhanh sau 10 đến 20 năm nữa sẽ kéo theo sự gia tăng lực
lượng lao động xã hội. Rõ ràng, nhu cầu việc làm không chỉ là đối với
quy mô và lao động hiện có mà còn là đòi hỏi cấp bách để thoã mãn nhu
cầu của số lao động mới hàng năm. Tình trạng thiếu lao động lành nghề,
thừa lao động giản đơn, thiếu vốn để mở rộng việc làm, sự lạc hậu về cơ
cấu và phân bổ nguồn lao động, thiếu khả năng chi trả cho người lao
11
động tự doanh nghiệp và Chinh phủ ... là những vấn đề nam giải đối với
các nước đang phát triển cả về kinh tế cũng như xã hội.
+ Quá trình CNH đô thị hoá và tỷ lệ tăng dân số, nguồn lao động cao ở
nông thôn đồng thời là quá trình di dân nông thôn tới các thành phố lớn
và khu công nghiệp tâp trung, khu chế xuất. Di dân trực tiếp tác động
tới vấn đề lao động việc làm ở cả hai đầu đi và đến. Đối với một số
thành phố di dân làm tăng đột biến về nhu cầu việc làm, quan hệ cung
cầu lao động trên thi trương lao động có sự mất cân đối lớn.
Các dòng di chuyển lao động trên thị trường lao động cũng diễn ra khá
sôi động. Từ năm 1995 đến tháng 4/1999 dòng di chuyển vào Thành phố
Hồ Chi Minh có 448 nghìn người (nữ 260 nghìn người), từ các địa phương
đến Hà Nội là 257 nghìn người (nữ 117 nghìn người). Từ nông thôn đến
khu chế xuất khoảng 110 nghìn người các khu công nghiệp tại Đồng Nai,
Bình Dương, Quảng Ngãi ... tỷ lệ lao động từ nông thôn chiếm trên 70%.
Dự báo quy mô di chuyển dân số và lao động trong cả nước sẽ là 4,5 đến 5
triệu người của thời kỳ 2001 – 2010. Số người di cư tạm thời đến tại các
thành phố lớn: Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng,.. chiểm
khoảng dưới 5% lực lượng lao động của mỗi thành phố.
b/ Giải pháp:
Với các đặc điểm kể trên, vấn đề tạo việc làm, tăng thêm thu nhập cho
người lao động đã và đang trở thành nhiệm vụ kinh tế – xã hội bức xúc nhất
của nước ta hiện nay. Giải quyết việc làm trên cơ sở định hướng sau:
(1) Giảm bớt sức ép về cung lao động nhờ việc đẩy mạnh kế hoạch hoá gia
đình, di dân, để cân đối giữa vốn lao động và các loại vôn khác, mở rộng
xuất khẩu lao động, tăng cường đào tạo nghề, nâng cao chất lượng lao động.
Để tiếp tục và đẩy mạnh cuộc vận động thực hiện kế hoạch hoá gia đình,
duy trì tốc độ tăng dân số thấp, bảo đảm quy mô dân số hợp lý cho sự phát
triển xã hội đòi hỏi mỗi người dân phải quán triệt sâu sắc quan điểm chỉ đạo
12