Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Thực trạng của việc phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập môn giáo dục công dân ở trường trung học phổ thông nguyễn bỉnh khiêm, huyện châu thành, tỉnh an giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.13 MB, 96 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
------    -----

ĐOÀN THỊ KIỀU OANH
LỚP DH10CT
THỰC TRẠNG CỦA VIỆC PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA
HỌC SINH TRONG HỌC TẬP MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN
Ở TRƯỜNG THPT NGUYỄN BỈNH KHIÊM,
HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH AN GIANG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGÀNH GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

KHÓA HỌC 2009 - 2013

AN GIANG 04/2013


LỜI CẢM ƠN

Trong thời gian học tập tại trường và trong suốt khoảng thời gian thực
hiện khóa luận tốt nghiệp, tôi đã nhận được sự hỗ trợ và giúp đỡ tận tình từ
Khoa, từ các đơn vị và giáo viên hướng dẫn. Nay tôi xin chân thành gởi lời
cảm ơn đến:
Quý thầy, cô giáo khoa Lý luận Chính trị trường Đại học An Giang đã
tận tình truyền đạt những tri thức quý báu, giúp đỡ tôi hoàn thành tốt khóa
học và khóa luận tốt nghiệp.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Th.s Tôn Việt Thảo,
người đã bỏ ra nhiều tâm huyết, nhiệt tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học
tập, nghiên cứu, góp những ý kiến quý báu để tôi hoàn thành cuốn khóa luận
tốt nghiệp này.


Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn đến quý thầy cô, các em học sinh
trường THPT Nguyễn Bỉnh Khiêm, quý bạn bè đã tạo điều kiện thuận lợi để
tôi hoàn thành khóa học và khóa luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn.

Sinh viên
Đoàn Thị Kiều Oanh


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ....................................................................................... …………01
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................... 01
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................... 03
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .................................................... 04
4. Phƣơng pháp nghiên cứu .................................................................. 04
5. Đóng góp của khóa luận .................................................................... 04
6. Cấu trúc khóa luận ............................................................................ 04
NỘI DUNG ................................................................................................... 04
Chƣơng I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC PHÁT HUY
TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH TRONG HỌC TẬP MÔN GIÁO
DỤC CÔNG DÂN Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Đặc thù của môn GDCD ở trƣờng THPT ........................................... 05
1.1.1. Vị trí của môn GDCD ở trường THPT.......................................... 05
1.1.2. Nhiệm vụ môn GDCD ở trường THPT ......................................... 06
1.1.3. Đặc thù tri thức môn giáo dục công dân ở trường THPT.............. 10
1.2. Quan điểm xây dựng chƣơng trình và những định hƣớng về đổi mới
phƣơng pháp giảng dạy môn GDCD .......................................................... 13
1.2.1. Quan điểm xây dựng chương trình giảng dạy môn GDCD ở trường
THPT .............................................................................................................. 13

1.2.2. Những định hướng về đổi mới phương pháp giảng dạy môn GDCD
ở trường THPT ............................................................................................... 15


1.3. Một số khái niệm liên quan .................................................................. 18
1.3.1. Khái niệm về tính tích cực và tính tích cực trong học tập............. 18
1.3.2. Các cấp độ của tính tích cực .......................................................... 21
1.3.3. Nguyên nhân của tính tích cực nhận thức ..................................... 22
1.4. Phƣơng pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh trong học
tập môn GDCD ở trƣờng THPT ................................................................. 24
1.4.1. Đặc trưng của các phương pháp dạy học tích cực ......................... 24
1.4.2. Quá trình sử dụng các phương pháp dạy học tích cực trong giảng
dạy môn GDCD ở trường THPT ...................................................................... 28
1.4.3. Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn Giáo dục Công
dân ở trường THPT ........................................................................................ 34
Chƣơng II: THỰC TRẠNG CỦA VIỆC PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC
CỦA HỌC SINH TRONG HỌC TẬP MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN Ở
TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG NGUYỄN BỈNH KHIÊM,
HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH AN GIANG
2.1. Đặc điểm trƣờng THPT Nguyễn Bỉnh Khiêm, Huyện Châu Thành,
Tỉnh An Giang .............................................................................................. 37
2.1.1. Giới thiệu sơ lược về trường THPT Nguyễn Bỉnh Khiêm, Huyện
Châu Thành, Tỉnh An Giang ............................................................................ 37
2.1.2. Giới thiệu sơ nét về Tổ Bộ môn Giáo dục Công dân ở trường THPT
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Huyện Châu Thành, Tỉnh An Giang ........................... 38
2.1.3. Đặc điểm học sinh trường THPT Nguyễn Bỉnh Khiêm, Huyện Châu
Thành, Tỉnh An Giang ................................................................................... 39
2.2. Thành tựu của việc phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập
môn Giáo dục Công dân ở THPT Nguyễn Bỉnh Khiêm, Huyện Châu
Thành, Tỉnh An Giang ................................................................................... 40



2.3. Những hạn chế trong việc dạy và học môn Giáo dục Công dân ở
trƣờng THPT Nguyễn Bỉnh Khiêm hiện nay .............................................. 50
2.4. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế trong việc phát huy
tính tích cực của học sinh trong học tập môn Giáo dục công dân trƣờng
THPT Nguyễn Bỉnh Khiêm ........................................................................... 54
2.4.1. Nguyên nhân của những thành tựu ................................................ 54
2.4.2. Nguyên nhân của những hạn chế .................................................. 56
2.5. Một số giải pháp góp phần phát huy tính tích cực của học sinh trong
học tập môn Giáo dục công dân ở trƣờng THPT Nguyễn Bỉnh Khiêm.... 59
PHẦN KẾT LUẬN ......................................................................................... 66
PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Quá trình dạy học là quá trình thống nhất, biện chứng giữa hoạt động dạy
của thầy và hoạt động học của trò, trong đó hoạt động học là trung tâm. Dạy
học nhằm phát huy tính tích cực trong hoạt động học tập của học sinh thực
chất, đó là quá trình tổ chức, hướng dẫn học sinh tìm hiểu, phát hiện vấn đề và
giải quyết vấn đề trên cơ sở tự giác, được tạo khả năng và điều kiện để chủ
động trong hoạt động học tập của học sinh. Quá trình đó thực chất là tập hợp
các hoạt động nhằm làm chuyển biến vị trí của người học từ thụ động sang chủ
động, từ đối tượng tiếp nhận tri thức sang chủ thể tìm kiếm tri thức để nâng
cao hiệu quả học tập.
Việc phát huy tính tích cực trong hoạt động học tập của học sinh là một
trong những nhiệm vụ chủ yếu của người thầy trong quá trình dạy học. Vì vậy,

việc nghiên cứu về lý luận thực tiễn, việc vận dụng nó trong dạy học như thế
nào luôn là trung tâm chú ý của các nhà giáo dục. Muốn nâng cao tính tích cực
của người học, đòi hỏi phải không ngừng đổi mới phương pháp giảng dạy. Đổi
mới các phương pháp dạy học là thay thế các phương pháp dạy học chỉ đem
lại cho người học sự thụ động, lệ thuộc vào người dạy bằng các phương pháp
dạy học khác có khả năng làm phát huy tính tích cực chủ động của người học.
Đổi mới phương pháp dạy học đối với giáo dục và đào tạo nước ta hiện
nay là nhiệm vụ tất yếu, cấp thiết. Bởi vì, khoa học kỹ thuật – công nghệ hiện
nay phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi giáo dục và đào tạo vừa truyền thụ hệ thống
tri thức đã có vừa cập nhật kịp thời những thông tin, tri thức mới. Ngoài ra,
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta đang hội nhập
với kinh tế thế giới đòi hỏi giáo dục và đào tạo nước ta phải xây dựng ở thế hệ
trẻ các thói quen, hình thành kỹ năng tự lực, nghi vấn, suy luận, sáng tạo, phản
ứng nhanh và quyết đoán trước hoàn cảnh.
Đất nước ta đang trong quá trình đổi mới toàn diện trên tất cả các lĩnh
vực. Trong đó đổi mới giáo dục là một khâu vô cùng quan trọng để tạo ra
nguồn nhân lực có chất lượng phục vụ cho quá trình đổi mới đất nước. Nhận
thức được vai trò quan trọng của giáo dục, Đảng và nhà nước ta khẳng định
mục tiêu của giáo dục là “nhằm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của

Trang 1


dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, phát huy tiềm
năng của dân tộc và con người Việt Nam; có ý thức cộng đồng và phát huy
tính tích cực của cá nhân; làm chủ tri thức khoa học và công nghệ, có tính tổ
chức và kỉ luật, có sức khỏe; là người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa
“hồng” vừa “ chuyên” theo lời căn dặn của Bác Hồ” [7;29]. Vấn đề này cũng
đã được cụ thể hóa trong khoản 2 điều 28 của luật giáo dục năm 2005

“Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học;
bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện ký năng vận dụng kiến thức vào
thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học
sinh” [12;30]. Điều này đặt ra cho ngành giáo dục là phải đổi mới chương
trình, đổi mới phương pháp dạy học, áp dụng các phương pháp dạy học tích
cực, hiện đại vào dạy học trong tất cả các môn học mà nhất là môn GDCD.
Môn GDCD cùng các môn học khác có vai trò rất quan trọng trong việc
hình thành cho học sinh ý thức công dân, giúp các em phát triển một cách toàn
diện cả về tri thức khoa học lẫn phẩm chất đạo đức, ý thức được trách nhiệm
của bản thân với gia đình, xã hội. Đồng thời, môn GDCD còn góp phần hình
thành năng lực, phẩm chất đạo đức gắn với đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ
Quốc, hình thành con người lao động mới có thế giới quan khoa học, nhân
sinh quan tiên tiến, đạo đức trong sáng.
Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay ở nhà trường phổ thông đa số học
sinh thường không mấy thiết tha với việc học tập môn GDCD. Các em quan
niệm rằng môn GDCD là môn học phụ, lại không phục vụ cho lợi ích thiết
thực trong cuộc sống …cho nên các em chỉ tập trung cho những môn nào thi
tốt. Ngoài ra, muốn học tốt môn này đòi hỏi học sinh phải siêng năng chịu khó
đọc sách, suy ngẫm và tìm tòi vận dụng phù hợp vào thực tiễn. Song thời đại
công nghệ số, tự động hoá đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc tiếp nhận các
giá trị, hứng thú trong học tập môn GDCD của học sinh. Vì vậy, việc đổi mới
phương pháp dạy học môn GDCD ở trường THPT nhằm phát huy tính tích
cực, chủ động của học sinh trong học tập môn GDCD là một điều rất quan
trọng và cấp thiết.
Trong những năm gần đây, trường THPT Nguyễn Bỉnh Khiêm đã không
ngừng đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động
sáng tạo của học sinh trong học tập môn GDCD từng bước đem lại hiệu quả
thiết thực. Nhưng vẫn còn một số học sinh thụ động trong việc tự, phần lớn ỷ
lại, xem nhẹ môn học và chủ yếu dựa vào những kiến thức mà giáo viên

Trang 2


truyền thụ, các em thụ động trong việc suy nghĩ xây dựng bài, ý thức học tập
kém.
Là sinh viên chuyên ngành Giáo dục Chính trị, tương lai ra trường sẽ trở
thành giáo viên GDCD ở trường THPT, hơn ai hết tôi ý thức được tầm quan
trọng của việc nắm vững và vận dụng sáng tạo các phương pháp giảng dạy để
giáo dục tốt nhất cho học sinh nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong
học tập môn Giáo dục Công dân ở trường trung học phổ thông. Thông qua đề
tài này, tôi mong muốn cung cấp một bức tranh toàn cảnh về thực trạng của
việc dạy và học môn GDCD ở trường THPT Nguyễn Bỉnh Khiêm nhằm phát
huy tính tích cực của học sinh, qua đó, giúp bản thân cũng như giáo viên có
cái nhìn khách quan, toàn diện và nhận thức được những hạn chế, thiếu sót để
từng bước đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm mang lại chất lượng cao
trong dạy và học môn GDCD ở trường THPT.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Thực trạng của việc
phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập môn Giáo dục Công dân ở
trường THPT Nguyễn Bỉnh Khiêm, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang”
làm khóa luận tốt nghiệp.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng của việc phát tính tích cực của học sinh trong học
tập môn GDCD ở trường THPT Nguyễn Bỉnh Khiêm, Huyện Châu Thành,
Tỉnh An Giang. Trên cơ sở đề xuất một vài giải pháp nhằm phát huy tính tích
cực của học sinh trong học tập môn GDCD ở trường THPT Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Huyện Châu Thành, Tỉnh An Giang.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc phát huy tính
tích cực của học sinh trong học tập môn GDCD ở trường THPT.

Thứ hai, tìm hiểu thực trạng của việc phát huy tính tích cực của học sinh
trong học tập môn GDCD ở trường THPT Nguyễn Bỉnh Khiêm, Huyện Châu
Thành, Tỉnh An Giang.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy tính tích cực của học
sinh trong học tập môn GDCD ở trường THPT Nguyễn Bỉnh Khiêm, Huyện
Châu Thành, Tỉnh An Giang.

Trang 3


3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Thực trạng của việc phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập
môn GDCD ở trường THPT.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ đề tài khóa luận tốt nghiệp, bước đầu đề tài chỉ nghiên
cứu thực trạng của việc phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong
học tập môn GDCD ở trường THPT, phạm vi trường THPT Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Huyện Châu Thành, Tỉnh An Giang trong giai đoạn hiện nay.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với phương pháp logic và lịch sử, phân
tích và tổng hợp, phương pháp so sánh và hệ thống, phương pháp điều tra xã
hội học,…
5. Đóng góp của khóa luận:
Khóa luận tìm hiểu thực trạng của việc phát huy tính tích cực của học
sinh trong học tập môn GDCD ở trường THPT Nguyễn Bỉnh Khiêm, Huyện
Châu Thành, Tỉnh An Giang. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm
phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập môn GDCD ở trường THPT
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Huyện Châu Thành, Tỉnh An Giang.

Khóa luận góp phần làm tài liệu tham khảo cho sinh viên ngành Giáo
dục Chính trị, cho hoạt động giảng dạy GDCD ở các trường phổ thông.
6. Cấu trúc khóa luận:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
khóa luận kết cấu làm hai chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc phát huy tính tích cực của
học sinh trong học tập môn GDCD ở trường THPT.
Chương 2: Thực trạng của việc phát huy tính tích cực của học sinh trong
học tập môn GDCD ở trường THPT Nguyễn Bỉnh Khiêm, Huyện Châu
Thành, Tỉnh An Giang.

Trang 4


NỘI DUNG
Chƣơng I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC PHÁT
HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH TRONG HỌC TẬP MÔN
GIÁO DỤC CÔNG DÂN Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Đặc thù của môn GDCD ở trƣờng THPT
1.1.1. Vị trí của môn GDCD ở trƣờng THPT
Trên cơ sở xác định mục tiêu đào tạo con người Việt Nam phát triển hài
hòa, toàn diện tính chất xã hội chủ nghĩa của nền Giáo dục, Điều 27 của Luật
Giáo dục của nước ta năm 2005 đã xác định: “Mục tiêu của giáo dục phổ
thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm
mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân tính năng động và sáng
tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư
cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi
vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. [20,tr.15].
Trên cơ sở mục tiêu chung của giáo dục phổ thông, Luật giáo dục nước ta đã
xác định rõ mục tiêu của từng cấp học, bậc học. Trong đó, mục tiêu của cấp

THPT là “nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo
dục trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông, và có những hiểu biết
thông thường về kĩ thuật và hướng nghiệp, tiếp tục học đại học, cao đẳng,
trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động [1, tr15].
Mục tiêu trên trở thành định hướng chỉ đạo toàn bộ các hoạt động của hệ
thống giáo dục quốc dân mà trước hết là thông qua quá trình dạy học các môn
học ở trường THPT, trong đó có môn GDCD. Liên quan đến vị trí và vai trò
môn GDCD, Nghị Quyết Hội Nghị Trung ương 2 khóa VIII của Đảng đã nhấn
mạnh “Hết sức coi trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, nhân cách, khả năng tư
duy sáng tạo và năng lực thực hành…” nhằm “giữ vững mục tiêu xã hội chủ
nghĩa trong nội dung và phương pháp giáo dục - đào tạo”, góp phần phục vụ
đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. [2, tr.13]
Vị trí môn GDCD ở nhà trường THPT đã được xác định trong chỉ thị số
30/1998/CT-BGD & ĐT của Bộ Trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày 20
tháng 5 năm 1998. Theo đó, “Môn GDCD ở trường THPT có vị trí hàng đầu
trong việc định hướng phát triển nhân cách học sinh thông qua việc cung cấp
hệ thống tri thức cơ bản về giáo dục đạo đức – nhân văn, đường lối chính sách
lớn của Đảng, Nhà nước và Pháp luật, kế thừa các truyền thống đạo đức, bản

Trang 5


sắc dân tộc Việt Nam; trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội; tiếp thu những giá trị đẹp của nhân loại và thời đại”. [2, tr.13].
Xuất phát từ vị trí đã được xác định, trong thời gian qua, Bộ giáo Dục và
Đào tạo đã thực thi nhiều giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn
GDCD như: cải tiến nội dung chương trình, sách giáo khoa; đào tạo bồi dưỡng
giáo viên để nâng cao chất lượng đội ngũ, bổ sung thêm tài liệu, trang thiết bị
dạy học, khuyến khích giáo viên bộ môn tích cực đổi mới phương pháp, nội
dung dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người

học… Tuy nhiên việc nhận thức hoặc đánh giá không đúng về vị trí của môn
GDCD vẫn còn là một tình trạng phổ biến ở nhiều trường THPT hiện nay.
Nhiều nhà quản lí, giáo viên (kể cả giáo viên bộ môn), học sinh và phụ huynh
vẫn còn có những nhận thức, quan niệm lệch lạc khi cho rằng môn GDCD chỉ
là một môn học phụ, môn bổ trợ hoặc đồng nhất môn GDCD với môn chính trị
hoặc đạo đức thuần túy. Những sai lầm trong nhận thức đã kéo theo những hạn
chế trong hoạt động thực tiễn dạy học bộ môn. Nhiều trường học và cấp quản
lí không chú ý quan tâm đầu tư cho môn GDCD, đội ngũ giáo viên không
được đào tạo chính quy, tình trạng giáo viên dạy chéo môn vẫn còn khá phổ
biến, công tác bồi dưỡng giáo viên chưa được chú trọng đúng mức. Nhiều giáo
viên chỉ dạy qua loa, theo lệ còn học sinh thì coi thường môn học… Hiện
trạng của sự nhận thức và quan niệm sai lầm về vị trí của môn học đã ảnh
hưởng rất lớn đến chất lượng dạy học cũng như vị thế của bộ môn này trong
nhà trường phổ thông hiện nay. Để khắc phục tình trạng này, Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo: “Các cấp quản lí Giáo dục – Đào tạo từ Bộ
đến địa phương cần có nhận thức đúng về vị trí và mục tiêu đào tạo của bộ
môn GDCD ở cấp trung học phổ thông, có kế hoạch và các giải pháp tích cực
nhằm không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo bồi dưỡng giáo viên, đồng
thời tăng cường công tác chỉ đạo đảm bảo chất lượng giảng dạy, giáo dục đạo
đức và pháp luật trong các trường Trung học phổ thông, đáp ứng yêu cầu “dạy
người và dạy chữ, dạy nghề, trong đó mục tiêu dạy người là quan trọng nhất”
nhằm phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.[2, tr.14].

Trang 6


1.1.2. Nhiệm vụ môn GDCD ở trƣờng THPT
Môn GDCD ở trường THPT có những nhiệm vụ cơ bản sau:
a. Trang bị cho học sinh hệ thống tri thức cơ bản về giá trị đạo đức –
nhân văn, đƣờng lối chính sách của Đảng, Nhà nƣớc và Pháp luật

Môn GDCD ở trường THPT là hệ thống kiến thức liên quan đến nhiều
lĩnh vực như triết học, đạo đức học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội
khoa học, đường lối, quan điểm của Đảng, một số chính sách quan trọng của
Nhà nước, Pháp luật… Vì thế nhiệm vụ đầu tiên của môn học là trang bị và
giúp cho học sinh nắm vững hệ thống tri thức cơ bản, thiết thực của bộ môn.
Đối với phần thứ nhất: Công dân với việc hình thành thế giới quan,
phƣơng pháp luận khoa học (GDCD 10), giáo viên phải giúp học sinh nhận
biết được nội dung cơ bản của thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện
chứng; Hiểu được bản chất của thế giới là vật chất vận động và phát triển theo
những quy luật khách quan; Con người có thể nhận thức và vận dụng được
những quy luật ấy. Đồng thời, giáo viên phải giúp học sinh thấy được mối
quan hệ giữa hoạt động của chủ thể với khách thể qua các mối quan hệ: Thực
tiễn với nhận thức, tồn tại xã hội với ý thức xã hội, con người là chủ thể của
lịch sử và là mục tiêu phát triển của xã hội.
Đối với phần thứ hai: Công dân với đạo đức (GDCD 10), giáo viên
phải giúp cho học sinh nắm vững một số phạm trù cơ bản của đạo đức học có
quan hệ trực tiếp đến mục tiêu đào tạo THPT; Giúp học sinh nắm các yêu cầu
cơ bản về đạo đức của người công dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Đối với phần thứ ba: Công dân với kinh tế (GDCD 11), giáo viên phải
giúp cho học sinh hiểu được một số phạm trù, quy luật kinh tế cơ bản và
phương hướng phát triển kinh tế trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
nước ta; Giúp học sinh hiểu được trách nhiệm công dân trong việc xây dựng,
phát triển cá nhân, gia đình và xã hội.
Đối với phần thứ tư: Công dân với các vấn đề chính trị - xã hội
(GDCD 11), giáo viên phải giúp cho học sinh hiểu được tính tất yếu và đặc
điểm của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; Hiểu được bản chất
của Nhà Nước và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta; Giúp học sinh nắm
được một số nội dung cơ bản về những chính sách lớn của Đảng và nhà nước
hiện nay.


Trang 7


Đối với phần thứ năm: Công dân với pháp luật (GDCD 12), giáo viên
phải giúp học sinh hiểu được bản chất giai cấp, xã hội của pháp luật; mối quan
hệ biện chứng giữa pháp luật với kinh tế, chính trị, đạo đức; Giúp học sinh
nhận biết được những giá trị cơ bản của pháp luật đối với sự tồn tại và phát
triển của mỗi công dân, Nhà nước và xã hội. Giúp học sinh hiểu được một số
nội dung cơ bản của pháp luật liên quan đến việc thực hiện và bảo vệ quyền
bình đẳng, tự do, dân chủ và phát triển của công dân. [2, tr.15].
b. Giúp học sinh từng bƣớc hình thành thế giới quan đúng đắn và
phƣơng pháp luận khoa học.
Trên cơ sở từng bước tiếp cận và nắm vững hệ thống kiến thức cơ bản
của môn GDCD, học sinh sẽ từng bước có những hiểu biết cơ bản để hình
thành thế giới quan đúng đắn và phương pháp luận khoa học. Giúp học sinh
biết cách quan sát để có được quan niệm đúng đắn, khách quan về thế giới
xung quanh. Xuất phát từ thế giới quan đúng đắn và phương pháp luận khoa
học, học sinh sẽ vận dụng nhằm năng cao hiệu quả quá trình hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn của bản thân. Nhiệm vụ này được tập trung chủ
yếu trong phần: Công dân với việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận
khoa học (GDCD 10). Để thực hiện được nhiệm vụ này, trong quá trình dạy
học, giáo viên bộ môn không nên sa đà vào các khái niệm, phạm trù, nguyên
lí, quy luật triết học mang nặng tính chất hàn lâm, kinh điển. Thông qua việc
dạy các khái niệm, phạm trù, nguyên lí, quy luật, giáo viên phải hướng học
sinh đến các ý nghĩa về mặt phương pháp luận. Từ những ý nghĩa của phương
pháp luận rút ra từ sau mỗi bài học, tiết dạy, học sinh sẽ tự liên hệ, rút ra
những bài học cho bản thân, qua đó giúp các em từng bước hình thành cho
mình phương pháp luận khoa học. [2, tr.16].
c. Góp phần giúp học sinh hình thành nhân sinh quan tiến bộ
Thông qua hệ thống tri thức cơ bản về giá trị đạo đức – nhân văn, đường

lối, chính sách lớn của Đảng, Nhà Nước và Pháp luật, môn GDCD giúp học
sinh ý thức được các giá trị của con người Việt Nam thời kì công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, giúp các em có được những hiểu biết đúng đắn về xã hội xã hội
chủ nghĩa, về nhà nước xã hội chủ nghĩa, về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, về
các định hướng phát triển kinh tế-xã hội, về vai trò và giá trị của pháp luật đối
với sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân, nhà nước và xã hội. Học sinh có
cái nhìn đúng đắn về thế giới và thời đại, về con người và cộng đồng, về các
hiện tượng khác nhau diễn ra trong đời sống. Các em biết phân tích, đánh giá
các hiện tượng xã hội theo quan điểm khoa học, tiến bộ, biết đấu tranh để bảo

Trang 8


vệ và ủng hộ cái mới, cái tích cực và chống lại những cái tiêu cực, lạc hậu, lỗi
thời. [2, tr.16].
d. Trang bị cho học sinh những kĩ năng sống cần thiết
Trong quá trình dạy học GDCD, nhiều giáo viên bộ môn đã không hoàn
thành nhiệm vụ này. Nhiều giáo viên chỉ chú trọng đến việc truyền thụ tri thức
trong khi không chú ý đến việc giáo dục các kĩ năng sống cần thiết cho học
sinh. Do đó, bài học GDCD trở nên hàn lâm, đơn điệu, nhàm chán, không
cuốn hút được học sinh, không đạt được mục tiêu đề ra. Những kĩ năng trong
các bài học GDCD như: giao tiếp và ứng xử, tổ chức quản lí, hoạt động chính
trị - xã hội, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, định hướng lao động nghề
nghiệp sau khi tốt nghiệp, thích ứng với những điều kiện và hoàn cảnh trước
những biến động không ngừng của đời sống xã hội,… hoặc những kĩ năng cụ
thể như quan hệ bạn bè, đồng chí, những cư xử trong tình yêu, hôn nhân, gia
đình,… luôn cần thiết cho học sinh. Thông qua mỗi bài học, mỗi tiết dạy
người giáo viên GDCD cần trang bị cho học sinh những kĩ năng tương ứng,
giúp các em uốn nắn những biểu hiện, cử chỉ, hành vi lệch lạc, không ngừng
tự hoàn thiện bản thân, biết đón nhận và giải quyết những thử thách của cuộc

sống một cách khoa học và hiệu quả. [2, tr.17].
e. Định hƣớng phát triển nhân cách của học sinh
Đối với môn GDCD, mục tiêu dạy người luôn được xác định là quan
trọng nhất. Vì thế, môn GDCD luôn ở vị trí hàng đầu trong việc định hướng
phát triển nhân cách của học sinh. Mỗi học sinh là một chủ thể của sự phát
triển nhân cách, phát triển xã hội. Do đó, thông qua mỗi bài dạy, tiết học người
giáo viên GDCD phải tích cực giáo dục, bồi dưỡng để giúp mỗi học sinh hình
thành được cho mình những lẽ sống, lí tưởng và niềm tin lành mạnh. Giáo dục
để các em trở thành những công dân có ích cho bản thân, gia đình và xã hội;
những con người phát triển cao về trí tuệ, trong sáng về đạo đức và có đời
sống tinh thần phong phú. Thông qua các bài học GDCD, người giáo viên bộ
môn phải giúp các em trở thành những con người sống có nghĩa có tình, thủy
chung, có tin thần tập thể, có ý thức tổ chức kỉ luật, có lòng nhân ái bao dung,
biết yêu quê hương, đất nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Để thực hiện được nhiệm
vụ này, người giáo viên GDCD phải biến những tri thức vốn khô khan, trừu
tượng, khó hiểu của môn học thành tình cảm, lẽ sống, lí tưởng, niềm tin ở học
sinh, thôi thúc các em hành động theo lẽ phải và không ngừng nỗ lực phấn đấu
để tự hoàn thiện bản thân, vươn tới “chân - thiện - mĩ”. [2, tr.17].

Trang 9


Đối với người giáo viên GDCD, những nhiệm vụ nói trên hết sức nặng
nề nhưng đó cũng là những nhiệm vụ rất đỗi vinh quang. Để hoàn thành được
những nhiệm vụ ấy đòi hỏi người giáo viên GDCD với lương tâm và trách
nhiệm của mình, phải không ngừng học hỏi, lắng nghe và trải nghiệm để mang
lại cho học sinh những bài học GDCD bổ ích và hiệu quả.
1.1.3. Đặc thù tri thức môn giáo dục công dân ở trƣờng THPT
a. Hệ thống tri thức môn Giáo dục công dân ở trƣờng Trung học phổ
thông mang tính đa dạng tổng hợp

Hệ thống tri thức môn Giáo dục Công dân ở trường Trung học phổ thông
(THPT) được tổng hợp từ nhiều lĩnh vực, nhiều bộ môn khoa học khác nhau
như triết học, đạo đức học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học,
đường lối quan điểm của Đảng, một số chính sách quan trọng của Nhà Nước,
pháp luật học. Bên cạnh đó, mỗi phần, mỗi bài học lại có những nội dung liên
quan đến các lĩnh vực, các môn khoa học khác nhau liên quan đến các lĩnh
vực, các môn học khác nhau như: dân số, môi trường, ngoại giao, quốc phòng,
giới tính và sức khỏe sinh sản, vật lí, sinh học, hóa học…
Đặc thù nói trên đòi hỏi người giáo viên Giáo dục công dân bên cạnh
trình độ nắm vững hệ thống tri thức triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa
xã hội khoa học, đường lối quan điểm của Đảng, một số chính sách quan trọng
của Nhà Nước, pháp luật học, phải có tri thức về nội dung liên quan ở những
lĩnh vực, những bộ môn khoa học khác nhau. Người giáo viên Giáo dục công
dân phải không ngừng học hỏi để nâng cao trình độ, phải am hiểu nhiều lĩnh
vực, nắm vững và biết vận dụng các kiến thức của các lĩnh vực, các môn khoa
học khác nhau vào bài học Giáo dục công dân.
Sự đa dạng hệ thống tri thức đòi hỏi người giáo viên Giáo dục công dân
phải sử dụng một cách đa dạng và linh hoạt các phương pháp, hình thức tổ
chức dạy học sao cho phù hợp với đặc thù tri thức của từng phần, từng bài học
giáo dục công dân. [2, tr.26].
b. Hệ thống tri thức môn Giáo dục Công dân ở trƣờng Trung học
phổ thông mang tính khái quát, trừu tƣợng
Tính khái quát, trừu tượng của hệ thống tri thức môn Giáo dục công
dân trước hết thể hiện ở những nội dung, luận điểm được đề cập trong mỗi bài
học, mỗi đơn vị kiến thức. Những nội dung đó thường là những vấn đề lớn ở
tầm vĩ mô, chẳng hạn như: những vấn đề cấp thiết của nhân loại, pháp luật với
sự hòa bình và tiến bộ của nhân loại bao trùm một lĩnh vực rộng lớn nào đó
Trang 10



như chính sách quốc phòng và an ninh, chính sách đối ngoại, chính sách dân
số và giải quyết việc làm, chính sách tài nguyên và bảo vệ môi trường.
Tính khái quát, trừu tượng của hệ thống tri thức môn Giáo dục công dân
còn thể hiện thông qua một số khái niệm, phạm trù, nguyên lí, quy luật hết sức
đặc thù. Những khái niệm, phạm trù của môn Giáo dục công dân thường là
những khái niệm, phạm trù triết học, đạo đức học, kinh tế chính trị học, chủ
nghĩa xã hội khoa học như: thế giới quan, phương pháp luận, lượng, chất, phủ
định biện chứng, thực tiễn, phương thức sản xuất, đạo đức, lương tâm, nghĩa
vụ, sản xuất vật chất, phát triển kinh tế, cơ cấu kinh tế, giá trị hàng hóa, chủ
nghĩa xã hội.
Những nguyên lí, quy luật môn Giáo dục công dân chủ yếu là những
nguyên lí, quy luật của triết học, kinh tế chính trị học được trình bày một cách
ngắn gọn như: sự vận động và phát triển của thế giới vật chất, nguồn gốc vận
động, phát triển của sự vật, hiện tượng, cách thức vận động , phát triển của sự
vật, hiện tượng, khuynh hướng phát triển của sự vật hiện tượng, tồn tại xã hội
và ý thức xã hội, mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất,
quy luật lưu thông tiền tệ, quy luật giá trị trong sản xuất và lưu thông hàng
hóa, quy luật cạnh tranh trong sản xuất và lưu thông hàng hóa, quy luật cung
cầu trong sản xuất lưu thông hàng hóa. Phạm vi phản ánh những khái niệm,
phạm trù, nguyên lí, quy luật nói trên rất rộng vì thế chúng điều mang tính
khái quát hóa, trừu tượng hóa rất cao.
Đặc thù này đòi hỏi người giáo viên Giáo dục công dân trước hết phải
nắm vững nội dung, bản chất, đặc điểm của từng khái niệm, phạm trù, nguyên
lí, quy luật, luận điểm liên quan. Ngoài ra người giáo viên giáo dục công dân
phải lựa chọn được các phương pháp, hình thức và phương tiện dạy học phù
hợp với đối tượng để truyền thụ và giúp học sinh lĩnh hội chính xác những nội
dung của bài học. Việc tăng cường liên hệ thực tiễn và đảm bảo tính vứa sức
trong dạy học luôn là những yêu cầu có tính nguyên tắc trong dạy học giáo
dục công dân, đặc biệt là những nội dung có tính khái quát, trừu tượng. [2,
tr.27].

c. Hệ thống tri thức môn Giáo dục Công dân ở trƣờng Trung học
phổ thông mang tính thời sự
Tri thức của các môn học điều gắn liền với thực tiễn cuộc sống ở những
gốc độ và lĩnh vực khác nhau. Đối với môn Giáo dục công dân, bên cạnh tính
thực tiễn tri thức của môn học luôn mang tính thời sự sâu sắc. Những tri thức

Trang 11


của môn học dù khái quát, trừu tượng hay cụ thể tập trung phản ánh những vấn
đề, những hiện tượng đang nảy sinh trong cuộc sống hằng ngày. Từ những vấn
đề thách thức của toàn cầu như bùng nổ dân số, dịch bệnh, ô nhiểm môi
trường đến những vấn đề của một quốc gia như giải quyết việc làm, chính sách
giáo dục, bảo vệ môi trường. Ngay cả những nội dung khái quát, trừu tượng
như: quy luật lưu thông tiền tệ, quy luật giá trị trong sản xuất và lưu thông
hàng hóa, quy luật cạnh tranh trong sản xuất và lưu thông hàng hóa, quy luật
cung cầu trong sản xuất lưu thông hàng hóa cũng đang hàng ngày, hàng giờ
biểu hiện, tác động trong mọi lĩnh vực của đời sống.
Đặc thù này đòi hỏi người giáo viên Giáo dục công dân phải làm theo tri
thức của bài học bắt nhịp với cuộc sống đang đổi mới từng ngày. Để làm được
điều đó, mỗi người giáo viên giáo dục công dân phải có một tâm hồn nhạy
cảm, biết cảm nhận, biết lắng nghe những thay đổi của cuộc sống, biết nắm
bắt, sàng lọc, cập nhật, phân tích và xử lí thông tin để mang hơi thở cuộc sống,
thời đại vào từng tiết dạy, bài học giáo dục công dân. Tuy nhiên, nếu lạm dụng
đặc thù này, giáo viên sẽ biến giờ học giáo dục công dân trở thành một giờ nói
chuyện thời sự. [2, tr.28].
d. Hệ thống tri thức môn Giáo dục Công dân ở trƣờng Trung học
phổ thông mang tính định hƣớng chính trị sâu sắc
Đối với môn Giáo dục Công dân ở trường THPT, mục tiêu dạy người –
giáo dục để học sinh trở thành một công dân có ích cho xã hội luôn được xác

định là quan trọng nhất. Quá trình giáo dục để học sinh trở thành những công
dân có ích cho xã hội trước hết phải bắt đầu từ việc giáo dục ý thức công dân,
ý thức chính trị cho các em. Ở nhà trường THPT nhiệm vụ này trước hết thuộc
về môn Giáo dục công dân. Do hệ thống tri thức của môn học luôn hướng vào
việc giúp học sinh hình thành được những thái độ, tình cảm công dân lành
mạnh, có lập trường, quan điểm chính trị rõ rang. Nội dung của mỗi bài học
tiết học giáo dục công dân luôn định hướng cho học sinh về trách nhiệm của
em đối với bản thân, gia đình và xã hội.
Đặc thù này đòi hỏi người giáo viên Giáo dục công dân phải luôn bám
sát mục tiêu của mỗi bài học, tiết dạy, phải nắm vững nội dung của từng bài,
từng đơn vị kiến thức, nắm bắt được đặc điểm trình độ, tâm sinh lý của học
sinh để lựa chọn phương pháp dạy học sao cho phù hợp. Người giáo viên Giáo
dục công dân phải không ngừng rèn luyện để có một nhân cách trong sáng,
một tâm hồn phong phú, một bản lĩnh chính trị vững vàng. [2, tr.29].

Trang 12


e. Hệ thống tri thức môn Giáo dục Công dân ở trƣờng Trung học
phổ thông gắn liền với việc hình thành kĩ năng sống cho học sinh
Tất cả các môn học điều hướng vào rèn luyện kĩ năng cho người học. Do
đặc thù về vị trí, nhiệm vụ của môn học môn Giáo dục công dân chủ yếu
hướng vào việc rèn luyện cho học sinh những kĩ năng sống hết sức cần thiết
cho các em. Những kĩ năng như: giao tiếp và ứng xử, tổ chức quản lý, hoạt
động chính trị - xã hội, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, định hướng lao động
nghề nghiệp sau khi tốt nghiệp, thích ứng với những điều kiện và hoàn cảnh cụ
thể trước những biến đổi không ngừng của đời sống xã hội. Gắn liền với nội
dung mỗi bài học giáo dục công dân luôn có một loạt những kĩ năng tương
ứng, có thể đó là những kĩ năng tiếp cận, phân tích, xử lý thông tin, cũng có
thể là những kĩ năng tiếp cận, nhận diện, xử lý, giải quyết những thách thức,

những hiện tượng vấn đề đang không ngừng nảy sinh trong cuộc sống hàng
ngày của chính bản thân học sinh. Có nhiều kĩ năng rất cần thiết và sẽ đi theo
các em trong suốt cuộc đời như cách cư xử, ứng xử với chính bản thân các em,
trong quan hệ với bạn bè, trong tình yêu, hôn nhân và gia đình, trong quan hệ
cộng đồng.
Trong quá trình dạy học Giáo dục công dân người giáo viên phải nắm
vững những mục tiêu kĩ năng của từng bài, lưạ chọn giới thiệu, trang bị cho
học sinh những kĩ năng cần thiết nhất.Khuyến khích các em đưa những kĩ
năng đó vào thực hành và không ngừng tự hoàn thiện ngay trong cuộc sống
hằng ngày của chính các em. Trong quá trình dạy học, người giáo viên Giáo
dục công dân phải không ngừng trải nghiệm, quan sát, học hỏi và hoàn thiện
chính mình. Một bài học giáo dục công dân thật sự bổ ích là bài học mà ở đó
học sinh không chỉ học được những tri thức, tình cảm cần thiết mà các em còn
học được ở đó cả sự trải nghiệm và những kĩ năng sống của chính người thầy.
Những đặc thù tri thức của môn giáo dục công dân nói trên biểu hiện
khác nhau trong mỗi bài học, mỗi đơn vị kiến thức khác nhau. Trước khi giảng
dạy, người giáo viên bộ môn cần nghiên cứu kĩ những mục tiêu, nội dung, đặc
thù của từng bài học, từng tiết học, từng đơn vị kiến thức để lựa chọn phương
pháp, hình thức tổ chức dạy học, nội dung thông tin, tài liệu, phương tiện dạy
học sao cho phù hợp hiệu quả. [2, tr.29].

Trang 13


1.2. Quan điểm xây dựng chƣơng trình và những định hƣớng về đổi mới
phƣơng pháp giảng dạy môn GDCD
1.2.1. Quan điểm xây dựng chƣơng trình giảng dạy môn GDCD ở
trƣờng THPT
Chương trình môn GDCD được xây dựng trên các môn khoa học cơ bản
như: Triết học, Đạo đức học, Luật học, Kinh tế chính trị học, Chủ nghĩa xã hội

khoa học và các đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà Nước
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Môn GDCD còn tích hợp nhiều nội dung giáo dục xã hội cần thiết cho
các công dân trẻ tuổi như: Giáo dục quyền trẻ em, giáo dục kĩ năng sống, giáo
dục văn hóa hòa bình, giáo dục môi trường, giáo dục giới tính – sức khỏe sinh
sản vị thanh niên, giáo dục an toàn giao thông, giáo dục phòng chống ma túy,
phòng tránh HIV/AIDS… Tuy nhiên việc tích hợp phải hợp lí, phù hợp với
đặc trưng môn học và không làm nặng nề thêm nội dung môn học.
Quá trình dạy môn GDCD là quá trình khai thác tiềm năng và phát triển
tâm lực, trí lực học sinh, phát triển tích cực hoạt động nhận thức và năng lực
tự hoàn thiện của học sinh.
Nội dung môn GDCD hướng học sinh vươn tới những giá trị cơ bản của
người công dân Việt Nam trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Đó là những giá trị tốt đẹp của dân tộc trong sự hòa nhập với tinh hoa
văn hóa nhân loại, thể hiện sự thống nhất giữa tính truyền thống với tính hiện
đại. Chương trình môn giáo dục công dân THPT đảm bảo tính hệ thống, tính
phát triển của các giá trị; đáp ứng được mục tiêu của cấp học, phù hợp với đặc
điểm lứa tuổi và khả năng nhận thức của học sinh
Chương trình môn GDCD đảm bảo cân đối, hài hòa giữa yêu cầu trang bị
kiến thức với việc rèn luyện kĩ năng và phát triển thái độ tích cực cho học
sinh. Môn GDCD không những trang bị cho học sinh về thế giới quan khoa
học và nhân sinh quan tiến bộ; về các giá trị đạo đức, pháp luật, lối sống, mà
còn hình thành và phát triển ở các em những tình cảm, niềm tin, những hành vi
và thói quen phù hợp với những giá trị đã học; giúp cho học sinh có sự thống
nhất cao giữa ý thức và hành vi.
Nội dung môn GDCD gắn bó chặt chẽ với thực tiễn cuộc sống của học
sinh, gắn liền với sự kiện trong đời sống đạo đức, pháp luật, kinh tế, chính trị,
xã hội của địa phương, của đất nước. Vì vậy, ngoài nội dung thống nhất chung
cho cả nước, chương trình còn có phần “mở” để dạy các vấn đề liên quan của
địa phương.


Trang 14


1.2.2. Những định hƣớng về đổi mới phƣơng pháp giảng dạy môn
GDCD ở trƣờng THPT.
Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định trong
Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII (1- 1993), Nghị quyết Trung ương 2 khóa
VIII (12- 1996), được thể chế hóa trong Luật Giáo dục (2005), đặc biệt là Chỉ
thị số 15 (4 -1999). Luật Giáo dục ( 2005), Điều 28.2 đã quy định: “Phương
pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương
pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến
thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập
cho học sinh”.
Có thể nói định hướng chung của việc đổi mới phương pháp dạy học là
tăng cường vai trò chủ động, tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh trong
quá trình học tập, khắc phục tình trạng dạy học “ thầy thuyết trình, trò thụ
động nghe, ghi chép”. Dạy học phát huy tính tích cực nhận thức cho học sinh
là rất cần thiết. Đó chính là việc học sinh hoàn thành một cách chủ động, tự
giác, có nghị lực, có hướng đích rõ rệt, có sáng kiến với những hoạt động trí
óc và chân tay nhằm nắm vững kiến thức, hình thành kĩ năng và kĩ xảo để vận
dụng những nội dung tri thức đã học vào thực tiễn.
Từ định hướng chung kể trên, việc đổi mới phương pháp dạy học môn
GDCD ở trường THPT cần thực hiện theo các định hướng cụ thể sau đây:
a. Dạy học thông qua tổ chức các hoạt động nhận thức cho học sinh
Tâm lí học hiện đại đã chỉ ra rằng: Nhân cách của con người chỉ được
hình thành và phát triển thông qua hoạt động và giao tiếp. Chính vì vậy, để
hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ thông qua môn GDCD, việc
dạy học không thể tiến hành theo kiểu thuyết lí, rao giảng mà phải thông qua

các hoạt động tương tác của chính học sinh. Nói cách khác, quá trình dạy học
môn GDCD phải thông qua quá trình tổ chức cho các em hoạt động và tương
tác. Phương pháp dạy học phải tạo ra được sự cuốn hút học sinh vào các hoạt
động học tập do giáo viên thiết kế, tổ chức và hướng dẫn, qua đó học sinh có
thể tự khám phá và chiếm lĩnh nội dung bài học, học sinh sẽ hứng thú, thông
hiểu và ghi nhớ những gì các em nắm được qua hoạt động chủ động, tích cực
của chính mình. Các hoạt động này do giáo viên thiết kế dựa trên mục tiêu, nội
dung của bài học; đặc điểm tâm sinh lí và trình độ nhận thức của học sinh,
điều kiện, hoàn cảnh, cơ sở vật chất kĩ thuật của nhà trường, lớp học và sở
trường của người giáo viên.

Trang 15


Các hoạt động dạy học môn GDCD rất phong phú và đa dạng bao gồm
các hình thức hoạt động chủ yếu như: thảo luận, phân tích tình huống, điều tra
thực tiễn, đánh giá ý kiến, quan điểm, hành vi, sưu tầm tài liệu… các hoạt
động này phải được giáo viên thiết kế đan xen một cách linh hoạt và hợp lí
trong tiết dạy để vừa đảm bảo được thực hiện mục tiêu bài học vừa gây hứng
thú học tập cho học sinh.
b. Dạy học phải rèn luyện phƣơng pháp tự học
Đổi mới phương pháp dạy học phải xem việc rèn luyện phương pháp học
tập cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà
còn là một mục tiêu dạy học. Trong đổi mới phương pháp dạy học, học sinh đối tượng của hoạt động “dạy”, đồng thời là chủ thể của hoạt động “ học” –
được cuốn hút vào các hoạt động do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua
đó tự lực khám phá những điều mình chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp thu
những tri thức đã được giáo viên sắp đặt. Được đặt vào những tình huống của
đời sống thực tế, học sinh trực tiếp quan sát, thảo luận, làm thí nghiệm, giải
quyết vấn đề đặt ra theo cách suy nghĩ của mình, từ đó nắm được kiến thức kĩ
năng mới, vừa nắm được phương pháp “làm ra” kiến thức, kĩ năng đó, không

rập theo những khuôn mẫu có sẵn, được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng
tạo. Dạy học theo cách này, giáo viên không chỉ giản đơn truyền đạt tri thức
mà còn dạy học sinh phương pháp học, trong đó cốt lõi là phương pháp tự học.
Nếu rèn luyện cho học sinh có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự
học sẽ tạo cho họ hứng thú ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con
người, kết quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội. Vì vậy, ngày nay người ta
nhấn mạnh mặt hoạt động tự học trong quá trình dạy học, nỗ lực tạo ra sự
chuyển biến từ học tập thụ động sang tự học chủ động, không chỉ tự học ở nhà
sau giờ lên lớp mà tự học cả trong tiết học có sự hướng dẫn của giáo viên.
c. Dạy học phải tăng cƣờng học tập độc lập kết hợp chặt chẽ với học
tập hợp tác
Dạy học hợp tác là cách dạy trong đó giáo viên tổ chức cho học sinh
hoạt động hợp tác với nhau trong nhóm nhỏ để giải quyết một vấn đề đặt ra,
nhằm đạt được mục tiêu học tập.
Học tập hợp tác làm tăng hiệu quả học tập, nhất là lúc giải quyết những
vấn đề gay cấn, lúc xuất hiện thực sự nhu cầu phối hợp giữa các cá nhân để
hoàn thành nhiệm vụ chung. Trong hoạt động hợp tác theo nhóm nhỏ, tính
cách, năng lực mỗi thành viên được bộc lộ, uốn nắn; phát triển tình bạn, ý thức

Trang 16


tổ chức, tinh thần tương trợ. Sự hợp tác trong học tập sẽ giúp học sinh quen
dần với sự phân công hợp tác trong lao động xã hội hình thành năng lực hợp
tác rất cần thiết cho người công dân trong một thế giới phát triển với sự hợp
tác song phương, đa phương giữa các quốc gia và xu hướng quốc tế hóa, toàn
cầu hóa.
Trong quá trình dạy học môn GDCD, giáo viên cần phải huy động, khai
thác tối đa vốn hiểu biết và kinh nghiệm sống của học sinh, tạo cơ hội động
viên khuyến khích học sinh bày tỏ quan điểm, ý kiến cá nhân về vấn đề đang

học. Giáo viên cũng cần khuyến khích học sinh nêu thắc mắc trong khi nghe
giảng; đặt câu hỏi cho thầy, cho bạn; tạo nên mối quan hệ hợp tác, giao tiếp
giữa thầy và trò, giữa trò và trò trong quá trình chiếm lĩnh nội dung học tập.
Thông qua thảo luận, tranh luận trong tập thể, ý kiến cá nhân được bộc lộ,
khẳng định hay bác bỏ, qua hiểu biết của học sinh được nâng lên một trình độ
mới. Bài học vận dụng được vốn hiểu biết và kinh nghiệm của mỗi học sinh và
cả lớp chứ không phải chỉ dựa trên vốn hiểu biết và kinh nghiệm sống của thầy
giáo.
d. Dạy học phải kết hợp đánh giá
Trong dạy học, việc đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận
định thực trạng và điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo điều
kiện nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy.
Trước đây giáo viên giữ độc quyền đánh giá học sinh. Trong phương
pháp tích cực, giáo viên phải hướng dẫn học sinh phát triển kĩ năng tự đánh
giá để tự điều chỉnh cách học. Liên quan với điều này, giáo viên cần tạo điều
kiện thuận lợi để học sinh được tham gia đánh giá lẫn nhau. Tự đánh giá đúng
và điều chỉnh hoạt động kịp thời là năng lực rất cần cho sự thành đạt trong
cuộc sống mà nhà trường phải trang bị cho học sinh.
Theo hướng phát triển các phương pháp tích cực để đào tạo những con
người năng động, sớm thích nghi với đời sống xã hội, thì việc kiểm tra, đánh
giá không thể dừng lại ở yêu cầu tái hiện các kiến thức, lặp lại các kĩ năng đã
học mà phải khuyến khích trí thông minh, óc sáng tạo trong việc giải quyết
những tình huống thực tế.
Với sự trợ giúp của các thiết bị kĩ thuật, kiểm tra đánh giá sẽ không còn
là một công việc nặng nhọc đối với giáo viên, mà lại cho nhiều thông tin kịp
thời hơn để linh hoạt điều chỉnh hoạt động dạy, chỉ đạo hoạt động học. [2,
tr.69].
Trang 17



1.3. Một số khái niệm liên quan:
1.3.1.Khái niệm về tính tích cực và tính tích cực trong học tập
a. Tính tích cực
Theo Từ điển Tiếng Việt, tích cực có nghĩa là có ý nghĩa, có tác dụng
khẳng định, thúc đẩy sự phát triển. Người tích cực là người tỏ ra chủ động, có
những hoạt động nhằm tạo ra sự biến đổi theo hướng phát triển. Ví dụ: đấu
tranh tích cực, phương pháp phòng bệnh tích cực… Theo một nghĩa khác, tích
cực là đem hết khả năng và tâm trí vào việc làm. Ví dụ: công tác rất tích cực.
Tích cực là một trạng thái tinh thần có tác dụng khẳng định và thúc đẩy sự
phát triển. Tích cực là chủ động, hăng hái, nhiệt tình với nhiệm vụ được giao.
[13, tr20].
Ở Việt Nam, vấn đề phương pháp dạy học tích cực cũng được các nhà
giáo dục đề cập với nhiều quan điểm khác nhau. Nguyễn Kỳ cho rằng, phương
pháp tích cực chính là tổ chức cho học sinh học tích cực bằng hành động của
chính các em, qua hợp tác với cộng đồng, theo ba thời điểm: một là trẻ làm
việc một mình với đối tượng học; hai là trẻ hợp tác với tập thể, xã hội và cuối
cùng là chuyển sang hệ thống mới: Trò - Lớp - Thầy [12;tr7]. Theo Nguyễn
Trọng Di, nếu coi học là quá trình giải quyết vấn đề do tình huống thực tế tạo
nên, học là tự tìm tòi mày mò kiến thức thì đồng nhất việc học với việc nghiên
cứu khoa học.Theo ông, học qua giải quyết tình huống, mà tình huống ấy do
thầy tạo ra, do sự hướng dẫn có chủ đích của thầy chứ không phải tự lực hoàn
toàn, động cơ ở người học cũng khác người nghiên cứu. Xét về bản chất việc
học là tiếp thu, là phải biết chấp nhận, vì vậy nếu coi là tự tìm tòi ra kiến thức
là không hợp lý, là hơi cực đoan [8;tr6]. Với Phạm Viết Vượng, phương pháp
dạy học tích cực không phải là một phương pháp cụ thể, không phải là một
phương pháp mới phát minh mà là một nguyên tắc dạy học. Từ nguyên tắc này
buộc người ta phải tìm ra những phương pháp tương ứng [26;tr9]. Tuy chưa
hoàn toàn thống nhất nhưng quan điểm của các nhà giáo dục Việt Nam đã có
giá trị định hướng, chỉ rõ phương pháp, biện pháp dạy học phát huy tính tích
cực học tập của học sinh. Họ coi việc phát huy tính tích cực học tập và vai trò

chủ thể học tập của học sinh là đối tượng tác động của giáo viên và việc tích cực
học tập của học sinh là dấu hiệu của việc học tập có hiệu quả.
Tính tích cực là một phẩm chất vốn có của con người trong đời sống xã
hội. Để tồn tại và phát triển, con người luôn tìm tòi, khám phá và cải biến môi
trường để phục vụ cho con người. Tuy vậy, tính tích cực có mặt tự phát và tự

Trang 18


giác. Theo Thái Duy Tuyên, mặt tự phát của tính tích cực là những yếu tố tiềm
ẩn bên trong, bẩm sinh, thể hiện ở tính tò mò, hiếu kỳ, linh hoạt trong đời sống
hằng ngày. Mặt tự giác của tính tích cực là một trạng thái tâm lý tính tích cực
có mục đích và đối tượng rõ rệt, do đó có hoạt động để chiếm lĩnh đối tượng
đó. Tính tích cực tự giác thể hiện ở óc quan sát, tính phê phán trong tư duy, trí
tò mò khoa học … Nhờ tính tích cực tự giác, có ý thức, con người có thể đạt
được nhiều tiến bộ trong đời sống và phát triển nhanh hơn so với tính tích cực
tự phát. Vì vậy, hình thành và phát triển tính tích cực xã hội là một trong các
nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục, nhằm đào tạo những con người năng động,
thích ứng và góp phần phát triển cộng đồng.
b. Tính tích cực trong học tập
Học tập là hoạt động chủ đạo của lứa tuổi đi học. Tính tích cực trong
hoạt động học – về thực chất là tính tích cực nhận thức, đặc trưng ở khát vọng
hiểu biết, cố gắng trí tuệ và nghị lực trong quá trình chiếm lĩnh tri thức.
Khác với quá trình nhận thức trong nghiên cứu khoa học, quá trình nhận
thức trong học tập không nhằm phát hiện những điều loài người chưa biết mà
nhằm lĩnh hội những tri thức loài người đã tích lũy được. Tuy nhiên trong học
tập học sinh cũng phải “ khám phá” ra những hiểu biết mới đối với bản thân.
Học sinh sẽ thông hiểu, ghi nhớ, luyện tập, vận dụng … những gì đã nắm được
qua hoạt động chủ động khám phá của chính mình; Đó là chưa nói tới trình độ
nhất định, sự học tập tích cực sẽ mang tính nghiên cứu khoa học và người học

cũng làm ra những tri thức mới cho khoa học.
Tính tích cực nhận thức trong hoạt động học tập liên quan trước hết với
động cơ học tập. Động cơ tạo ra hứng thú. Hứng thú là tiền đề của sự tự giác
sinh nếp tư duy độc lập. Suy nghĩ độc lập là mầm móng của sáng tạo.Ngược
lại phong cách học tập tích cực độc lập sáng tạo sẽ phát triển tự giác, hứng thú
bồi dưỡng động cơ học tập.
Từ trên cho thấy tính tích cực học tập là phẩm chất nhân cách của người
học sinh thể hiện ý thức tự giác của học sinh về mục đích của hoạt động học
tập, qua đó học sinh phát huy được cao nhất các chức năng tâm lý nhằm tổ
chức và thực hiện việc học tập có hiệu quả. Nó là năng lực thể hiện sự nổ lực
cố gắng ở sự chủ động, sáng tạo có ý thức tác động qua lại với môi trường
của chủ thể. Tính tích cực bắt nguồn từ lợi ích nhu cầu của con người, được
nảy sinh, hình thành và phát triển trong hoạt động.

Trang 19


c. Các hình thức biểu hiện tính tích cực trong học tập
Tính tích cực trong học tập được biểu hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất, xúc cảm học tập: Thể hiện ở niềm vui, sốt sắng thực hiện yêu
cầu của giáo viên, hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo viên; thích phát biểu ý
kiến của mình trước vấn đề nêu ra. Hay thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ
những vấn đề chưa đủ rõ.
Thứ hai, chú ý: Thể hiện ở việc tập trung chú ý học tập, lắng nghe, theo
dõi mọi hành động của giáo viên.
Thứ ba, sự nỗ lực của ý chí: Thể hiện ở sự kiên trì, nhẫn nại, vượt khó
khăn khi giải quyết nhiệm vụ nhận thức. Kiên trì hoàn thành các bài tập,
không nản lòng trước những tình huống khó khăn. Có quyết tâm, ý chí vươn
lên trong học tập.
Thứ tư, hành vi: Thể hiện ở sự hăng hái tham gia vào mọi hình thức của

hoạt động học tập; hay giơ tay phát biểu ý kiến, bổ sung các câu trả lời của các
bạn; ghi chép cẩn thận, đầy đủ, cử chỉ khẩn trương trong khi thực hiện các
hành động tư duy.
Thứ năm, kết quả lĩnh hội: Thể hiện ở sự lĩnh hội tri thức nhanh, đúng,
tái hiện được khi cần, chủ động vận dụng được kiến thức, kĩ năng khi gặp tình
huống mới để nhận thức những vấn đề mới.
Đặc biệt, tính tích cực học tập có mối liên hệ nhân quả với các phẩm chất
nhân cách của người học như:
Thứ nhất, tính tự giác: Đó là sự tự nhận thức được nhu cầu học tập của
mình và có giá trị thúc đẩy hoạt động có kết quả.
Thứ hai, tính độc lập tư duy: Đó là sự phân tích, tìm hiểu, giải quyết các
nhiệm vụ nhận thức. Đây là biểu hiện cao của tính tích cực.
Thứ ba, tính chủ động: Thể hiện ở việc làm chủ các hành động trong
toàn bộ hoặc trong từng giai đoạn của quá trình nhận thức đặt ra nhiệm vụ, lập
kế hoạch thực hiện nhiệm vụ đó, tự đọc thêm, làm thêm các bài tập, tự kiểm
tra… Lúc này, tính tích cực đóng vai trò như một tiền đề cần thiết để tiến hành
các hoạt động học tập của người học.
Thứ tư, tính sáng tạo: Thể hiện khi chủ thể nhận thức tìm ra cái mới,
cách giải quyết mới, không bị phụ thuộc vào cái đã có. Đây là mức độ biểu
hiện cao nhất của tính tích cực.

Trang 20


×