Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

Tìm hiểu hoạt động của hội liên hiệp phụ nữ huyện tân hiệp, tỉnh kiên giang trong việc thực hiện nhiệm vụ, hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc từ năm 2007 đến năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (820.39 KB, 66 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

NGUYỄN THỊ THU HIẾU
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

TÌM HIỂU HOẠT ĐỘNG CỦA
HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ HUYỆN TÂN HIỆP,
TỈNH KIÊN GIANG TRONG VIỆC THỰC HIỆN
NHIỆM VỤ: “HỖ TRỢ PHỤ NỮ XÂY DỰNG GIA
ĐÌNH NO ẤM, BÌNH ĐẲNG, TIẾN BỘ, HẠNH PHÚC”
TỪ NĂM 2007 ĐẾN NĂM 2010

Khoá học: 2007-2011

Long Xuyên, 5/2011


TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
.

NGUYỄN THỊ THU HIẾU

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH SƯ PHẠM GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: Th.S: NGUYỄN THỊ VÂN.

TÌM HIỂU HOẠT ĐỘNG CỦA
HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ HUYỆN TÂN HIỆP,
TỈNH KIÊN GIANG TRONG VIỆC THỰC HIỆN


NHIỆM VỤ: “HỖ TRỢ PHỤ NỮ XÂY DỰNG GIA
ĐÌNH NO ẤM, BÌNH ĐẲNG, TIẾN BỘ, HẠNH PHÚC”
TỪ NĂM 2007 ĐẾN NĂM 2010

Khoá học: 2007-2011

Long Xuyên, 5/2011


LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn:
- Ban Giám Hiệu, quý thầy cô trong khoa Lý luận Chính trị đã
truyền thụ kiến thức và tạo mọi điều kiện thuận lợi để em hoàn thành
khóa luận tốt nghiệp.
- Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới cô Nguyễn Thị Vân đã
tận tình hướng dẫn, động viên, giúp đỡ trong suốt thời gian em thực hiện
khóa luận tốt nghiệp.
- Em cũng xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của Ủy
ban nhân dân huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang. Hội Liên hiệp Phụ nữ
tỉnh Kiên Giang. Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang
đã cung cấp những tài liệu và số liệu bổ ích để em hoàn thành tốt khóa
luận này.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên
Nguyễn Thị Thu Hiếu


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU...................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ...............................................................................................1

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.........................................................................3
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu...................................................3
4. Đóng góp của khóa luận.....................................................................................4
5. Phương pháp nghiên cứu....................................................................................4
6. Kết cấu của khóa luận .......................................................................................4
PHẦN NỘI DUNG ...............................................................................................6
CHƯƠNG I: PHỤ NỮ VÀ VAI TRÒ CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ
VỚI PHONG TRÀO PHỤ NỮ.
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng
Cộng sản Việt Nam về phụ nữ.......................................................................6
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về phụ nữ. ...............................6
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về phụ nữ..................................................................................12
1.2. Vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong việc thực hiện nhiệm
vụ: “Hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh
phúc..............................................................................................................17
1.2.1. Khái quát quá trình hình thành Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam..........17
1.2.2. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam với phong trào phụ nữ trong sự
nghiệp giải phóng dân tộc từ năm 1945 đến 1975...............................19
1.2.3. Vai trò của Hội Liên Hiệp Phụ nữ Việt Nam trong việc thực hiện

nhiệm vụ: “Hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng,
tiến bộ, hạnh phúc” ...........................................................................25
CHƯƠNG II: HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ HUYỆN TÂN HIỆP, TỈNH
KIÊN GIANG THỰC HIỆN NHIỆM VỤ: “HỖ TRỢ PHỤ NỮ XÂY
DỰNG GIA ĐÌNH NO ẤM, BÌNH ĐẲNG, TIẾN BỘ, HẠNH PHÚC” TỪ
NĂM 2007 ĐẾN NĂM 2010.
2.1. Khái quát về lịch sử hình thành, điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa và xã
hội huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang .......................................................30



2.2. Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Tân Hiệp tỉnh Kiên Giang với việc thực hiện
nhiệm vụ: “Hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ,
hạnh phúc” từ năm 2007 đến năm 2010 .........................................................35
2.2.1. Mục tiêu thực hiện nhiệm vụ: “Hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình no
ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc” ở huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên
Giang từ năm 2007 đến năm 2010 ......................................................35
2.2.2. Hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên
Giang trong việc thực hiện nhiệm vụ: “Hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia
đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc” từ năm 2007 đến năm
2010 .....................................................................................................38
2.2.2.1. Từ năm 2007 đến 2008..........................................................38
2.2.2.2. Từ năm 2009 đến 2010..........................................................40
2.2.3. Thành tựu và hạn chế trong quá trình thực hiện nhiệm vụ: “Hỗ trợ
phụ nữ xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc” ở
huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang từ năm 2007 đến năm 2010...........44
2.2.3.1. Thành tựu và nguyên nhân của thành tựu ..............................44
2.2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế.....................................47
2.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ: “Hỗ trợ
phụ nữ xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc” ở huyện
Tân Hiệp tỉnh Kiên Giang trong những năm tới..........................................49
2.3.1. Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện cần tăng cường chỉ đạo thực hiện
lồng ghép giữa các Chương trình, dự án có nội dung liên quan đến
gia đình; xây dựng gia đình; giữ gìn và phát huy các giá trị văn
hóa tốt đẹp của gia đình Việt Nam chặt chẽ và đồng bộ ..................49
2.3.2. Hỗ trợ, tạo điều kiện cho phụ nữ huyện Tân Hiệp xây dựng gia
đình “no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc” ...................................50
2.3.3. Hướng dẫn kiến thức, kỹ năng cho phụ nữ về chăm sóc sức khỏe
sinh sản, phòng chống HIV/AIDS, thực hiện kế hoạch hóa gia
đình.. .................................................................................................51

PHẦN KẾT LUẬN.............................................................................................53
Danh mục tài liệu tham khảo ...............................................................................55


Trang 1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Trong suốt chiều dài lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của
dân tộc, phụ nữ Việt Nam đã có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp đấu
tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Qua hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ, lịch sử lại ghi nhận hàng vạn tấm gương phụ nữ,
các chị, các mẹ không ngại gian khổ, không tiếc máu xương, sẵn sàng chiến
đấu, hy sinh, cống hiến cả cuộc đời mình cho độc lập tự do của Tổ quốc. Họ là
những người trực tiếp chiến đấu, hăng say lao động sản xuất để vượt lên cảnh
đói nghèo và lạc hậu, góp phần xây dựng đất nước ngày càng to đẹp và đàng
hoàng hơn. Trong thời kỳ kháng chiến Đảng, Bác Hồ, Chính phủ phong tặng
phụ nữ Việt Nam tám chữ vàng “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”
và trong thời kỳ đổi mới đất nước “Trung hậu, đảm đang, tài năng, anh hùng”
sự phong tặng này không chỉ là sự khích lệ, động viên, sự trao tặng danh phận
mà còn là sự thừa nhận và đánh giá vai trò to lớn của phụ nữ Việt Nam. Vì thế,
bồi dưỡng lực lượng phụ nữ, phát huy sức mạnh và chăm lo sự phát triển mọi
mặt của phụ nữ là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Đảng, Nhà nước ta
trong mọi thời kỳ cách mạng.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, và trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phụ nữ Việt
Nam đã vươn lên mạnh mẽ, khẳng định vai trò quan trọng của mình trong mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội, làm rạng rỡ thêm truyền thống vẻ vang xưa. Phụ
nữ Việt Nam trong giai đoạn hiện nay không chỉ giỏi việc nước, tham gia tích
cực trong các lĩnh vực khoa học kỹ thuật, kinh tế, vǎn hóa xã hội, mà còn đảm

việc nhà, tinh thần cần cù lao động, yêu chồng, thương con, chăm lo vun vén
hạnh phúc gia đình, góp một phần công sức không nhỏ trong việc thực hiện
thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nếu như trước
đây, người ta quan niệm về một gia đình tốt là hoà thuận và hạnh phúc thì hiện
nay, một gia đình tốt phải hội đủ những yếu tố: no ấm, bình đẳng, tiến bộ,
hạnh phúc. Đó cũng là chuẩn mực của gia đình Việt Nam hiện đại. Như vậy,
với thiên chức làm mẹ, làm vợ, người phụ nữ đóng vai trò rất quan trọng trong
xây dựng gia đình hạnh phúc. Họ có ảnh hưởng to lớn và trực tiếp tới hạnh
phúc và sự ổn định của gia đình vì thế bản thân phụ nữ trước hết phải tự ý thức
được đầy đủ vị trí, vai trò của mình mới có thể nắm bắt được những cơ hội,
cùng với xã hội, hướng tới xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh
phúc. Muốn vậy, người phụ nữ hiện đại cần phải có tri thức, văn hoá, bản lĩnh
để đáp ứng yêu cầu của thời đại.

Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP

SVTH: Nguyễn Thị Thu Hiếu


Trang 2

Nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò của phụ nữ Việt Nam trong công cuộc
đổi mới đất nước tại Đại hội Đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ X (2007–
2012) đề ra 6 nhiệm vụ trọng tâm trong đó nhiệm vụ thứ 4: “Hỗ trợ phụ nữ
xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc” được xem là một
trong những nhiệm vụ thiết thực góp phần cải thiện đời sống vật chất, tinh
thần và nâng cao vị trí, vai trò của phụ nữ trong gia đình và xã hội.
Thực hiện những chủ trương chung của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
Trong những năm qua Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang
triển khai xây dựng và thực hiện nhiệm vụ: “Hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình

no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc” đã có sự chuyển biến tích cực và đạt
được nhiều kết quả nhất định: giúp đỡ các chị em phụ nữ trong huyện phát
triển kinh tế gia đình, phát huy tính sáng tạo trong học tập, lao động, phụ nữ
được chăm sóc sức khỏe góp phần đáng kể vào việc “Xây dựng gia đình no
ấm, tiến bộ, hạnh phúc” địa vị của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội được
cải thiện. Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đã đạt được trong việc thực hiện
nhiệm vụ: “Hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh
phúc” vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định: Công tác kiểm tra giám sát,
phối hợp giải quyết những vấn đề vướng mắc tồn tại ở cơ sở chưa kịp thời.
Hội chưa bao khắp đến mọi chị em phụ nữ vì thế huyện vẫn còn một bộ phận
phụ nữ nghèo, thiếu việc làm, thu nhập bấp bênh, điều kiện tiếp cận với các
thông tin khoa học kỹ thuật, hưởng thụ văn hóa tinh thần của phụ nữ nghèo
còn hạn chế. Vì vậy, Hội Liên hiệp Phụ nữ, cùng các cấp chính quyền huyện
Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang cần có chính sách, chương trình hỗ trợ cụ thể và
thiết thực hơn nữa giúp đỡ chị em phụ nữ của huyện vươn lên cải thiện đời
sống vật chất, tinh thần, nâng cao địa vị phụ nữ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của phụ nữ huyện Tân Hiệp trong giai đoạn hiện nay và
những năm tới được coi là vấn đề hết sức cơ bản, cấp bách và có ý nghĩa to
lớn.
Do vị trí, vai trò và ý nghĩa quan trọng của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam, trong việc chăm lo đời sống các tầng lớp phụ nữ và phát triển nguồn
nhân lực nữ đối sự phát triển kinh tế-xã hội của nước ta. Vì vậy, đã có nhiều
bài viết, công trình nghiên cứu có giá trị về phong trào phụ nữ Việt Nam và
hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam như: Luận văn tiến sĩ “Quan
tâm bồi dưỡng nguồn nhân lực nữ trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước” của PGS. Bùi Thị Kim Quỳ (Tạp chí Khoa học về phụ nữ, số 2,
năm 1996); “Cơ sở khoa học và thực tiễn để xác định nghề đào tạo dự phòng
cho phụ nữ” của TS. Nguyễn Tín Nhiệm và TS. Phan Thị Thanh (Tạp chí
Khoa học về phụ nữ, số 4, năm 2002); khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm


Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP

SVTH: Nguyễn Thị Thu Hiếu


Trang 3

“Vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang triển
khai thực hiện chương trình: Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế” của Trần Phan
Như Ý. Tuy nhiên các bài viết, đề tài nghiên cứu trên mới nghiên cứu ở những
mức độ lý luận và thực tiễn khác nhau, chưa có điều kiện đi sâu tìm hiểu hoạt
động của Hội Liên hiệp Phụ nữ trong việc thực hiện nhiệm vụ: “Hỗ trợ phụ nữ
xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”.
Xuất phát từ yêu cầu của lý luận và thực tiễn trên, tôi đã quyết định chọn
đề tài: Tìm hiểu hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Tân Hiệp, tỉnh
Kiên Giang trong việc thực hiện nhiệm vụ: “Hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình
no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc” từ năm 2007 đến năm 2010 làm đề tài
khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm ngành Giáo dục Chính trị.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận.
2.1. Mục đích nghiên cứu.
- Tìm hiểu hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Tân Hiệp, tỉnh
Kiên Giang trong việc thực hiện nhiệm vụ: “Hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình
no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc” từ năm 2007 đến năm 2010.
- Đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm
vụ: “Hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc” ở
huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang trong những năm tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Tìm hiểu thực tế hoạt động thực hiện nhiệm vụ: “Hỗ trợ Phụ nữ xây
dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc” của Hội Liên hiệp Phụ nữ
huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang từ năm 2007 đến năm 2010 để làm rõ những

đóng góp của nhiệm vụ này với đời sống các tầng lớp phụ nữ trong huyện.
- Đánh giá tình hình hoạt động của Hội Phụ nữ huyện Tân Hiệp, tỉnh
Kiên Giang từ năm 2007 đến năm 2010
- Đề xuất một số giải pháp, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động
trong việc thực hiện nhiệm vụ: “Hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình no ấm, bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc” ở huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang trong những
năm tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
3.1 Đối tượng nghiên cứu.
Tìm hiểu hoạt động Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên
Giang trong việc thực hiện nhiệm vụ: “Hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình no
ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”.
3.2 Phạm vi nghiên cứu.

Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP

SVTH: Nguyễn Thị Thu Hiếu


Trang 4

Hội Liên hiệp Phụ nữ ở huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang trong việc thực
hiện nhiệm vụ: “Hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ,
hạnh phúc” từ năm 2007 đến năm 2010.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Khóa luận sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa xã hội khoa học, khảo sát thực tiễn, đối
chiếu và so sánh, phân tích, tổng hợp.
5. Đóng góp của khóa luận.
- Kết quả nghiên cứu làm nguồn tư liệu để Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện

Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang tham khảo trong quá trình thực hiện nhiệm vụ: “Hỗ
trợ phụ nữ xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc” ở địa
phương trong những năm tới.
- Góp phần cung cấp những cơ sở khoa học cho Đảng bộ và chính quyền
các cấp tham khảo trong quá trình lãnh đạo, quản lí để từ đó có những chủ
trương, chính sách phù hợp tạo điều kiện tốt để Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện
thực hiện nhiệm vụ: “Hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến
bộ, hạnh phúc” ngày càng có hiệu quả hơn.
6. Kết cấu khóa luận.
Phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, khóa luận
có 2 chương, 5 tiết.
CHƯƠNG I: PHỤ NỮ VÀ VAI TRÒ CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ
VỚI PHONG TRÀO PHỤ NỮ.
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng
Cộng sản Việt Nam về phụ nữ.
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về phụ nữ.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về phụ nữ.
1.2. Vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong việc thực hiện
nhiệm vụ: “Hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh
phúc”.
1.2.1. Khái quát quá trình hình thành của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
1.2.2. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam với phong trào phụ nữ trong sự
nghiệp giải phóng dân tộc từ năm 1945 đến 1975.
1.2.3. Vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong việc thực hiện
nhiệm vụ: “Hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh
phúc”.

Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP


SVTH: Nguyễn Thị Thu Hiếu


Trang 5

CHƯƠNG II: HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ HUYỆN TÂN HIỆP, TỈNH
KIÊN GIANG THỰC HIỆN NHIỆM VỤ: “HỖ TRỢ PHỤ NỮ XÂY
DỰNG GIA ĐÌNH NO ẤM, BÌNH ĐẲNG, TIẾN BỘ, HẠNH PHÚC” TỪ
NĂM 2007 ĐẾN NĂM 2010.
2.1. Khái quát về lịch sử hình thành, điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa và
xã hội huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang.
2.2. Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Tân Hiệp tỉnh Kiên Giang với việc thực
hiện nhiệm vụ: “Hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ,
hạnh phúc” từ năm 2007 đến năm 2010.
2.2.1. Mục tiêu thực hiện nhiệm vụ: “Hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình no
ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc” ở huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang từ năm
2007 đến năm 2010.
2.2.2. Hoạt động của việc thực hiện nhiệm vụ: “Hỗ trợ phụ nữ xây dựng
gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc” ở huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên
Giang từ năm 2007 đến năm 2010.
2.2.2.1. Từ năm 2007 đến 2008.
2.2.2.2. Từ năm 2009 đến 2010.
2.2.3. Thành tựu và hạn chế trong quá trình thực hiện nhiệm vụ: “Hỗ trợ
phụ nữ xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc” ở huyện Tân
Hiệp, tỉnh Kiên Giang từ năm 2007 đến năm 2010.
2.2.3.1. Thành tựu và nguyên nhân của thành tựu.
2.2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế.
2.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ: “Hỗ trợ
phụ nữ xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc” ở huyện Tân
Hiệp tỉnh Kiên Giang trong những năm tới.

2.3.1. Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện cần tăng cường sự chỉ đạo thực hiện
lồng ghép giữa các Chương trình, dự án có nội dung liên quan đến gia đình;
xây dựng gia đình; giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp của gia đình
Việt Nam chặt chẽ và đồng bộ
2.3.2. Xây dựng và nhân rộng các mô hình về xây dựng gia đình; phát
triển dịch vụ gia đình phù hợp.
2.3.3. Hướng dẫn kiến thức, kỹ năng cho phụ nữ về chăm sóc sức khỏe
sinh sản, phòng chống HIV/AIDS, thực hiện kế hoạch hóa gia đình.
Phần kết luận.
Danh mục tài liệu tham khảo

Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP

SVTH: Nguyễn Thị Thu Hiếu


Trang 6

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: PHỤ NỮ VÀ VAI TRÒ CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ
VỚI PHONG TRÀO PHỤ NỮ
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
Đảng Cộng sản Việt Nam về phụ nữ.
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về phụ nữ.
1.1.1.1. Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăng-ghen về phụ nữ.
Trong tác phẩm “Không tưởng”, Thomas More (1478-1535), nhà xã hội
chủ nghĩa không tưởng Anh thế kỷ XVI cho rằng, “Để có xã hội tốt phải có
gia đình tốt, muốn vậy các thành viên trong gia đình phải hòa thuận, vợ chồng
giúp đỡ lẫn nhau. Muốn gia đình hạnh phúc vợ chồng phải hòa thuận, tôn
trọng và biết củng cố tình yêu với nhau” [16; 130]. Những người xúc phạm

đến hôn nhân sẽ bị trừng phạt nặng nề nhất.
Francois Marrie Charles Fourier (1772-1837), nhà xã hội chủ nghĩa
không tưởng Pháp thế kỷ XIX. Ông cho rằng, “Tự nhiên đã ban phát cho hai
giới những phần bằng nhau về năng lực làm khoa học và nghệ thuật”. Song
dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, người phụ nữ luôn chịu thiệt thòi về quyền lợi,
địa vị thấp kém. Francois Marrie Charles Fourier là người đầu tiên nêu lên
quan điểm “Mức độ giải phóng phụ nữ là thước đo trình độ giải phóng xã hội”
[19; 75]. Tư tưởng giải phóng phụ nữ của Francois Marrie Charles Fourier
được xem là tư tưởng nổi bật nhất và mang tính nhân đạo sâu sắc nhất. Tuy
nhiên do hạn chế của thời đại, các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng rơi vào
thế bế tắc khi chỉ ra con đường để giải phóng phụ nữ khỏi những bất công của
xã hội đương thời.
Trên cơ sở kế thừa tư tưởng về phụ nữ và giải của các nhà xã hội chủ
nghĩa không tưởng thế kỷ XVI và thế kỷ XIX (Thomas More và Francois
Marrie Charles Fourier), sau này các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-Lênin
nghiên cứu và đấu tranh không mệt mỏi cho quyền và lợi ích cơ bản của phụ
nữ, một lực lượng lao động lớn trong xã hội.
C.Mác nói: “Ai đã biết lịch sử thì biết rằng muốn sửa sang xã hội mà
không có phụ nữ giúp vào, thì chắc không làm nổi. Xem tư tưởng và việc làm
của đàn bà con gái, thì biết xã hội tiến bộ như thế nào” [11; 288].
Để khẳng định vai trò của phụ nữ trong lịch sử, đồng thời chỉ ra sự hạn
chế về quan điểm của một số nhà triết học cổ đại cho rằng từ khi có xã hội loài
người, đàn bà là nô lệ và phụ thuộc vào đàn ông. Trong xã hội cổ Hy Lạp,
Aristotle nói: “Thật là tiện lợi cho việc loài người thống trị loài vật, cũng
giống như giữa các giới tính, đàn ông là thượng đẳng trong khi đàn bà là hạ

Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP

SVTH: Nguyễn Thị Thu Hiếu



Trang 7

đẳng, đàn ông kẻ thống trị, đàn bà người bị trị”. Bác bỏ quan điểm sai lầm trên
C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã lặt lại quá khứ, qua các tư liệu lịch sử để khái quát
sự biến đổi địa vị của người phụ nữ trải qua hai thời kỳ lịch sử lớn, đó là thời
kỳ chế độ mẫu hệ và thời kỳ chế độ phụ hệ.
- Thời kỳ thứ nhất: chế độ mẫu hệ.
Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều qua các hình thức hôn nhân và gia
đình như: gia đình huyết tộc, gia đình đối ngẫu. Mặc dù hình thức có khác
nhau nhưng đều có chung đặc điểm: người phụ nữ có vai trò vô cùng quan
trọng, là người tổ chức quản lí và phân phối nguồn thức ăn cho các thành viên
trong gia đình. Đặc điểm của chế độ mẫu hệ là con cái sinh ra chỉ biết mẹ và
không biết rõ cha và lấy theo họ mẹ (do chế độ quần hôn). Người phụ nữ có
uy tín rất cao trong thị tộc. Ý kiến phụ nữ được tôn trọng. Phụ nữ điều hành
các công việc của thị tộc và họ là những người có vị trí rất quan trọng trong
việc nuôi sống xã hội. Đàn ông chủ yếu đi săn bắn, trong thời kỳ này thì việc
săn bắn chưa phải là việc quan trọng nhất cho đời sống xã hội bấy giờ. Như
vậy ngay từ thuở sơ khai của lịch sử nhân loại, phụ nữ đã đóng vai trò đặc biệt
quan trọng trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Trong tác phẩm “Bàn về nhà
nước”, V.I.Lênin chỉ rõ rằng, bấy giờ: “Quyền hành có khi trong tay phụ nữ”,
vì thế chế độ mẫu hệ còn gọi là chế độ mẫu quyền. Quyền ở đây không chỉ là
quyền uy mà còn là sự đề cao vai trò, uy tín của phụ nữ trong thị tộc, trong xã
hội.
Chế độ mẫu quyền tồn tại hàng ngàn năm trong lịch sử nhân loại. Mặc dù
thời kỳ này địa vị người phụ nữ được trân trọng, nhưng trong các công xã thị
tộc mẫu hệ chưa có hiện tượng người áp bức bóc lột người, không có sự bất
bình đẳng giữa nam và nữ. Ph.Ăng-ghen viết: “Cái vĩ đại mà cũng là cái chât
hẹp của chế độ thị tộc là nó không có chỗ để dung nạp sự nô dịch và sự thống
trị” [15; 12]. Bởi lẽ, người phụ nữ có trách nhiệm rất cao trong việc chăm lo

cuộc sống cộng đồng, nhưng ít có sự đòi hỏi cho bản thân. Chế độ mẫu quyền
tồn tại suốt thời đại mông muội cho đến giai đoạn thấp của thời đại dã man, nó
được chuyển sang thời đại mới nhờ vào sự tiến bộ vượt bậc của lực lượng sản
xuất và công cụ lao động.
- Thời kỳ thứ hai: chế độ phụ hệ.
Sự xuất hiện công cụ lao động mới, cùng các cuộc phân công lao động
xã hội lớn càng làm cho sản xuất tiếp tục phát triển mạnh mẽ, là nguyên nhân
sâu xa của những biến đổi sâu sắc về gia đình và xã hội. Chế độ phụ hệ xuất
hiện, thay thế cho chế độ mẫu hệ.
Khi bàn về điều này, C.Mác đã lý giải nó bắt nguồn từ các nguyên nhân
kinh tế và đối kháng giai cấp. C.Mác cho rằng giai cấp nào thống trị kinh tế,

Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP

SVTH: Nguyễn Thị Thu Hiếu


Trang 8

mà cụ thể là chiếm được tư liệu sản xuất thì giai cấp đó sẽ giành được địa vị
thống trị về chính trị và xã hội. Chính từ trong thời kỳ nguyên thủy, khi mà xã
hội mẫu hệ đang tồn tại thì người nam giới đã có cơ hội để chiếm lấy địa vị
thống trị. Họ có vị thế nổi trội hơn về kinh tế. Việc săn bắt, chế tạo công cụ
sản xuất, điều kiện làm việc rộng lớn luôn đòi hỏi sự đổi mới, sáng tạo đã giúp
nam giới khẳng định tiềm năng kinh tế hơn phụ nữ-những người luẩn quẩn ở
gần hang động với những công việc nấu nướng, chăm sóc con cái gần như
không thay đổi. Hầu hết của cải, tài sản của gia đình lúc này đều do bàn tay
người đàn ông làm ra: như lương thực, gia súc, nô lệ, với sự thay đổi này, vai
trò của người đàn ông ngày càng quan trọng và có ý nghĩa quyết định trong gia
đình. Chính vì vậy mà Ph.Ăng-ghen cho rằng: Việc này đã đánh một đòn

mạnh vào hôn nhân đối ngẫu, tạo cơ sở để hình thành hôn nhân một vợ một
chồng. Nếu như trước đây, dưới thời mẫu hệ lao động nữ đóng vai trò quan
trọng trong việc nuôi sống xã hội, thì giờ đây chỉ có lao động của đàn ông mới
có thể đảm đương được những ngành sản xuất nặng nhọc. Lao động nữ trở
thành thứ yếu. Vì thế, trong gia đình phụ hệ người chồng, người cha có uy
quyền tuyệt đối. Họ là những người có quyền chi phối số phận các thành viên
trong gia đình. Trong gia đình phụ hệ, người vợ phải về ở nhà chồng, người
đàn bà phụ thuộc vào người đàn ông, con cái theo dòng họ của cha và xác lập
quyền kế thừa tài sản theo cha từ đời này sang đời khác. Sự ra đời của gia đình
đã đồng thời với sự ra đời của chế độ tư hữu thay thế dần cho chế độ cộng sản
nguyên thủy. Những bất công xã hội ngày càng được thiết lập và củng cố
trong sự phân tầng kinh tế và ở đó mức độ lệ thuộc của phụ nữ ngày càng sâu
sắc.
Dựa trên các quan điểm của C.Mác, Ph.Ăng-ghen đã phân tích rất sâu
sắc vấn đề này trong tác phẩm nổi tiếng “Nguồn gốc gia đình, chế độ tư hữu
và nhà nước”, xuất bản lần đầu tiên vào năm 1884. Với tác phẩm này, vấn đề
nguồn gốc của gia đình được soi sáng như là quá trình phát sinh của chế độ
một vợ một chồng. Quá trình này bị chế định như Ph.Ăng-ghen đã nêu: không
phải bởi tình yêu nam nữ, yếu tố được coi là sản phẩm của một quá trình lâu
dài và đầy mâu thuẫn của lịch sử, mà bởi sự hình thành chế độ tư hữu và nhà
nước.
Vì vậy, bản chất xã hội của hôn nhân và gia đình là do các quan hệ kinh
tế-xã hội giữ địa vị thống trị quyết định. Sự thay đổi các hình thức hôn nhân
trong các giai đoạn lịch sử là những bước tiến bộ của nhân loại nhưng đồng
thời cũng nói lên một thực tế là phụ nữ ngày càng mất đi địa vị, mất quyền tự
do tính giao theo kiểu chế độ quần hôn. Còn nam giới thì ngược lại, họ không

Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP

SVTH: Nguyễn Thị Thu Hiếu



Trang 9

những có quyền cai quản trong gia đình, ngoài xã hội mà ngay cả quyền tự do
tính giao không những không mất đi mà còn được tăng cường.
Như vậy, sự ra đời của chế độ tư hữu, dẫn đến sự áp bức nô dịch của giai
cấp có quyền và có của đối với giai cấp không có quyền và không có của. Sự
nô dịch ấy trùng với sự nô dịch của nam giới đối với phụ nữ trong gia đình. Từ
đây trong gia đình, người phụ nữ luôn phụ thuộc vào người chồng, người cha
về mọi mặt. Dưới chế độ tư hữu một vợ một chồng chỉ đối với người phụ nữ,
chứ không phải đối với nam giới.
Ph.Ăng-ghen viết: “Sự đối lập giai cấp đầu tiên trong lịch sử là sự đối lập
xuất hiện cùng một lúc với sự phát triển của sự đối kháng đàn ông và đàn bà
trong hôn nhân một vợ một chồng, sự áp bức của giai cấp đầu tiên thì xuất
hiện cùng một lúc với sự áp bức của đàn ông đối với đàn bà” [15; 14].
Từ đó, Ph.Ăng-ghen khẳng định, người phụ nữ mất đi quyền lợi vốn có
của họ trong gia đình và ngoài xã hội, xuất phát từ nguyên nhân kinh tế, từ ý
đồ nô dịch về kinh tế của đàn ông đối với đàn bà, từ sự tập trung của cải lớn
vào tay một người-đàn ông. Nếu như trước đây, việc tề gia nội trợ là một chức
vụ xã hội cần thiết do phụ nữ đảm nhiệm, cũng như việc nam giới cung cấp
lương thực, thì nay trong gia đình cá thể, tề gia nội trợ đã mất đi tính xã hội và
trở thành một việc phục vụ riêng cho gia đình, người đàn bà trở thành người
đày tớ chủ chốt và bị gạt ra khỏi sản xuất xã hội. Từ địa vị kinh tế thấp kém,
người phụ nữ bị đẩy xuống loại người thấp hèn, bị lệ thuộc, bị trói buộc, bị đối
xử bất công. Người đàn bà hoàn toàn mất quyền chủ động trong hôn nhân và
gia đình, mọi hành động thô bạo của người đàn ông đối với người đàn bà được
hình thành và phát triển từ đấy. Chính vì vậy, Ph.Ăng-ghen đi đến kết luận:
“Hôn nhân cá thể là một bước tiến lịch sử lớn, nhưng đồng thời nó cũng mở
ra, bên cạnh chế độ tư hữu và tài sản tư nhân, một thời đại kéo dài cho đến

ngày nay, thời đại trong đó phúc lợi và sự phát triển của những người này
được thực hiện bằng sự đau khổ và áp chế của những người khác” [5; 104].
Khi chủ nghĩa tư bản ra đời và phát triển, nó đóng vai trò hết sức to lớn
trong lịch sử là một lực lượng cách mạng, đại diện cho sự phát triển của lực
lượng sản xuất đang lên, đã tạo ra các tiền đề để phát triển kinh tế xã hội.
“Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo
ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất
cả các thế hệ trước kia gộp lại” [4; 603]. Cứ ngỡ những tiền đề vật chất mà
chủ nghĩa tư bản tạo ra sẽ làm bàn đạp và là điều kiện thuận lợi tốt đẹp để
người phụ nữ được tham gia lao động sáng tạo, được thực hiện quyền và nghĩa
vụ nhằm giải phóng họ khỏi sự áp bức bóc lột của những định kiến hàng ngàn
năm đè nặng trên vai họ, nhưng bản thân chủ nghĩa tư bản khi xác lập vị trí

Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP

SVTH: Nguyễn Thị Thu Hiếu


Trang 10

của nó trên vũ đài lịch sử lại không thể giải phóng được con người nói chung,
người phụ nữ nói riêng khỏi sự áp bức của gia đình và xã hội, thậm chí nó còn
tăng cường sự áp bức, bóc lột và làm tha hóa người phụ nữ.
Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, phụ nữ bị bức ra khỏi nền sản xuất xã hội,
cho nên họ không có thu nhập. Nếu họ muốn tham gia vào lao động xã hội,
kiếm sống một cách độc lập thì họ không có điều kiện để làm tròn nhiệm vụ
đối với gia đình. Vì vậy, khi đã kết hôn, công việc duy nhất của họ là thực
hiện chức năng sinh đẻ, lo công việc gia đình. Sự bất bình đẳng nam, nữ trong
gia đình dưới xã hội tư bản chủ nghĩa do chính nền sản xuất tư bản và các
quan hệ tài sản do xã hội ấy tạo ra. Vì vậy, muốn xóa bỏ gia đình tư sản, muốn

giải phóng phụ nữ, đem lại quyền tự do cho phụ nữ theo Ph.Ăng-ghen phải
“Xóa bỏ nền sản xuất tư bản chủ nghĩa và các quan hệ tài sản do nền sản xuất
ấy tạo ra, gạt bỏ tất cả những lý do kinh tế” ra khỏi quan hệ hôn nhân và phải
xây dựng xã hội mới-xã hội xã hội chủ nghĩa-một xã hội không còn áp bức,
bóc lột.
Ph.Ăng-ghen còn chỉ rõ: trong xã hội tư bản, trong các giai cấp bị áp
bức, trước hết là giai cấp vô sản đang hình thành nên những cuộc hôn nhân,
trong đó tình cảm yêu thương, tôn trọng lẫn nhau giữ vai trò quyết định. Đó là
sự liên kết của những con người bình đẳng. Khi tư liệu sản xuất trở thành của
chung thì sự thống trị của nam giới trong gia đình và tính ràng buộc vĩnh viễn
của hôn nhân không còn nữa, điều này sẽ tạo cơ sở để xây dựng một kiểu gia
đình mới: gia đình bình đẳng giữa vợ và chồng, là gia đình mà hôn nhân dựa
trên tình yêu chân chính, không bị lợi ích của kinh tế và của cải dòng họ chi
phối.
Để xây dựng gia đình mới, một hình thức hôn nhân mới phải được xây
dựng trên cơ sở kinh tế mới, đó là chế độ công hữu các tư liệu sản xuất và sự
phát triển nền công nghiệp lớn, phải đưa phụ nữ vào tham gia lao động sản
xuất, đó là cơ sở thực sự giải phóng phụ nữ trong gia đình cũng như ngoài xã
hội.
Như vậy, với việc dựa vào các cứ liệu lịch sử C.Mác-Ph.Ăng-ghen đã
hoàn toàn khẳng định, kể từ khi có xã hội, đàn bà sống không phải nô lệ và
phụ thuộc vào đàn ông. Thực tế đã chứng minh, sự bất bình đẳng giữa đàn ông
và đàn bà xuất hiện cùng với gia đình cá thể, từ nguyên nhân kinh tế, từ ý đồ
xác lập địa vị thống trị của đàn ông trong gia đình và ngoài xã hội. Phụ nữ
thực sự muốn giải phóng không có con đường nào khác là phụ nữ giành vị trí
xứng đáng trong lao động sản xuất cũng như trong sự phát triển văn hóa-xã
hội.
1.1.1.2. Quan điểm của V.I.Lênin về phụ nữ và giải phóng phụ nữ.

Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP


SVTH: Nguyễn Thị Thu Hiếu


Trang 11

V.I.Lênin đã phát triển toàn diện học thuyết C.Mác trong điều kiện lịch
sử mới: Giai đoạn quá độ từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội, giai đoạn
mà chủ nghĩa xã hội từ lý luận trở thành hiện thực. Đây là sự chuyển tiếp lịch
sử vĩ đại. Nó diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có
sự thay đổi địa vị của người phụ nữ trong gia đình và xã hội.
Theo V.I.Lênin, dưới sự thống trị của chủ nghĩa tư bản, trong các gia
đình vô sản phụ nữ là người chịu đau khổ nhất “Họ sẵn sàng làm việc, nhận số
tiền công hết sức rẻ mạt để kiếm thêm một mẫu bánh mì cho gia đình, nhưng
họ bị áp bức trói buộc từ mọi phía, bị cột chặt vào gia đình. Phụ nữ vô sản
không thể ngồi yên mà phải đứng lên cầm vũ khí cùng chồng con thủ tiêu ách
áp bức bóc lột của giai cấp tư sản, tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội” [6; 103].
Cách mạng Tháng Mười Nga thành công là tiền đề cho chế độ hôn nhân
mới, bình đẳng. V.I.Lênin khẳng định: Chính quyền Xô Viết với tư cách là
chính quyền của những người lao động, là chính quyền đầu tiên và duy nhất
trên thế giới đã thủ tiêu những đặc quyền gắn liền với quyền tư hữu đã được
các nước cộng hòa tư sản dân chủ duy trì trong luật pháp về gia đình để phục
vụ cho lợi ích của nam giới.
Chính quyền Xô Viết không những thực hiện quyền bình đẳng của phụ
nữ ở ngoài xã hội, mà ngay ở trong gia đình, những đặc quyền nam giới, sự nô
dịch của nam giới đối với vợ và con gái đều bị chính quyền Xô Viết thủ tiêu.
V.I.Lênin đã hiện thực hóa các quan điểm giải phóng phụ nữ tại nước Nga
bằng các chính sách cụ thể và thiết thực như:
Thứ nhất: Luật pháp hóa quyền bình đẳng nam nữ, cùng với thủ tiêu

pháp luật tư sản là việc ban hành pháp luật mới.
Thứ hai: Không chỉ giải phóng phụ nữ bằng pháp luật, để phụ nữ thực
sự có địa vị trong xã hội, có quyền tham gia quyết định vận mệnh của đất
nước, mà nhà nước Xô Viết còn đưa phụ nữ trực tiếp tham gia quản lý nhà
nước, xây dựng và củng cố chính quyền.
Thứ ba: Không chỉ giải phóng phụ nữ ở ngoài xã hội mà phải giải phóng
họ ngay trong gia đình, chính nơi đây gánh nặng công việc đang đè lên vai họ,
làm họ không thể phát triển như nam giới.
Song V.I.Lênin còn cho rằng, dù đã có luật giải phóng phụ nữ nhưng phụ
nữ vẫn chưa thoát khỏi tình trạng nô lệ trong gia đình. Công việc nội trợ, việc
gia đình còn đè nặng lên lưng họ làm họ nghẹt thở, mụ mẫm, nhọc nhằn, ràng
buộc họ vào bếp núc, vào buồng con cái, lãng phí sức lực của họ vào công
việc cực kỳ kém năng suất, tủn mủn. V.I.Lênin nhận thức sâu sắc để xây dựng
chế độ mới không thể không quan tâm đến gia đình, đặc biệt là quan tâm đến

Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP

SVTH: Nguyễn Thị Thu Hiếu


Trang 12

phụ nữ bởi họ có vai trò to lớn trong gia đình, trong việc nuôi dạy con cái. Sau
Cách mạng Tháng Mười Nga, V.I.Lênin yêu cầu các cơ quan, các cơ sở sản
xuất phải lập ra các cơ quan kiểu mẫu như nhà ăn, nhà trẻ để trẻ em được
chăm sóc chu đáo và phụ nữ thoát khỏi gánh nặng gia đình
Nhà nước Xô Viết còn đưa ra chính sách: Tất cả phụ nữ lao động có con
nhỏ đều được dành thời gian cho con bú không cách nhau quá 3 giờ, họ được
dành một số tiền phụ cấp và chỉ làm việc 6 giờ mỗi ngày, cấm dùng phụ nữ lao
động ban đêm, phụ nữ lao động được nghỉ 8 tuần trước khi sinh và 8 tuần sau

khi sinh mà vẫn được hưởng lương như thường lệ, không phải trả tiền trị bệnh
và tiền thuốc.
Khẳng định vai trò của phụ nữ trong gia đình, theo V.I.Lênin, phụ nữ
phải tích cực học tập, tham gia hoạt động chính trị, phải nâng cao trình độ về
mọi mặt để nhanh chóng đuổi kịp nam giới, để làm tốt hơn vai trò người vợ,
người mẹ, người công dân. Phụ nữ có quyền li hôn khi gia đình không còn
hạnh phúc. Gia đình dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là nơi đảm bảo hạnh phúc
và sự tiến bộ cho mỗi cá nhân. Trong gia đình, các thành viên có quan hệ bình
đẳng dân chủ thực sự, phụ nữ cũng như nam giới được coi trọng như nhau, tất
cả những gì làm cho phụ nữ thiệt thòi đều bị gạt bỏ.
Nội dung lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về phụ nữ và giải phóng phụ
nữ hết sức phong phú. Quan điểm cơ bản của lý luận này là: chế độ tư hữu là
nguyên nhân căn bản khiến phụ nữ bị bóc lột, bị áp bức. Chủ nghĩa Mác-Lênin
khẳng định tiền đề để giải phóng phụ nữ là xã hội phải tạo điều kiện để phụ nữ
tham gia lao động sản xuất, xóa bỏ xã hội tư bản chủ nghĩa dựa trên cơ sở chế
độ tư hữu, xây dựng chủ nghĩa cộng sản dựa trên cơ sở chế độ công hữu, thì
phụ nữ mới được giải phóng triệt để. Không có sự tham gia đông đảo lao động
phụ nữ thì giai cấp vô sản không thể thực hiện được những biến đổi xã hội vĩ
đại. Những quan điểm lí luận tinh túy của chủ nghĩa Mác-Lênin đã khái quát
được vấn đề vì sao phụ nữ bị áp bức, làm thế nào để phụ nữ được giải phóng
và vai trò lịch sử của họ trong cách mạng vô sản.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về phụ nữ.
1.1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phụ nữ.
Tiếp thu sâu sắc chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh là một trong những
người Việt Nam đầu tiên hiểu và đặc biệt quan tâm đến vị thế, vai trò của phụ
nữ trong phong trào cách mạng thế giới nói chung và sự nghiệp cách mạng
Việt Nam nói riêng. Người chỉ rõ Việt Nam làm cách mạng cũng phải có nữ
giới mới thành công. Trong thư gửi phụ nữ nhân dịp kỉ niệm hai Bà Trưng và
ngày Quốc tế phụ nữ ngày 08 tháng 03 năm 1952. Người nói: “Non sông gấm


Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP

SVTH: Nguyễn Thị Thu Hiếu


Trang 13

vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp,
rực rỡ” [10; 504].
Dưới chế độ phong kiến, thực dân, phụ nữ là lớp người bị áp bức, bóc lột
nhiều nhất, chịu nhiều nỗi bất công, đau khổ nhất. Vì lẽ đó, trong bộ Hồ Chí
Minh toàn tập (gồm 12 tập), với tổng số 1.941 bài nói và viết, đã có gần 100
bài viết Bác nhắc nhiều đến phụ nữ. Hồ Chí Minh cho rằng sự nghiệp giải
phóng loài người, giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc,
xây dựng chủ nghĩa xã hội phải gắn liền với sự nghiệp giải phóng phụ nữ.
Người viết: “Nói phụ nữ là nói phân nửa xã hội. Nếu không giải phóng phụ nữ
thì không giải phóng một nửa loài người. Nếu không giải phóng phụ nữ là xây
dựng chủ nghĩa xã hội mới chỉ một nữa”. [13; 498].
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định vị trí, vai trò của người phụ nữ
trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân. Người luôn căn dặn các cấp
ủy Đảng, cơ quan, đơn vị phải quan tâm chăm lo công tác phụ nữ, đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ nữ, vì sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Theo Bác, con đường giải
phóng phụ nữ Việt Nam chỉ có thể là con đường đưa phụ nữ tham gia cách
mạng đánh đổ áp bức, bóc lột và chỉ ra những điều kiện chủ yếu để giải phóng
phụ nữ. Điều kiện đó không chỉ là sự phát triển văn hóa, giáo dục mà còn phải
thu hút, tạo điều kiện để họ tham gia vào các hoạt động kinh tế, xã hội của đất
nước. Phụ nữ phải được giải phóng khỏi thân phận là kẻ giúp việc trong gia
đình, trở thành lực lượng lao động của toàn xã hội. Bác khuyên chị em ý thức
được quyền lợi và trách nhiệm của mình để tự đấu tranh giải phóng mình khỏi

những ràng buộc phi lý kiểu “chồng chúa vợ tôi”. Bác phê phán tình trạng
chồng đánh vợ và khẳng định đây là tệ nạn về mặt đạo đức và vi phạm pháp
luật: “Đàn ông là người công dân, đàn bà cũng là người công dân, dù là vợ
chồng, người công dân này đánh người công dân khác tức là phạm pháp”.
Người còn khẳng định, muốn giải phóng phụ nữ một cách triệt để thì
Đảng, phải có quan điểm, chính sách, biện pháp cụ thể. Chính vì thế mà trong
cương lĩnh đầu tiên của Đảng ta năm 1930, Đảng và Bác Hồ đã đưa ra quan
điểm “Nam, nữ bình quyền”. Trong những năm tháng ác liệt của cuộc kháng
chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, Ngày 10 tháng 01 năm 1967 Ban Bí thư
Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 152-NQ/TW về một số vấn đề
lãnh đạo công tác phụ vận, chỉ rõ: “Tư tưởng phong kiến đối với phụ nữ còn
tồn tại sâu sắc trong một số cán bộ, đảng viên kể cả cán bộ lãnh đạo. Thể hiện
rõ nhất tư tưởng hẹp hòi, trọng nam khinh nữ, chưa tin vào khả năng lãnh đạo
và khả năng quản lý kinh tế của phụ nữ, chưa thấy hết khó khăn trở ngại của
phụ nữ”. Cho nên, việc phát huy vị trí, vai trò của phụ nữ và xây dựng đội ngũ

Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP

SVTH: Nguyễn Thị Thu Hiếu


Trang 14

cán bộ nữ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa là yêu cầu và đòi hỏi lớn trong công cuộc xây dựng đất nước.
Trong thời kì hoạt động bí mật ở nước ngoài, Bác Hồ đã trực tiếp tổ chức
các lớp bồi dưỡng cán bộ cách mạng nước ta, trong đó có những cán bộ nữ ưu
tú đầu tiên như: Chị Nguyễn Thị Minh Khai, Lý Phương Thuận và Lý Phương
Đức, Hồ Chủ Tịch cho rằng: Không ai thấu hiểu phụ nữ bằng phụ nữ, muốn
vận động, bảo vệ, hỗ trợ phụ nữ phải thành lập một tổ chức của phụ nữ. Sau

cách mạng tháng Tám năm 1945, ngày 20 tháng 10 năm 1946 Bác Hồ ra chỉ
thị thành lập Hội phụ nữ Việt Nam để tập hợp phụ nữ thành một khối thống
nhất. tin tưởng khả năng to lớn của người phụ nữ và hiểu rất rõ năng lực làm
việc có hiệu quả của họ trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bác luôn
động viên và khuyến khích kịp thời để phụ nữ phát huy ưu điểm đồng thời
phải ra sức khắc phục khuyết điểm. Bác nhắc nhở phụ nữ phải vươn lên để
bình đẳng với nam giới về trình độ và năng lực quản lý kinh tế, quản lý xã hội.
Muốn làm tròn nhiệm vụ vẻ vang đó phụ nữ phải cố gắng học tập, chủ động
quyết tâm khắc phục khó khăn, tự lực tự cường, phải xóa tính tự ti mặc cảm,
Bác nói: “Về phần mình, chị em phụ nữ không nên ngồi chờ Chính phủ, chờ
Đảng ra Chỉ thị giải phóng cho mình mà tự mình phải tự cường, phải phấn
đấu” [12; 281]. Chính vì thế, cho đến trước lúc đi xa, Người vẫn luôn tâm
niệm, dành một phần trong bản Di chúc thiêng liêng để nói về một vấn đề
quan trọng là quyền bình đẳng của phụ nữ: “Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu
nước, phụ nữ ta đảm đang, đã góp phần xứng đáng trong chiến đấu và trong
sản xuất. Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất
nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả
công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ phải cố gắng vươn lên. Đó là cuộc cách
mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ” [7; 30].
Như vậy, cả về hai mặt pháp lý và đạo đức, quan điểm về phụ nữ và giải
phóng phụ nữ là một nội dung quan trọng của Người. Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn canh cánh một nỗi niềm, một nhiệm vụ: Giải phóng phụ nữ với giải
phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Người khẳng định:
trong chế độ xã hội chủ nghĩa, Đảng, Nhà nước và các tổ chức xã hội phải
thực sự quan tâm đến phụ nữ, hỗ trợ, tạo điều kiện để người phụ nữ phát huy
tối đa tài năng, tiềm lực của bản thân, đồng thời phụ nữ muốn tiến bộ, bình
đẳng, hạnh phúc thật sự thì phải có ý chí, có quyết tâm, tích cực học tập, rèn
luyện để có đủ đức, tài tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, góp phần
phụng sự Tổ quốc.


Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP

SVTH: Nguyễn Thị Thu Hiếu


Trang 15

1.1.2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phụ nữ.
Thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò phụ nữ
trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, hơn 40 năm qua,
Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng và phát triển một cách toàn diện tư tưởng
của Người về phụ nữ và giải phóng phụ nữ trong công cuộc đổi mới và sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; các tầng lớp phụ nữ đã có
nhiều cố gắng nỗ lực để khẳng định vị trí, vai trò và năng lực thực chất của
mình.
Xuyên suốt từ Cương lĩnh Chính trị năm 1930 đến Hiến pháp năm 1946,
Hiến pháp năm 1959, thực hiện Di chúc thiêng liêng của Người, vấn đề về phụ
nữ, giải phóng phụ nữ và thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ tiếp tục được
thể chế hoá trong nhiều văn bản Nghị quyết của Đảng, pháp luật của nhà nước.
Đặc biệt Đảng và Nhà nước ta đã ban hành một số văn bản quan trọng về bình
đẳng nam nữ và công tác phụ nữ. Năm 1981, Việt Nam đã phê chuẩn Công
ước của Liên Hợp Quốc về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ
(CEDAW).
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam
(tháng 12 năm 1986) với mục tiêu khai thác mọi tiềm năng của đất nước, giải
phóng năng lực sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, ổn định tình hình kinh
tế-xã hội, phát huy yếu tố con người. Con người được coi vừa là mục tiêu, vừa
là động lực phát triển của xã hội. Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng
sản Việt Nam lần thứ VI (tháng 12 năm 1986), đánh giá cao vai trò phụ nữ
Việt Nam trong sự nghiệp chung của đất nước và cần thấm nhuần sâu sắc 3

quan điểm cơ bản, đó là:
- Phụ nữ Việt Nam có truyền thống lịch sử vẻ vang, có những tiềm
năng to lớn, là động lực quan trọng của công cuộc đổi mới và phát triển kinh
tế-xã hội. Phụ nữ vừa là người lao động, vừa là người mẹ, người thầy đầu tiên
của con người. Vì vậy, phải xem giải phóng phụ nữ là một mục tiêu và nội
dung quan trọng của công cuộc đổi mới và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.
- Mục tiêu giải phóng phụ nữ là thiết thực cải thiện đời sống vật chất,
tinh thần của chị em, nâng cao vị trí xã hội của phụ nữ, thực hiện tốt nam nữ
bình đẳng, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ và hạnh phúc. Xây dựng người
phụ nữ Việt Nam có sức khỏe, có kiến thức, năng động sáng tạo, biết làm giàu
chính đáng, quan tâm đến lợi ích xã hội và cộng đồng, có lòng nhân hậu.
- Sự nghiệp giải phóng phụ nữ và công tác phụ nữ và trách nhiệm của
Đảng, các đoàn thể nhân dân, các đoàn thể xã hội và từng gia đình. Đường lối
giải phóng phụ nữ phải được thể chế hóa và cụ thể hóa trong hệ thống pháp

Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP

SVTH: Nguyễn Thị Thu Hiếu


Trang 16

luật, chế độ, chính sách của Đảng và nhà nước. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam là tổ chức đại diện cho lợi ích phụ nữ, là trung tâm tập hợp đoàn kết phụ
nữ Việt Nam, hướng dẫn và vận động chị em phấn đấu vì sự nghiệp giải
phóng phụ nữ, vì sự phát triển và hạnh phúc của phụ nữ, vì sự nghiệp đổi mới
thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Ngày 12 tháng 07 năm 1993, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số
04/NQ-TW về “Đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình

hình mới”. Tiếp tục phát triển các quan điểm của Đảng và Bác Hồ, Nghị quyết
xác định phụ nữ là “người thầy đầu tiên” của mỗi đời người; phụ nữ có
“những đặc điểm riêng”; để phát huy vai trò của phụ nữ, Đảng ta đã xác định
những nhiệm vụ cơ bản: “phát huy trí tuệ phụ nữ”, “tránh khắt khe, hẹp hòi”,
cần “thông cảm, giúp đỡ phụ nữ”, “nâng cao tỷ lệ cán bộ nữ là thật sự thực
hiện quyền bình đẳng và nâng cao địa vị xã hội của phụ nữ”. Về phần mình:
“phụ nữ cần kết hợp hài hoà công việc gia đình với công tác xã hội”.
Quan điểm trên tiếp tục được thể hiện trong Chỉ thị 37/CT-TW của Ban
Bí thư ngày 16 tháng 05 năm 1994 về công tác cán bộ nữ; được cụ thể hoá
trong “Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010”
do Chính phủ công bố ngày 04 tháng 10 năm 1997.
Ngày 29 tháng 11 năm 2006 Quốc Hội khoá XI, kỳ họp thứ 10 đã thông
qua Luật Bình đẳng giới; ngày 21 tháng 11 năm 2007 Quốc Hội khóa XII, kỳ
họp thứ 2 thông qua Luật Phòng chống bạo lực gia đình. Đây là những văn
bản pháp lý có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống chính trị, xã hội, góp
phần hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật về bình đẳng giới, là công cụ pháp lý
thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình phấn đấu thực hiện mục tiêu bình đẳng giới ở
nước ta.
Trong Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng
sản Việt Nam (tháng 4 năm 2006) đã đề ra mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ
cụ thể: “Đối với phụ nữ, nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh
thần, thực hiện bình đẳng giới. Tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò
người công dân, người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên của con người.
Bồi dưỡng, đào tạo để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động xã
hội, các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp”.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X, tiếp tục cụ thể hóa quan
điểm của Đảng đối với việc thực hiện quyền của phụ nữ trong thời kỳ mới,
ngày 27 tháng 04 năm 2007, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 11/NQ-TW:
“Về công tác phụ nữ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước”.


Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP

SVTH: Nguyễn Thị Thu Hiếu


Trang 17

Những quan điểm trên của Đảng Cộng sản Việt Nam đã ngày càng tạo
điều kiện thuận lợi cho phụ nữ có quyền và cơ hội phát triển, phát huy vai trò,
khả năng của mình. Đây chính là sự đánh giá đúng vị trí, vai trò người phụ nữ
trong công cuộc xây dựng đất nước, đồng thời là sự ưu ái của Đảng và nhà
nước ta đối với phụ nữ Việt Nam, phụ nữ Việt Nam sẽ sánh bước ngang hàng
với nam giới, sát cánh cùng nam giới gánh vác công việc của đất nước.
1.2. Vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong việc thực hiện
nhiệm vụ: “Hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ,
hạnh phúc”.
1.2.1. Khái quát quá trình hình thành Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước,
trong đó, phụ nữ Việt Nam giữ một vai trò trọng yếu.
Phụ nữ Việt Nam vốn sinh ra trong một đất nước với nền văn minh nông
nghiệp, dựa trên nền tảng nghề trồng lúa nước và thủ công nghiệp nên phụ nữ
Việt Nam đã trở thành lực lượng lao động chính. Bên cạnh đó, nước ta luôn
luôn bị kẻ thù xâm lược, đời sống dân ta nghèo khổ. Từ thực tế đó mà phụ nữ
Việt Nam có bản sắc và phong cách riêng. Họ là những chiến sĩ chống giặc
ngoại xâm kiên cường dũng cảm; là người lao động sáng tạo thông minh, là
người giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giữ gìn, phát triển bản sắc và
tinh hoa văn hóa dân tộc; là người mẹ dịu hiền, đảm đang, trung hậu đã sản
sinh ra những thế hệ anh hùng của dân tộc anh hùng.
Dưới chế độ phong kiến và đế quốc, phụ nữ Việt Nam là tầng lớp người

bị áp bức, bóc lột, chịu nhiều bất công nhất nên luôn có yêu cầu được giải
phóng và sẵn sàng đi theo cách mạng. Ngay từ những ngày đầu chống thực
dân Pháp, phụ nữ Việt Nam đã tham gia đông đảo vào phong trào Cần Vương,
Đông Kinh Nghĩa Thục, Đông Du như: Chị Hoàng Thị Ái, Thái Thị Bôi, Tôn
Thị Quế, Nguyễn Thị Minh Khai.
Từ năm 1927 những tổ chức quần chúng bắt đầu hình thành và thu hút
đông đảo tầng lớp phụ nữ như: Công Hội Đỏ, Nông Hội Đỏ, các nhóm tương
tế, tổ học nghề và các tổ chức có tính chất riêng của giới nữ như:
- Năm 1927 nhóm các chị Nguyễn Thị Lưu, Nguyễn Thị Minh Lãng,
Nguyễn Thị Thủy là ba chị em ở làng Phật Tích (Bắc Ninh) tham gia Thanh
niên Cách mạng đồng chí Hội, các chị tuyên truyền, xây dựng tổ học nghề và
học chữ.
- Nhóm chị Thái Thị Bôi có các chị Lê Trung Lương, Nguyễn Thị
Hồng, Huỳnh Thuyên tham gia sinh hoạt ở các trường nữ học Đồng Khánh.
- Năm 1928, nhóm chị Nguyễn Thị Minh Khai cùng Nguyễn Thị
Phúc, Nguyễn Thị An tham gia sinh hoạt Hội Đỏ của Tân Việt. Nhóm này liên

Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP

SVTH: Nguyễn Thị Thu Hiếu


Trang 18

hệ với chị Xân, chị Thiu, chị Liên thành lập tờ báo Phụ nữ Giải phóng ở thành
phố Vinh, tỉnh Nghệ An.
- Năm 1930, trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, ở Nghệ An, Hà
Tĩnh có 12.946 chị tham gia phụ nữ giải phóng, cùng nhân dân đấu tranh thành
lập chính quyền Xô Viết ở trên 300 xã. Ngày 1 tháng 6 năm 1930, đồng chí
Nguyễn Thị Thập đã tham gia lãnh đạo cuộc đấu tranh của hơn 4.000 nông

dân ở 2 huyện Châu Thành và Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang trong đó có hàng ngàn
phụ nữ tham gia.
- Ngày 3 tháng 2 năm 1930, Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập.
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã ghi: “Nam nữ bình quyền”. Đảng sớm nhận
rõ, phụ nữ là lực lượng quan trọng của cách mạng và đề ra nhiệm vụ: Đảng
phải giải phóng phụ nữ, gắn liền giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp với
giải phóng phụ nữ. Đảng đặt ra, phụ nữ phải tham gia các đoàn thể cách mạng
và thành lập tổ chức riêng cho phụ nữ để lôi cuốn các tầng lớp phụ nữ tham
gia cách mạng.
Chính vì vậy, ngày 20 tháng 10 năm 1930, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam chính thức thành lập. Sự kiện lịch sử này thể hiện sâu sắc quan điểm của
Đảng đối với vai trò của phụ nữ trong cách mạng, đối với tổ chức phụ nữ, đối
với sự nghiệp giải phóng phụ nữ.
Là tổ chức hoạt động vì sự bình đẳng, phát triển của phụ nữ, chăm lo bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp và chính đáng của phụ nữ. Vì thế, Hội có những
chức năng và nhiệm vụ sau:
Chức năng của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam:
- Đại diện, bảo vệ quyền bình đẳng, dân chủ, lợi ích hợp pháp và
chính đáng của phụ nữ, tham gia xây dựng Đảng, tham gia quản lí Nhà nước.
- Đoàn kết, tập hợp, tuyên truyền, giáo dục, vận động, tổ chức hướng
dẫn phụ nữ thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Nhiệm vụ của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam:
- Tuyên truyền, vận động, giáo dục phụ nữ giữ gìn, phát huy phẩm
chất đạo đức, truyền thống tốt đẹp của dân tộc và phụ nữ Việt Nam; tổ chức,
tạo điều kiện để phụ nữ nâng cao nhận thức, trình độ, năng lực về mọi mặt,
tích cực thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, an ninh-quốc phòng,
xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.
- Tham gia xây dựng, giám sát việc thực hiện luật pháp chính sách về
bình đẳng giới, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của phụ nữ nhằm

tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện bình đẳng và phát triển.

Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP

SVTH: Nguyễn Thị Thu Hiếu


Trang 19

- Tập hợp các tầng lớp phụ nữ, phát triển Hội viên, xây dựng tổ chức
Hội vững mạnh; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Đa dạng các nguồn thu hợp pháp để xây dựng và phát triển quỹ Hội,
hỗ trợ hoạt động của Hội.
- Đoàn kết, hợp tác vời phụ nữ các nước, các tổ chức, cá nhân tiến bộ
trong khu vực và thế giới vì bình đẳng, phát triển và hòa bình.
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Hội đoàn kết các tầng lớp phụ nữ, phát huy truyền thống
yêu nước, anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang, tài năng và trí tuệ góp
phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
1.2.2. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam với phong trào phụ nữ trong sự
nghiệp giải phóng dân tộc từ năm 1945 đến 1975.
Thắng lợi Cách mạng tháng Tám và sự thành lập Chính quyền Dân chủ
nhân dân mở ra một triển vọng hết sức tươi sáng cho phong trào phụ nữ. Chỉ
trong một thời gian ngắn phụ nữ đã có những tiến bộ và những cống hiến lớn
lao vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Ngày 3 tháng 9 năm 1945, trong phiên họp đầu tiên do Chủ tịch Hồ Chí
Minh chủ trì, Nhà nước đã bàn bạc và quyết định ngay những vấn đề Quốc kế
Dân sinh, những vấn đề về quyền làm chủ đất nước của nhân dân: “Diệt giặc

đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm”. Các tầng lớp phụ nữ hưởng ứng lời
kêu gọi của Chính phủ quyên góp vào “Quỹ độc lập”, “Tuần lễ vàng” với tấm
lòng tha thiết và tích cực nhất. Trong các Cuộc vận động: “Ngày đồng tâm”,
“Hũ gạo cứu quốc” hay trong phong trào: “Bảo trợ thiếu nhi”, “Cứu đói đồng
bào bị lũ lụt”, “Truyền bá vệ sinh” đều có đông đảo phụ nữ hưởng ứng tích
cực.
Ngày 20 tháng 10 năm 1946, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thành lập,
bà Lê Thị Xuyến là Hội trưởng Ban Chấp hành lâm thời của Hội Liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam, trong đó Hội Phụ nữ Cứu quốc là nòng cốt của Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam. Năm 1947, Ban Chấp hành Phụ nữ Nam bộ cũng được
thành lập, Ban liên lạc Phụ nữ Bắc bộ có tờ báo “Tiếng gọi phụ nữ”, “Nhà
sách phụ nữ”. Tháng 10 năm 1947, tại Việt Bắc Hội nghị cán bộ toàn quốc
họp đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương lâm thời đầu tiên của Hội Phụ nữ
Cứu quốc, đồng chí Hoàng Ngân được bầu làm Bí thư.
Ngày 19 tháng 12 năm 1946 đến ngày 1 tháng 8 năm 1954 Việt Nam
bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, với nền sản xuất
rất thấp kém. Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, Đoàn Phụ nữ Cứu quốc và Hội

Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP

SVTH: Nguyễn Thị Thu Hiếu


Trang 20

Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã động viên chị em nỗ lực vượt qua mọi khó
khăn đảm nhiệm công tác hậu phương, thực hiện nhiệm vụ trọng tâm là sản
xuất nông nghiệp để đảm bảo cho bộ đội: “Ăn no đánh thắng”.
Các công binh xưởng, chị em đã tình nguyện làm thêm mỗi ngày một giờ
để cung cấp được nhiều và nhanh vũ khí cho bộ đội. Ở Liên khu 5, có phong

trào: Mỗi phụ nữ phải học 2 nghề thay cho nam giới ra trận. Nữ nông dân học
cày bừa và các khâu canh tác; công nhân học giỏi nghề của mình và học thêm
một nghề nữa, nữ trí thức và học sinh ngoài công tác chuyên môn và học tập
còn tự túc lương thực.
Phụ nữ Tiểu thương, Công thương đã góp phần vào phong trào phát triển
sản xuất. Chị em hùn vốn kinh doanh hàng hóa, và khai thác các nguồn hàng,
làm tốt khâu lưu thông hàng hóa giữa vùng tự do và vùng bi tạm chiếm góp
phần đáng kể vào việc tiếp tế cho kháng chiến. Ngoài ra, chị em Tiểu thương
chợ Đồng Xuân (Hà Nội), chợ Bến Thành (Sài Gòn) và nhiều chợ khác đã tổ
chức hàng trăm cuộc bãi thị để phản đối tăng thuế. Ở Hải Phòng chỉ trong
vòng 6 tháng đầu năm 1954 đã nổ ra 50 cuộc đấu tranh chống thuế.
Trong suốt 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp (từ năm 1946 đến
1954), các cuộc đấu tranh ở các đô thị và các vùng bị tạm chiếm đòi quyền lợi
dân sinh dân chủ, đấu tranh chống địch khủng bố, chống Chính phủ bù nhìn,
chống độc lập giả hiệu, đã diễn ra liên tục sôi nổi dưới nhiều hình thức. Phụ
nữ là lực lượng tích cực và ngày càng giữ vị trí quan trọng:
- Từ năm 1950 đến 1952, có 1.850 chị em tham gia phong trào đấu
tranh của phụ nữ chống bắt lính ở các vùng địch tạm chiếm, các chị đã giữ lại
được 18.382 thanh niên khỏi phải đi làm bia đỡ đạn cho giặc và đấu tranh đòi
được 2.800 thanh niên khỏi bị bắt lính
- Từ năm 1950 đến 1954, cả nước đã có ngót 1.000.000 triệu phụ nữ
tham gia dân quân du kích, riêng nữ du kích Nam Bộ có tới 14 vạn. Tiêu biểu
cho lực lượng du kích trong thời kỳ kháng chiến chống thưc dân Pháp là
những nữ anh hùng, liệt sĩ như: Chị Mạc Thị Bưởi, Võ Thi Sáu, Bùi Thị Cúc.
Nổi bật là nữ anh hùng quân đội Nguyễn Thị Chiến và “Nữ kiệt Miền Đông”
Hồ Thị Bi.
- Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Đoàn Phụ nữ Cứu quốc và Hội mẹ
chiến sĩ ở khắp nơi, chăm sóc bộ đội thương binh, ủng hộ bộ đội, nuôi quân
diệt giặc, nhằm giữ vững và phát triển cơ sở kháng chiến trong vùng địch tạm
chiếm. Phụ nữ Việt Nam là những người rất kiên trì xây dựng lực lượng trung

kiên lãnh đạo nhân dân đấu tranh với địch, xứng đáng với lời ca ngợi của Hồ
Chủ Tịch: “Các mẹ và chị em giúp thương binh đã hòa lẫn lòng yêu nước, yêu
con, yêu chiến sĩ thành một mối yêu thương không bờ bến.”

Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP

SVTH: Nguyễn Thị Thu Hiếu


×