Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Kỹ năng giải quyết tranh chấp hợp đồng của luật sư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.9 KB, 12 trang )

Kỹ năng giải quyết tranh chấp hợp đồng của luật sư
Tranh chấp hợp đồng: Là sự mâu thuẫn, bất đồng ý kiến giữa các bên tham
gia quan hệ HĐ liên quan đến việc thực hiện (hoặc không thực hiện) các
quyền và nghĩa vụ theo HĐ.
A. /KHÁI QUÁT VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VÀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG:
I. Tranh chấp HĐ: Là sự mâu thuẫn, bất đồng ý kiến giữa các bên tham gia
quan hệ HĐ liên quan đến việc thực hiện (hoặc không thực hiện) các quyền
và nghĩa vụ theo HĐ.
1. Tranh chấp HĐ là ý kiến không thống nhất của các bên về việc đánh
giá hành vi vi phạm hoặc cách thức giải quyết hậu quả phát sinh từ vi
phạm đó (trong khi vi phạm HĐ là hành vi đơn phương của một bên đã
xử sự trái với cam kết trong HĐ).
2. Các đặc điểm của tranh chấp HĐ:
- Phát sinh trực tiếp từ quan hệ HĐ, nên luôn luôn thuộc quyền tự định
đoạt của các bên tranh chấp (tức các bên trong HĐ).
- Mang yếu tố tài sản (vật chất hay tinh thần) và gắn liền lợi ích các bên
trong tranh chấp.
- Nguyên tắc giải quyết các tranh chấp HĐ là bình đẳng, thỏa thuận.
II. Giải quyết tranh chấp HĐ:


1. Tranh chấp HĐ đòi hỏi phải được giải quyết thỏa đáng bằng một
phương thức chọn lựa phù hợp để nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên tranh chấp, vừa đảm bảo trật tự pháp luật và kỷ cương
xã hội, giáo dục được ý thức tôn trọng pháp luật của công dân, góp
phần chủ động ngăn ngừa các vi phạm HĐ.
2. Nguyên tắc giải quyết các tranh chấp HĐ phải đảm bảo nhanh chóng,
chính xác, đúng pháp luật.
3. Quyết định giải quyết các tranh chấp HĐ phải có tính khả thi cao, thi
hành được và quá trình giải quyết phải đảm bảo tính dân chủ và quyền


tự định đoạt của các bên với chi phí giải quyết thấp.
4. Tranh chấp HĐ có thể được giải quyết bằng các phương thức khác
nhau: hòa giải, trọng tài hay Tòa án.
5. Các bên tranh chấp có thể chọn lựa một phương thức giải quyết tranh
chấp HĐ phù hợp hoặc sử dụng phối hợp nhiều phương pháp.
6. Các yếu tố tác động chi phối việc các bên chọn lựa phương thức giải
quyết các tranh chấp HĐ :
- Các lợi thế mà phương thức đó có thể mang lại cho các bên.
- Mức độ phù hợp của phương thức đó đối với nội dung và tính chất
của tranh chấp HĐ với cả thiện chí của các bên.
- Thái độ hay qui định của nhà nước đối với quyền chọn lựa phương
thức giải quyết của các bên.


B./ CÁC PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HĐ:
I. Phương thức thương lượng, hòa giải:
1. Hòa giải là hình thức giải quyết tranh chấp xuất hiện sớm nhất trong
lịch sử xã hội loài người trên nhiều lãnh vực, chứ không riêng đặc
trưng gì với tranh chấp HĐ.
2. Hòa giải là các bên tranh chấp cùng nhau bàn bạc, thỏa thuận để đi đến
thống nhất một phương án giải quyết bất đồng giữa họ và tự nguyện
thực hiện phương án đã thỏa thuận qua hòa giải.
3. Ở VN, việc hòa giải tranh chấp HĐ được coi trọng. Các bên phải tự
thương lượng, hòa giải với nhau khi phát sinh tranh chấp. Khi thương
lượng, hòa giải bất thành mới đưa ra Tòa án hoặc trọng tài giải quyết.
Ngay tại Tòa án, các bên vẫn có thể tiếp tục hòa giải với nhau. Ở VN,
bình quân mỗi năm, số lượng tranh chấp kinh tế được giải quyết bằng
phương thức hòa giải chiếm đến trên dưới 50% tổng số vụ việc mà Tòa
án đã phải giải quyết.
4. Các ưu điểm của giải quyết tranh chấp HĐKT trong thực tế bằng

phương thức hòa giải:
- Là phương thức giải quyết tranh chấp đơn giản, nhanh chóng, ít tốn
kém.
- Các bên hòa giải thành thì không có kẻ thắng người thua nên không
gây ra tình trạng đối đầu giữa các bên, vì vậy duy trì được quan hệ hợp
tác vẫn có giữa các bên.
- Các bên dễ dàng kiểm soát được việc cung cấp chứng từ và sử dụng


chứng từ đó giữ được các bí quyết kinh doanh và uy tín của các bên.
- Hòa giải xuất phát từ sự tự nguyện có điều kiện của các bên, nên khi
đạt được phương án hòa giải, các bên thường nghiêm túc thực hiện.
5. Những mặt hạn chế của phương thức hòa giải trong tranh chấp HĐ:
- Nếu hoà giải bất thành, thì lợi thế về chi phí thấp trở thành gánh nặng
bổ sung cho các bên tranh chấp.
- Người thiếu thiện chí sẽ lợi dụng thủ tục hòa giải để trì hoản việc thực
hiện nghĩa vụ của mình và có thể đưa đến hậu quả là bên có quyền lợi
bị vi phạm mất quyền khởi kiện tại Tòa án hoặc trọng tài vì hết thời hạn
khởi kiện.
6. Các hình thức hòa giải:
- Tự hòa giải: là do các bên tranh chấp tự bàn bạc để đi đến thống nhất
phương án giải quyết tranh chấp mà không cần tới sự tác động hay giúp
đỡ của đệ tam nhân.
- Hòa giải qua trung gian: là việc các bên tranh chấp tiến hành hòa giải
với nhau dưới sự hổ trợ, giúp đỡ của người thứ ba (người trung gian
hòa giải). Trung gian hòa giải có thể là cá nhân, tổ chức hay Tòa án do
các bên tranh chấp chọn lựa hoặc do pháp luật qui định.
- Hòa giải ngoài thủ tục tố tụng: là việc hòa giải được các bên tiến hành
trước khi dưa đơn khởi kiện ra Tòa án hay trọng tài.
- Hòa giải trong thủ tục tố tụng: là việc hòa giải được tiến hành tại Tòa

án, trong tài khi các cơ quan này tiến hành giải quyết tranh chấp theo
đơn kiện của một bên (hòa giải dưới sự trợ giúp của Tòa án hay trọng


tài). Tòa án, trong tài sẽ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các
bên và quyết định này có giá trị cưỡng chế thi hành đối với các bên.
II. Phương thức giải quyết bởi Trọng tài: Tức là các bên thỏa thuận đưa
ra những tranh chấp đã hoặc sẽ phát sinh giữa họ ra giải quyết tại Trọng
tài và Trọng tài sau khi xem xét sự việc tranh chấp, sẽ đưa ra phán quyết
có giá trị cưỡng chế thi hành đối với các bên.

- Phương thức giải quyết trọng tài cũng bắt nguồn từ sự thỏa thuận của các
bên trên cơ sở tự nguyện.
- Các bên được quyền thỏa thuận lựa chọn một Trọng tài phù hợp, chỉ định
trọng tài viên để thành lập Hợp đồng (hoặc Ủy ban) Trọng tài giải quyết tranh
chấp.
- Khác với thương lượng hòa giải, trọng tài là một cơ quan tài phán (xét xử).
Tính tài phán của trọng tài thể hiện ở quyết định trọng tài có giá trị cưỡng chế
thi hành.
- Thực tiễn giải quyết các tranh chấp ở các nước trên thế giới: có 2 hình thức
trọng tài: Trọng tài vụ việc (Ad – hoc) và trọng tài thường trực.
- Trọng tài vụ việc (Ad – hoc): là loại trọng tài được các bên tranh chấp thỏa
thuận lập ra để giải quyết một tranh chấp cụ thể và sẽ giải thể khi giải quyết
xong tranh chấp đó.
- Trọng tài thường trực: liên tục tồn tại để giải quyết tranh chấp. Trọng tài
thường trực có bộ phận giúp việc, có danh sách trọng tài viên và có qui tắc tố
tụng riêng.
- Ở VN, trọng tài được tổ chức dưới hình thức các trung tâm trọng tài thường



trực. Trung tâm trọng tài Quốc tế VIệt Nam (VIAC) và các trung tâm trọng
tài kinh tế (thành lập theo Nghị Định 116/CP ngày 05/09/1994).
- Ở VN hiện có 5 trung tâm trọng tài: Trung tâm trọng tài kinh tế Thăng
Long, TT/TTKT Hà Nội, TT/TTKT Bắc Giang, TT/TTKT Sài Gòn và
TT/TTKT Cần Thơ.
- Trọng tài kinh tế có thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh từ các quan
hệ kinh tế trong đó có các tranh chấp Hợp đồng trong hoạt động kinh doanh.
- Trọng tài kinh tế có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp Hợp đồng trong
kinh doanh ký kết giữa pháp nhân với pháp nhân, pháp nhân với các chủ thể
kinh doanh không có tư cách pháp nhân với nhau (theo Nghị Định 116/CP
ngày 05/09/1994 của Chính phủ và Thông tư 02/PLDS-KT ngày 03/01/1995
của Bộ Tư Pháp).
- Trung tâm trọng tài Quốc tế VIệt Nam có thẩm quyền giải quyết các tranh
chấp phát sinh từ quan hệ kinh tế, trong đó có tranh chấp HĐ (tranh chấp phát
sinh từ HĐ thuần túy dân sự không thuộc thẩm quyền giải quyết của Trọng
tài).
- Thẩm quyền của Trọng tài được xác định không phụ thuộc vào quốc tịch,
địa chỉ trụ sở giao dịch chính của các bên tranh chấp hay nơi các bên tranh
chấp có tài sản hay nơi ký kết hoặc thực hiện HĐ.
- Điều kiện để trọng tài có thẩm quyền giải quyết tranh chấp là các bên phải
có thỏa thuận trọng tài.
- Thỏa thuận trọng tài là sự nhất trí của các bên đưa ra những tranh chấp đã
hoặc sẽ phát sinh giữa họ ra giải quyết tại trọng tài.
- Thỏa thuận trọng tài phải thể hiện dưới hình thức văn bản và phải chỉ đích
danh một trung tâm trọng tài cụ thể (theo khoản 2 điều 3 Nghị Định 116/CP


ngày 05/09/1994 của Chính phủ).
- Thỏa thuận trọng tài có thể là một điều khoản của HĐ (điều khoản trọng tài)
hay là một thỏa thuận riêng biệt (Hiệp nghị trọng tài).

- Mọi sự thay đổi, đình chỉ, hủy bỏ hay vô hiệu của HĐ đều khôn glàm ảnh
hưởng đến hiệu lực của thoả thuận trọng tài (trừ trường hợp lý do làm HĐ vô
hiệu cũng là lý do làm thoả thuận trọng tài vô hiệu).
- Thỏa thuận trọng tài không có giá trị ràng buộc các bên khi nó không có
hiệu lực hoặc không thể thi hành được.
- Khi đã có thỏa thuận trọng tài thì các bên chỉ được kiện tại trọng tài theo sự
thỏa thuận mà thôi. Tòa án không tham gia giải quyết nếu các bên đã thỏa
thuận trọng tài, trừ trường hợp thỏa thuận trọng tài đó là vô hiệu hoặc thỏa
thuận trọng tài là không thể thực hiện được.
- Trọng tài hoạt động theo nguyên tắc xét xử một lần. phán quyết trọng tài có
tính chung thẩm: các bên không thể kháng cáo trước Tòa án hoặc các tổ chức
nào khác.
- Các bên tranh chấp phải thi hành phán quyết trọng tài trong thời hạn ấn định
của phán quyết.


Các ưu điểm của phương thức giải quyết tranh chấp HĐ thông qua
trọng tài:
a) Thủ tục trọng tài đơn giản, nhanh chóng.
b) Các bên tranh chấp có khả năng tác động đến quá trình trọng tài.
c) Quyền chỉ định trọng tài viên giúp các bên lựa chọn được trọng tài
viên giỏi, nhiều kinh nghiệm, am hiểu sâu sắc vấn đề đang tranh chấp.
Qua đó, có điều kiện giải quyết tranh chấp HĐ nhanh chóng, chính xác.


d) Nguyên tắc trọng tài không công khai giúp các bên hạn chế sự tiết lộ
các bí quyết kinh doanh, giữ được uy tính của các bên trên thương
trường.
e) Trọng tài không đại diện cho quyền lực nhà nước nên rất phù hợp để
giải quyết các tranh chấp có nhân tố nước ngoài.



Các mặt hạn chế của phương thức trọng tài:
a) Tính cưỡng chế thi hành các quyết định trọng tài không cao (vì
Trọng tài không đại diện cho quyền lực tư pháp của nhà nước).
b) Việc thực hiện các quyết định trọng tài hoàn tòan phụ thuộc vào ý
thức tự nguyện của các bên.

C./ CÁC PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG
THEO THỦ TỤC TỐ TỤNG TƯ PHÁP:
I. Khái niệm: Khi tranh chấp HĐ phát sinh, nếu các bên không tự thương
lượng, hòa giải với nhau thì có thể được giải quyết tại Tòa án. Tùy theo tính
chất của HĐ là kinh tế hay dân sự mà các tranh chấp phát sinh có thể được
Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng kinh tế hay thủ tục tố tụng dân sự.
- Cơ sở pháp lý cho hoạt động xét xử tranh chấp HĐ của Tòa án là Bộ Luật
Tố Tụng Dân Sự (có hiệu lực ngày 01/01/2005).


Các lợi thế của việc giải quyết tranh chấp HĐ qua Tòa án:
a) Các quyết định của Tòa án (đại diện cho quyền lực tư pháp của nhà
nước) có tính cưỡng chế thi hành đối với các bên.
b) Với nguyên tắc 2 cấp xét xử, những sai sót trong quá trình giải quyết
tranh chấp có khả năng được phát hiện khắc phục.


c) Với điều kiện thực tế tại VN, thì án phí Tòa án lại thấp hơn lệ phí
trọng tài.


Các mặt hạn chế của việc giải quyết tranh chấp HĐ qua Tòa án:

a) Thời gian giải quyết tranh chấp thường kéo dài (vì thủ tục tố tụng
Tòa án quá chặt chẽ).
b) Khả năng tác động của các bên trong quá trình tố tụng rất hạn chế.

II. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp HĐ của Tòa án:
1. Thẩm quyền theo vụ việc:
- Là việc xác định những tranh chấp nào thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án kinh tế, tranh chấp nào thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án dân sự.
- Có thể dùng phương pháp loại trừ: những tranh chấp HĐ mang yếu tố
tài sản nào không thuộc thẩm quyền của Tòa án kinh tế thì sẽ thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa dân sự.
Các tranh chấp HĐ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án Kinh tế
(theo Bộ Luật Tố Tụng Dân Sự ngày 01/01/2005):
a. Tranh chấp HĐ kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân,giữa pháp
nhân với cá nhân có ĐKKD.
b. Các tranh chấp HĐ có mục đích SXKD tại VN, nếu 1 hoặc các bên
là cá nhân, pháp nhân nước ngoài (trừ trường hợp Điều ước quốc tế của
VN ký kết hoặc tham gia có qui định khác).
Lưu ý: Các HĐ trong hoạt động thương mại thỏa mãn các điều kiện về
chủ thể (pháp nhân với pháp nhân,giữa pháp nhân với cá nhân có


ĐKKD), về mục đích (phục vụ hoạt động kinh doanh) và về hình thức
(ký kết bằng văn bản) sẽ mang tính chất của HĐ kinh tế và tranh chấp
phát sinh được Tòa án giải quyết thống nhất theo thủ tục tố tụng của Bộ
Luật Tố Tụng Dân Sự ngày 01/01/2005.
Các tranh chấp HĐ (tuy phát sinh từ hoạt động SXKD ) không được
giải quyết theo thủ tục tố tụng kinh tế:
a) Tranh chấp phát sinh từ HĐ được ký kết giữa các chủ thể kinh tế

không có tư cách pháp nhân.
b) Tranh chấp phát sinh từ HĐ được ký kết giữa pháp nhân với những
người làm công tác khoa học kỹ thuật, nghệ nhân, hộ kinh tế gia đình,
hộ nông dân, ngư dân cá thể.
c) Tranh chấp phát sinh từ HĐ không được ký kết dưới hình thức văn
bản.
2. Thẩm quyền theo cấp xét xử:
a) Thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm của Tòa án nhân dân
quận, huyện, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung Tòa án cấp huyện):
- Bộ Luật TTDS 2005 mở rộng thẩm quyền xét xử sơ thẩm cho các
TAND Quận, Huyện khi qui định: “giao cho TAND cấp huyện giải
quyết thủ tục sơ thẩm các tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hôn nhân gia
đình, kinh doanh thương mại, lao động có yếu tố nước ngoài (trừ những
vụ việc có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư
pháp cho cơ quan lãnh sự của VN ở nước ngoài, cho Tòa án nước ngoài
thuộc thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm của TAND cấp
tỉnh)”.


b) Thẩm quyền của Tòa án nhân dân tỉnh, TP thuộc TW (gọi chung là
Tòa án cấp tỉnh):
Giải quyết theo thủ tục sơ thẩm: Những tranh chấp HĐ không thuộc
thẩm quyền của Tòa án cấp huyện. Trường hợp cần thiết, Tòa án cấp
tỉnh cũng có thể lấy lên để giải quyết các vụ án kinh tế thuộc thẩm
quyền của Tòa án cấp huyện.
Giải quyết theo thủ tục phúc thẩm: Những vụ án mà bản án, quyết
định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp huyện bị
kháng cáo, kháng nghị.
Giám đốc thẩm hoặc tái thẩm: Những vụ án mà bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp huyện bị kháng nghị.

3. Thẩm quyền theo lãnh thổ:
a) Tòa án có thẩm quyền giải quyết sơ thẩm các tranh chấp HĐ là Tòa
án nơi bị đơn có trụ sở hoặc cư trú.
b) Trường hợp vụ án chỉ liên quan đến bất động sản: Tòa án nơi có bất
động sản giải quyết sơ thẩm.
c) Nếu bị đơn là pháp nhân, thì xác định Tòa án theo nơi pháp nhân có
trụ sở.
d) Nếu bị đơn là cá nhân, thì xác định Tòa án theo nơi cá nhân cư trú.
4. Thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn: Nguyên đơn được
lựa chọn Tòa án để yêu cầu giải quyết tranh chấp (Điều 36 Bộ luật Tố
tụng Dân sự ngày 01/01/2005) trong các trường hợp sau:
a) Nếu không biết rõ trụ sở hoặc nơi cư trú của bị đơn, thì nguyên đơn
có thể yêu cầu Tòa án nơi có tài sản, nơi có trụ sở hoặc nơi cư trú cuối


cùng của bị đơn giải quyết.
b) Nếu vụ án phát sinh từ hoạt động của chi nhánh bị đơn, thì nguyên
đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi có trụ sở hoặc nơi có chi nhánh đó giải
quyết.
c) Nếu vụ án phát sinh do vi phạm HĐ, thi nguyên đơn có thể yêu cầu
Tòa án nơi thực hiện HĐ giải quyết.
d) Nếu các bị đơn có trụ sở hoặc nơi cư trú khác nhau, thì nguyên đơn
có thể yêu cầu Tòa án nơi có trụ sở hoặc nơi cư trú của một trong các bị
đơn giải quyết.
e) Nếu vụ án không chỉ liên quan đến bất động sản, thì nguyên đơn có
thể yêu cầu Tòa án nơi có bất động sản, nơi có trụ sở hoặc nơi cư trú
của bị đơn giải quyết.
f) Nếu vụ án liên quan đến bất động sản ở nhiều nơi khác nhau, thì
nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án ở một trong các nơi đó giải quyết.
g) Theo Bộ luật Tố tụng Dân sự , còn có qui định riêng: Nếu khi ký kết

HĐ mà các bên có thỏa thuận trước về Tòa án giải quyết tranh chấp thì
nguyên đơn chỉ được khởi kiện tại Tòa án đó.
CÔNG TY LUẬT MINH KHUÊ (Biên tập)



×