Trường ĐHKTQD Khoa Kế hoạch và phát triển
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, nâng cao chất lượng lao động là vấn đề được quan tâm từ trước
đến nay trên phạm vi nền kinh tế, ngành và doanh nghiệp. Trong môi trường
cạnh tranh và điều kiện các nguồn lực khan hiếm thì vấn đề này còn đáng được
quan tâm hơn nữa.
Đối với doanh nghiệp thì nâng cao chất lượng lao động trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mục đích nâng cao năng lực và khả năng cạng
tranh của đơn vị khi tham gia vào các hoạt động trên thị trường, nâng cao uy
tín và tạo thương hiệu của doanh nghiệp trên thị trường. Điều này là rất quan
trọng đối với những công ty hoạt động trong các lĩnh vực mới của thị trường:
tư vấn, thiết kế, thi công các công trình về điện…,các hoạt động này cần nguồn
vốn tương đối lớn do có chu kỳ đầu tư dài. Công ty đầu tư phát triển điện lực
và hạ tầng – PIDI là một trong những công ty có đặc điểm như vậy. Vì vậy, để
tồn tại và phát triển trên thị trường đòi hỏi Công ty phải có đội ngũ CBCNV có
chất lượng đáp ứng với các yêu cầu của thị trường.
Qua thời gian tìm hiểu thực tế tại Công ty trong giai đoạn thực tập cùng
với những kiến thức đã tiếp thu được trong quá trình học tập, em muốn tìm
hiểu sâu hơn về vấn đề: “Nâng cao chất lượng đội ngũ lao động ở Công ty
đầu tư phát triển điện lực và hạ tầng – PIDI”.
Đề tài gồm 3 chương:
Chương I:Vai trò của độ ngũ lao động và sự cần thiết nâng cao chất lượng
đội ngũ lao động trong doanh nghiệp.
Chương II:Thực trạng chất lượng đội ngũ lao động ở Công ty đầu tư phát
triển điện lực và hạ tầng – PIDI.
Nguyễn Thu Hiền KTPT46
1
Trường ĐHKTQD Khoa Kế hoạch và phát triển
Chương III.Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ lao động ở Công ty
đầu tư phát triển điện lực và hạ tầng – PIDI.
Em xin cảm ơn thầy giáo Th.S Bùi Đức Tuân và các anh chị, cô chú ở
Công ty đầu tư phát triển điện lực và hạ tầng – PIDI đã chỉ bảo, hướng dẫn,
giúp đỡ và tạo điều kiện để em hoàn thành bài viết này.
Nguyễn Thu Hiền KTPT46
2
Trường ĐHKTQD Khoa Kế hoạch và phát triển
CHƯƠNG I
VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ LAO ĐỘNG VÀ SỰ CẦN THIẾT
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ LAO ĐỘNG TRONG
DOANH NGHIỆP
I. Đội ngũ lao động trong doanh nghiệp
1. Khái niệm đội ngũ
Đội ngũ là khái niệm được sử dụng rộng rãi trong các tổ chức như đội ngũ
CBCNV, đội ngũ cán bộ khoa học, đội ngũ nghệ sỹ….Khái niệm đội ngũ được
xuất phát từ thuật ngữ quân sự, đó là tổ chức gồm nhiều người tập hợp thành
một lực lượng hoàn chỉnh. Như vậy, đội ngũ có thể được hiểu là tập hợp một
số người có cùng chức năng, nhiệm vụ và nghề nghiệp.
Các quan niệm về đội ngũ tuy có khác nhau nhưng đều thống nhất ở chỗ:
đội ngũ là tập hợp một số người thành một lực lượng, thực hiện một hay một số
chức năng, nhiệm vụ nhất định để đem về kết quả cụ thể nào đó.
Trong doanh nghiệp, đội ngũ bao gồm đội ngũ cán bộ quản lý và đội ngũ
lao động sản xuất kinh doanh.
2. Đội ngũ lao động trong doanh nghiệp
2.1. Đội ngũ cán bộ quản lý trong doanh nghiệp
2.1.1. Khái niệm độ ngũ cán bộ quản lý trong doanh nghiệp
Có nhiều cách hiểu khác nhau về cán bộ quản lý:
Theo từ điển Anh Việt, cán bộ quản lý là người điều hành hoạt động của
các tổ chức kinh doanh theo một phương pháp nhằm thực hiện những chính
sách và mục tiêu kinh doanh đề ra.
Nguyễn Thu Hiền KTPT46
3
Trường ĐHKTQD Khoa Kế hoạch và phát triển
”Người thuộc về bộ máy điều hành doanh nghiệp là lao động gián tiếp,lao
động quản lý”
1
. Quan điểm này đã đồng nhất lao động gián tiếp và lao động
quản lý.
“Lao động quản lý được hiểu là tất cả những lao động hoạt động trong bộ
máy quản lý và tham gia vào việc thực hiện các chức năng quản lý”
2
Trên cơ sở
này thì cán bộ quản lý bao gồm giám đốc, phó giám đốc, trưởng phòng, phó
phòng trong bộ máy quản lý của công ty.
“Cán bộ quản lý là những người thực hiện chức năng quản lý nhằm đảm
bảo cho tổ chức đạt được những mục đích đặt ra với kết quả và hiệu quả cao”
3
.
Để có cách hiểu thống nhất,trong bài viết này được hiểu theo cách giải
thích:” Cán bộ quản lý là người nắm giữ một chức vụ trong bộ máy quản lý tại
doanh nghiệp hoặc các đơn vị trực tiếp tham gia sản xuất kinh doanh trên thị
trường”
4
.Vậy cán bộ quản lý là người có chức vụ từ trưởng phòng hoặc phụ
trách bộ phận đến giám đốc.
Cán bộ quản lý là những người hoạt động trong bộ máy quản lý, thực hiện
những chức năng và nhiệm vụ nhất định trong các quá trình quản lý của doanh
nghiệp trên cơ sở quyền hạn nhất định. Cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh là
những người trực tiếp làm công tác quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh
doanh tại doanh nghiệp.
Từ những khái niệm trên có thể rút ra khái niệm chung về đội ngũ cán bộ
quản lý: Đội ngũ cán bộ quản lý là một lực lượng cán bộ thực hiện chức năng
quản lý các hoạt động sản xuất kinh doanh và thực hiện chức năng quản lý nói
chung. Trong doanh nghiệp, đội ngũ cán bộ quản lý được gắn kết với nhau
bằng hệ thống các mục đích, mục tiêu chung là quản lý tốt đảm bảo cho hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đạt hiệu quả nhất, có cùng nhiệm
Nguyễn Thu Hiền KTPT46
4
Trường ĐHKTQD Khoa Kế hoạch và phát triển
vụ quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh, cùng chịu sự ràng buộc bởi các quy
tắc quản lý hành chính của Nhà nước, nội quy, quy chế hoạt động của doanh
nghiệp.
2.1.2. Đặc điểm lao động và vai trò của đội ngũ cán bộ quản lý trong doanh
nghiệp trong xu thế cạnh tranh, hội nhập kinh tế quốc tế
2.1.2.1. Đặc điểm lao động của đội ngũ cán bộ quản lý trong doanh nghiệp
Ngoài những đặc điểm chung của lao động, đội ngũ cán bộ quản lý doanh
nghiệp trước xu thế toàn cầu hoá kinh tế còn có một số đặc điểm riêng sau:
-Cán bộ quản lý có chức năng và nhiệm vụ chủ yếu là quản lý, điều hành
hoạt động sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp, làm cho hoạt động sản xuất
diễn ra liên tục, không bị gián đoạn.
-Đối tượng tác động của cán bộ quản lý là người gắn liền với hoạt động
sản xuất kinh doanh. Sự tác động của cán bộ quản lý vào những người này
nhằm phát huy nội lực ẩn chứa bên trong mỗi con người, phát huy khả năng
sáng tạo mỗi cá nhân, tập thể bằng các chủ trương, định hướng, tổ chức hoạt
động, kiểm tra, đánh giá. Người quản lý tác động vào quá trình sản xuất kinh
doanh thông qua người lao động.
-Hoạt động của cán bộ quản lý là hoạt động trí óc. Cán bộ quản lý luôn
phải suy nghĩ, sáng tạo, tìm tòi và nghiên cứu các tình huống để đưa ra những
quyết định chính xác và kịp thời. Các hoạt động sản xuất kinh doanh đa dạng,
luôn biến đổi không ngừng theo không gian và thời gian, điều này đòi hỏi
người cán bộ quản lý phải hết sức linh hoạt dựa trên năng lực, kinh nghiệm của
bản thân, nhạy cảm với sự biến đổi của thực tiễn, dám nghĩ, dám làm, có bản
lĩnh vững vàng, sẵn sàng đương đầu với khó khăn thử thách, dũng cảm nhìn
nhận và sửa chữa sai lầm. Do vậy, người cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh
phải được đào tạo một cách cơ bản và phải được tôi luyện trong hoạt động thực
tiễn.
Nguyễn Thu Hiền KTPT46
5
Trường ĐHKTQD Khoa Kế hoạch và phát triển
2.1.2.2. Vai trò của đội ngũ cán bộ quản lý
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp cán bộ quản
lý giữ vai trò hết sức quan trọng, là một trong những nhân tố cơ bản quyết định
sự thành công hay thất bại trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Trong quá trình này, các nhà quản lý thường xuyên thực hiện 3 vai trò:
vai trò liên kết, vai trò thông tin và vai trò ra quyết định.
-Vai trò liên kết bao gồm những công việc liên quan trực tiếp với những
người khác. Người quản lý đại diện cho đơn vị, công ty mình trong các cuộc
gặp mặt chính thức với đơn vị bạn, đối tác…(vai trò người đại diện); đưa ra các
chủ trương, chính sách nhằm tạo ra và duy trì động lực cho người lao động
nhằm đạt được mục tiêu chung của tổ chức, doanh nghiệp (vai trò người lanh
đạo); đảm bảo mối liên hệ giữa cấp trên với cấp dưới, giữa các bộ phận, phòng
ban trong công ty (vai trò người liên lạc).
-Vai trò thông tin bao gồm sự trao đổi thông tin với người khác. Người
quản lý tìm kiếm thông tin phản hồi cần thiết cho quản lý (vai trò người giám
sát), chia sẻ thông tin với những người trong đơn vị, doanh nghiệp (vai trò
người truyền tin), chia sẻ thông tin với những người bên ngoài đơn vị (vai trò
người phát ngôn).
-Vai trò ra quyết định bao hàm việc ra quyết định để tác động lên con
người. Nhà quản lý tìm kiếm cơ hội, thông tin để xác định vấn đề cần giải
quyết (vai trò người ra quyết định), chỉ đạo việc thực hiện quyết định (vai trò
người điều hành), phân bổ nguồn lực để thực hiện các mục tiêu khác nhau (vai
trò người đảm bào nguồn lực) và tiến hành đàm phán với đối tác (vai trò người
đàm phán).
Những vai trò trên giúp các nhà quản lý thực hiện có hiệu quả chức năng
và nhiệm vụ của mình. Đặc biệt trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, vai
trò của người quản lý càng được thể hiện rõ nét.
Nguyễn Thu Hiền KTPT46
6
Trường ĐHKTQD Khoa Kế hoạch và phát triển
2.2. Đội ngũ lao động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp
2.2.1. Khái niệm
Lao động sản xuất – kinh doanh là lực lượng tham gia trực tiếp và gián
tiếp vào quá trình sản xuất ra sản phẩm cho doanh nghiệp, lao động sản xuất
kinh doanh trong doanh nghiệp tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh
doanh trong doanh nghiệp.
Đội ngũ lao động sản xuất kinh doanh là lực lượng thực hiện nhiệm vụ
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
2.2.2. Phân loại
Lao động sản xuất kinh doanh bao gồm lao động sản xuất chính và lao
động sản xuất phụ.
Lao động sản xuất chính là những người trực tiếp sản xuất ra sản phẩm
của doanh nghiệp. Đội ngũ công nhân này tập trung chủ yếu tại các phân
xưởng sản xuất.Là đội ngũ đặc biệt quan trọng vì họ quyết định trực tiếp đến số
lượng và chất lượng sản phẩm.
Lao động sản xuất phụ là những người không trực tiếp sản xuất ra sản
phẩm nhưng những công việc của họ giúp cho lao động sản xuất chính hoàn
thành tốt nhiệm vụ. Đây là đội ngũ lao động không thể thiếu được của doanh
nghiệp, công việc của họ góp phần đẩy nhanh tiến độ sản xuất và nâng cao chất
lượng sản phẩm
2.2.3. Đặc điểm đội ngũ lao động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Đội ngũ lao động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp mang đặc điểm
của đội ngũ lao động nói chung và có những đặc điểm riêng:
-Lao động sản xuất kinh doanh có chức năng nhiệm vụ thực hiện các công
việc liên quan trực tiếp và gián tiếp đến các hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
Nguyễn Thu Hiền KTPT46
7
Trường ĐHKTQD Khoa Kế hoạch và phát triển
-Hoạt động của lao động sản xuất kinh doanh đa phần là hoạt động chân
tay.
II. Chất lượng đội ngũ lao động và các yếu tố ảnh hưởng
1. Chất lượng đội ngũ lao động
1.1. Chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý
1.1.1. Khái niệm chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý trong doanh nghiệp
Chất lượng của đội ngũ quản lý trong doanh nghiệp được thể hiện ở đức
và tài. Đức và tài là hai tiêu chuẩn cơ bản nhất của người cán bộ quản lý. Chất
lượng của đội ngũ cán bộ quản lý trước hết được thể hiện cụ thể qua kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phải có đạo đức trong nghề
nghiệp cũng như trong cuộc sống, biết gắn kết lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân
một cách hài hòa, am hiểu và tuân thủ pháp luật của Nhà nước trong quá trình
điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1.2. Tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý trong doanh nghiệp
Để đánh giá được chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý trong doanh nghiệp
trước hết cần xây dựng được tiêu chí để đánh giá. Chất lượng đội ngũ cán bộ
quản lý trong doanh nghiệp được thể hiện thông qua các tiêu chí: trình độ
chuyên môn, năng lực công tác, thái độ làm việc, phẩm chất đạo đức, tiềm
năng phát triển và các yêu cầu cần thiết khác mà người cán bộ quản lý cần có
để quản lý và điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có
hiệu quả.
Các tiêu chí đánh giá chất lượng cán bộ quản lý trong doanh nghiệp gồm
3 nhóm chủ yếu:
-Trình độ bao gồm trình độ chuyên môn và trình độ quản lý
-Kết quả thực hiện công việc
-Phẩm chất đạo đức
Nguyễn Thu Hiền KTPT46
8
Trường ĐHKTQD Khoa Kế hoạch và phát triển
1.1.2.1. Trình độ của cán bộ quản lý
Trình độ của cán bộ quản lý được thể hiện ở sự hiểu biết về các lĩnh vực
tự nhiên, kinh tế, xã hội…và được trang bị kiến thức ở mức độ nhất định. Tức
là vừa có kiến thức cơ bản, vừa có chuyên môn nghiệp vụ và kiến thức về quản
lý. Như vậy, cán bộ quản lý phải đượng đào tạo và trang bị kiến thức tổng hợp
của nhiều lĩnh vực. Trong nền kinh tế thị trường, phải đối đầu với những thử
thách trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi cán bộ quản lý phải có
kiến thức chuyên môn giỏi, nghiệp vụ sâu về lĩnh vực được giao; phải có kiến
thức về kinh tế thị trường, kinh tế quốc tế, có kiến thức về thong lệ quốc tế
trong các hoạt động kinh tế, có hiểu biết về phong tục tập quán của nước bản
địa - nước có quan hệ hợp tác kinh tế; phải có kiến thức về khoa học quản lý
hiện đại,vận dụng xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý chuyên nghiệp ở mọi cấp
quản lý, hoạt động tuân thủ theo quy luật vận động của nền kinh tế thị trường;
cần nắm chắc các đường lối, chính sách kinh tế của Đảng và pháp luật của Nhà
nước.
1.1.2.2. Kết quả thực hiện công việc của cán bộ quản lý
Khi có trình độ chuyên môn cũng như trình độ kiến thức nhất định, người
quản lý cần phải thể hiện năng lực làm việc hay khả năng thực thi nhiệm vụ.
Khả năng thực thi nhiệm vụ là khả năng biến kiến thức, kinh nghiệm thành
hoạt động chỉ đạo cụ thể, bao gồm kỹ năng về chuyên môn và kỹ năng về tổ
chức quản lý.
Kỹ năng về chuyên môn
Trong quá trính quản lý, người quản lý cần phải có khả năng chuyến hóa
những kiến thức chuyên môn nghiệp vụ cũng như kinh nghiệm vào quá trình
hoạt động sản xuất kinh doanh, đưa ra những quyết định quản lý kịp thời, chính
xác và giải pháp cụ thể cho từng tình huống. Kỹ năng chuyên môn bao gồm
các mặt:
Nguyễn Thu Hiền KTPT46
9
Trường ĐHKTQD Khoa Kế hoạch và phát triển
Cán bộ quản lý phải có năng lực hoạch định chiến lược sản xuất kinh
doanh và tổ chức thực hiện nhằm đạt được kết quả một cách tối ưu nhất.Cán bộ
quản lý phải có năng lực thực tế, phân tích các tình huống, giải quyết kịp thời,
nhanh nhất các vấn đề phát sinh trong quát trình điều hành hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp.
Cán bộ quản lý cần biết sử dụng đúng khả năng chuyên môn của cán bộ
cấp dưới, biết lắng nghe, tổng hợp, phân tích và sử dụng ý kiến đóng góp cũng
như phản hồi của cán bộ cấp dưới để vận dụng vào quá trình sản xuất kinh
doanh của đơn vị, tổ chức.
Có khả năng và kinh nghiệm thức tế, kịp thời nắm bắt được biến động của
thị trường, nắm rõ nhu cầu của thị trường cũng như nhu cầu và khả năng sử
dụng các sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất của khách hàng để có quyết định
sản xuất kinh doanh đúng, sử dụng hiệu quả các nguồn lực một cách tối ưu,
không gây ra sự lãng phí.
Có khả năng huy động sự hỗ trợ của các cơ quan quản lý cấp chức
năng,các đơn vị bạn.
Kỹ năng về tổ chức quản lý
Đây là yếu tố quan trọng của cán bộ làm công tác quản lý, kỹ năng tổ
chức quản lý được thể hiện qua các mặt:
Có năng lực tổ chức, chỉ huy, phân công và khả năng lôi cuốn, thúc đẩy
mọi người thực hiện công việc và hoàn thành nhiệm vụ. Có khả năng thấu hiểu
và nắm được tâm lý của người lao động,có khả năng sử dụng lao động phù hợp
với chuyên môn sở trường và sở thích để mang lại hiệu quả lao động cao nhất.
Có khả năng quan sát để tổ chức cho doanh nghiệp hoạt động đồng bộ, có
hiệu quả.
Biết tự chủ, có nhiều sáng kiến, giải pháp phục vụ cho hoạt động sản xuất
kinh doanh.
Nguyễn Thu Hiền KTPT46
10
Trường ĐHKTQD Khoa Kế hoạch và phát triển
Phản ứng nhanh nhạy, quyết đoán trong công việc, dám nghĩ, dám làm,
dám chịu trách nhiệm. Có khả năng chớp thời cơ và khả năng dự báo và biết
dùng đúng tiềm lực vào thời điểm và bộ phận thích hợp.
1.1.2.3. Phẩm chất đạo đức của cán bộ quản lý
Người cán bộ quản lý phải có đạo đực, lối sống và tác phong làm việc
khoa học, dân chủ, cần kiệm, liêm chính chí công vô tư, không tham nhũng, có
ý thức tổ chức kỷ luật, trung thực, không cơ hội, gắn bó mật thiết với người lao
động, có khả năng tập hợp và đoàn kết nội bộ.
Người cán bộ quản lý thực hiện tốt đường lối của Đảng, chủ trương, chính
sách và pháp luật của Nhà nước.
Cán bộ quản lý phải có sức khoẻ tốt để đảm đương các nhiệm vụ được
giao. Đây là cơ sở để đưa ra các quyết định đúng đắn trong quá trình quản lý.
Đặc biệt trong điều kiện cạnh tranh,hội nhập kinh tế quốc tế,người cán bộ quản
lý làm việc với cường độ cao, thời gian làm việc kéo dài, do vậy nếu không có
sức khoẻ thì không duy trì được sức làm việc, không đưa ra được quyết định
đúng đắn và kịp thời.
Người cán bộ quản lý cần phải có kinh nghiệm trong quản lý và có
chuyên môn công việc được giao trách nhiệm quản lý.
1.2. Chất lượng đội ngũ lao động sản xuất kinh doanh
1.2.1. Khái niệm
Chất lượng đội ngũ lao động sản xuất – kinh doanh thể hiện thông qua
trình độ chuyên môn kỹ thuật, sức khoẻ để tiến hành và hoàn thành công việc
đúng thời gian, tiến độ. Người lao động ngoài năng lực chuyên môn kỹ thuật
còn cần phải có sức khoẻ tốt để tham gia vào các quá trình sản xuất – kinh
doanh cũng như tham gia vào các hoạt động thể dục, thể thao, văn nghệ… ở
đơn vị.
Nguyễn Thu Hiền KTPT46
11
Trường ĐHKTQD Khoa Kế hoạch và phát triển
1.2.2. Tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ lao động sản xuất – kinh doanh
Để đánh giá chất lượng đội ngũ lao động sản xuất – kinh doanh, ta cần
phải xây dựng các tiêu chí đánh giá. Chất lượng đội ngũ lao động sản xuất –
kinh doanh được thể hiện qua các tiêu chí: trình độ chuyên môn kỹ thuật, sức
khoẻ và kết quả thực hiện công việc
-Trình độ chuyên môn kỹ thuật:
Người lao động sản xuất – kinh doanh phải có trình độ chuyên môn, kỹ
năng và tay nghề ở cấp độ nhất định. Họ phải có kiến thức về lĩnh vực mình
tham gia lao động sản xuất, có khả năng làm việc độc lập, sáng tạo trong công
việc, có tinh thần năng say học tập nâng cao tay nghề.
-Sức khoẻ của người lao động:
Sức khoẻ là vốn quý của con người, là tài sản vô giá của con người.
Người lao động phải đảm bảo sức khoẻ tốt để hoàn thành công việc được giao.
Người lao động có sức khỏe tốt có thể mang lại những lợi nhuận trực tiếp hoặc
gián tiếp bằng việc nâng cao sức bền bỉ, dẻo dai và khả năng tập trung cao vào
công việc.
-Kết quả thực hiện công việc:
Chất lượng của đội ngũ lao động sản xuất – kinh doanh còn được đánh
giá qua kết quả thực hiện công việc. Người lao động thực hiện và hoàn thành
công việc đúng tiến độ dược giao, không làm ảnh hưởng đến kết quả thực hiện
công việc của người khác cũng như không làm ảnh hưởng đến kết quả sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp.
Nguyễn Thu Hiền KTPT46
12
Trường ĐHKTQD Khoa Kế hoạch và phát triển
2. Các yếu tố ảnh hưởng chất lượng đội ngũ lao động
2.1. Các yếu tố ảnh hưởng chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý
2.1.1. Yếu tố về đào tạo và phát triển
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý nhằm nâng cao năng lực và phẩm chất
của cán bộ quản lý, tạo cho họ khả năng thích ứng được với những yêu cầu
ngày càng cao của công việc, đảm bảo cho cán bộ quản lý có đủ năng lực trình
độ và phẩm chất đạo đức để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Quá trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý để phát triển cán bộ cần được
thực hiện theo trình tự:
+Đào tạo trước khi được tuyển chọn vào làm việc trong bộ máy của doanh
nghiệp: đào tạo tại các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp;
+Đào tạo, bồi dưỡng trong thời gian làm việc tại bộ máy quản lý ở doanh
nghiệp;
+Đào tạo bổ sung trước khi giao nhiệm vụ mới;
+Đào tạo chuyên sâu về chuyên môn nghiệp vụ sau khi đã nhận nhiệm vụ.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, IX, X của Đảng Cộng
sản Việt Nam đều coi trọng việc tạo nguồn cán bộ từ thế hệ trẻ đã qua đào tạo
từ các trường đại học, cao đẳng. Cần tin tưởng và mạnh dạn giao việc cho họ
để họ có kinh nghiệm thực tế, đồng thời phát hiện những khiếm khuyết của họ
để tiếp tục bồi dưỡng.
Đào tạo cán bộ là công việc thường xuyên nhằm đảm bảo cung ứng kịp
thời đội ngũ cán bộ quản lý đầy đủ cả về số lượng và chất lượng trong hiện tại
và tương lai. Đào tạo cán bộ quản lý có các hình thức:
-Đào tạo tại chỗ là hình thức giao việc, giao nhiệm vụ tại đơn vị, người
cán bộ làm công tác quản lý phải được rèn luyện trong môi trường thực tế, lấy
kết quả công việc làm thước đo để đánh giá kết quả đào tạo.
Nguyễn Thu Hiền KTPT46
13
Trường ĐHKTQD Khoa Kế hoạch và phát triển
-Cử đi đảo tạo tại các trung tâm là hình thức đào tạo tập trung tại các
trường, các cơ sở đào tạo chuyên nghiệp và uy tín.
-Đào tạo ngắn hạn là hình thức đào tạo trong một thời gian ngắn, trong
thời gian hai năm nhằm cập nhập kiến thức mới. Đối tượng đạo tạo là những cá
nhân đã có khả năng làm cán bộ quản lý nhưng còn cần bổ sung thêm kiến
thức, kịp thời bổ sung cho đội ngũ cán bộ đang thiếu hụt.
-Đào tạo dài hạn là hình thức đào tạo một cách bài bản, chính quy nhằm
bổ sung đội ngũ cán bộ cho tương lai, thời gian đào tạo từ 2 – 5 năm, với các
hình thức học tập trung dài hạn hoặc tại chức, du học. Đối tượng đoà tạo là
những cán bộ trẻ có năng lực, có phẩm chất chính trị và đạo đức tốt tại đơn vị.
-Đào tạo lại là hình thức đào tạo đối với cán bộ quản lý có trình độ nhưng
sau một thời gian phải quay lại trường lớp để cập nhập, bổ sung thêm kiến
thức.
2.1.2. Yếu tố về tuyển dụng và lựa chọn cán bộ quản lý
Lựa chọn và tuyển dụng đội ngũ cán bộ quản lý là công việc tìm kiếm
những người có đủ phẩm chất và năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định để
bố trí, sử dụng hoặc chuẩn bị sử dụng trong doanh nghiệp.
Việc lựa chọn và tuyển dụng những người có đức, có tài để giao trọng
trách là rất quan trọng, tuân theo những quy định, quy trình khách quan, khoa
học.
Vai trò của cán bộ quản lý đặt ra đòi hỏi cao nên việc lựa chọn và tuyển
dụng nhân tài phải coi trọng cả đức và tài, lấy đức làm gốc. Tuy nhiên phải tìm
hiểu đúng vị trí và mối quan hệ giữa đức và tài, tránh tuyệt đối hoá từng mặt
riêng biệt.
Để lựa chọn và tuyển dụng cán bộ quản lý có kết quả tốt cần phải trả lời
tốt các câu hỏi: Công việc đòi hỏi làm gì? Phải thực hiện như thế nào? Kiến
thức và kỹ năng cần thiết là gì?
Nguyễn Thu Hiền KTPT46
14
Trường ĐHKTQD Khoa Kế hoạch và phát triển
Lựa chọn và tuyển dụng cán bộ quản lý phải đảm bảo các yêu cầu:
-Phải dựa vào các tiêu chuẩn cán bộ quản lý, cụ thể hoá tiêu chuẩn cán bộ
cho từng chức danh về trình độ năng lực, phẩm chất đạo đức, độ tuổi, sức khoẻ,
kinh nghiệm.
-Phải thành lập hội đồng lựa chọn và tuyển dụng cán bộ để tổ chức lựa
chọn cán bộ chính xác, đúng người, đúng việc. Hội đồng tuyển chọn bao gồm
những người vừa có đức vừa có tài vừa có tâm.
-Lựa chọn và tuyển dụng cán bộ phải bình đẳng, công khai.
Việc tổ chức lựa chọn và tuyển dụng cán bộ quản lý cho doanh nghiệp
phụ thuộc vào công tác quy hoạch cán bộ. Do vậy, doanh nghiệp cần phải gắn
quá trình quản lý cán bộ với các mục tiêu chiến lược SXKD.
Cán bộ quản lý được lựa chọn từ bên trong doanh nghiệp và bên ngoài
doanh nghiệp.
-Lựa chọn cán bộ từ bên trong doanh nghiệp: là nguồn chính, đầu tiên, có
ý nghĩa hết sức quan trọng, với các hình thức đề bạt, thăng chức, bổ nhiệm
hoặc luân chuyển cán bộ.
Ưu diểm của lựa chọn cán bộ quản lý từ nguồn nhân lực bên trong doanh
nghiệp:
+Tạo ra sự động viên, đáp ứng với nhu cầu và động cơ phát triển của độ
ngũ CBCNV trong doanh nghiệp.
+Tạo cho CBCNV nhận thức được đầy đủ quyền lợi lâu dài của mình khi
làm việc cho doanh nghiệp, không gây ra những xáo trộn lớn trong doanh
nghiệp.
+Doanh nghiệp lựa chọn được những người đúng với năng lực, phẩm chất
đạo đức tốt.
Nguyễn Thu Hiền KTPT46
15
Trường ĐHKTQD Khoa Kế hoạch và phát triển
+Cán bộ được tuyển chọn dễ dàng hoà nhập với nhiệm vụ mới, hiểu được
ý tưởng của lãnh đạo, được sự giúp đỡ của đồng nghiệp để hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao.
Hạn chế của việc lựa chọn cán bộ quản lý từ nguồn nhân lực bên trong
doanh nghiệp:
+Cán bộ được lựa chọn đễ đi vào “lối mòn, đường cũ”, mất đi tính sáng
tạo khó tạo ra phong cách và không khí làm việc mới.
+Dễ tạo ra sự hình thành các nhóm, dễ có sự tập trung quyền lực
Do có những ưu điểm và hạn chế như vậy nên việc lựa chọn cán bộ quản
lý từ nguồn nhân lực trong doanh nghiệp phải dựa trên nguyên tắc công bằng,
công khai trong việc đánh giá thành tích của CBCNV trong doanh nghiệp.
Việc lựa chọn và sử dụng cán bộ quản lý từ bên trong doanh nghiệp nhằm
tạo ra cơ hội bình đẳng trong việc làm, cơ hội phát triển sự nghiệp cho CBCNV
trong doanh nghiệp.
Bộ phận nhân sự trong doanh nghiệp phải có khả năng phát hiện nhân tài
tại chỗ để bồi dưỡng cán bộ. Nếu trong nội bộ doanh nghiệp không đảm bảo
chất lượng và số lượng thì doanh nghiệp cần tuyển chọn cán bộ quản lý từ bên
ngoài.
-Tuyển chọn cán bộ quản lý từ bên ngoài doanh nghiệp
Khi CBCNV trong doanh nghiệp không thể đảm đương được trách nhiệm
khi được lãnh đạo doanh nghiệp giao nhiệm vụ, hoặc doanh nghiệp có nhu cầu
làm mới đội ngũ cán bộ, làm mới phương thức điều hành hoạt động sản xuất
kinh doanh, khi đó doanh nghiệp sẽ tuyển chọn cán bộ quản lý đáp ứng được
yêu cầu từ bên ngoài doanh nghiệp.
Ưu điểm của phương pháp:
+Tạo được không khí làm việc mới, đổi mới được lề lối làm việc cũ, khắc
phục tình trạng trì trệ trong doanh nghiệp.
Nguyễn Thu Hiền KTPT46
16
Trường ĐHKTQD Khoa Kế hoạch và phát triển
+Tạo ra bước đột phá trong hoạt động sản xuất linh doanh của doanh
nghiệp khi người được tuyển chọn có tài thực sự.
Hạn chế của tuyển chọn cán bộ quản lý từ bên ngoài doanh nghiệp:
+Mất thời gian để tìm hiểu phong cách làm việc của nhân viên dưới
quyền, mất thời gian hòa nhập với đồng nghiệp mới, mất thời gian nắm bắt ý
tưởng của lãnh đạo.
+Có thể không được sự ủng hộ, đồng tình của đồng nghiệp.
+Doanh nghiệp cần có thời gian để đánh giá hiệu quả làm việc của người
được tuyển chọn vào chức danh quản lý, đánh giá sự trung thành với doanh
nghiệp, đánh giá năng lực trong công việc.
Việc tuyển chọn cán bộ quản lý từ bên ngoài là cần thiết và tương đối
quan trọng, nhất là trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế hiện
nay.Người được tuyển chọn là người có tài thực sự, có kinh nghiệm trong quản
lý và điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Sau một thời gian điều hành
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mang lại hiệu quả cao, được
CBCNV trong doanh nghiệp hỗ trợ, khâm phục và quý trọng.
2.1.3. Yếu tố về tiền công,chế độ đãi ngộ, khen thưởng và kỷ luật
-Về tiền lương, tiền công
Đây là vấn đề nhạy cảm và có sức mạnh lớn trong việc thu hút cán bộ
quản lý có năng lực, có trình độ chuyên môn,có kỹ năng,có kinh nghiệm thực
tế, có phẩm chất tốt.
-Chế độ đãi ngộ
Ngoài tiền lương thì chế độ đãi ngộ đối với lao động quản lý được hưởng
khi làm việc là yếu tố tác động tới chất lượng của cán bộ quản lý. Doanh ngiệp
có chính sách đãi ngộ thích hợp sẽ thu hút được nhân tâm của tất cả CBCNV
trong doanh nghiệp. Chế độ đãi ngộ được hiểu là sự quan tâm đến chế độ nghỉ
Nguyễn Thu Hiền KTPT46
17
Trường ĐHKTQD Khoa Kế hoạch và phát triển
lễ, tết, nghỉ mát, chế độ về hiếu hỉ…Làm tốt công tác này tạo động lực cho
toàn thể CBCNV trong doanh nghiệp cống hiến nhiều hơn.
-Khen thưởng và kỷ luật
Khen thưởng kịp thời, kỷ luật nghiêm minh là yếu tố tác động đến chất
lượng đội ngũ lao động nói chung và đội ngũ cán bộ quản lý nói riêng. Công
tác khen thưởng và động viên kịp thời CBCNV trong doanh nghiệp khi họ đạt
được thành tích có tác dụng động viên, tạo cho người lao động làm việc hăng
say, gắn bó với doanh nghiệp, do vậy mà hiệu quả công việc cao hơn.
Doanh nghiệp cần kỷ luật nghiêm minh đối với trường hợp CBCNV mắc
khuyết điểm. Việc thi hành kỷ luật có ý nghĩa răn đe, giáo dục không chỉ có ý
nghĩa với bản thân người đó mà còn có ý nghĩa giáo dục chung cho toàn bộ
CBCNV trong doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc thi hành kỷ luật phải đúng người,
đúng việc, tránh tình trạng việc mượn hình thức kỷ luật để vùi dập cán bộ.
2.2. Các yếu tố ảnh hưởng chất lượng đội ngũ lao động sản xuất – kinh doanh
2.2.1. Yếu tố đào tạo lao động sản xuất - kinh doanh
Đào tạo nhân lực chuyên môn kỹ thuật: là hoạt động cung cấp những kiến
thức, kỹ năng và rèn luyện những phẩm chất mới cho người lao động, sự kết
hợp và tương tác các yếu tố này tạo nên năng lực chuyên môn - kỹ thuật của
người lao động để họ đảm nhận được các công việc nhất định.
Kiến thức: là những thông tin mà người lao động có được và lưu trữ trong
bộ não, cách thức họ tổ chức, sử dụng các thông tin này.
Kỹ năng: là năng lực cần thiết để thực hiện kết quả, là kết quả của đào tạo
và kinh nghiệm của từng cá nhân. Kỹ năng phụ thuộc vào kiến thức bởi vì
trước khi thực hiện các công việc cụ thể thì cá nhân đó phải biết mình cần phải
làm những việc gì và làm việc đó như thế nào, thời gian bao lâu, điều kiện làm
việc như thế nào. Kỹ năng là việc thực hiện các công việc ở mức độ thuần thục
trên nền tảng kiến thức có được.
Nguyễn Thu Hiền KTPT46
18
Trường ĐHKTQD Khoa Kế hoạch và phát triển
Phẩm chất lao động mới: đó là tập hợp các phẩm chất người lao động
được rèn luyện trong quá trình đào tạo để phù hợp với các quy trình lao động
hiện đại, chẳng hạn như tác phong công nghiệp, tính kỷ luật, năng động, sáng
tạo…
Lao động kỹ thuật: theo đề án nghiên cứu tổng thể về giáo dục – đào tạo
và nguồn nhân lực Việt Nam (VIE/89/2002) do UNESCO, UNDP và bộ Giáo
dục – Đào tạo đưa ra thì lao động kỹ thuật ở nghĩa rộng bao gồm toàn bộ
những người lao động đã qua đào tạo chuyên môn - kỹ thuật được cấp bằng
hoặc chứng chỉ. Cụ thể bao gồm các loại lao động đã qua đào tạo có bằng hoặc
chứng chỉ như sau:
+Trên đại học
+Đại học và cao đẳng
+Trung học chuyên nghiệp
+Công nhân kỹ thuật
Nhưng những năm gần đây, trong quá trình cấu trúc lại hệ thống đào tạo
nhân lực, khái niệm lao động kỹ thuật do các nhà chuyên môn xác định lại ở
phạm vi hẹp hơn. Theo đó, lao động kỹ thuật bao gồm những người được có
bằng hoặc chứng chỉ các cấp trình độ công nhân kỹ thuật, trung học chuyên
nghiệp, cao đẳng, đại học, trên đại học nhưng được đào tạo thiên về kỹ năng
thực hành, sau ra trường có thể thực hiện các công việc phức tạp với công nghệ
khác nhau phù hợp với ngành, nghề được đào tạo.
Các hình thức đào tạo công nhân kỹ thuật
Đào tạo công nhân kỹ thuật được thực hiện dưới các hình thức sau:
-Đào tạo ở các trường dạy nghề
Các trường dạy nghề của Nhà nước do các Bộ, Tổng công ty và các tỉnh
quản lý. Các trường dạy nghề có bộ máy quản lý, đội ngũ giáo viên và cơ sở
Nguyễn Thu Hiền KTPT46
19
Trường ĐHKTQD Khoa Kế hoạch và phát triển
vật chất kỹ thuật cho thực hiện đào tạo nghề. Để nâng cao chất lượng đào tạo,
các trường đảm bảo các yêu cầu sau:
+Phải có kế hoạch, chương trình đào tạo được Tổng cục dạy nghề thuộc
Bộ Lao Động – Thương Binh và Xã Hội duyệt. Chương trình đào tạo gồm 2
phần: lý thuyết và thực hành tuỳ theo cấp trình độ đào tạo mà chương trình
được thiết kế phù hợp để đảm bảo được mục tiêu và tiêu chuẩn của cấp bậc
nghề đào tạo.
Kế hoạch giảng dạy trong các trường công nhân kỹ thuật thường được
chia thành 2 giai đoạn: giai đoạn học cơ bản và giai đoạn học các kiến thức
chuyên môn. Trong giai đoạn cơ bản, nghề được đào tạo theo diện rộng, trang
bị cho người học kiến thức, kỹ thuật tổng hợp và chung nhất. Trong giai đoạn
tiếp theo người học được đào tạo các kiến thức chuyên môn và rèn luyện kỹ
năng, kỹ xảo để nắm vững nghề.
+Phải có đội ngũ giáo viên dạy nghề có kỹ năng chuyên môn - kỹ thuật và
kỹ năng sư phạm.
+Phải được trang bị máy móc, thiết bị, dụng cụ phục vụ cho công tác
giảng dạy và học tập. Những nơi có điều kiện có thể có các xưởng thực hành
nghiên cứu, sản xuất vừa phục vụ cho giảng dạy vừa sản xuất ra sản phẩm cho
xã hội.
+Các tài liệu giảng dạy và sách giáo khoa phải được biên soạn thống nhất
theo chương trình chuẩn của Nhà nước quy định cho các trường, các nghề.
Đào tạo theo hình thức này có ưu điểm:
+Học viên được học tập một cách có hệ thống các kiến thức, kỹ năng, có
sự cập nhật nhanh các thành tựu tiến bộ Khoa học – Công nghệ sản xuất, thành
tựu của công nghệ dạy nghề vì các trường loại này có cơ sở vật chất kỹ thuật
đầy đủ hơn, môi trường hợp tác với thế giới trong lĩnh vực đào tạo nghề rộng
mở hơn.
Nguyễn Thu Hiền KTPT46
20
Trường ĐHKTQD Khoa Kế hoạch và phát triển
+Đào tạo toàn diện hơn cả về lý thuyết và thực hành giúp học viên nắm
vững các kiến thức cơ bản và kỹ năng thực hành.
Tuy nhiên, đào tạo theo hình thức này đòi hỏi phải có cơ sở vật chất tương
đối đầy đủ, đội ngũ cán bộ giáo viên chuẩn nên chi phí đào tạo khá lớn, thời
gian đào tạo dài.
-Đào tạo dưới hình thức các lớp cạnh doanh nghiệp
Các lớp đào tạo nghề cạnh doanh nghiệp thường do các doanh nghiệp tự
tổ chức, thực hiện. Mở các lớp đào tạo nghề cạnh doanh nghiệp nhằm đáp ứng
nhu cầu công nhân kỹ thuật lâu dài của doanh nghiệp.
Hình thức đào tạo này thường đòi hỏi phải có đầu tư cơ sở vật chất kỹ
thuật riêng, không cần bộ máy chuyên trách mà dựa vào điều kiện sẵn có của
doanh nghiệp. Phần lý thuyết do các kỹ sư, cán bộ kỹ thuật thực hiện. Phần
thực hành được tiến hành tại doanh nghiệp do các kỹ sư hay công nhân lành
nghề hướng dẫn.
Ưu điểm của hình thức đào tạo này:
+Học viên được học lý thuyết tương đối có hệ thống và được trực tiếp
tham gia lao động sản xuất tại doanh nghiệp (gắn học với thực hành).
+Bộ máy quản lý gọn,chi phí đào tạo không cao
Tuy nhiên hình thức đào tạo này chỉ có thể thực hiện ở những doanh
nghiệp tương đối lớn.
-Đào tạo tại nơi làm việc
Đặc điểm của hình thức đào tạo này:
+Đây là hình thức đào tạo kèm cặp trực tiếp, đào tạo thiên về thực hành
ngay trong quá trình sản xuất do doanh nghiệp tổ chức.
+Công nhân dạy nghề được chọn từ trong doanh nghiệp, có trình độ văn
hoá, trình độ nghề nghiệp và phương pháp sư phạm nhất định.
Nguyễn Thu Hiền KTPT46
21
Trường ĐHKTQD Khoa Kế hoạch và phát triển
+Công nhân học nghề vừa được người huấn luyện hướng dẫn về lý thuyết
và thực hành vừa trực tiếp tham gia vào công việc sản xuất kinh doanh.
+Hình thức đào tạo này ít tốn kém, công nhân học nghề nắm bắt được
công việc nhanh. Trong thời gian đào tạo có thể sản xuất ra sản phẩm cho xã
hội.
Hình thức đào tạo này có nhược điểm:
+Việc trang bị kiến thức lý thuyết thiếu tính hệ thống
+Người dạy nghề không chuyên trách nên thiếu kinh nghiệm, việc học lý
thuyết sẽ khó khăn.
+Học vên ít tiếp cận được toàn diện các thành tựu kỹ thuật liên quan đến
nghề nghiệp trong nước và thế giới.
-Đào tạo công nhân kỹ thuật tại các trung tâm dạy nghề
Đây là loại hình đào tạo nghề ngắn hạn, phần lớn dưới 1 năm, đối tượng
chủ yếu là đào tạo phổ cập nghề cho thanh niên và người lao động.
Hình thức đào tạo này có ưu điểm:
+Thu hút được đông đảo người học vì các thủ tục học thường dễ dàng,
thời gian hợp lý.
+Các trung tâm đào tạo nghề thường gắn với giới thiệu việc làm nên hỗ
trợ được cho người lao động trong tìm việc làm.
+Khả năng thích ứng nhanh với nhu cầu của thị trường, nhu cầu người
học.
+Chi phí đầu tư đào tạo không lớn.
Tuy nhiên, hạn chế của hình thức đào tạo này là quy mô nhỏ, kiến thức lý
thuyết ở mức độ thấp, thiếu đội ngũ giáo viên chuyên nghiệp, thiếu trang thiết
bị máy móc, phương tiện hiện đại cho thực hành nghề, đào tạo đa số là công
nhân bán lành nghề.
Nguyễn Thu Hiền KTPT46
-Bảo
hiểm
-Trợ
cấp
-Phúc
lợi
- An
ninh xã
hội
-Nhiệm vụ
thích thú
-Phấn đấu, học
hỏi, trách
nhiệm
- Được ghi
nhận
-Thăng tiến
22
Trường ĐHKTQD Khoa Kế hoạch và phát triển
2.2.2. Yếu tố tiền công, chế độ đãi ngộ, khen thưởng và kỷ luật
Toàn bộ tiền lương của doanh nghiệp trả cho nhân viên do công việc làm
của họ, là động lực chủ yếu kích thích nhân viên làm việc tốt. Tiền lương là thu
nhập chủ yếu giúp cho nhân viên làm thuê duy trì và nâng cao mức sống cho
họ và gia đình họ và họ có thể hoà đồng với trình độ văn minh trong xã hội. Ở
một mức độ nhất định, tiền lương là một bằng chứng thể hiện giá trị, địa vị uy
tín của một người lao động đối với gia đình, doanh nghiệp và xã hội. Tiền
lương còn thể hiện chính sách đãi ngộ của doanh nghiệp đối với người lao
động. Nhân viên luôn tự hào đối với mức lương của mình; khi nhân viên cảm
thấy việc trả lương không xứng đáng với việc làm của họ, họ sẽ không hăng
hái, tích cực làm việc. Hệ thống tiền lương giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong
chính sách khuyến khích vật chất và tinh thần đối với nhân viên. Tiền lương
được hiểu là số tiền mà chủ sử dụng lao động trả cho người lao động tương ứng
với số lượng và chất lượng lao động tiêu hao trong quá trình làm việc.
Hiểu theo nghĩa rộng, tiền lương không chỉ bao hàm các yếu tố tài chính
mà còn có cả các yếu tố phi tài chính.
Phần tài chính bao gồm tài chính trực tiếp và gián tiếp.
+ Tài chính trực tiếp bao gồm tiền lương, tiền thưởng, tiền hoa hồng
+ Tài chính gián tiếp bao gồm bảo hiểm, chế độ phúc lợi…
Phần phi tài chính chứa đựng các lợi ích mang lại cho người lao động từ
bản thân công việc và môi trường làm việc như sức hấp dẫn của công việc, sự
vui vẻ, mức độ tích luỹ kiến thức, tự học hỏi, sự ghi nhận của xã hội…
Nguyễn Thu Hiền KTPT46
-Bảo
hiểm
-Trợ
cấp
-Phúc
lợi
- An
ninh xã
hội
-Nhiệm vụ
thích thú
-Phấn đấu, học
hỏi, trách
nhiệm
- Được ghi
nhận
-Thăng tiến
23
Trường ĐHKTQD Khoa Kế hoạch và phát triển
Hình 1.1: Hình thức và kết cấu của tiền lương.
(Nguồn: Nguyên lý quản lý: Thành công bắt đầu từ đây)
Ngoài tiền lương thì tiền thưởng cũng tác động đến CBCNV trong doanh
nghiệp, làm cho thu nhập của họ tăng lên, nâng cao hiệu suất công việc, cải
thiện chất lượng công việc. Do vậy người lao động sẽ chú trọng đến nâng cao
tay nghề, trình độ chuyên môn kỹ thuật để có thể nâng cao năng suất lao động,
hiệu suất công việc, có như vậy thì nhận được khoản tiền thưởng tương đối lớn.
Ngoài hai yếu tố này ra thì chế độ đãi ngộ khiến cho người lao động gắn
bó với doanh nghiệp hơn, cống hiến cho sự phát triển của doanh nghiệp hơn
đồng thời cũng thu hút được lao động có trình độ.
Nguyễn Thu Hiền KTPT46
Tiền lương
Tài chính Phi tài chính
-Tiền
lương
-Hoa
hồng
-Tiền
thưởng
-Bảo
hiểm
-Trợ
cấp
-Phúc
lợi
- An
ninh xã
hội
-Nhiệm vụ
thích thú
-Phấn đấu, học
hỏi, trách
nhiệm
- Được ghi
nhận
-Thăng tiến
-Chính sách
hợp lý
-Kiểm tra khéo
léo
-Tinh thần
đồng đội
-Điều kiện, môi
trường làm
việc…
24
Trường ĐHKTQD Khoa Kế hoạch và phát triển
III. Sự cần thiết nâng cao chất lượng đội ngũ lao động trong doanh nghiệp
1. Đối với lao động quản lý
Hội nhập kinh tế quốc tế vừa mở ra cơ hội và ẩn chứa nhiều thách thức
đối với các doanh nghiệp Việt Nam.Việc ra nhập thành công tổ chức thương
mại quốc tế - WTO là cơ hội lớn để các doanh nghiệp vươn ra thị trường thế
giới, có cơ hội tiếp thu những phương tiện kỹ thuật sản xuất tiên tiến, hiện đại.
Tuy nhiên, sự cạnh tranh thiếu bình đẳng, sự ràng buộc bởi các luật chơi quốc
tế cùng với những thách thức luôn rình rập, nếu không giải quyết hữu hiệu,
không có những người đầu tàu sáng suốt thì chúng ta sẽ chịu không ít những
thua thiệt và bỏ lỡ nhiều cơ hội phát triển. Muốn doanh nghiệp phát triển và
không bị thua thiệt khi tham gia vào các thị trường thế giới thì phải có bộ máy
quản lý, bộ máy lãnh đạo doanh nghiệp phải là người có kiến thức về kinh tế
thị trường, là người có khả năng nhìn xa trông rộng, là người dám nghĩ, dám
làm, có lập trường vững vàng, có đạo đức nghề nghiệp và có phẩm chất tốt.
2. Đối với lao động sản xuất – kinh doanh
Hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để các doanh nghiệp tham gia vào thị
trường thế giới, tuy nhiên đây cũng là thách thức đối với các doanh nghiệp. Khi
mở của thị trường trong nước các công ty nước ngoài thâm nhập vào thị trường
nội địa cạnh tranh với các công ty trong nước. Các công ty nước ngoài có đội
ngũ lao động chất lượng cao và họ có chính sách thu hút người tài về phía họ.
Điều này đã tác động không tốt đến các công ty trong nước hoạt động cùng
lĩnh vực. Do vậy các công ty trong nước bằng các biện pháp khác nhau để nâng
cao chất lượng lao động nhằm cạnh tranh với các công ty nước ngoài.
Nguyễn Thu Hiền KTPT46
25