Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Giáo trình môn tài chính doanh nghiệp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (686.95 KB, 90 trang )

Chương 1
BẢN CHẤT, CHỨC NĂNG VÀ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG CỦA TÀI CHÍNH DOANH
NGHIỆP
1. Bản chất tài chính doanh nghiệp.
Khái niệm tài chính doanh nghiệp.
Tài chính nói chung là hoạt động liên quan đến việc hình thành và sử các quỹ tiền tệ.
Tài chính doanh nghiệp là hoạt động liên quan đến việc huy động hình thành nên nguồn
vốn và sử dụng nguồn vốn đó để tài trợ cho các việc đầu tư vào tài sản của doanh nghiệp
nhằm đạt mục tiêu đề ra.
Qua định nghĩa này có thể thấy tài chính doanh nghiệp liên quan đến ba loại quyết định tài
chính, quyết định đầu tư, quyết định nguồn vốn và quyết định phân phối lợi nhuận nhằm đạt
mục tiêu đểa là tối đa hóa giá trị cho chủ sở hữu doanh nghiệp.
Tài chính doanh nghiệp là một khâu trong hệ thống tài chính của nền kinh tế thị trường,
là một phạm trù kinh tế khách quan gắn liền với sự ra đời của nền kinh tấ hàng hóa – tiền tệ,
tính chất và mức độ phát triển của tài chính doanh nghiệp cũng phụ thuộc vào vào tính chất
và nhịp độ phát triển của nền kinh tế hàng hóa. Nền kinh tế tập trung đẩn sinh ra cơ chế quản
lý tài chính tập trung, nền kinh tế thị trường đã làm xuất hiện hàng loạt quan hệ tài chính
mới. Do đó tính chất và phạm vi hoạt động của tài chính trong doanh nghiệp cũng có những
thay đổi đáng kể.
Trong nền kinh tế thị trường, tài chính doanh nghiệp được đặc trưng là những nội dung
chủ yếu sau đây:
Một là, tài chính doanh nghiệp phản ánh những luồng chuyển dịch giá trị trong nền kinh
tế. Luồng chuyển dịch đó chính là sự vận động của các nguồn tài chính gắn liền với hoạt
động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Đó là sự vận động của các nguồn tài chính
được diễn ra trong nội dung doanh nghiệp để tiến hành quá trình sản xuất kinh doanh và
được diễn ra giữa doanh nghiệp với ngân sách nhà nước (thông qua nộp thuế hoặc tài trợ tài
chính) giữa các doanh nghiệp với thị trường hàng hóa, sức lao động, tài chính, thông tinh,
dịch vụ…trong việc cung ứng các yếu tố sản xuất (đầu vào) cũng như bán hàng hóa, dịch vụ
(đầu ra) của quá trình kinh doanh. Rõ ràng là sự vận động các nguồn tài chính nêu trên đều
được nảy sinh và gắn liền với các khâu trong quá trình tái sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp.


Hai là, sự vận động của các nguồn tài chính doanh nghiệp không phải diễn ra một cách
hỗn loạn mà nó được hòa nhập vào chu trình kinh tế của nền kinh tế thị trường. Đó là sự vận
động chuyển hóa từ các nguồn tài chính hình thành các quỹ hoặc vốn kinh doanh của doanh
nghiệp và ngược lại. Sự chuyển hóa qua lại đó được điều chỉnh bằng hệ thống các quan hệ phân
phối dưới hình thức giá trị nhằm để tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ phục vụ cho mục tiêu
sản xuất khấu hao của doanh nghiệp.
Từ những đặc trưng nêu trên có thể rút ra kết luận:
1

uploader: />more information and additional documents
connect with me here: />

Tài chính doanh nghiệp là hệ thống các luồng chuyển dịch giá trị, các luồng vận động và
chuyển hóa của các nguồn tài chính trong quá trình phân phối để tạo lập hoặc sử dụng các
quỹ tiền tệ nhằm đạt tới mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp trong khuôn khổ cho phép
của pháp luật.
1.2. Vị trí của tài chính doanh nghiệp
Tài chính doanh nghiệp là một bộ phận cấu thành của hệ thống tài chính quốc gia và là
khâu cơ sở của hệ thống tài chính.
Nếu xét trên góc độ của hệ thống tài chính nước ta thì tài chính doanh nghiệp được coi
là một bộ phận của hệ thống tài chính nhà nước, trong đó tài chính Nhà nước (ngân sách nhà
nước) giữ vai trò chủ đạo, các định chế tài chính trung gian có vai trò hỗ trợ tài chính các tổ
chức xã hội và dân cư bổ sung nhằm tăng nguồn lực tài chính cho nền kinh tế còn tài chính
doanh nghiệp là khâu cơ sở của hệ thống. Sự hoạt động có hiệu quả của tài chính doanh
nghiệp có tác dụng củng cố hệ thống tài chính quốc gia.
Sơ đồ hệ thống tài chính nhà nước hiện nay
Tài chính nhà nước

Tài chính
doanh nghiệp


Thị trường
Tài chính

Tài chính các tổ chức xã
hội và dân cư

Tài chính của các tổ chức tài
chính

Nếu xét trong phạm vi một đơn vị sản xuất kinh doanh thì nó là một công cụ quản lý
quan trọng để quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Bởi vì chúng ta thấy mọi mục tiêu hoạt động, phương hướng, nhiệm vụ sản xuất kinh
doanh chỉ có thể hoạt động được trên cơ sở thực hiện tốt các chức năng của tài chính, từ vấn
đề tạo lập nguồn tài chính, tổ chức sử dụng có hiệu quả của đồng vốn, thường xuyên kiểm tra
kiểm soát mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sử dụng tài
chính như công cụ để thực hiện vấn đề đó.
Ngoài ta tài chính doanh nghiệp là công cụ để nhà nước quản lý vĩ mô nền kinh tế:
Xét trong phạm vi cả hệ thống nền kinh tế quốc dân thì tài chính doanh nghiệp được coi là
cầu nối giữa Nhà nước với nền kinh tế. Thông qua tài chính doanh nghiệp nhà nước có thể
điều tiết nền kinh tế thị trường bằng một hệ thống luật như luật doanh nghiệp, luật thuế, luật
đầu tư, luật ngân hàng nhằm điều chính,hướng mọi hoạt động của doanh nghiệp đi đúng vào
mục tiêu đã định, đúng hướng, phù hợp với từng thời kỳ phát triển của đất nước. Nhà nước
thông qua công cụ của tài chính doanh nghiệp, sử dụng các công cụ của quản lý vĩ mô của
nền kinh tế như chính sách giá cả, chính sách lãi suất tiền gửi, tiền vay nhằm điều chỉnh các
hoạt động đi đúng vào mục tiêu chung của nền kinh tế, làm cho nền kinh tế trong ngừng phát
triển ổn định, lâu dài.
2

uploader: />more information and additional documents

connect with me here: />

Tóm lại TCDN có vị trí rất quan trọng đối với quy mô và tốc độ phát triển kinh tế
doanh nghiệp nói riêng, cũng như góp phần phát triển nền kinh tế nói chung. Nó có những
ảnh hưởng quyết định đến nguồn ngân sách nhà nước, cũng như trong việc các quan hệ lành
mạnh đối với công tác tiền tệ, tín dụng và thanh toán của Ngân hàng. Nó góp phần tạo ra của
cải vật chất ngày càng nhiều đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nhiều mặt cho nhân dân trong toàn
bộ xã hội.
1.3. Bản chất của tài chính doanh nghiệp
Tài chính doanh nghiệp là các quỹ bằng tiền của doanh nghiệp. Hình thái vật chất của
các quỹ bằng tiền này là nhà cửa, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu…Các quỹ tiền tệ này
luôn luôn vận động , trong quá trình vận động phát sinh các quan hệ xã hội. Những quan hệ
xã hội này đều được biểu hiện bằng tiền, bởi vậy còn gọi là quan hệ tiền tệ.
Nội dung các quan hệ kinh tế thuộc phạm vi tài chính doanh nghiệp bao gồm:
- Quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với Nhà nước
Tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải thực hiện nghĩa vụ tài
chính đối với nhà nước. Riêng doanh nghiệp Nhà nước được Nhà nước cấp vốn. Một số công
ty liên doanh hoặc cổ phần nhà nước tham gia góp vốn.
- Quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với thị trường
Các mối quan hệ kinh tế trong hoạt động SXKD của doanh nghiệp phát sinh thường
xuyên trong các thị trường gồm: quan hệ giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp khác, quan hệ
giữa doanh nghiệp với các nhà đầu tư, quan hệ giữa doanh nghiệp với ngân hàng và các tổ
chức tín dụng
- Quan hệ kinh tế trong nội bộ doanh nghiệp
Quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp và cán bộ công nhân viên trong quá trình phân
phối thu nhập cho người lao động dưới hình thức tiền lương, thưởng, phạt, lãi cổ phân.
2. Chức năng, vai trò của tài chính doanh nghiệp.
Chức năng của tài chính doanh nghiệp.
Tài chính thực hiện việc phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị. Nhờ chức năng
này mà của cải xã hội dưới hình thức giá trị được phân phối vào những mục đích sử dụng

khác nhau, đảm bảo nhu cầu, lợi ích khác nhau trong đời sống xã hội.
Đối tượng phân phối là của cải xã hội dưới hình thức giá trị. Đây là các nguồn lực tài
chính, là tiền tệ đang vận động một cách độc lập với tư cách là phương tiện thanh toán,
phương tiện cất trữ trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ. Kết quả của quá trình
phân phối là tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ theo những mục đích nhất định, đáp ứng nhu
cầu tích luỹ hoặc tiêu dùng của các chủ thể trong xã hội.
Đặc điểm chính của chức năng này là luôn gắn liền với việc tạo lập và sử dụng các quỹ
tiền tệ nhất định. Ngoài ra chức năng này còn có những đặc điểm sau:
- Phân phối của cải tài chính chỉ diễn ra dưới hình thức giá trị, nó không đi kèm sự vận
động ngược chiều của hai hình thức giá trị như trong mua bán hàng hoá.
- Phân phối của tài chính bao gồm cả quá trình phân phối lần đầu giữa những chủ thể
tạo ra sản phẩm xã hội, thu nhập quốc dân và quá trình phân phối lại.
2.1.2. Chức năng giám đốc

3

uploader: />more information and additional documents
connect with me here: />

Chức năng giám đốc của tài chính là chức năng nhờ vào đó mà giám đốc, kiểm tra sự
vận động của các nguồn tài chính để tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ theo những mục đích
đã định trước.
Chức năng giám đốc kiểm tra tài chính diễn ra ngay trong quá trình thực hiện chức năng
phân phối của chính nó. Do đó chủ thể của giám đốc, kiểm tra và phân phối đồng nhất với
nhau trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ.
Thông qua việc giám đốc, kiểm tra mà phát hiện và giúp cho việc hiệu chỉnh các quá
trình phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị theo mục tiêu đã được đặt ra, theo yêu
cầu hiệu quả của việc sử dụng các quỹ tiền tệ.
Đặc điểm của giám đốc tài chính:
- Giám đốc tài chính không đồng nhất với mọi khả năng giám đốc bằng đồng tiền mà là

khả năng giám đốc các quá trình vận động của các nguồn lực tài chính, khi tạo lập và sử
dụng các quỹ tiền tệ với chức năng chủ yếu là phương tiện thanh toán và phương tiện cất trữ.
- Giám đốc tài chính có tính thường xuyên, liên tục, toàn diện, kịp thời đối với quá trình
vận động của các nguồn lực tài chính, khi tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ.
2.2. Vai trò của tài chính doanh nghiệp.
Trong hoạt động kinh doanh hiện nay tài chính doanh nghiệp giữ vai trò chủ yếu sau đây:
2.2.1. Tài chính doanh nghiệp là công cụ để khai thác, thu hút các nguồn tài chính
nhằm đảm bảo đầy đủ và kịp thời cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
Trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp, thường nảy sinh các nhu cầu vốn ngắn hạn
và dài hạn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Vai trò của tài chính doanh nghiệp trước hết thể hiện: Xác định đúng đắn các nhu cầu vốn
cần thiết cho hoạt động của doanh nghiệp trong từng thời kỳ và tiếp đó phải lựa chọn các
phương pháp và hình thức thích hợp nhằm huy động nguồn vốn bên trong và bên ngoài
doanh nghiệp. Ngày nay cùng với sự phát triển của nền kinh tế nhiều thành phần đã nảy sinh
nhiều hình thức huy động vốn cho phép các doanh nghiệp huy động các nguồn vốn từ bên
ngoài.
Do vậy, vai trò của tài chính doanh nghiệp ngày càng trở nên quan trọng hơn trong việc chủ
động lựa chọn các hình thức và phương pháp huy động vốn, đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt
động nhịp nhàng và liên tục với chi phí huy động vốn ở mức thấp.
2.2.2. Tài chính doanh nghiệp có vai trò trong việc tổ chức sử dụng vốn tiết kiệm và
có hiệu quả.
Cũng như khai thác huy động vốn, việc sử dụng vốn tiết kiệm có hiệu quả được ciu là
điều kiện tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp, trong nền kinh tế thị trườn yêu cầu của
các quy luật kinh tế như (quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật giá trị…) đã dặt ra
trước mọi doanh nghiệp những chuẩn mực hết sức khắt khe. Do đó hiệu quả của hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào việc tổ chức sử dụng vốn.

4


uploader: />more information and additional documents
connect with me here: />

Tài chính doanh nghiệp đóng góp vai trò quan trọng vào việc đánh giá và lựa chon dự án
đầu tư, trên cơ sở phân tích khả năng sinh lời và mức độ rủi ro của dự án từ đó góp phần
chọn ra dự án đầu tư tối ưu.
Mặt khác, việc huy động tối đa số vốn hiện có vào hoạt động kinh doanh có thể giảm bớt
và tránh được những thiệt hại do ứ đọng vốn gây ra, đồng thời giảm bớt được nhu cầu vay
vốn, từ đó giảm bớt được các khoản tiền trả lãi vay. Việc hình thành và sử dụng tốt các quỹ
của doanh nghiệp, cùng với việc sử các hình thức thưởng phạt vật chất một cách hợp lý và
nghiêm minh sẽ góp phần quan trọng thúc đẩy cán bộ, công nhân viên gắn bó với doanh
nghiệp, từ đó nâng cao năng suất lao động góp phần cải tiến sản xuất kinh doanh, nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn.
2.2.3. Tài chính doanh nghiệp là công cụ để thúc đấy sản xuất kinh doanh phát triển.
Khác với nền kinh tế tập trung bao cấp, trong nền kinh tế thị trường các quan hệ tài chính
doanh nghiệp được mở rộng trên phạm vi rộng lớn. Đó là những quan hệ với hệ thống ngân
hàng, với các tổ chức tài chính trung gian khác, các thành viên góp vốn đầu tư liên doanh, các cổ
đông, các khách hàng mua, bán sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ và những quan hệ tài chính trong
nội bộ doanh nghiệp…Những quan hệ tài chính trên đây chỉ có thể diễn ra khi cả hai bên cùng
có lợi và trong khuôn khổ pháp luật. Dựa vào khả năng này nhà quản lý có thể sử dụng các công
cụ tài chính để xác định phương án đầu tư, xác định lãi suất, cổ tức, giá bán hoặc giá mua sản
phẩm, dịch vụ, tiền lương, tiền thưởng để kích thích tăng năng suất lao động, kích thích tiêu
dùng, kích thích thu hút vốn…nhằm thúc dẩy sự tăng trưởng trong hoạt động sản xuất kinh
doanh.
Trong những biện pháp sử các công cụ tài chính nêu trên thì việc đầu tư thường đem lại hậu
quả kinh tế cao và vững chắc nhât như đầu tư đổi mới kỹ thuật, đầu tư yếu tố con người (như
nâng cao trình độ của người lao động, quan tâm đến thu nhập và phúc lợi của người lao động…)
sẽ tạo ra khả năng rộng lớn để tăng năng suất lao động.
Đây là nhân tố hết sức quan trọng nhằm gia tăng khả năng cạnh tranh kéo dài chu kỳ
sống của doanh nghiệp.

2.2.4. Tài chính doanh nghiệp là công cụ quan trọng để kiểm tra các hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tình hình tài chính doanh nghiệp là tấm gương phản ánh trung thực mọi hoạt động sản
phẩm kinh doanh của doanh nghiệp. Thông qua các số liệu của kế toán, các chỉ tiêu tài chính
như số thanh toán, hệ số sinh lwoif, hiệu quả sử dụng vốn, cơ cấu nguồn vốn và cơ cấu phân
phối sử dụng vốn…người quản lý có thể dễ dàng nhận biết được thực trạng tốt, xấu trong các
khâu của quá trình sản xuất kinh doanh. Với khả năng đó người lãnh đạo và các nhà quản lý
doanh nghiệp có thể kịp thời phát hiện các yếu điểm, các nguyên nhân của nó để điều chỉnh
quá trình sản xuất kinh doanh nhằm đạt được mục tiêu đã đặt ra. Phát hiện kịp thời những
tồn tại, vướng mắc trong kinh doanh, từ đó có thể dưa ra quyết định điều chỉnh các hoạt động
sản xuất kinh doanh phù hợp với diễn biến thực tế của doanh nghiệp.
5

uploader: />more information and additional documents
connect with me here: />

Để sử dụng có hiệu quả công cụ kiểm tra tài chính đòi hỏi nhà quản lý doanh nghiệp cần
tổ chức tốt công tác hạch toán kế toán, hạch toán thống kê, phân tích hoạt động kinh tế của
doanh nghiệp.
3. Tổ chức hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
3.1. Khái niệm.
Tổ chức tài chính doanh nghiệp là việc hoạch định các chiến lược tài chính và hệ thống
các biện pháp để thực hiện chiến lược nhằm đạt được các mục tiêu kinh doanh của doanh
nghiệp trong từng thời kỳ nhất định.
3.2. Hoạt động của doanh nghiệp và tài chính.
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế thực hiện các hoạt động sản xuất cung ứng hàng hóa
cho người tiêu dùng qua thi trường nhằm đạt mục đích sinh lời.
Quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng là quá trình kết hợp các yếu tố
đầu vào như nhà xưởng, thiết bị, nguyên vật liệu và sức lao động để tạo ra yếu tố đầu ra là
hàng hóa và tiêu thụ hàng hóa để thu lợi nhuận.

Trong nền kinh tế thị trường để có các yếu tố đầu vào đòi hỏi doanh nghiệp phải có lượng
vốn tiền tệ nhất định. Với từng loại hình pháp lý tổ chức, doanh nghiệp có phương thức thích
hợp tạo lập số vốn tiền tệ ban đầu, từ số vốn tienf tệ đó doanh nghiệp mua sắm máy móc,
thiết bị, nguyên vật liệu…Sau khi sản xuất xong doanh nghiệp thực hiện bán hàng và thu
được tiền bán hàng. Với số tiền bán hàng doanh nghiệp dùng để bù đắp các khoản chi phí vật
chất đã hao mòn, trả lương cho người lao động, các khoản chi phí khác và nộp thuế cho Nhà
nước, phần còn lại là lợi nhuận sau thuế, doanh nghiệp tiếp tục phân phối lợi nhuận này. Như
vậy quá trình hoạt động của doanh nghiệp cũng chính là quá trình tạo lập và phân phối, sử
dụng quỹ tiền tệ hợp thành tài chính doanh nghiệp. Trong quá trình đó làm phát sinh tạo ra
sự vận động của các dòng tiền bao hàm dòng tiền vào, dòng tiền ra gắn liền với hoạt động
đầu tư và hoạt động kinh doanh thường xuyên của doanh nghiệp.
Bên trong quá trình tạo lập, sử dụng quỹ tiền tệ của doanh nghiệp là các quan hệ kinh tế
dướ hình thức giá trị hợp thành các quan hệ tài chính của doanh nghiệp và bao hàm các quan
hệ tài chính chủ yếu sau:
Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với Nhà nước, quan hệ này được thể hiện chủ yếu ở
chỗ doanh nghiệp thực hiện các nghĩa vụ tài chính với Nhà nước như nộp các khoản thuế, lệ
phí vào ngân sách nhà nước…
Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp và các chủ thể kinh tế và các tổ chức xã hôi khác.
Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp và các chr thể kinh tế khác là mối quan hệ rất đa dạng
và phong phú được thể hiện trong việc thanh toán, thưởng phạt vật chất khi doanh nghiệp và
các chủ thể kinh tế khác cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho nhau (bao hàm cả các loại dịch vụ
tài chính).
Ngoài quan hệ tài chính với các chr thể kinh tế khác, doanh nghiệp có thể còn có mối
quan hệ tài chính với các tổ chức xã hội khác như doanh nghiệp thực hiện tài trợ cho các tổ
chức xã hội, v.v…
6

uploader: />more information and additional documents
connect with me here: />


Quan hệ tìa chính gữa doanh nghiệp với người lao động trong doanh nghiệp. Quan hệ này
được thể hiện trong việc doanh nghiệp thanh toán trả tiền công, thực hiện thưởng phạt vật
chất với người lao động trong quá trình tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp…
Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp và các chr sở hữu của doanh nghiệp là mối quan hệ
thể hiện trong việc đầu tư, góp vốn hay rút vốn của chủ sở hữu đối với doanh nghiệp và trong
việc phân chia lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp.
Quan hệ tài chính trong nội bộ doanh nghiệp là mối quan hệ thanh toán giữa các bộ phận
nội bộ doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh, trong việc hình thành và sử dụng các quỹ
của doanh nghiệp.
Từ những vấn đề nấu trên ta có thể rút ra những điểm sau:
Xét về hình thức, tài chính doanh nghiệp là những quỹ tiền tệ trong quá trình tạo lập,
phân phối, sử dụng và vận động gắn liền với hoạt động của doanh nghiệp. Xét về bản chất,
tài chính doanh nghiệp là các quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị nảy sinh gắn liền với việc
tạo lập, sử dụng quỹ tiền tệ của doanh nghiệp trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp.
Hoạt động tài chính là một mặt hoạt động của doanh nghiệp nhằmđạt tới các mục tiêu của
doanh nghiệp đề ra. Các hoạt động gắn liền với việc tạo lập, phân phối, sử dụng và vận động
chuyển hóa của quỹ tiền tệ thuộc hoạt động tài chính của doanh nghiệphương pháp.
3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
Tài chính doanh nghiệp là công quan trọng đẻ thực hiện các mục tiêu của doanh nghiệp.
Việc tổ chức tài chính trong các doanh nghiệp đều dựa vào những cơ sở chung nhất định.
Tuy nhiên, tài chính của các doanh nghiệp khác nhau cũng như có những đặc điểm khác
nhau, do chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố. Sau đây là một số những nhân tố ảnh hưởng đến
việc tổ chức tài chính của doanh nghiệp.
3.3.1. Hình thức pháp lý tổ chức doanh nghiệp.
Mỗi doanh nghiệp tồn tại dưới một hình thức pháp lý nhất định về tổ chức doanh nghiệp. ở
Việt Nam xét về hình thwucs pháp lý có các loại hình doanh nghiệp như sau:
Doanh nghiệp tư nhân.
Công ty hợp danh.
Công ty cổ phần.

Công ty trách nhiệm hữu hạn.
Ngoài bốn loại hình doanh nghiệp trên còn có hợp tác xã.
Hình thức pháp lý tổ chức doanh nghiệp ảnh hưởng rất lớn đến việc tổ chức tài chính
doanh nghiệp và phương thức hình thành và huy động vốn, việc chuyển nhượng, phân phối
lợi nhuận và trách nhiệm của chủ sở hữu đối với khoản nợ của doanh nghiệp, …
Những ảnh hưởng của hình thức pháp lý tổ chức doanh nghiệp đến tài chính của các loại
hình doanh nghiệp thể hiện dưới những điểm chủ yếu sau:
3.3.2. Doanh nghiệp tư nhân.
7

uploader: />more information and additional documents
connect with me here: />

Là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của
mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Như vây, chủ doanh nghiệp là người đầu tư bằng vốn của mình và cũng có thể huy động
thêm vốn từ bên ngoài qua các hình thức đi vay. Tuy nhiên, việc huy động vốn từ bên ngoài
là rất hạn hẹp và loại hình doanh nghiệp không được phép phát hành bất kỳ loại chứng khoán
nào để huy động vốn trên thị trường. Qua đó cho thấy nguồn vốn của doanh nghiệp tư nhân
là hạn hẹp, loại hình doanh nghiệp này thường thích hợp kinh doanh với quy mô nhỏ.
Chủ doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quyết định đối với tất cả các hoạt động các hoạt
động kinh doanh và tài chính của doanh nghiệp, có quyền cho thuê toàn bộ doanh nghiệp của
mình cho người khác hoặc có quyền tạm ngừng hoạt động kinh doanh. Việc thực hiện cho thuê
hay bán doanh nghiệp hoặc tạm ngừng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải tuân thủ
theo các yêu cầu của pháp luật hiện hành.
Lợi nhuận sau thuế là tài sản hoàn toàn thuộc quyền sở hữu và sử dụng của chủ doanh
nghiệp.
Trong hoạt động kinh doanh, chủ doanh nghiệp tư nhân tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ
tài sản của mình về mọi hoạt động. Diều đó cũng có nghĩa là về mặt tài chính chủ doanh
nghiệp phải chịu trách nhiệm vô hạn với các khoản nợ của doanh nghiệp và đây cũng là một

điều bất lợi dối với hành thức doanh nghiệp này.
3.3.3. Công ty hợp danh.
Là doanh nghiệp trong đó phải có ít nhất hai thành viên hợp danh, ngoài các thành viên
hợp danh có thể có các thành viên góp vốn.
Thành viên hợp danh phải là cá nhân có trình độ chuyên môn và uy tín nghề nghiệp và phải
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về nghĩa vụ của công ty.
Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số
vốn đã đóng góp vào công ty.
Trong công ty hợp danh, thành viên hợp danh có quyền quản lý công ty tiến hành các
hoạt động kinh doanh nhân danh công ty, các thành viên hợp danh có quyền ngang nhau khi
quyết định các vấn đề quản lý công ty, cùng liên đới chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của
công ty.
Ngoài vốn điều lệ, công ty hợp danh có quyền lựa chọn hình thwucs huy động vốn theo
quy định của pháp luật, nhưng không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào để huy
động vốn.
Các thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của công ty,
cong thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ của công ty trong phạm
vi số vốn góp vào công ty.
3.3.4. Công ty trách nhiệm hữu hạn.
Theo luật doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam, có hai dạng công ty trchs nhiệm hữu hạn
là công ty TNHH một thành viên và công ty TNHH hai thành viên trở lên.
8

uploader: />more information and additional documents
connect with me here: />

Công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên trở lên là doanh nghiệp trong đó:
Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh
nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào công ty.
Phần vốn góp của thành viên chỉ được chuyển nhượng theo quy định của pháp luật.

Thành viên có thể là tổ chức, cá nhâ, số lượng thành viên không vượt quá 50 người.
Thành viên của công ty có quyền biểu quyết tương ứng với phần vốn góp.
Thành viên phải góp vốn đầy đủvà đúng hạn như đã cam kết. Ngoài phần vốn góp của
thành viên công ty có quyền lựa chọn các hình thức huy động vốn theo quy định của pháp
luật nhưng công ty không được phát hành cổ phiếu.
Trong quá hoạt động, theo quyêt định của hội đồng thành viên, công ty có thể tăng hoặc
giảm vốn điều lệ theo quy định của pháp luật.
Lợi nhuận sau thuế thuộc về các thành viên của công ty, việc phân phối lợi nhuận do các
thành viên quyết định, số lợi nhuận mỗi thành viên được hưởng tương ứng với phần vốn góp
vào công ty.
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên doanh nghiệp do một tổ chức hoặc cá nhân
làm chủ sở hữu, chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản
khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty.
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp
chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, phải xác định và cách biệt tài sản
của chủ sở hữu công ty và tài sản của công ty. Chủ sở hữu công ty là cá nhân phải tách biệt
các chi tiêu của các nhân và gia đình mình với các chi tiêu trên cương vị chủ tịch công ty và
giám đốc.
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên không được quyền phát hành cổ phiếu.
3.3.4. Công ty cổ phần.
Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó:
Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần.
Cổ động chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong
phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
Cổ đông có quyền tự do chuyển ngượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường
hợp có quy định của pháp luật.
Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số
lượng tối đa.
Ngoài các hình thức huy động vốn thông thường, công ty cổ phần có thể phát hành các

loại chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu) ra công chúng để huy động vốn nếu đủ tiêu chuẩn
theo quy định. Đây là một ưu thế của loại hình doanh nghiệp này.
Các cổ đông của công ty được tự do chuyển nhượng cổ phần cho người khác điều này làm cho
nhà đầu tư có thể dễ dàng chuyển dịch vốn đầu tư của mình.
9

uploader: />more information and additional documents
connect with me here: />

Việc phân phối lợi nhuận sau thuế thuộc quyền quyết định của đại hội cổ đông công ty.
Cũng giống như công ty trách nhiệm hữu hạn, thành viên của công ty cổ phần chỉ chịu trách
nhiệm hữu hạn đối với các khoản nợ của công ty trong phạm vi phần vốn đã góp.
3.3.5. Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của ngành kinh doanh.
Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thường được thực hiện trong một hoặc một số
ngành kinh doanh nhất định. Mỗi ngành kinh doanh có một đặc điểm kinh tế - kỹ thuật riêng
có ảnh hưởng không nhỏ thới việc tổ chức tài chính của doanh nghiệp.
Những doanh nghiệp hoạt động trong ngành thương mại, dịch vụ vốn lưu động chiếm tỷ
trọng cao hơn, tốc độ chu chuyển của vốn lưu động cũng nhanh hơn so với các ngành công
nghiệp, nông nghiệp, đặc biệt là công nghiệp nặng. Ở các ngành này vốn cố định thường
chiếm tỷ lệ cao hơn so với vốn lưu động, thời gian thu hồi vốn cũng chậm hơn.
Những doanh nghiệp sản xuất ra những loại sản phẩm trong ngành thương mại, dịch vụ
có chu kỳ sản xuất ngắn, nhu cầu vốn lưu động giữa các thời kỳ trong năm thường không có
biến động lớn, doanh nghiệp cũng thường xuyên thu được tiền bán hàng, nhờ đó thể dễ dàng
đảm bảo cân đối giữa thu và chi bằng tiền cũng như bảo đảm nguồn vốn cho nhu cầu kinh
doanh. Ngược lại, những doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm có chu kỳ sản xuất dài, phải
ứng ra lượng vốn lưu động lớn hơn. Nhũng doanh nghiệp hoạt động trong ngành sản xuất có
tính thời vụ thì nhu cầu vốn lưu động giữa các kỳ trong năm chênh lệch nhau khá lớn, giữa
thu và chi bằng tiền thường có sự không ăn khớp nhau về thời gian. Đó là điều phải tính đến
trong việc tổ chức tài chính, nhằm đảm bảo vốn kịp thời và đầy đủ cho hoạt động của doanh
nghiệp cúng như đảm bảo cân dối giữa thu và chi bằng tiền.

3.3.6. Môi trường kinh doanh.
Doanh thu tồn tại và phát triển trong môi trường kinh doanh nhất định. Môi trường kinh
doanh bao gồm tất cả các điều kiện bên trong và bên ngoài ảnh hưởng tới hoạt động của
doanh nghiệp như: môi trường kinh tế - tài chính, môi trường chính trị, môi trường luật pháp,
môi trường công nghệ, môi trường văn hóa – xã hội…Dưới đây xem xét tác động của môi
trường kinh tế - tài chính của doanh nghiệp đó là:
* Cơ sở hạ tầng của nền kinh tế. Nếu cơ sở hạ tầng phát triển (hệ thống giao thông, thông tin
liên lác, điện nước…) thì sẽ giảm bớt được nhu cầu vốn đầu tư của doanh nghiệp, đồng thời tạo
điều kiện cho doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí trong kinh doanh.
* Tình trạng của nền kinh tế: Một nền kinh tế đang trong quá trình tăng trưởng thì có nhiều
cơ hội cho doanh nghiệp đầu tư phát triển, từ đó đòi hoie doanh nghiệp phải tích cực áp dụng
các biện pháp huy động vốn để đáp ứng yêu cầu đầu tư. Ngược lại, nền kinh tế đang trong tình
trạng suy toái thì doanh nghiệp khó có thể tìm được cơ hội tốt để đầu tư.
* Lãi suất thị trường: Lãi suất thị trường là yếu tố tác động rất lớn đến hoạt động tài chính
của doanh nghiệp. Lãi suất thị trường coa ảnh hưởng đến cơ hội đầu tư, đến chi phí sử dụng
vốn và cơ hội huy động vốn của doanh nghiệp. Mặt khác lãi suất thị trường ảnh hưởng đến
cơ hội đầu tư, đến chi phí sử dụng vốn và cơ hội huy động vốn của doanh nghiệp. Khi lái
10

uploader: />more information and additional documents
connect with me here: />

suất thị trường tăng cao thì người ta có xu hướng tiết kiệm nhiều hợ tiêu dùng, điều đó hạn
chế việc tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
* Lạm phát: Khi nền kinh tế lạm phát ở mức độ cao, việc tiêu thụ sản phẩm của doanh
nghiệp gặp khó khăn khiens cho tình trạng tài chính của doanh nghiệp căng thẳng. Nếu
doanh nghiệp không có các biện pháp tích cực thì có thể bị thất thoát vốn kinh doanh. Lạm
phát cũng làm cho nhu cầu vốn kinh doanh tăng lên và tình hình tài chính của doanh nghiệp
không ổn định
Chính sách kinh tế và tài chính của Nhà nước đối với doanh nghiệp: Như chính sách

khuyến khích đầu tư, chính sách thuế, chính sách khuyến khích xuất khẩu, nhập khẩu, chế độ
khấu hao tài sản cố định…đây là yếu tố tác động lướn đến các vấn đề tài chính của doanh
nghiệp.
* Mức độ cạnh tranh: Nếu doanh nghiệp hoạt động trong những ngành, nghề, lĩnh vực có
mức độ cạnh tranh cao đồi hởi doanh nghiệp phải đầu tư nhiều hơn cho việc đổi mới thiết bị,
công nghệ và nâng cao chất lượng sản phẩm cho quảng cáo, tiếp thị và tiêu thụ sản xuất…
* Thị trường tài chính và hệ thống các trung gian tài chính: Hoạt động của doanh nghiệp
gắn liền với thị trường tài chính, nơi mà doanh nghiệp có thể huy động gia tăng vốn, đồng thời
có thể đầu tư các khoản tài chính tạm thời nhàn dỗi để tăng thêm sức sinh lời của vốn hoặc có
thể dễ dàng hơn thực hiện đầu tư dài hạn gián tiếp. Sự phát triển của thị trường làm đa dạng
hóa các công cụ và các hình thức huy động vốn cho doanh nghiệp, chẳng hạn như sự xuất hiện
các hình thức thuê tài chính, sự hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán…
Hoạt động của các trung gian tài chính cũng ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động tài chính
của doanh nghiệp. Sự phát triển lớn mạnh của các trung gian tài chính sẽ cung cấp các dịch
vụ tài chính ngày càng phong phú, đa dạng hóa các hình thức thanh toán như thanh toán qua
chuyển khoản, trung gian tài chính tạo điều kiện tố hơn cho doanh nghiệp tiếp cận sử dụng
nguồn vốn tín dụng với chi phí thấp hơn.
Khi xem xét tác động của môi trường kinh tế - tài chính không chỉ xem xét ở phạm vi trong
nước mà còn phải xem xét đánh giá môi trường kinh tế - tài chính trong khu vực và trên thế
giới. Hiện nay, quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ, những biến động
lướn về kinh tế tài chính trong khu vực và trên thế giới ảnh hưởng mau lẹ đến nền kinh tế và
hoạt động kinh doanh của một quốc gia.
3.4. Nội dung tài chính doanh nghiệp.
3.4.1. Lựa chọn và quyết định đầu tư.
Triển vọng của một doanh nghiệp trong tương lại phụ thuộc rất lớn vào quyết định đầu tư
dài hạn với quy mô lớn như quyết định đầu tư đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất kinh
doanh, sản xuất sản phẩm mới… Để đi đến quyết định đòi hỏi doanh nghiệp phải xem xét
cân nhắc trên nhiều mặt kinh tế, kỹ thuật tài chính. Trong đó, về mặt tài chính phải xem xét
các khoản chi tiêu tốn cho đầu tư và thu nhập do đầu tư đưa lại hay nói cách khác là xem xét
11


uploader: />more information and additional documents
connect with me here: />

dòng tiền ra và dòng tiền vào liên quan đến đầu tư để đánh giá cơ hội đầu tư về mặt tài chính.
Đó là quá trình hoạch định dự toán vốn đầu tư và đánh giá hiệu quả tài chính của việc đầu tư.
3.4.2. Xác định nhu cầu vốn và tổ chức huy động vốn đáp ứng kịp thời, đủ nhu cầu
vốn cho các hoạt động của doanh nghiệp.
Tất cả các hoạt động của đều đòi hỏi phải có vốn. Tài chính doanh nghiệp phải xác định
các nhu cầu vốn cần thiết cho hoạt động của doanh nghiệp ở trong kỳ (bao hàm vốn dài hạn
và vốn ngắn hạn). Tiếp theo, phải tổ chức huy động nguồn vốn đáp ứng kịp thời, đầy đủ và
có lợi cho các hoạt động của doanh nghiệp. Để đi đến quyết định lựa chọn hình thức và
phương pháp huy động vốn thích hợp, cần xem xét cân nhắc trên nhiều mặt như kết cấu
nguồn vốn, những điểm lợi của hình thức huy động vốn, chi phí cho việc sử dụng mỗi nguồn
vốn…
3.4.3. Sử dụng có hiệu quả số vốn hiện có, quản lý chặt chẽ các khoản thu, chi và
đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Tài chính doanh nghiệp phải tìm hiểu mọi biện pháp huy động tối đa số vốn của doanh
nghiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh, giải phóng kịp thời vốn ứ động, theo dõi chặt chẽ
và thực tế việc thu hồi tiền bán hàng và các khoản thu khác, đồng thời quản lý chặt chẽ mọi
khoản chi phí phát sinh trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Thường xuyên tìm biện
pháp thiết lập sự cân bằng giữa thu và chi tiền, đảm bảo cho doanh nghiệp luôn có khả năng
thanh toán các khoản nợ đến hạn.

3.4.4. Thực hiện phân phối lợi nhuận, thích lập vẳ dụng các quỹ của doanh nghiệp.
Thực hiện phân phối hợp lý lợi nhuận sau thuế cũng như trích lập và sử dụng tốt các quỹ
của doanh nghiệp sẽ góp phần quan trọng vào việc phát triển doanh nghiệp và cải thiện đời
sống vật chất và tinh thần của người lao động trong doanh nghiệp.
3.4.5. Kiểm soát thường xuyên tình hình hoạt động của doanh nghiệp.
Thông qua tình hình thu, chi tiền tệ hàng ngày, các báo cáo tài chính, tình hình thực hiện

các chỉ tiêu tài chính cho phép kiểm soát được tình hình hoạt động của doanh nghiệp. qua
phân tích cần đánh giá được hiệu quả sử dụng vốn, những điểm mạnh và điểm yếu trong
quản lý và dự báo trước tình hình tài chính của doanh nghiệp, từ đó giúp các nhà lãnh đạo,
nhà quản lý doanh nghiệp kịp thời đưa ra các quyết định thích hợp để điều chỉnh hoạt động
kinh doanh và tài chính.
3.4.6. Thực hiện kế hoạch hóa tài chính.
Các hoạt động tài chính doanh nghiệp cần được dự kiến trước thông qua việc lập kế
hoạch tài chính. Có kế hoạch tài chính tốt thì doanh nghiệp mới có thể đưa ra các quyết định
tài chính thích hợp nhằm đạt tới mục tiêu của doanh nghiệp. Quá trình thực hiện kế hoạch tài
chính cũng là quá trình chủ động đưa ra các giải pháp hữu hiệu khi thị trường biến động.

12

uploader: />more information and additional documents
connect with me here: />

Chương 2
VỐN CỐ ĐỊNH TRONG DOANH NGHIỆP
1. Tài sản cố định và vốn cố định trong doanh nghiệp.
1.1. Tài sản cố định.
1.1.1. Khái niệm tài sản cố định.
Lịch sử phát triển của sản xuất - xã hội đã chứng minh muốn sản xuất ra của cải vật chất
nhất thiết phải có ba yếu tố: Con người lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động.
Đối tượng lao động chính là các loại nguyên nhiên vật liệu. Trong quá trình tham gia sản
xuất đối tượng lao động chịu tác động của con người lao động thông qua tư liệu lao động để
tạo thành sản phẩm mới. Qua quá trình sản xuất đối tượng lao động không còn giữ nguyên
được hình thái vật chất ban đầu mà nó biến dạng, thay đổi hoặc mất đi. Như vậy cứ sau một
chu kỳ sản xuất thì đối tượng lao động lại được thay thế bằng đối tượng lao động mới.
Khác với đối tượng lao động tư liệu lao động (trong doanh nghiệp) chính là những
phương tiện vật chất mà con người lao động sử dụng nó để tác động vào đối tượng lao động.

Xét về mặt vật chất tư liệu lao động trong các doanh nghiệp chính là những máy móc, thiết
bị sản xuất, nhà xưởng, phương tiện vận tải, phương tiện truyền dẫn, công trình kiễn
trúc…Trong quá trình tham gia sản xuất những tư liệu lao động chủ yếu được sử dụng một
cách trực tiếp hay gián tiếp và có thể tham gia nhiều chu kỳ sản xuất nhưng cũng không thay
đổi hình thái vật chất ban đầu, nếu thỏa mãn đồng thời cả hai tiêu chuẩn sau được gọi là tài
sản cố định (TSCĐ).
- Có thời gian sử dụng từ một năm trở nên.
- Có giá trị từ mười triệu đồng trở lên.
Những tư liệu lao động không có đồng thời hai tiêu chuẩn trên được coi là công cụ dụng
cụ thuốc tài sản lưu động.
Tuy nhiên trong thực tế khi xem xét tiêu chuẩn để xác điịnh tài sản cố định của doanh nghiệp
là rất phức tạp vì vậy cần phải chú ý:
Một số trường hợp tư liệu lao động của doanh nghiệp nếu xét riêng lẻ thì giá trị và thời
gian sử dụng có thể không đạt hai tiêu chuẩn hai quy định trên nhưng được tập hợp theo từng
tổ hợp sử dụng đồng bộ thì tài sản đó được coi là tài sản cố định. Ví dụ trang thiết bị của một
phòng làm việc, phòng thí nghiệm, thư viện, vườn cây ăn quả…
Đặc điểm nổi bật của tài sản cố định trong các doanh nghiệp là:
- Là những tư liệu lao động chủ yếu, có giá trị và thời gian sử dụng lâu dài.
- Tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh nhưng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất
ban đầu.
- Qua quá trính sản xuất thì giá trị của tài sản cố định giảm dần (do tính năng, tác dụng, công
suất của tài sản cố định bị giảm dần) phần giá trị giảm dần đó được cấu thành một yếu tố chi
phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và được chuyển dịch dần vào giá trị sản phẩm mà
tài sản cố định đó tham gia sản xuất tạo thành.
13

uploader: />more information and additional documents
connect with me here: />

Những trình bày trên có thể rút ra khái niệm về tài sản cố định trong doanh nghiệp như

sau: Tài sản cố định trong các doanh nghiệp là tư liệu lao động có giá trị lớn, có thời gian sử
dụng lâu dài, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất nhưng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất
ban đầu, còn giá trị của nó được chuyển dịch dần từng phần vào giá trị sản phẩm trong các
chu kỳ sản xuất.
1.1.2. Phân loại tài sản cố định.
Để quản lý và sử dụng tài sản cố định có hiệu quả, đúng mục đích cần phải phân chia tài
sản cố định trong các doanh nghiệp theo những chiêu thức nhất định. Tùy theo yêu cầu của
công tác quản lý mà có thể phân loại tài sản cố định theo các cách chủ yếu sau:
a) Phân loại theo hình thái biểu hiện.
Theo cách phân loại này toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp được chia thành hai
loại tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình.
Tài sản cố định hữu là những tư liệu lao động chủ yếu có hình thái vật chất (từng đơn vị
tài sản có kết cấu độc lập hoặc là một hệ thống gồm nhiều bộ phận tái sản liên kết với nhau
để thực hiện một hay một số chức năng nhất định) có giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu dài,
tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh nhưng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban
đầu như nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải…
Tài sản cố định vô hình là những tài sản cố định không có hính thái vật chất, thể hiện một
lượng giá trị đã được đầu tư có liên quan trực tiếp đến nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp như: chi phí thành lập doanh nghiệp; chi phí lợi thế kinh doanh; chi phí mua
bản quyền, phát minh sáng chế…
b) Phân loại tài sản cố định căn cứ vào quyền sở hữu:
Được chia thành ba loại: Tài sản cố định tự có, tài sản cố định thuê tài chính và tài sản cố
định thuê sử dụng.
Tài sản cố định tự có là những tài sản cố định được mua sắm đầu tư bằng nguồn vốn tự
có (ngân sách cấp, trích lập từ quỹ đầu tư phát triển của doanh nghiệp) để phục vụ cho mục
đích sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có toàn quyền sở hữu, sử dụng,
ddingj đoạt tài sản cố định đó.
Tài sản cố định thêu tài chính là những tài sản cố định doanh nghiệp thuê của công ty cho
thuê tài chính nếu có hợp đồng thuê thỏa mãn ít nhất một trong bốn điều kiện sau:
- Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng bên thuê được chuyển quyền sở hữu tài sản

thuê hoặc được tiếp tục thuê theo sự thỏa thuận của hai bên.
- Khi kết thúc thời hạn thuê bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản thuê theo giá danh
nghĩa thấp hơn giá trị thực tế tại thời điểm mua lại.
- Thời hạn thuê ít nhất phải bằng 60% thời gian cần thiết để khấu hao tài sản đó.
- Tổng số tiền thuê quy định tại hợp đồng thuê phải tương đương với giá cả của tài sản đó
trên thị trường vào thời điểm thuê.
14

uploader: />more information and additional documents
connect with me here: />

Tài sản cố định thuê sử dụng là những tài sản cố định doanh nghiệp thuê của doanh
nghiệp khác để sử dụng trong một thời gian có tính chất thời vụ để phục vụ nhiệm vụ sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
c) Phân loại tài sản cố định theo mục đích sử dụng.
Theo cách phân loại này tài sản cố định của doanh nghiệp được chia thành:
Tài sản cố định dùng cho mục đích kinh doanh: Là những tài sản cố định của doanh nghiệp
được sử dụng cho những mục đích sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tài sản cố định dùng cho mục đích phúc lợi, sự nghiệp: Là những tài sản cố định do
doanh nghiệp quản lý sử dụng cho các mục đích phúc lợi, sự nghiệp, an ninh, quốc phòng
trong doanh nghiệp.
d) Phân loại tài sản cố định theo công dụng kinh tế.
Theo cách phân loại này tài sản cố định của doanh nghiệp được chia thành 6 loại:
Nhà cửa vật kiến trúc là những tài sản cố định của doanh nghiệp được hình thành sau quá
trình thi công xây dựng như trụ sở làm việc, nhà xưởng, nhà kho, sân bãi, đường xá…
Máy móc thiết bị là toàn bộ các loại máy móc thiết bị dùng cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp như máy móc chuyên dùng, thiết bị công tác, dây chuyền công nghệ
và những máy móc đơn lẻ…
Phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn: Các loại phương tiện vận tải gồm các phương
tiện vận tải đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường sông và các thiết bị truyền dẫn như hệ

thống thông tin, hệ thóng điện, hệ thống đường ống dẫn nước…
Thiết bị dụng cụ quản lý là những thiết bị dụng cụ dùng trong công tác quản lý hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như: Máy vi tính, máy fax, dụng cụ đo lường kiểm tra
chất lượng, các thiết bị điện tử…
Vườn cây lâu năm, súc vật làm việc hoặc cho sản phẩm.
Là các vườn cây lâu năm như vườn cây ăn quả, vườn chè, vườn cao su, thảm cây
xanh…hoặc súc vật làm việc hay cho sản phẩm như đàn trâu, đàn bò, đàn ngựa…
Các loại tài sản cố định khác là toàn bộ các loại tài sản cố định khác chưa liệt kê vào năm
loại trên.
e) Phân loại tài sản cố định theo hình thức sử dụng.
Theo cách phân loại náy tài sản cố định được chia thành ba loại:
Tài sản cố định dang sử dụng: Là những tài sản cố định của doanh nghiệp đang được sử
dụng phục vụ nhiệm vụ sản xuất kinh doanh hoặc các hoạt động phúc lợi sự nghiệp hay an
ninh, quốc phòng của doanh nghiệp.
Tài sản cố định chưa cần dùng là những tài sản cố định cần thiết cho hoạt động sản xuất
kinh doanh và các hoạt động khác của doanh nghiệp nhưng hiện tại chưa cần dùng đang
được dự trữ để sử dụng sau này.
15

uploader: />more information and additional documents
connect with me here: />

Tài sản cố định không cần dùng chờ nhượng bán, thanh lý. Là những tài sản cố định
không cần thiết hay không còn phù hợp với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,
cần được nhượng bán, thanh lý hoặc thu hồi vốn đã bỏ ra.
Việc phân loại tài sản cố định như trên có ý nghĩa tác dụng quan trọng trong việc tổ chức
và quản lý tài sản cố định và vốn cố định của doanh nghiệp. Thấy được kết cấu của tài sản cố
định, trình độ trang bị kỹ thuật, trình độ cơ giới hóa và tự động hóa của sản xuất kinh doanh
từ đó xác định được năng lực của sản xuất kinh doanh, nhu cầu cân đối, điều chỉnh kết cấu
tài sản cố định, xác định phương hướng đầu tư có hiệu quả. Thấy được tình hình thực tế sử

dụng tài sản cố định từ đó có biện pháp sử dụng tài sản cố định có hieuj quả hơn. Thấy được
trách nhiệm quản lý tài sản cố định, vốn cố định và theo dõi hạch toán chính xác tài sản cố
định, tính toán chính xác số tiền trích lập quỹ khấu hoa tài sản cố định.
Mỗi cách phân loại trên cho phép doanh nghiệp đánh giá, xem xét tài sản cố định theo các tiêu
thức khác nhau, tùy theo yêu cầu quản lý doanh nghiệp tự phân loại sao cho phù hợp.
1.1.3. Kết cấu tài sản cố định.
Kết cấu tài sản cố định là tỷ trọng giữa giá trị nguyên thủy (nguyên giá) của từng loại,
nhóm tài sản cố định chiếm tỷ trọng trong tổng nguyên giá tài sản cố định của doanh nghiệp
ở một thời kỳ nào đó.
Kết cấu tài sản cố định giữa các doanh nghiệp trong các nghành sản xuất khác nhau thậm
trí trong cùng một nghành sản xuất cũng khác nhau. Sự khác bieeth hoặc biến động về kết
cấu tài sản cố định trong các doanh nghiệp ở các thời kỳ phụ thuộc vào nhiều nhân tố như:
trình độ và quy mô sản xuất của doanh nghiệp, tính chất sản xuất và quá trình công nghệ, ví
dụ doanh nghiệp có trình độ sản xuất cao hoặc quy mô sản xuất lớn thì máy móc thiết bị
chiếm tỷ trọng lớn và ngược lại.
Ngoài ra kết cấu tài sản cố định còn phụ thuộc vào khả năng thu hút vốn đầu tư, tình hình
sử dụng tài sản cố định, trình độ trang bị kỹ thuât cho sản xuất, từ đó giúp doanh nghiệp chủ
động trong việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư sao cho việc đầu tư, sử dụng tài sản cố định có hiệu
quả nhất.
1.2. Vốn cố định trong doanh nghiệp.
1.2.1. Khái niệm vốn cố định.
Để sản xuất kinh doanh thì một trong ba yếu tố không thể thiếu được là các tư liệu lao
động chủ yếu (tài sản cố định ).
Việc mua sắm, xây dựng tài sản cố định doanh nghiệp đều phải thực hiện thanh toán chi
trả bằng tiền. Số tiền doanh nghiệp phải ứng trước chi trả để đầu tư mua sắm, xây dựng tài
sản cố định (kể cả hữu hình và vô hình) gọi là vốn cố định.
Như vậy vốn cố định là số tiền ứng trước để mua sắm, xây dựng tài sản cố định nên quy
mô vốn cố định nhiều hay ít hoàn toàn phụ thuộc vào quy mô của tài sản cố định. Mặt khác
quy mô tài sản cố định của doanh nghiệp lại phụ thuộc vào đặc thù loại hình sản xuất, tính
16


uploader: />more information and additional documents
connect with me here: />

chất của dây chuyền công nghệ và trình độ của trang bị kỹ thuật của doanh nghiệp. tuy quy
mô vốn cố định của doanh nghiệp là khác nhau, song trong nền kinh tế thị trường, trong điều
kiện khoa học kỹ thuật phát triển thì doanh nghiệp nào có vốn cố định lớn thường có quy mô
và năng lực sản xuất lớn, kỹ thuật hiện đại.
Vốn cố định chính là biểu hiện bằng tiền của tài sản cố định, nên đặc điểm của vốn cố
định cũng phụ thuộc vào đặc điểm của tài sản cố định, các đặc điểm đó là:
- Vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh và chỉ hoàn thành một chu
kỳ luân chuyển sau nhiều chu kỳ sản xuất đến khi tài sản cố định hêt thời hạn sử dụng.
- Khi tham gia vào sản xuất kinh doanh, giá trị của vốn cố định được chuyển dịch dần
vào chi phí sản xuất qua các chu kỳ sản xuất, giá trị chuyển dịch dần đó tương ứng với mức
độ hao mòn thực tế của tài sản cố định.
Với những đặc điểm trên cho thấy việc quản lý vốn cố định phải đi đôi với quản lý tài sản
cố định.
1.2.2. Nguồn vốn cố định.
Trong nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động trong cơ chế thị trường như hiện nay ở
nước ta thì nguồn vốn cố định ở các doanh nghiệp cũng rất đa dạng. Song có thể kể tới các
nguồn chủ yếu sau:
Nguồn cấp phát ban đầu, hoặc cấp phát bổ sung từ ngân sách nhà nước (đối với doanh
nghiệp nhà nước) để mua sắm, xây dựng tài sản cố định.
Nguồn vốn do được cho, được biếu, được tặng (với doanh nghiệp nhà nước thì nguồn này
cũng coi như là ngân sách nhà nước cấp).
Nguồn vốn vay dài hạn của các tổ chức tín dụng, vay của cá nhân, của các tổ chức kinh tế
khác trong và ngoài nước (với các doanh nghiệp nhà nước có thể vay thông qua việc phát
hành trái phiếu).
Nguồn vốn góp của các cổ đông (với công ty cổ phần) và phát hành trái phiếu để đầu tư
mua sắm tài sản cố định.

Nguồn vốn do các bên góp vốn liên doanh.
Doanh nghiệp tự bổ sung nguồn vốn đầu tư phát triển trích từ lợi nhuận của doanh nghiệp.
2. Khấu hao tài sản cố định.
2.1. Hao mòn tài sản cố định và khấu hao tài sản cố định.
2.1.1. Hao mòn tài sản cố định.
Trong quá trình sử dụng, tuy tài sản cố định vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu
nhưng thực tế do chịu ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân khác nhau làm cho tài sản cố định
của doanh nghiệp bị giảm dần về tính năng tác dụng, công năng, công suất và do đó giảm dần
về giá trị tài sản cố định, đó chính là hao mòn tài sản cố định.
Tài sản cố định của doanh nghiệp bị hao mòn dưới hai hình thức: Hao mòn hữu hình và
hao mòn vô hình.
a) Hao mòn hữu hình.
17

uploader: />more information and additional documents
connect with me here: />

Hao mòn hữu hình tài sản cố định là sự hao mòn về vật chất dẫn đến giảm giá trị của tài
sản cố định trong quá trình sử dụng.
Xét về mặt vật chất hao mòn hữu hình có thể nhận biết được từ sự giảm dần tính năng tác
dụng, công suất và cuối cùng tài sản đó không còn sử dụng được nữa. Trong một mức độ
nhất định muốn khôi phục lại giá trị sử của nó phải tiến hành sửa chữa, thay thế các chi tiết.
Đối với tài sản cố định vô hình sự hao mòn này chỉ thể hiện ở sự giảm dần giá trị.
Nguyên nhân và mức độ hao mòn hữu hình của tài sản cố định diễn ra nhanh hay chậm
phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: thời gian sử dụng, cường độ sử dụng, trình độ tay nghề của
công nhân sử dụng tài sản cố định đó, việc thực hiện các quy trình, quy phạm kỹ thuật và chế
độ bảo trì bảo dưỡng tài sản cố định. Hao mòn hữu hình của tài sản cố định còn chịu ảnh
hưởng không nhỏ của yếu tố tự nhiên, môi trường sử dụng như nhiệt độ môi trường, độ ẩm
không khí, tác động của các chất hóa học…Ngoài ra mức độ hao mòn hữu hình của tài sản
cố định cũng còn chịu ảnh hưởng của trình độ kỹ thuật, công nghệ chế tạo và chất lượng

nguyên vật liệu để chế tạo ra những tài sản cố định.
b) Hao mòn vô hình.
Hao mòn vô hình tài sản cố định là sự giảm sút về giá trị trao đổi của tài sản cố định do
ảnh hưởng của tiến bộ khoa học kỹ thuật. Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật làm cho tài sản cố
định bị hao mòn vô hình thường do các khả năng sau:
- Do xuất hiện loại tài sản cố định mới có cùng công suất, cùng thông số kỹ thuật, cùng
tính năng tác dụng nhưng có giá bán rẻ hơn. Từ đó làm cho tài sản cố định cũ cùng loại bị
mất đi một phần giá trị trao đổi.
- Do xuất hiện loại tài sản cố định mới có công suất lớn hơn, các thông số kỹ thuật tiến bộ
hơn, thậm chí đa năng hơn nhưng giá bán như tài sản cố định cũ hoặc cao hơn không đáng
kể. Do đó làm cho tài sản cố định cũ mất đi một phần giá trị trao đổi.
- Do sự chấm dứt chu kỳ sống của sản phẩm do các tài sản cố định cũ sản xuất ra (sản
phẩm bị lạc hậu không còn phù hợp với nhu cầu thị trường) thậm chí có những trường hợp
quy trình công nghệ, máy móc thiết bị còn đang trong thời kỳ nghiên cứu phát minh chế tạo
thử đã bị lạc hậu. Trong những trường hợp như vậy thì tài sản cố định không chỉ mất giá trị
một phần mà nhiều tài sản cố định còn bị mất giá trị hoàn toàn. Như vậy hao mòn vô hình
không chỉ diễn ra đối với tài sản cố định hữu hình mà cả tài sản cố định vô hình cũng bị giảm
giá, mất giá.
Biện pháp cơ bản và hiệu quả nhất để khắc phục hao mòn vô hình là các doanh nghiệp
phải coi trọng đổi mới kỹ thuật, công nghệ sản xuất, ứng dụng kịp thời tiến bộ kỹ thuật vào
sản xuất, thường xuyên nâng cấp và hiện đại hóa tài sản cố định.
2.1.2. Khấu hao tài sản cố định.
Tài sản cố định khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh thì sẽ bị hao mòn dần cho nên
để bù đắp giá trị tài sản cố định đã bị hao mòn và có điều kiện thay thế tài sản cố định đã bị hư
hỏng doanh nghiệp phải tính và đưa vào chi phí sản xuất một khoản tương ứng với phần giá trị
18

uploader: />more information and additional documents
connect with me here: />


tài sản cố định đã bị hao mòn và chuyển dịch giá trị hao mòn đó vào chi phí sản xuất kinh doanh
trong kỳ, đó gọi là khấu hao tài sản cố định.
Như vậy khấu hao tài sản cố định và việc chuyển dịch dần phần giá trị hao mòn của tài
sản cố định vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ theo phương pháp tính toán thích hợp.
Nói cách khác khấu hao tài sản cố định là việc tính toán phân bổ một cách có hệ thống
nguyên giá của tài sản cố định vào chi phí sản xuất kinh doanh theo thời gian sử dụng của tài
sản cố định. Phần giá trị hao mòn của tài sản cố định được chuyển dịch vào chi phí sản xuất
biểu hiện dưới hình thức tiền tệ gọi là khấu hao. Số tiền khấu hao được tích lũy gọi là quỹ
khấu hao.
Mục đích của khấu hao tài sản cố định nhằm tích lũy tiền tệ để thực hiện tái sản xuất giản
đơn và tái sản xuất mở rộng tài sản cố định. Vì vậy quỹ khấu hao tài sản cố định là nguồn tài
chính quan trọng để doanh nghiệp chủ động thường xuyên thực hiện việc đổi mới từng bộ
phận, nâng cấp và đổi mới toàn bộ tài sản cố định. Theo quy định hiện hành của Nhà nước về
quản lý vốn cố định trong các doanh nghiệp thì khi chưa có nhu cầu đầu tư mua sắm thay thế
tài sản cố định các doanh nghiệp cũng có thể sử dụng linh hoạt quỹ khấu hao để đáp ứng nhu
cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp theo nguyên tắc hoàn trả.
Việc tính toán chính xác số tiền trích lập quỹ khấu hao có ý nghĩa rất quan trọng đến sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Một mặt số tiền khấu hao phải phản ánh đầy đủ giá trị đã
hao mòn của tài sản cố định mới đảm bảo thu hồi vốn đầu tư ban đầu, bảo đảm hạn chế ảnh
hưởng của hao mòn vô hình và thực hiện được các nguyên tắc bảo toàn, phát triển vốn cố
định. Mặt khác việc tính toán đầy đủ, chính xác số tiền khấu hao vào chi phí sản xuất thì việc
hạch toán kinh tế của doanh nghiệp mới đảm bảo chính xác.
Khi tính toán số tiền trích lập khấu hao cần tránh các khuynh hướng:
Số tiền trích lập khâu hao ít hơn mức độ hao mòn thực tế của tài sản cố định sẽ dẫn đến
tình trạng “lãi giả lỗ thật”, dẫn đến không thu hồi được vốn đầu tư, không bảo toàn được vốn
cố định.
Ngược lại, nếu số tiền trích lập khấu hao vượt quá mức độ hao mòn thực tế của tài sản cố
định sẽ làm tăng giá thành sản phẩm gây bất lợi trong cạnh tranh tiêu thụ sản phẩm do đó sẽ
ảnh hưởng xấu đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
2.2. Các phương pháp để tính khấu hao tài sản cố định.

Việc tính khấu hao tài sản cố định trong các doanh nghiệp có thể được thực hiện theo
nhiều phương pháp khác nhau. Mỗi phương pháp tính đều có những yêu nhược điểm riêng.
Việc lựa chọn đúng đắn các phương pháp khấu hao tài sản cố định là một nội dung quan
trọng của công tác quản lý vốn cố định trong các doanh nghiệp. Khi tính toán khấu hao có
thể dùng các phương pháp sau:
2.2.1. Phương pháp khấu hao đường thẳng (khấu hao bình quân).
đây là phương pháp khấu hao bình quân theo thời gian sử dụng được sử dụng phổ biến để
tính khấu hao cho các loại tài sản cố định hữu hình có mức độ hao mòn đều qua các năm.
19

uploader: />more information and additional documents
connect with me here: />

a) Mức khấu hao tài sản cố định.
Theo phương pháp này, mức khấu hao bình quân hàng năm của tài sản cố định được xác
định theo công thức sau:
Giá trị phải khấu hao tài sản cố định
Mức khấu hao hàng
=
năm của tài sản cố định
Thời gian sử dụng hữu ích của tài sản cố định

Giá trị phải khấu
hao tài sản cố định

=

Nguyên giá
tài sản cố định


-

Giá trị thanh lý
uớc tính

Nguyên giá tài sản cố định là toàn bộ các chi phí thực tế doanh nghiệp đã chi ra để có tài
sản cố định cho tới khi đưa tài sản cố định vào trạng thái sẵn sàng sử dụng. Nguyên giá của
tài sản cố định bao gồm giá mua thực tế phải trả (giá ghi trên hóa đơn trừ cho các khoản
giảm giá, chiết khấu mua hàng (nếu có) và các chi phí kèm theo trước khi đưa tài sản cố định
vào sử dụng như chi phí vận chuyển, bốc dỡ, lắp đặt, chạy thử lần đầu, lệ phí trước bạ, tiền
lãi vay đầu tư tài sản cố định khi chưa đưa tài sản cố định vào sử dụng và thuế không được
hoàn. Đối với tài sản cố định doanh nghiệp tự xây dựng thì nguyên giá là giá trị thực tế đã
chi ra để xây dựng tài sản cố định. Đối với tài sản cố định vô hình, nguyên giá là tổng chi phí
thực tế đã đầu tư vào tài sản đó.
Giá trị thanh lý ước tính được xác định bằng kết quả thanh lý ước tính trừ đi chi phí thanh lý
ước tính. Để đơn giản hóa vấn đề người ta quy ước thu thanh lý bằng chi phí thực hiện thanh lý
tài sản cố định nên ta có công thức tính mức khấu hao năm như sau:

NG
MKH =
N
Thời gian sử dụng tài sản cố định (N) là thời gian sử dụng dự tính cho cả đời tài sản cố
định. Việc xác định thời gian sử dụng hữu ích của tài sản cố định dựa vào hai yếu tố chủ yếu
sau:
Tuổi thọ kỹ thuật của tài sản cố định là thời gian sử dụng tài sản cố định dựa theo thiết kế
kỹ thuật.
Tuổi thọ kinh tế là thời gian sử dụng tài sản cố định có tính đến sự lạc hậu, lỗi thời của tài
sản cố định do sự tiến bộ của khoa học và công nghệ.
b) Tỷ lệ khấu hao tài sản cố định.
Tỷ lệ khấu hao hàng năm của tài sản cố định (TKH) là tỷ lệ phần trăm giữa mức khấu hao

(MKH) và nguyên giá của tài sản cố định.

MKH
TKH =

× 100
NG
20

uploader: />more information and additional documents
connect with me here: />

Từ đó có thể tính được tỷ lệ khấu hao tháng của tài sản cố định bằng cách lấy tỷ lệ khấu
hao năm chia cho 12 tháng.
Trong công tác quản lý, người ta thường sử dụng các loại tỷ lệ khấu hao như:
Tỷ lệ khấu hao của từng tài sản cố định.
Tỷ lệ khấu hao của từng loại tài sản cố định.
Tỷ lệ khấu hao tổng hợp bình quân của các loại tài sản cố định trong doanh nghiệp.
Tỷ lệ khấu hao tổng hợp bình quân tài sản cố định của doanh nghiệp có thể xác định theo
cách sau:
___
MKH
TKH =
NG
Trong đó:
TKH – Tỷ lệ khấu hao tổng hợp bình quân năm.
MKH - Tổng mức khấu hao tài sản cố định trong năm.
NG – Tổng nguyên giá tài sản cố định bình quân phải tính khấu hao trong năm.
Hoặc có thể tính theo cách sau:
n

TKH = ∑ (fi × TKHi)
i=1
Trong đó:
fi – Tỷ trọng của từng loại tài sản cố định.
TKHi – Tỷ lệ khấu hao của loại tài sản cố định thứ i.
i = 1, n – Loại tài sản cố định.
Tỷ lệ khấu hao tổng hợp bình quân cóa thể được sử dụng trong việc lập kế hoạch khấu
hao tài sản cố định và trong công tác kế toán để xác định số khấu hao tài sản cố định trong
kỳ.
Ưu điểm của phương pháp khấu hao đường thẳng.
Việc tính toán đơn giản, dễ tính. Tổng mức khấu hao của tài sản cố định được phân bổ
đều đặn vào các năm sử dung tài sản cố định nên không gấy sự biến động quá mức khi tính
chi phí khấu hao vào giá thành sản phẩm hàng năm. Thông qua việc xem xét tỷ lệ khấu hao
thực tế của tài sản cố định có thể đánh giá được tình hình khấu hao và thu hồi vốn cố định
của doanh nghiệp. Phương pháp này biết trước được thời hạn thu hồi vốn.
Nhược điểm: Phương pháp này không thật phù hợp đối với loại tài sản cố định mà mức
độ hoạt động rất không đều nhau giữa các kỳ trong năm hay giữa các năm khác nhau. Trong
trường hợp không lường được hết sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ
doanh nghiệp có thể bị mất vốn cố định.
Bài tập áp dụng:
2.2.2. Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần.
21

uploader: />more information and additional documents
connect with me here: />

Theo phương pháp này số khấu hao hàng năm của tài sản cố định được xác định bằng
cách lấy giá trị còn lại của tài sản cố định ở đầu năm tính khấu hao nhân với tỷ lệ khấu hao
cố định hàng năm (còn gọi là tỷ lệ khấu hao nhanh theo phương pháp số dư). Công thức xác
định như sau:

MKi = Gdi × TKD
Trong đó:
MKi – Số khấu hao tài sản cố định năm thứ i
Gdi – Giá trị còn lại của tài sản cố định đầu năm thứ i.
TKD – Tỷ lệ khấu hao cố định hnagf năm của tài sản cố định.
i – Thứ tự các năm sử dụng tài sản cố định.
Giá trị cong lại của tài sản cố định đầu năm thứ i được xác định bằng cách lấy nguyên giá
tài sản cố định trừ đi khấu hao lũy kế của đến đầu năm thứ i.
Tỷ lệ khấu hao cố định hàng năm (còn gọi là tỷ lệ khấu hao nhanh) được xác định bằng
cách lấy tỷ lệ khấu hao theo phương pháp đường thẳng nhân với hệ số điều chỉnh.
TKD = TKH × Hd
Trong đó:
TKH – Tỷ lệ khấu hao theo phương pháp đường thẳng.
Hd – Hệ số điều chỉnh
Theo kinh nghiệm, các nhà kinh tế ở các nước thường sử dụng hệ ssoos điều chỉnh như
sau:
Tài sản cố định có thời hạn sử dụng 3 đến 4 năm cố hệ số 1,5
Tài sản cố định có thời hạn sử dụng từ 5 đến 6 năm có hệ số là 2
Tài sản cố định có thời hạn sử dung trên 6 năm có hệ số là 2,5
Phương pháp này đước áp dụng đối với các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực có công nghệ
đồi hỏi phải thay đổi, phát triển nhanh.
Ưu điểm của phương pháp này là: Giúp doanh nghiệp thu hồi vốn nhanh ở năm đầu,
doanh nghiệp vừa có thể tập trung vốn nhanh từ tiền khấu hao để đổi mới máy móc, thiết bị
và công nghệ kịp thời vừa giảm bớt tổn thất do hao mòn vô hình.
Nhà nước có thể cho phép doanh nghiệp áp dụng phương pháp khấu hao nhanh để tính
chi phí khấu hao trong việc xác định thuế nhu nhập doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh
nghiệp thu hồi vốn nhanh.
Nhược điểm: Giá thành của những năm đầu của thời kỳ khấu hao sẽ cao do phải chịu chi
phí khấu hao lớn, điều đó gây bất lợi cho doanh nghiệp trong cạnh tranh, việc tính toán khá
phức tạp.

2.2.3. Phương pháp khấu hao giảm dần kết hợp với khấu hao bình quân.
Để khắc phục nhược điểm của phương pháp khấu hao giảm dần cũng như phương pháp
khấu hao bình quân người ta sử dụng kết hợp hai phương pháp trên.
22

uploader: />more information and additional documents
connect with me here: />

Đặc điểm của phương pháp này là trong những năm đầu sử dụng tài sản cố định (thông
thường 70% thời gian sử dung tài sản cố định) người ta sử dung phương pháp khấu hao giảm
dần con những năm cuối (30% thời gian sử dụng tài sản cố định còn lại) thì thực hiện
phương pháp khấu hao bình quân.
Phương pháp khấu hao này được áp dụng đối với doanh nghiệp thuộc lĩnh vực công nghệ
đòi hỏi phải thay đổi, phát triển nhanh.
2.2.4. Phương pháp khấu hao theo sản lượng.
Phương pháp này thường áp dụng cho những tài sản cố định hoạt động có tính chất mùa
vụ và là những tài sản cố định trực tiếp liên quan đến việc sản xuất ra sản phẩm.
Nội dung của phương pháp này là:
Số khấu hao từng năm của tài sản cố định được tính bằng cách lấy sản lượng sản phẩm
dự kiến sản xuất hoàn thành trong năm nhân với mwucs khấu hao bình quân tính cho một
đơn vị sản phẩm.
MKsl = Qx × Mkđv
Trong đó:
MKsl – Số khấu hao năm của tài sản cố định theo phương pháp sản lượng.
Qx – Sản lượng sản phẩm sản xuất hoàn thành trong năm.
Mkđv – Mức khấu hao bình quân tính cho một đơn vị sản phẩm, được tính bằng cách lấy
giá trị phải khấu hao chia cho tổng sản lượng dự tính cả đời hoạt động của tài sản cố định và
có thể được xác định.
NG
Mkđv =

Qs
Trong đó:
NG – Nguyên giá tài sản cố định.
Qs – Tổng sản lượng dự tính cả đời hoạt động của tài sản cố định.
Căn cứ vào hồ sơ kinh tế kỹ thuật của tài sản cố định, doanh nghiệp xác định tổng số
lượng sản phẩm sản xuất hoàn thành theo công suất thiết kế của tài sản cố định, gọi tắt là sản
lượng theo công suất thiết kế.
Để tính mức khấu hao tháng của tài sản cố định, có thể dùng công thức sau:

Số khấu hao
trong tháng của =
tài sản cố định

Sản lượng sản phẩm
dự kiến sản xuất
×
hoàn thành trong năm

Mức khấu hao
bình quân tính cho
một đơn vị sản phẩm

Sau khi tính được số khấu hao hàng tháng có thể tính số khấu hao năm bằng tổng số khấu
hao của 12 tháng trong năm.
Bài tập áp dụng:
2.3. Phạm vi tính khấu hao.
23

uploader: />more information and additional documents
connect with me here: />


Mọi tài sản cố định hiện có của công ty (gồm cả tài chưa dùng, không cần dùng và chờ
thnah lý) đều phải trích khấu hao theo quy định hiện hành. Khấu hao tài sản cố định dùng
trong sản xuất kinh doanh hạch toán vào chi phí kinh doanh, khấu hao tài sản cố định chưa
dùng, không cần dùng, chờ thanh lý hạch toán vào chi phí khác.
Đối với những tài sản cố định chưa khấu hao hết đã hư hỏng, mất mát phải xác định
nguyên nhân, trách nhiệm của tập thể, cá nhân để xử lý bồi thường. Hội đồng quản trị, giám
đốc công ty đối với công ty không có hội đồng quản trị quyết định mu7wcs bồi thường.
Chênh lệch giữa giá trị còn lại với tiền bồi thường và giá trị thu hồi được hạch toán vào chi
phí khác của công ty.
Doanh nghiệp cho thuế tài sản cố định hoạt động phải trích khấu hao đối với tài sản cố
định cho thuê.
Doanh nghiệp đi thuê tài sản cố định tài chính phải trích khấu hao tài sản cố định thuê tài
chính như tài sản cố định thuộc sở hữu của doanh nghiệp theo quy định hiện hành. Trường
hợp ngay tại thời điểm khởi đầu thuê tài sản, doanh nghiệp đi thuê tài sản cố định tài chính
cam kết không mua mua tài sản thuê trong hợp đồng thuê tài chính, thì doanh nghiệp đi thuê
được trích khấu hao tài sản cố định thuê tài chính theo thời hạn thuê trong hợp đồng.
Việc trích hoặc thôi trích khấu hao tài sản cố định được bắt đầu từ ngày mua tài sản cố
định tăng, giảm hoặc ngừng tham gia vào hoạt động kinh doanh.
Quyền sử dụng đất lâu dài là tài sản cố định vô hình đặc biệt, doanh nghiệp ghi nhận tài
sản cố định vô hình nhưng không được trích khấu hao.
2.4. Chế độ tính khấu hao và lập kế hoạch khấu hao tài sản cố định.
2.4.1. Chế độ tính khấu hao.
Việc phản ánh tăng hay giảm nguyên giá tài sản cố định trong kỳ được thực hiện tại thời
điểm tăng hay giảm tài sản cố định đó trong tháng.
Việc trích hoặc thôi trích khấu hao tài sản cố định được thực hiện nguyên tắc tròn tháng.
Tài sản cố định tăng, giảm, ngừng tham gia hoạt động kinh doanh trong tháng được trích
hoặc thôi trích khấu hao từ tháng tiếp theo.
Ngoài ra theo quy định của chế độ tài chính hiện hành, các doanh nghiệp có quyền sử
dụng tài sản cố định để cầm cố, thế chấp, cho thuế,… nhưng doanh nghiệp vẫn phải tính và

trích khấu hao đối với những tài sản cố định này vào chi phí kinh doanh trong kỳ.
2.4.2. Lập kế hoạch khấu hao tài sản cố định.
Lập kế hoạch khấu hao tài sản cố định hàng năm là một nội dung quan trọng để quản lý
và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp. Thông qua kế hoạch khấu hao
tài sản cố định, doanh nghiệp có thể thấy được nhu cầu tăng, giảm vốn cố định trong năm kế
hoạch, khả năng nguồn tài chính để đáp ứng những nhu cầu đó. Vì thế kế hoạch khấu hao
cũng là một căn cứ quan trong để doanh nghiệp xem xét, lựa chọn các quyết định đầu tư đổi
mới tài sản cố định trong tương lai.
24

uploader: />more information and additional documents
connect with me here: />

Để phát huy vị trí và tác dụng của kế hoạch khấu hao, đòi hởi việc lập kế hoạch khấu hao
phải chính xác, kịp thời và phải tuân thủ những trình tự nhất định.
Khi lập kế hoạch khấu hao tài sản cố định, trước hết cần phải xác định tổng giá trị tài sản
cố định hiện có vào đầu kỳ kế hoạch, cơ cấu nguồn hình thành giá trị đó và phạm vi tài sản
cố định cần tính khấu hao.
Vì thông thường kế hoạch khấu hao tài sản cố định được lập vào cuối quý III của năm
báo cáo, do đó để xác định chính xác tổng giá trị tài sản cố định hiện có vào đầu năm kế
hoạch cần thiết phải dự tính tình hình tăng, giảm tài sản cố định trong quý IV năm báo cáo.
Vấn đề tiếp theo trong trình tự lập kế hoạch khấu hao tài sản cố định của mỗi doanh
nghiệp là phải căn cứ vào kế hoạch đầu tư dài hạn và tình hình thực tế của mỗi doanh nghiệp
để dự kiến tình hình tăng giảm tài sản cố định trong năm kế hoạch. Bởi vì việc tăng, giảm
quy mô tài sản cố định trong năm kế hoạch sẽ là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự biến động
về số tiền trích khấu hao năm.
Thực tế, việc tăng, giảm tài sản cố định trong năm kế hoạch sẽ diễn ra không phải cùng
một thời điểm, do đó phải dùng phương pháp bình quân gia quyền để tính giá trị bình quân
tài sản cố định giá trị bình quân tài sản cố định phải trích khấu hao tăng giảm trong kỳ. Để
dơn giản, tài sản cố định phỉa trích khấu hao tăng thêm hoặc giảm bớt trong kỳ sẽ đước tính

theo nguyên tắc tròn tháng. Điều đó có nghĩa là tài sản cố định tăng, giảm, ngừng tham gia
vào hoạt động kinh doanh trong tháng sẽ được trích hoặc thôi không trích khấu hao từ tháng
tiếp theo.
Công thức giá trị bình quân tài sản cố định phải tính khấu hao tăng thêm hoặc giảm bớt
trong năm kế hoạch như sau:

NGt × Tsd
NGt =
12
NGg × (12-Tsd)
NGg =
12
Trong đó:
NGt – Nguyên giá bình quân tài sản cố định phải tính khấu hao tăng trong năm kế hoạch.
NGg – Nguyên giá bình quân tài sản cố định phỉa tính khấu hao giảm trong năm kế
hoạch.
NGt – Nguyên giá tài sản cố định phải tính khấu hao tăng trong năm kế hoạch.
NGg – Nguyên giá tài sản cố định phải tính khấu hao giảm trong năm kế hoạch.
Tsd – Số tháng sử dụng trong năm kế hoạch.

25

uploader: />more information and additional documents
connect with me here: />

×