Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam: thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (535.84 KB, 96 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Lời mở đầu.

Trong xu hướng hội nhập toàn cầu ngày càng sâu rộng hiện nay, vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài(FDI) là một bộ phận quan trọng trong cơ cấu nguồn
vốn đầu tư của bất kỳ một quốc gia hoặc một địa phương nào. Đối với Việt
Nam, một nước đang trong quá trình CNH- HĐH, chuyển đổi và hội nhập
kinh tế, với mục tiêu phát triển kinh tế rất cao, nhu cầu vốn đầu tư rất lớn thì
việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lại càng có vai trò đặc biệt quan
trọng.
Trong 20 năm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, Việt Nam đã đạt được
nhiều thành tựu đáng kể. FDI là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu
tư phát triển xã hội và tăng trưởng kinh tế, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp, trình độ kĩ thuật và công
nghệ;đẩy mạnh kim ngạch xuất khẩu, phát triển kinh tế thị trường đưa nền
kinh tế Việt Nam hội nhập với nền kinh tế thế giới, giải quyết công ăn việc
làm, đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao mức sống người lao động…
Tuy nhiên hoạt động thu hút và sử dụng vốn FDI còn tồn tại nhiều mặt
tiêu cực đến nền kinh tế như: Vấn đề chuyển giá gây thiệt hại cho nền kinh tế,
khả năng chuyển giao công nghệ hạn chế và nguy cơ trở thành bãi thải công
nghệ, khả năng tạo việc làm chưa ổn định, làm tăng các vấn đề xã hội mới
như phân hoá xã hội, giàu nghèo, nạn "chảy máu chất xám" trong nội bộ nền
kinh tế,vấn đề ô nhiễm môi trường….
Vì vậy tác giả lựa chọn đề tài “Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt
Nam: thực trạng và giải pháp” đi sâu vào phân tích thực trạng FDI, các kết
quả , hiệu quả đạt đực đồng thời nêu ra những mặt hạn chế còn tồn tại, đưa ra
một số nguyên nhân chính và đề xuất giải pháp nhằm tăng cường khả năng
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thu hút vốn FDI cũng như nâng cao hiệu quả sử dụng vốn FDI vào Việt nam
trong thời gian tới để đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế.


2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chương một: Một số lí luận chung về đầu tư trực tiếp nước
ngoài.
1.1. Khái niệm và đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1.1.1. Khái niệm đầu tư (Investment).
Đầu tư nói chung là sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các
hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn
các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Như vậy, mục tiêu của mọi
công cuộc đầu tư là đạt được kết quả lớn hơn so với những hi sinh về nguồn
lực mà người đầu tư phải gánh chịu khi tiến hành đầu tư. Các nguồn lực phải
hi sinh đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động trí tuệ.
Những kết quả sẽ đạt được có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính(tiền
vốn), tài sản vật chất( nhà máy,đường sá, bệnh viện, trường học…) tài sản trí
tuệ( trình độ văn hóa, chuyên môn, quản lí, khoa học kĩ thuật..)và nguồn nhân
lực có đủ điều kiện làm việc với năng suất lao động cao hơn trong nền sản
xuất xã hội.
Người bỏ vốn đầu tư được gọi là nhà đầu tư hay chủ đầu tư, chủ đầu tư
có thể là cá nhân, tổ chức hay nhà nước. Nếu phân loại đầu tư theo quan hệ
quản lý của chủ đầu tư, thì có thể chia làm hai loại đầu tư:
“Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và
tham gia quản lý hoạt động đầu tư” (điều 3, Luật Đầu tư).
“Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ
phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông
qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp
tham gia quản lý hoạt động đầu tư” (điều 3, Luật Đầu tư).
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đứng trên góc độ của toàn nền kinh tế, vốn đầu tư bao gồm nguồn
vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài.

* Đầu tư trong nước là việc nhà đầu tư trong nước bỏ vốn bằng tiền và
các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư tại Việt Nam. (điều 3,
Luật Đầu tư).
* Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt
Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu
tư. (điều 3, Luật Đầu tư).
1.1.2. Đầu tư nước ngoài
1.1.2.1. Khái niệm đầu tư nước ngoài
Đầu tư nước ngoài là hình thức di chuyển vốn từ nước này sang nước
khác nhằm mục đích kiếm lời. Đầu tư nước ngoài có một số đặc điểm khác
với đầu tư nội địa đó là:
Chủ đầu tư có quốc tịch nước ngoài, điều này sẽ có liên quan đến các
quy định về xuất nhập cảnh, về phong tục tập quán, ngôn ngữ...;
Các yếu tố đầu tư được di chuyển ra khỏi biên giới, đặc điểm này liên
quan đến các chính sách, pháp luật về hải quan và cước phí vận chuyển;
Vốn đầu tư có thể là tiền tệ, vật tư hàng hóa, tư liệu sản xuất, tài nguyên
thiên nhiên nhưng được tính bằng ngoại tệ, đặc điểm này liên quan đến chính
sách tài chính và tỷ giá hối đoái của các nước tham gia đầu tư.
Hình thức biểu hiện của đầu tư nước ngoài
- Tài trợ phát triển chính thức (ODF- Official Development Finance).
Nguồn vốn này bao gồm Viện trợ phát triển chính thức (ODA) và các hình
thức viện trợ khác .Trong đó ODA chiếm tỉ trọng chủ yếu. Vốn ODA là
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nguồn vốn phát triển dưới dạng viện trợ không hoàn lại hay lãi suất ưu đãi và
thường đi kèm theo điều kiện về chính trị.
- Nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment). là nguồn vốn
đầu tư khá phổ biến hiện nay của nước ngoài (có thể là tư nhân, tổ chức, hay
nhà nước hoặc là sự phối hợp) đầu tư vào một quốc gia nào đó nhằm mục

đích kiếm lợi nhuận là chủ yếu, thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh
ngay tại nước nhận đầu tư.
- Nguồn huy động qua thị trường vốn quốc tế
1.1.3. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
1.1.3.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
Có nhiều khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Theo Quỹ Tiền tệ
quốc tế (IMF): “FDI là đầu tư có lợi ích lâu dài của một doanh nghiệp tại một
nước khác (nước nhận đầu tư) không phải nước mà doanh nghiệp đang hoạt
động (nước đi đầu tư) với mục đích quản lý một cách có hiệu quả doanh
nghiệp”.
Theo Uỷ ban Thương mại và Phát triển của Liên hiệp quốc (UNCTAD)
thì: “FDI là đầu tư có mối liên hệ lợi ích và sự kiểm soát lâu dài của một pháp
nhân hoặc thể nhân (nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc công ty mẹ) đối với
một doanh nghiệp ở một nền kinh tế khác (doanh nghiệp FDI, hoặc chi nhánh
nước ngoài hoặc chi nhánh doanh nghiệp)”.
FDI là một loại hình đầu tư quốc tế, trong đó chủ đầu tư của một nền
kinh tế đóng góp một số vốn hoặc tài sản đủ lớn vào một nền kinh tế khác để
sở hữu hoặc điều hành, kiểm soát đối tượng họ bỏ vốn đầu tư nhằm mục đích
lợi nhuận hoặc các lợi ích kinh tế khác .
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
FDI là sự di chuyển vốn, tài sản, công nghệ hoặc bất kỳ tài sản nào từ
nước đi đầu tư sang nước tiếp nhận đầu tư để thành lập hoặc kiểm soát doanh
nghiệp nhằm mục đích kinh doanh có lãi .
Luật Đầu tư 2005 của Việt Nam cũng có định nghĩa về FDI như sau:
Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng
tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư. Như vậy, FDI,
xét theo định nghĩa pháp lý của Việt Nam, là hoạt động bỏ vốn đầu tư của nhà
đầu tư nước ngoài vào lãnh thổ Việt Nam với điều kiện họ phải tham gia quản
lý hoạt động đầu tư đó.

Tiêu thức phân biệt FDI với hoạt động đầu tư nội địa thường tập trung
vào các đặc trưng sau:
- Về vốn góp, các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng một lượng vốn tối
thiểu theo quy định của mỗi nước nhận đầu tư để có quyền trực tiếp tham gia
điều phối, quản lý quá trình sản xuất kinh doanh;
- Về quyền điều hành quản lý, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
phụ thuộc vào mức vốn góp, nếu nhà đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn thì
quyền hành hoàn toàn thuộc về nhà đầu tư nước ngoài, có thể trực tiếp hoặc
thuê người quản lý;
- Về phần chia lợi nhuận, dựa trên kết quả sản xuất kinh doanh, lãi lỗ,
đều được phân chia theo tỷ lệ vốn góp trong vốn pháp định sau khi đã trừ các
khoản đóng góp.
Từ những quan niệm trên có thể hiểu FDI là sự di chuyển vốn quốc tế
dưới hình thức vốn sản xuất thông qua việc nhà đầu tư ở một nước đưa vốn
vào một nước khác để đầu tư, đồng thời trực tiếp tham gia quản lý, điều hành,
tổ chức sản xuất, tận dụng ưu thế về vốn, trình độ công nghệ, kinh nghiệm
quản lý... nhằm mục đích thu lợi nhuận.
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có những đặc điểm chủ yếu sau:
Gắn liền với việc di chuyển vốn đầu tư, tức là tiền và các loại tài sản
khác giữa các quốc gia, hệ quả là làm tăng lượng tiền và tài sản của nền kinh
tế nước tiếp nhận đầu tư và làm giảm lượng tiền và tài sản nước đi đầu tư.
Được tiến hành thông qua việc bỏ vốn thành lập các doanh nghiệp mới
(liên doanh hoặc sở hữu 100% vốn), hợp đồng hợp tác kinh doanh, mua lại
các chi nhánh hoặc doanh nghiệp hiện có, mua cổ phiếu ở mức khống chế
hoặc tiến hành các hoạt động hợp nhất và chuyển nhượng doanh nghiệp.
Nhà đầu tư nước ngoài là chủ sở hữu hoàn toàn vốn đầu tư hoặc cùng sở
hữu vốn đầu tư với một tỷ lệ nhất định đủ mức tham gia quản lý trực tiếp hoạt

động của doanh nghiệp.
+ Là hoạt động đầu tư của tư nhân, chịu sự điều tiết của các quan hệ thị
trường trên quy mô toàn cầu, ít bị ảnh hưởng của các mối quan hệ chính trị
giữa các nước, các chính phủ và mục tiêu cơ bản luôn là đạt lợi nhuận cao.
+ Nhà đầu tư trực tiếp kiểm soát và điều hành quá trình vận động của dòng
vốn đầu tư.
+ FDI bao gồm hoạt động đầu tư từ nước ngoài vào trong nước và đầu tư
từ trong nước ra nước ngoài, do vậy bao gồm cả vốn di chuyển vào một
nước và dòng vốn di chuyển ra khỏi nền kinh tế của nước đó.
+ FDI chủ yếu là do các công ty xuyên quốc gia thực hiện.
Các đặc điểm nêu trên mang tính chất chung cho tất cả các hoạt động FDI
trên toàn thế giới. Đối với Việt Nam, quá trình tiếp nhận FDI diễn ra đã được 20
năm và những đặc điểm nêu trên cũng đã thể hiện rõ nét. Chính những đặc điểm
này đòi hỏi thể chế pháp lý, môi trường và chính sách thu hút FDI phải chú ý để
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
vừa thực hiện mục tiêu thu hút đầu tư, vừa bảo đảm mối quan hệ cân đối giữa
kênh đầu tư.
1.2. Các hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Có nhiều tiêu thức để xác định hình thức FDI, về cơ bản là:
Thứ nhất, xét theo mục đích đầu tư FDI được phân làm hai hoặc đầu tư
theo chiều ngang và đầu tư theo chiều dọc.
▪ Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều ngang: là việc một công ty tiến
hành đầu tư trực tiếp nước ngoài vào chính ngành sản xuất mà họ đang có lợi
thế cạnh tranh một loại sản phẩm nào đó. Với lợi thế này họ muốn tìm kiếm
lợi nhuận cao hơn ở nước ngoài nên đã mở rộng và thôn tính thị trường nước
ngoài. Hình thức này thường dẫn đến cạnh tranh độc quyền mà Mỹ, Nhật Bản
đang dẫn đầu việc đầu tư này ở các nước phát triển.
▪ Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều dọc: Với mục đích khai thác
nguồn tài nguyên thiên nhiên và các yếu tố đầu vào rẻ như lao động, đất đai

của các nước nhận đầu tư. Các nhà đầu tư thường khai thác các lợi thế cạnh
tranh đó để hoàn thiện qua lắp ráp ở nước chủ nhà. Sau đó các sản phẩm được
bán trên thị trường quốc tế. Đây là hình thức khá phổ biến của hoạt động đầu
tư trực tiếp nước ngoài tại các nước đang phát triển.
Thứ hai, xét về hình thức sở hữu đầu tư trực tiếp nước ngoài thường có
các hình thức sau:
Luật Đầu tư 2005 đã quy định 5 hình thức FDI cơ bản ở Việt Nam , các hình
thức này cũng đã được thừa nhận rộng rãi trên thế giới. Sau đây sẽ trình bày 5
hình thức này.
a. Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là hình thức truyền
thống và phổ biến của FDI. Với hình thức này, các nhà đầu tư, cùng với việc
chú trọng khai thác những lợi thế của địa điểm đầu tư mới, đã nỗ lực tìm cách
áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lý trong hoạt động
kinh doanh để đạt hiệu quả cao nhất. Hình thức này phổ biến ở quy mô đầu tư
nhỏ nhưng cũng rất được các nhà đầu tư ưa thích đối với các dự án quy mô
lớn. Hiện nay, các công ty xuyên quốc gia thường đầu tư theo hình thức
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và họ thường thành lập một công ty con
của công ty mẹ xuyên quốc gia.
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài thuộc sở hữu của nhà đầu tư
nước ngoài nhưng phải chịu sự kiểm soát của pháp luật nước sở tại (nước
nhận đầu tư). Là một pháp nhân kinh tế của nước sở tại, doanh nghiệp phải
được đầu tư, thành lập và chịu sự quản lý nhà nước của nước sở tại. Doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của nhà
đầu tư nước ngoài tại nước chủ nhà, nhà đầu tư phải tự quản lý, tự chịu trách
nhiệm về kết quả kinh doanh. Về hình thức pháp lý, dưới hình thức này, theo
Luật Doanh nghiệp 2005, có các loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn,
doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần…

Hình thức 100% vốn đầu tư nước ngoài có ưu điểm là nước chủ nhà
không cần bỏ vốn, tránh được những rủi ro trong kinh doanh, thu ngay được
tiền thuê đất, thuế, giải quyết việc làm cho người lao động. Mặt khác, do độc
lập về quyền sở hữu nên các nhà đầu tư nước ngoài chủ động đầu tư và để
cạnh tranh, họ thường đầu tư công nghệ mới, phương tiện kỹ thuật tiên tiến
nhằm đạt hiệu quả kinh doanh cao, góp phần nâng cao trình độ tay nghề
người lao động. Tuy nhiên, nó có nhược điểm là nước chủ nhà khó tiếp nhận
được kinh nghiệm quản lý và công nghệ, khó kiểm soát được đối tác đầu tư
nước ngoài và không có lợi nhuận.
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
b. Thành lập doanh nghiệp liên doanh giữa các nhà đầu tư trong nước và
nhà đầu tư nước ngoài
Đây là hình thức được sử dụng rộng rãi trên thế giới từ trước tới nay.
Hình thức này cũng rất phát triển ở Việt Nam, nhất là giai đoạn đầu thu hút
FDI. Doanh nghiệp liên doanh: đây là hình thức FDI, qua đó pháp nhân mới
được thành lập gọi là doanh nghiệp liên doanh. Doanh nghiệp mới này do hai
hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại nước chủ nhà trên cơ sở hợp đồng liên
doanh. Hình thức này có các đặc trưng: pháp nhân mới được thành lập theo
hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật
của nước chủ nhà. Mỗi bên tham gia vào doanh nghiệp liên doanh là một
pháp nhân riêng. Nhưng doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân độc lập
với các bên tham gia. Khi các bên đã đóng góp đủ số vốn đã quy định vào liên
doanh thì dù một bên có phá sản, doanh nghiệp liên doanh vẫn tồn tại. Mỗi
bên liên doanh chịu trách nhiệm với bên kia, với doanh nghiệp liên doanh
trong phạm vi phần vốn góp của mình vào vốn pháp định.
Như vậy, hình thức doanh nghiệp liên doanh tạo nên pháp nhân đồng sở
hữu nhưng địa điểm đầu tư phải ở nước sở tại. Hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp liên doanh phụ thuộc rất lớn vào môi trường kinh doanh của nước sở
tại, bao gồm các yếu tố kinh tế, chính trị, mức độ hoàn thiện pháp luật, trình

độ của các đối tác liên doanh của nước sở tại... Hình thức doanh nghiệp liên
doanh có những ưu điểm là góp phần giải quyết tình trạng thiếu vốn, nước sở
tại tranh thủ được nguồn vốn lớn để phát triển kinh tế nhưng lại được chia sẻ
rủi ro; có cơ hội để đổi mới công nghệ, đa dạng hóa sản phẩm; tạo cơ hội cho
người lao động có việc làm và học tập kinh nghiệm quản lý của nước ngoài;
Nhà nước của nước sở tại dễ dàng hơn trong việc kiểm soát được đối tác nước
ngoài. Về phía nhà đầu tư, hình thức này là công cụ để thâm nhập vào thị
trường nước ngoài một cách hợp pháp và hiệu quả, tạo thị trường mới, góp
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phần tạo điều kiện cho nước sở tại tham gia hội nhập vào nền kinh tế quốc tế.
Tuy nhiên, hình thức này có nhược điểm là thường dễ xuất hiện mâu thuẫn
trong điều hành, quản lý doanh nghiệp do các bên có thể có sự khác nhau về
chế độ chính trị, phong tục tập quán, truyền thống, văn hóa, ngôn ngữ, luật
pháp. Nước sở tại thường rơi vào thế bất lợi do tỷ lệ góp vốn thấp, năng lực,
trình độ quản lý của cán bộ tham gia trong doanh nghiệp liên doanh yếu.
c. Đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC)
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là hình thức đầu tư được ký giữa các nhà
đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm mà
không thành lập pháp nhân [luật đầu tư].
Hình thức đầu tư này có ưu điểm là giúp giải quyết tình trạng thiếu vốn,
công nghệ; tạo thị trường mới, bảo đảm được quyền điều hành dự án của
nước sở tại, thu lợi nhuận tương đối ổn định. Tuy nhiên, nó có nhược điểm là
nước sở tại không tiếp nhận được kinh nghiệm quản lý; công nghệ thường lạc
hậu; chỉ thực hiện được đối với một số ít lĩnh vực dễ sinh lời như thăm dò dầu
khí.
Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh không thành lập pháp nhân riêng
và mọi hoạt động BCC phải dựa vào pháp nhân của nước sở tại. Do đó, về
phía nhà đầu tư, họ rất khó kiểm soát hiệu quả các hoạt động BCC. Tuy
nhiên, đây là hình thức đơn giản nhất, không đòi hỏi thủ tục pháp lý rườm rà

nên thường được lựa chọn trong giai đoạn đầu khi các nước đang phát triển
bắt đầu có chính sách thu hút FDI. Khi các hình thức 100% vốn hoặc liên
doanh phát triển, hình thức BCC có xu hướng giảm mạnh.
d. Hình thức hợp đồng BOT, BTO, BT
“ Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao ( gọi tắt là hợp
đồng BOT) là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
quyền và nhà đầu tư để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong
một thời hạn nhất định; hết thời hạn, nhà đầu tư chuyển giao không bồi hoàn
công trình đó cho Nhà nước Việt Nam.
“Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh ( gọi tắt là hợp đồng
BTO) là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và
nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong,
nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam; Chính phủ
dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất
định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận”
“ Hợp đồng xây dựng - chuyển giao (sau đây gọi tắt là hợp đồng BT)
là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu
tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư
chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam; Chính phủ tạo điều kiện
cho nhà đầu tư thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hoặc
thanh toán cho nhà đầu tư theo thoả thuận trong hợp đồng BT” (luật đầu tư
2005,tr2)
BTO và BT là các hình thức phái sinh của BOT, theo đó quy trình đầu
tư, khai thác, chuyển giao được đảo lộn trật tự.
Hình thức BOT, BTO, BT có các đặc điểm cơ bản: một bên ký kết phải
là Nhà nước; lĩnh vực đầu tư là các công trình kết cấu hạ tầng như đường sá,
cầu, cảng, sân bay, bệnh viện, nhà máy sản xuất, điện, nước...; bắt buộc đến
thời hạn phải chuyển giao không bồi hoàn cho Nhà nước.

Ưu điểm của hình thức này là thu hút vốn đầu tư vào những dự án kết
cấu hạ tầng, đòi hỏi lượng vốn lớn, thu hồi vốn trong thời gian dài, làm giảm
áp lực vốn cho ngân sách nhà nước. Đồng thời, nước sở tại sau khi chuyển
giao có được những công trình hoàn chỉnh, tạo điều kiện phát huy các nguồn
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lực khác để phát triển kinh tế. Tuy nhiên, hình thức BOT có nhược điểm là độ
rủi ro cao, đặc biệt là rủi ro chính sách; nước chủ nhà khó tiếp nhận kinh
nghiệm quản lý, công nghệ.
e. Đầu tư mua cổ phần hoặc sáp nhập, mua lại doanh nghiệp
Đây là hình thức thể hiện kênh đầu tư Cross - border M & As. Khi thị
trường chứng khoán phát triển, các kênh đầu tư gián tiếp (FPI) được khai
thông, nhà đầu tư nước ngoài được phép mua cổ phần, mua lại các doanh
nghiệp ở nước sở tại, nhiều nhà đầu tư rất ưa thích hình thức đầu tư này.
Cross-border M & As là kênh đầu tư mà các chủ đầu tư tiến hành đầu tư
thông qua việc mua lại và sáp nhập các doanh nghiệp hiện có ở nước ngoài
hoặc mua cổ phần của các công ty cổ phần. Hình thức này chủ yếu là chuyển
sở hữu của các doanh nghiệp đang tồn tại ở nước chủ nhà sang sở hữu của các
nhà đầu tư nước ngoài. Về lâu dài, hình thức M & As sẽ thu hút được nguồn
vốn từ bên ngoài do mở rộng qui mô hoạt động của doanh nghiệp. Kênh đầu
tư này chủ yếu được thực hiện ở các nước phát triển, các nước mới công
nghiệp hóa, đặc biệt là trong những lĩnh vực công nghệ cao và có xu hướng
tăng mạnh trong những năm gần đây. Luật Đầu tư 2005 của Việt Nam cũng
đã thừa nhận và pháp lý hoá kênh đầu tư này ở Việt Nam. Tuy nhiên, hình
thức đầu tư này vẫn chưa phổ biến ở nước ta do đây là kênh đầu tư FDI mới,
nhà đầu tư còn dè chừng; hơn nữa, Nhà nước vẫn hạn chế về tỷ lệ cổ phần của
người nước ngoài trong các công ty cổ phần trong nước.
Ở đây, về mặt khái niệm, có vấn đề ranh giới tỷ lệ cổ phần mà nhà đầu tư
nước ngoài mua - ranh giới giúp phân định FDI với FPI. Khi nhà đầu tư nước
ngoài tham gia mua cổ phiếu, trái phiếu trên thị trường chứng khoán nước sở

tại, họ tạo nên kênh đầu tư gián tiếp nước ngoài (FPI). Tuy nhiên, khi tỷ lệ sở
hữu cổ phiếu vượt quá giới hạn nào đó cho phép họ có quyền tham gia quản
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lý doanh nghiệp thì họ trở thành nhà đầu tư FDI. Luật pháp Hoa Kỳ và nhiều
nước phát triển quy định tỷ lệ ranh giới này là 10%. Đối với Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay, tỷ lệ này được quy định là 30%.
Hình thức mua cổ phần hoặc mua lại toàn bộ doanh nghiệp có ưu điểm
cơ bản là để thu hút vốn và có thể thu hút vốn nhanh, giúp phục hồi hoạt động
của những doanh nghiệp bên bờ vực phá sản. Nhược điểm cơ bản là dễ gây
tác động đến sự ổn định của thị trường tài chính. Về phía nhà đầu tư, đây là
hình thức giúp họ đa dạng hoá hoạt động đầu tư tài chính, san sẻ rủi ro nhưng
cũng là hình thức đòi hỏi thủ tục pháp lý rắc rối hơn và thường bị ràng buộc,
hạn chế từ phía nước chủ nhà.
1.3. Các nhân tố tác động tới dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
nước tiếp nhận.
Theo báo cáo của UNCTAD đưa ra chỉ số tiềm năng thu hút FDI(inward
FDI potential index) để đánh giá khả năng thu hút FDI.Chỉ số này dựa trên 8
yếu tố là tỷ lệ tăng trưởng kinh tế, GDP/ đầu người, xuất khẩu/ GDP, số điện
thoại / 1000 dân, năng lượng mang tính thương mại được sử dụng/ đầu người,
chi tiêu cho nghiên cứu và triển khai/ thu nhập quốc dân ròng, số sinh viên
theo học trong ngành dịch vụ trong dân số và mức độ rủi ro chính trị của quốc
gia.
1.3.1. Khuôn khổ chính sách đối với FDI.
1. Sự ổn định về kinh tế, chính trị, xã hội.
2. Các nguyên tắc có liên quan đến việc lĩnh vực được đầu tư và hoạt
động của FDI.
3. Các chuẩn mực đối xử đối với các chi nhánh nước ngoài.
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368

4. Chính sách đối với hoạt động và cấu trúc của thị trường (đặc biệt là
chính sách về cạnh tranh& thôn tính sát nhập).
5. Các hiệp định quốc tế về FDI .
6. Chính sách tư nhân hóa .
7. Chính sách thương mại(thuế quan &phi thuế quan) và sự gắn kết giữa
FDI và chính sách thương mại.
8. Chính sách thuế.
1.3.2. Những yếu tố tạo thuận lợi cho kinh doanh.
1. Xúc tiến đầu tư (bao gồm các hoạt động như tạo dựng hình ảnh & thúc
đẩy đầu tư.)
2. Khuyến khích đầu tư.
3. Những chi phí nhũng nhiễu( có liên quan đên tham nhũng,hiệu quả
quản lí hành chính…) và tiện nghi xã hội( chất lượng cuộc sống,trường học
song ngữ…).
1.3.3. Những yếu tố kinh tế.
1. FDI mở rộng thị trường .
+ Độ lớn của thị trường & thu nhập bình quân đầu người.
+ Sự tăng trưởng của thị trường.
+ Khả năng tiếp cận thị trường khu vực và thế giới.
+ Sở thích tiêu dùng đặc định của nước tiếp nhận FDI.
+ Cấu trúc của các thị trường.
2. FDI tìm kiếm nguồn tài nguyên.
+ Nguyên liệu thô.
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
+ Nhân lực kĩ năng thấp với giá rẻ.
+ Các tài sản mang tính công nghệ, sáng tạo (như thương hiệu công ti
chẳng hạn) được biểu hiện ở các cá nhân,các công ti hay nhóm công ti..
+ Cơ sở hạ tầng cứng (hải cảng, đường sá, điện năng, phương tiện truyền
thông).

3. FDI tìm kiếm hiệu quả sản xuất.
+ Chí phí đầu vào như là chi phí giao thông và liên lạc đến hoặc từ và
trong phạm vi tiếp nhận FDI, chi phí của các sản phẩm trung gian.
+ Thành viên của hiệp định liên kết khu vực, dẫn tới việc thành lập
mạng lưới hợp tác khu vực.
(Nguồn: UNCTAD “World Investment Report 2002”
United nations, New York and Geneva,2002,p.24).
Tóm lại, mặc dù có nhiều nhân tố khác nhau quyết định dòng vốn FDI
vào các nước tuy nhiên có thể khái quát lại thành 3 nhóm nhân tố cơ bản : lợi
nhuận dự tính có được từ những dự án cụ thể, sự dễ dàng đối với các chi
nhánh nước ngoài trong việc thực hiện mục tiêu toàn cầu của nhà đầu tư&
chất lượng môi trường đầu tư ở các nước tiếp nhận.
Để đánh giá hiệu quả của FDI, UNCTAD đưa ra chỉ số hoạt động của
FDI.
Chỉ số hoạt động FDI (FDI của quốc gia/FDI thế giới)
của một nước = ----------------------------------------
(GDP của quốc gia/ GDP thế giới)
Nếu chỉ số hoạt động FDI bằng 1, nước đó thu hút được lượng FDI
tương đối phù hợp với qui mô của nền kinh tế, nếu chỉ số này nhỏ hơn 1
lượng FDI còn chưa tương xúng với qui mô của nền kinh tế.
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.4. Xu hướng vận động của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1.4.1. Xu hướng dòng FDI hiện nay trên thế giới.
Cùng với quá trình toàn cầu hóa kinh tế thế giới ngày càng sâu rộng, vốn
đầu tư nước ngoài đã phát triển nhanh và trở thành một hình thức quan trọng
trong hoạt động đầu tư của các quốc gia trên thế giới.
UNCTAD vừa cho biết, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) toàn cầu đã
tăng lên mức cao kỷ lục 1.538 tỷ USD trong năm 2007 bất chấp cuộc khủng
hoảng tài chính và tín dụng diễn ra vào nửa cuối năm.

Sự phân bổ dòng vốn FDI không đều, phần lớn tập trung ở các nước
công nghiệp phát triển, dòng vốn FDI chảy vào các nước đang phát triển tuy
có chiều hướng tăng lên nhưng tỷ trọng còn rất nhỏ bé. Năm 2006, luồng vốn
FDI vào khu vực Nam, Đông và Đông Nam Á đạt 186,7 tỷ USD, chiếm 22%
tổng FDI toàn cầu, tăng 13,1% so với năm 2005. 2/3 FDI vào khu vực này là
vào Trung Quốc (36 tỷ USD) và Đông Nam Á (37 tỷ USD) bao gồm
Singapore (20 tỷ USD). Malaysia và Thái Lan (mỗi nước 4 tỷ USD). Dòng
vốn vào khu vực Nam Á thấp hơn nhiều (10 tỷ USD) chủ yếu là đầu tư vào
Ấn Độ (7 tỷ USD). Trong năm 2007, Mỹ vẫn là địa chỉ thu hút FDI nhiều
nhất với 193 tỷ USD, tăng 10% so với năm 2006, tuy tốc độ tăng này chậm
hơn so với nhiều nước khác. Trung Quốc là nước nhận được nhiều FDI nhất
trong số các nước đang phát triển với 67,3 tỷ USD, tuy giảm 3,1% so với năm
2006. Nguồn FDI vẫn tăng ở cả ba nhóm kinh tế gồm các nền kinh tế phát
triển, các nền kinh tế đang phát triển và các nền kinh tế trong thời kỳ quá độ
như Đông Nam Âu và Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG). Nguồn FDI đổ
vào nhóm thứ nhất tăng trong bốn năm liên tiếp, lên tới gần một nghìn tỷ
USD. Khoảng 224 tỷ USD của nguồn FDI đổ vào nhóm thứ hai được dành
cho các khu vực như Nam Á, Đông Á, Đông Nam Á và châu Đại Dương. FDI
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đổ vào nhóm thứ ba tăng 41% lên mức kỷ lục 98 tỷ USD. Ủy ban kinh tế Mỹ
Latinh và Caribe của Liên hiệp quốc (CEPAL) đánh giá, mặc dù phải đối mặt
với những biến động của thị trường tài chính quốc tế và cuộc khủng hoảng
trên thị trường vay thế chấp ở Mỹ song các nước khu vực Mỹ Latinh đã hạn
chế những tác động từ bên ngoài và tạo bước đột phá trong phát triển kinh tế
với mức tăng trưởng bình quân 5,6%; thu hút FDI 95 tỷ USD, cao nhất trong
tám năm trở lại đây, mang lại thặng dư lớn cho khu vực này. Dòng vốn FDI
trên toàn cầu trong ba năm tới được dự báo sẽ tăng lên, mặc dù có nhiều lo
ngại về sự bất ổn tài chính và việc một số quốc gia áp dụng các biện pháp bảo
hộ. Theo Khảo sát Triển vọng đầu tư thế giới 2007-2009 của UNCTAD, hơn

2/3 trong tổng số 192 công ty xuyên quốc gia lớn nhất thế giới cho biết, họ có
kế hoạch tăng vốn đầu tư ra nước ngoài trong vòng ba năm tới.
Có nguy cơ bất ổn về kinh tế ở châu Á .
Các chuyên gia dự đoán, trong thời gian tới, dòng vốn FDI vào ba nền
kinh tế lớn của châu Á là Trung Quốc, Nhật Bản và Ấn Độ sẽ có sự khác biệt
rất lớn. Trung Quốc tiếp tục duy trì sức hấp dẫn đối với giới đầu tư nước
ngoài. Nhật Bản do hệ thống pháp luật mang nặng tính bảo hộ sẽ khó thúc đẩy
việc thu hút FDI. Trong năm năm tới, FDI vào Ấn Độ tăng mạnh, nhưng vẫn
thấp hơn tiềm lực phát triển kinh tế của nước này. Ba nước này hiện chiếm
30% tổng FDI trên toàn cầu. FDI vào Trung Quốc dự kiến từ năm 2007 -
2011 sẽ đạt khoảng 87 tỷ USD/năm và chiếm khoảng 6% tổng FDI toàn cầu.
Các công ty đa quốc gia, các ngành công nghiệp khai thác và phát triển
chuyển dịch dòng vốn FDI vào tiểu vùng Nam và Đông Nam theo hướng sử
dụng nhiều lao động trí thức và các hoạt động làm gia tăng giá trị. Cụ thể,
Trung Quốc và Hồng Kông (Trung Quốc) vẫn giữ vị trí lớn nhất trong vùng
nhận được FDI, theo sau là Singapore và Ấn Độ. Theo UNCTAD, sự tăng
trưởng kinh tế nhanh chóng ở Đông, Nam và Đông Nam Á sẽ tiếp tục châm
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ngòi cho chiến dịch săn tìm thị trường đầu tư FDI trong vùng. Khu vực này
cũng sẽ trở nên hấp dẫn hơn đối với việc tìm kiếm hiệu quả đầu tư FDI,
những quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia và Việt Nam đang có kế
hoạch cải thiện đáng kể hạ tầng cơ sở của mình. Trong khi đó, nhiều nhà phân
tích lại cho rằng lượng tiền rất lớn từ bên ngoài đổ vào châu Á hiện nay có
nguy cơ gây bất ổn cho các nền kinh tế khu vực.Còn nhớ cuộc khủng hoảng
tài chính ở châu Á năm 1997 đã xảy ra sau khi các nhà đầu tư ồ ạt rút tiền
khỏi khu vực, nơi trước đó họ đã đổ vào mua chứng khoán và trái phiếu ngân
hàng.Vì thế, dòng vốn lớn từ bên ngoài chảy vào châu Á đang khiến giới kinh
tế lo ngại một cuộc khủng hoảng tương tự có thể xảy ra. Mối lo ngại này tăng
lên khi dòng đầu tư trực tiếp và gián tiếp của nước ngoài đổ vào châu lục này

lên tới mức kỷ lục, giữa lúc áp lực đối với các đồng tiền trong khu vực và lạm
phát cùng gia tăng, trong khi các ngân hàng châu Á lại thiếucác quy định chặt
chẽ về cho vay vốn.
Dòng vốn FDI đang chịu sự chi phối và kiểm soát chủ yếu bởi các
TNCs của các nước phát triển.
Mặc dù ngày càng có sự đa dạng hóa trong các đối tác và chủ thể tham
gia vào quá trình luân chuyển FDI, nhưng thực chất dòng vốn FDI quốc tế
hiện nay đang bị chi phối bởi các công ty xuyên quốc gia ở các nước phát
triển. Các công ty xuyên quốc gia trở thành những chủ thể đầu tư trực tiếp với
khối lượng kiểm soát trên 90% tổng FDI toàn thế giới, đồng thời là lực lượng
chủ yếu vận hành những mảng lớn của nền kinh tế thế giới, nắm vững nguồn
vốn tài chính, kỹ thuật, nắm giữ các ngành kinh tế then chốt và mũi nhọn,
kiểm soát thương mại quốc tế theo thống kê, các công ty xuyên quốc gia nắm
giữ gần 40% sản lượng công nghiệp; 60% ngoại thương, 80% kỹ thuật mới
của thế giới tư bản. Chỉ tính riêng 100 công ty xuyên quốc gia lớn nhất thế giới
(tất cả đều thuộc Mỹ, EU và Nhật Bản) đã chiếm 1/3 FDI toàn cầu và tổng tài sản
19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ở nước ngoài của các công ty này đã lên tới 1.400 tỷ USD, sử dụng 73 triệu lao
động, trong đó lao động ở nước ngoài là 12 triệu, chiếm trên 16%.
Hiện nay, các công ty xuyên quốc gia tiếp tục vươn ra các khu vực khác
nhau trên thế giới với quy mô FDI ngày càng lớn, đóng vai trò ngày càng
quyết định đối với lĩnh vực này. Bên cạnh việc giữ vững các khu vực đầu tư
truyền thống như Châu Âu, Bắc Mỹ, các công ty xuyên quốc gia đang gia
tăng hoạt động đầu tư vào những địa bàn mới đầy triển vọng. Đặc biệt, tất cả
các công ty xuyên quốc gia đều đẩy mạnh đầu tư vào khu vực châu Á. Đây
cũng là địa bàn ưu tiên đầu tư hàng đầu của Nhật Bản, hàng thứ hai của Mỹ (sau
Châu Âu) và hàng thứ ba của các nước Châu Âu (sau Bắc Mỹ và Châu Âu).
Tính cạnh tranh giữa các nước đầu tư và giữa các nước tiếp nhận
đầu tư với nhau ngày càng cao. Sự phát triển của nền kinh tế thế giới và tiến

trình toàn cầu hóa làm cho nguồn vốn FDI ngày càng mở rộng và gia tăng
nhưng đồng thời nhu cầu thu hút sử dụng FDI ở tất cả các nước. Đặc biệt là
các nước đang phát triển cũng ngày càng lớn, dẫn đến sự cạnh tranh quyết liệt
giữa các nước và khu vực nhằm thu hút nguồn vốn này. Các nước nhận FDI -
đặc biệt là các nước vừa phục hồi sau khủng hoảng, các nền kinh tế đang
chuyển đổi và các nước đang phát triển khác có xu hướng tập trung nỗ lực
đẩy mạnh việc cải thiện môi trường đầu tư theo hướng thông thoáng, mở cửa
rộng hơn, tạo điều kiện kết cấu hạ tầng ngày càng thuận lợi hơn, kích thích
tiêu dùng nội địa, dỡ bỏ bớt những “rào cản” trong các lĩnh vực, kể cả lĩnh
vực nhạy cảm như bảo hiểm, viễn thông, năng lượng... nhằm thu hút, “lôi
kéo” FDI.
Trong tổng FDI toàn cầu, các nước đang phát triển chỉ tiếp nhận được
trên 20%, nhưng 2/3 của số đó lại tập trung vào một số nước có điều kiện
thuận lợi và sức hấp dẫn đầu tư cao như Trung Quốc, ấn Độ, Singapore, Hàn
Quốc... Hàn Quốc trước đây là nước chủ yếu sử dụng vay nợ nước ngoài để
20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phát triển. Từ cuối những năm 1980 và nhất là sau khủng hoảng tài chính, tiền
tệ khu vực đã thay đổi chính sách, chuyển sang mở cửa thu hút mạnh FDI để
cơ cấu lại nền kinh tế. Trong đó có việc cơ cấu lại hệ thống các tập đoàn kinh
tế, do vậy đã thoát nhanh khỏi khủng hoảng, tạo ra sức sống mới cho nền kinh
tế. Nhiều nước khác trong khu vực cũng đang tích cực cải thiện môi trường
đầu tư, cạnh tranh trong việc thu hút FDI như Thái Lan, Malaysia, Philippin...
Hiện nay đang có sự cạnh tranh khá gay gắt về thu hút FDI trong khu vực
đang xuất hiện xu hướng dịch chuyển luồng vốn FDI từ một số nước ASEAN
sang Trung Quốc...
Không chỉ có sự cạnh tranh của các nước tiếp nhận đầu tư, cuộc cạnh
tranh giữa các nhà đầu tư cũng không kém phần quyết liệt, tạo cho các nước
tiếp nhận đầu tư có khả năng lực chọn. Các nhà cung cấp FDI đang “ráo riết”
chào mời để có thể nhảy vào những lĩnh vực và thị trường kinh doanh béo bở,

những dự án lớn được chính phủ nước sở tại khuyến khích bảo lãnh, bảo hộ...
1.4.2. Xu hướng FDI vào Việt nam trong những năm tới.
Báo cáo đầu tư thế giới năm 2004 do UNDP tổ chức ngày 23/9 tại Hà
Nội, các chuyên gia của UNDP cho rằng Việt Nam đang tạo được một môi
trường đầu tư rất tốt, đặc biệt là đáp ứng được nhu cầu của các nhà đầu tư
mong muốn đa dạng hoá lĩnh vực đầu tư để tránh rủi ro. Với trên 80 triệu dân,
Việt Nam là một thị trường lớn hấp dẫn nhà đầu tư. Vào WTO, Việt Nam trở
nên hấp dẫn các nhà đầu tư hơn bao giờ hết vì nó mở ra khả năng tiếp cận thị
trường toàn cầu cho các nhà đầu tư. Đặc biệt việc trở thành thành viên không
thường trực của hội Đồng Bảo An Liên Hợp Quốc đã nâng cao uy tín và vị
thế của Việt nam trên trường quốc tế.việc tăng cường phân cấp trong khâu
quản lí cũng như có nhiều cải thiện tích cực về môi trường đầu tư đã và đang
là tín hiệu tốt mời giọi các nhà đầu tư. Các doanh nghiệp nước ngoài sẽ xây
21
Website: Email : Tel : 0918.775.368
dựng nhà máy ở Việt Nam để xuất khẩu đi các nước khác. Chắc chắn dòng
FDI tăng mạnh vào việt Nam, thực tế quí I đầu năm 2008 đã chứng minh
nhận định trên với việc thu hút được trên 5,1 tỉ USD của 147 dự án.
Theo dự báo của Cục đầu tư nước ngoài, từ nay tới năm 2010 Nhật Bản
vẫn giữ vai trò hàng đầu trong đầu tư tại Việt Nam. Đầu tư của các đối tác
quan trọng như Mỹ, EU và các đối tác truyền thống như Đài Loan, Hàn Quốc,
Singapore được dự báo cũng sẽ gia tăng trong giai đoạn tới, với việc chuyển
hướng đầu tư sang các lĩnh vực công nghệ cao và sinh lời như tài chính, ngân
hàng, dịch vụ…
Đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam đang có xu hướng tăng
nhanh trong những năm gần đây, tuy vẫn chỉ ở dạng “phôi thai”. Theo các số
liệu được công bố, đầu tư FDI của Trung Quốc từ 1988 tới nay vẫn chỉ khiêm
tốn trên 1,7 tỷ USD. Tuy nhiên, thực chất, khoản đầu tư lớn của Trung Quốc
đổ vào Việt Nam lại qua các đối tác ở Hồng Kông với số tiền lên tới 3 tỷ 700
triệu USD kể từ năm 1988.

1.5. Tác động của FDI đối với sự phát triển kinh tế -xã hội.
1.5.1.Tác động đối với nước đi đầu tư.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.Thông qua đầu tư FDI các
nước đi đầu tư tận dụng được những lợi thế về chi phí sản xuất thấp của các
nước nhận đầu tư (giá nhân công rẻ, chi phí khai thác nguyên nhiên vật liệu
tại chỗ thấp) để hạ giá thành sản phẩm, giảm chi phí vận chuyển đối với việc
sản xuất hàng thay thế nhập khẩu ở các nước tiếp nhận đầu tư.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài cho phép các công ti có thể kéo dài chu kì
sống của sản phẩm đã được sản xuất và tiêu thụ ở thị trường trong
nước.Thông qua FDI các công ti cùa các nước phát triển chuyển được một
22
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phần các sản phẩm công nghiệp ở giai đoạn cuối của chu kì sống sản phẩm
sang các nước nhận đầu tư để tiếp tục sử dụng chúng như nững sản phẩm mới
ở các nước này, tạo thêm lợi nhuận cho nhà đầu tư.
- Giúp các công ti ở chính quốc tạo dựng được thị trường cung cấp
nguyên vật liệu dồi dào, ổn định với giá rẻ.
- Cho phép chủ đầu tư bành trướng sức mạnh về kinh tế tăng cường
khả năng ảnh hưởng của mình trên thị trường quốc tế, nhờ mở rộng được thị
trường tiêu thụ sản phẩm, lại tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của các
nước tiếp nhận đầu tư, giảm giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh với các
hàng hóa nhập từ các nước khác.
1.5.2. Đối với các nước tiếp nhận đầu tư.
a) Những tác động tích cực.
1. FDI thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bổ sung nguồn vốn cho phát triển
kinh tế - xã hội.
Đầu tư là yếu tố vô cùng quan trọng tác động đến tốc độ tăng trưởng
kinh tế. Vốn đầu tư cho phát triển kinh tế được huy động từ hai nguồn chủ
yếu là vốn trong nước và vốn ngoài nước. Vốn trong nước được hình thành
thông qua tiết kiệm và đầu tư. Vốn nước ngoài được hình thành thông qua vay

thương mại, đầu tư gián tiếp và hoạt động FDI. Với các nước nghèo và đang
phát triển, vốn là một yếu tố đặc biệt quan trọng đối với phát triển kinh tế.
Những quốc gia này luôn lâm vào tình trạng thiếu vốn đầu tư, hoạt động sản
xuất và đầu tư ở những nước này như là một “vòng đói nghèo luẩn quẩn”
(theo Paul A. Samuelson). Để phá vỡ vòng luẩn quẩn ấy, các nước nghèo và
đang phát triển phải tạo ra “một cú huých lớn”, mà biện pháp hữu hiệu là tăng
vốn cho đầu tư, huy động các nguồn lực để phát triển nền kinh tế để tạo ra
tăng trưởng kinh tế dẫn đến thu nhập tăng.
23
Website: Email : Tel : 0918.775.368
So với những hình thức đầu tư nước ngoài khác, đầu tư trực tiếp nước
ngoài có những ưu điểm cơ bản sau đây:
- FDI không để lại gánh nợ cho chính phủ nước tiếp nhận đầu tư về
chính trị, kinh tế như hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) hoặc các hình thức
đầu tư nước ngoài khác như vay thương mại, phát hành trái phiếu ra nước
ngoài... Do vậy, FDI là hình thức thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài
tương đối ít rủi ro cho nước tiếp nhận đầu tư.
- Nhà đầu tư không dễ dàng rút vốn ra khỏi nước sở tại như đầu tư gián
tiếp. Kinh nghiệm rút ra từ cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực 1997
đã cho thấy, những nước chịu tác động nặng nề của khủng hoảng thường là
những nước nhận nhiều vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài. Nên FDI mang tính
ổn định hơn so với những khoản đầu tư khác.
Thực tiễn cho thấy các nước NIC strong gần 30 năm qua nhờ nhận được
trên 50 tỉ USD đầu tư nước ngoài cùng với chính sách kinh tế năng động, hiệu
quả đã trở thành những con rồng châu Á.
Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới với xuất phát điểm rất thấp. FDI
được coi là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho đầu tư phát triển kinh tế - xã
hội. Kể từ khi Luật đầu tư nước ngoài được ban hành nước ta đã thu hút được
trên 9500 dự án với mức vốn đăng ký đạt hơn 98 tỷ USD và hiện còn 8590 dự
án có hiệu lực với tổng vốn đăng kí 83,1 tỉ USD. Tỷ lệ đóng góp vào GDP

của khu vực FDI ngày càng tăng. Nếu năm 1994, ở mức 6,9%, thì năm 2004
là 15,2% và “năm 2005 các doanh nghiệp FDI đóng góp 15,9% GDP… gần
10% tổng thu ngân sách nhà nước”. Khu vực FDI đã góp phần quan trọng
trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, trở
thành một bộ phận quan trọng trong hệ thống kinh tế quốc dân.
24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2. Tăng cường chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa
hiện đại hóa.
Phần lớn vốn FDI đầu tư cho lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, trong đó
có những ngành chủ chốt như xây dựng cơ sở hạ tầng, khai thác chế biến dầu
khí, hóa chất và sản xuất thiết bị và hàng tiêu dùng …
FDI góp phần làm tăng tỉ trọng của những ngành này trong nền kinh tế
đồng thời tạo điều kiện để hiện đại hóa nền sản xuất nông nghiệp và phát triển
kinh tế nông thôn. Khu vực có vốn FDI còn giúp hình thành các ngành công
nghiệp và dịch vụ hiện đại như điện tử, tin học, viễn thong, lắp ráp ô tô và xe
máy, giúp chuyển giao công nghệ và kĩ năng quản lí tiên tiến nâng cao hiệu
quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.Đầu tư trực tiếp nước ngoài có tác động
mạnh đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước tiếp nhận theo nhiều
phương diện: chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu vùng lãnh thổ, cơ cấu
theo nguồn vốn, cơ cấu vốn đầu tư…
3. Góp phần vào sự phát triển công nghệ, kĩ thuật mới, cải thiện đáng kể
kết cấu hạ tầng.
Các nước đang phát triển có đặc điểm là trình độ khoa học và công nghệ
thấp, sử dụng công nghệ lạc hậu, do đó năng suất lao động thấp, hiệu quả và
sức cạnh tranh sản phẩm yếu.Trong khi phần lớn những kỹ thuật mới được
phát minh trên thế giới vẫn xuất phát chủ yếu từ các nước công nghiệp phát
triển. Xét về nhu cầu, cần có quá trình chuyển giao công nghệ từ các nước
phát triển sang các nước đang phát triển. Có hai hình thức chuyển giao công
nghệ là trực tiếp và gián tiếp, trong đó FDI là hình thức chuyển giao công

nghệ trực tiếp và có hiệu quả nhất. Có nhiều phương thức chuyển giao công
nghệ khác nhau như nhập khẩu thiết bị, kỹ thuật, mua hoặc hợp đồng sử dụng
bản quyền, sáng chế; tự thiết kế và sản xuất theo bản thiết kế tổng thể do bên
25

×