Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Tách dòng và xác định trình tự gene kháng thể tái tổ hợp kháng tế bào lympho bệnh ung thư vú

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (341.11 KB, 37 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Ung thư là một trong những căn bệnh hiểm nghèo có tỉ lệ tử vong cao, đứng thứ
hai sau bệnh tim mạch. Hằng năm, trên thế giới có hàng triệu người chết vì ung thư
và dường như tỉ lệ mắc bệnh ung thư ngày một cao hơn. Vì rằng căn bệnh này có
thể xảy ra với bất kỳ ai và ở bất kỳ cơ quan nào của cơ thể cũng như ở mọi lứa tuổi.
Ung thư biểu hiện khi sự kiểm soát quá trình điều hoà sinh trưởng của tế bào bị sai
lệch, dẫn đến sự tăng sinh tế bào một cách bất thường, tạo thành các khối u ác tính.
Ung thư có thể xảy ra ở bất kỳ bào quan nào, bất kỳ mô nào trong cơ thể. Phụ
thuộc vào vị trí xuất hiện của các khối u mà người ta gọi tên các bệnh ung thư khác
nhau: ung thư máu xảy ra với các tế bào máu và tế bào mầm, ung thư vú là sự tăng
sinh của các tế bào vú, ung thư phổi xảy ra với các tế bào phổi...Ung thư có thể do
di truyền, do virus hoặc do các điều kiện ngoại cảnh gây nên như hoá chất, tia tử
ngoại... nhưng cho dù bát cứ nguyên nhân nào thì ung thư đều có chung một hậu
quả là sự phát triển vô tổ chức của một tế bào hoặc một nhóm tế bào ban đầu và
cuối cùng tạo thành các khối u và di căn ở giai đoạn cuối.
Một trong những đặc điểm khác biệt của tế bào ung thư với các tế bào bình
thường được các nhà khoa học quan tâm đó là các phân tử protein đặc hiệu của tế
bào ung thư, chúng là sản phẩm của các gene “đặc biệt” trong tế bào ung thư. Các
phân tử protein đặc hiệu của tế bào ung thư hoặc được gắn trên bề mặt màng tế bào
hoặc được giải phóng vào hệ tuần hoàn dưới dạng các phân tử tự do. Sử dụng các
protein này làm chỉ thị trong chẩn đoán sớm đối với các bệnh ung thư đang được
các nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm.
Trong số các bệnh ung thư thì một trong những bệnh ung thư phổ biến nhất ở phụ
nữ nhiều nước trên thế giới là ung thư vú. Tại Việt nam, theo ghi nhận của Hà nội
năm 1998, tỷ lệ ung thư vú chuẩn theo tuổi là 20,3/100.000 dân, đứng đầu trong các
ung thư của phụ nữ. Tại thành phố Hồ Chí Minh, tỷ lệ này là 17,1/100.000 dân,
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đứng hàng thứ 2 sau ung thu cổ tử cung. Tỷ lệ mắc ung thư vú đang tăng không chỉ
ở Việt Nam mà hầu hết các nước trên thế giới. Vì vậy, ung thư vú chiếm vị trí rất


quan trọng trong việc chăm sóc sức khoẻ cộng đồng.
Để góp phần xây dựng bộ kit chẩn đoán sớm bệnh ung thư vú, chúng tôi tiến
hành nghiên cứu tạo kháng thể kháng lại dòng tế bào ung thư vú. Tuy nhiên, trong
khuôn khổ đồ án này, chúng tôi chỉ chú trọng nghiên cứu : “Tách dòng và xác định
trình tự gene kháng thể tái tổ hợp kháng tế bào lympho bệnh ung thư vú”.
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
I
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. SƠ LƯỢC VỀ BỆNH UNG THƯ
Ung thư là tên chung dùng để gọi một nhóm bệnh trên 200 loại khác nhau về
nguồn gốc của tế bào, căn nguyên, tiên lượng và cách thức điều trị nhưng có những
đặc điểm chung, đó là sự phân chia không kiểm soát được của tế bào, khả năng tồn
tại và phát triển ở các cơ quan và tổ chức lạ.
Các ung thư thường phát triển từ một tế bào ban đầu và phải mất nhiều năm cho
tới khi có một kích thước đủ lớn để có thể nhận thấy được. Quá trình phát triển từ
một tế bào duy nhất thành một khối ung thư trải qua nhiều giai đoạn.
Thông thường, các tế bào lành có một tuổi thọ nhất định và tuân thủ theo một
qui luật chung là phát triển – già - chết. Các tế bào chết đi lại được thay thế bằng
các tế bào mới. Cơ thể có một cơ chế kiểm soát qui luật một cách chặt chẽ và duy trì
số lượng tế bào ở mỗi cơ quan, tổ chức ở mức ổn định. Còn khối u, về cơ bản là do
sự phát triển và phân chia tế bào bình thường trở nên quá mức, do đó các tế bào
phân chia liên tục và mất kiểm soát. Phân chia tế bào bình thường là quá trình tích
cực cần thiết, nó khiến tóc mọc, da tự đổi mới và hàng loạt những điều quan trọng
cho sức khoẻ khác. Quá trình phân chia xảy ra theo nhu cầu. Đôi khi có điều gì
khiến đó khiến các tế bào sinh sản nhanh hơn như tổn thương hoặc phẫu thuật mà
quá trình liền vết thương đòi hỏi các tế bào phân chia nhiều hơn bình thường.
Vấn đề then chốt là sự phát triển tế bào để khoẻ mạnh hoặc để thay thế bất cứ là
theo nhịp bình thường hay tăng tốc trong lúc khẩn cấp đều được kiểm soát. Ngoài
3

Website: Email : Tel : 0918.775.368
ra, mọi tế bào già đi và sẽ chết ở một thời điểm ấn định. Trong ung thư, sự phát
triển nói chung mất điều tiết và sự chết của tế bào bị chậm lại, hậu quả là các tế bào
ung thư cứ tiếp tục phát triển. Ngoài sự phát triển mất kiểm soát, các tế bào ung thư
còn có thể phát triển lan sang các cơ quan xa hơn trong cơ thể và quá trình này gọi
là di căn và đây cũng là lý do chính mà ung thư gây ốm và cuối cùng là tử vong.
Khi các dòng tế bào ung thư phát triển khắp cơ thể chúng trở thành vật ký sinh
sử dụng tất cả chất dinh dưỡng, glucose, và oxy của cơ thể để tiếp tục phát triển. Đó
là những lý do giải thích tại sao ung thư giai đoạn cuối thì lại sụt cân và trông rất
suy mòn: Tất cả các chất dinh dưỡng đều bị tế bào ung thư sử dụng. Tuỳ thuộc vào
cơ quan nào bị ung thư mà chúng nhanh chóng cản trở một số cấu trúc hoặc chức
năng sống cònvà dẫn đến tử vong.Bệnh ung thư bắt đầu khi có một tế bào vượt qua
cơ chế kiểm soát này của cơ thể, bắt đầu phát triển và sinh sôi không ngừng nghỉ,
hình thành một đám tế bào có chung một đặc điểm phát triển vô tổ chức, xâm lấn và
chèn ép vào các cơ quan và tổ chức xung quanh. Các tế bào ung thư có liên kết lỏng
lẻo, dễ dàng bứt ra khỏi khối u mẹ, theo mạch máu và mạch bạch huyết di cư đến
các tổ chức và cơ quan mới, bám vào và tiếp tục sinh sôi nảy nở ( quá trình này gọi
là “di căn”). Các ung thư chèn ép hoặc di căn vào các cơ quan giữ chức năng sống
của cơ thể như não, phổi, gan, thận... bệnh nhân sẽ tử vong.
Chìa khoá để hiểu ung thư là chỉ ra gene kiểm soát sự phát triển, xâm nhập và di
căn của tế bào. Cái gì khiến cho các tế bào phát triển? Cái gì khiến chúng ngừng
phát triển? Cái gì khiến chúng xâm nhập và di căn? Môi trường ảnh hưởng như thế
nào đến sự phát triển của các tế bào? Tất cả các điều này đều được định sẵn trong
gene.
Ngày nay, người ta đã biết rằng sự phát triển không bình thường của tế bào
trong cơ thể được kiểm soát bằng ba nhóm gene:
- Nhóm gene sinh trưởng (oncogenes): chịu trách nhiệm về sự phát triển và
biệt hoá của tế bào. Nếu nhóm gene này bị tổn thương (biến dị), nó hoạt
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368

động không theo đúng qui luật và sẽ khiến các tế bào phân chia liên tục và
phát triển một cách không kiểm soát được.
- Nhóm gene ức chế (oncogene supressors): chịu trách nhiệm ức chế gene sinh
trưởng, không cho các tế bào tham gia tuỳ tiện vào chu kì sinh trưởng, Nếu
gene này bị mất hoặc bị tổn thương, các gene sinh trưởng bị mất kiểm soát
và hoạt động một cách bất thường khiến cho các tế bào sẽ sinh sản bất bình
thường.
- Nhóm gene sửa chữa: là nhóm gene chịu trách nhiệm điều chỉnh những sai
sót trong hoạt động của hai loại gene trên. Nếu loại gene này bị tổn thương
thì những biến dị của hai loại gene trên sẽ không được khắc phục và sẽ dẫn
đến sự sinh trưởng bất bình thường của tế bào.
1.2.UNG THƯ VÚ
Ung thư vú được định nghĩa là bất cứ một u (bướu) ác tính nào có trong vú. Sự
phát sinh của ung thư vú, cũng giống như các dạng ung thư khác, là hậu quả của sự
rối loạn trong quá trình tái sản xuất tế bào. Tế bào trong cơ thể chúng ta sản xuất và
tái sản xuất một cách liên tục. Thông thường, các tế bào “lành mạnh” phân chia và
sao chép khi nhận một tín hiệu hoá học. Qui trình phân chia và sao chép này được
tiến hành một cách chính xác, với một chu kì gần như bất biến. Nhưng một khi chu
kì này bị làm cho rối loạn, cấu trúc DNA bị thay đổi, và các tế bào đột biến bắt đầu
không tuân theo qui trình phân chia và sao chép như đã định, và sau cùng là hỗn
loạn hệ thống tái sản xuất tế bào. Hậu quả của sự rối loạn sản xuất và sao chép dẫn
đến ung thư. Dấu hiệu chính của ung thư vú là một chỗ lồi trong vú. Đôi khi dấu
hiệu khác đáng chú ý là một chỗ lồi trong nách, do ung thư lan đến hạch máu trắng.
U có thể lan đến xương, phổi, gan.
1.2.1. Nguyên nhân ung thư vú
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nguyên nhân của ung thư vú không thể được cắt nghĩa bởi một yếu tố bệnh căn
đơn độc. Hơn nữa, tạo ung thư vú có thể coi là hậu quả của sự tích luỹ các tổn
thương qua nhiều năm với các tế bào trong một vú. Nói một cách ngắn gọn, có hai

loại chấn thương phân tử gây nên ung thư vú: đột biến của DNA và kích thích tăng
sinh tế bào.
Các đột biến xảy ra trong các gene quan trọng chịu trách nhiệm điều hoà phát triển,
chết, biệt hoá và phiên mã nhiễm sắc thể của tế bào. Các đột biến có thể được hoạt
hoá hoặc làm mất hoạt hoá các gene bị ảnh hưởng. Mặt khác, tăng sinh làm tăng
hiệu quả tạo thành u của các tế bào bằng cách khởi động sự bành trướng của một
quần thể tế bào. Kích thích tăng sinh và hoạt động theo hai cơ chế. Các tác nhân
sinh phân bào tác động trực tiếp đến sự phân chia và tăng sinh trong khi các tác
nhân độc gây tăng sinh trên các tế bào sống để tạo lại quần thể tế bào trong một mô
bị tổn thương.
1.2.2. Tiến triển của bệnh
Lúc đầu là sự phát triển mất kiểm soát của các tế bào giới hạn hoàn toàn ở ống
dẫn hoặc các tiểu thuỳ của vú ( tổn thương tiền ung thư). Sau đó, có thể thêm đột
biến hoặc những thay đổi di truyền học biểu sinh mà những tế bào này có thể phá
vỡ ống hoặc tiểu thuỳ vú vào mô mỡ và mô xung quanh. Có thể chỉ là do một tế bào
gây phá vỡ nhưng một khi nó bắt đầu phân chia và nhân lên thì nhanh chóng trở
thành khối u xâm nhập.
Trong khi đang phát triển, khối u cần các chất dinh dưỡng, do đó no phát ra
những thông điệp protein gọi là các yếu tố mạch khối u. Những protein này gây
hình thành các mạch máu mới để mang chất dinh dưỡng tới cho khối u phát triển.
Đó là cách tồn tại hợp lý nhất.
Nếu tất cả các bước này xảy ra, khối u sẽ xuất hiện ở vú và hình thành nguồn
cấp máu mới. Và những thay đổi về sau khiến các tế bào có thể phá vỡ thaàn khối u
vào mạch máu. Khi đó, tế bào có thể bị chết hoặc tồn tại trong dòng máu và bị hệ
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
miễn dịch tiêu diệt. Cuối cùng, nó có thể có những thay đổi khác cho phép nó trốn
tránh được hệ miễn dịch. Những tế bào này đi khắp cơ thể và xâm nhập, phát triển ở
các cơ quan khác nhau. Tuy nhiên, chúng không xâm nhập vào bất kỳ cơ quan nào
mà có những yếu tố ở nội mạc mạch máu, ở những cơ quan nhất định thu hút các tế

bào (ung thư vú đặc biệt thu hút tới phổi, gan và xương). Một khi tế bào gắn vào
mạch máu ở cơ quan (như phổi) và xuyên qua thành mạch vào cơ quan đó thì có thể
hình thành nguồn cấp máu mới dẫn đến các tế bào phát triển nhiều hơn ở phổi và
tiếp tục gửi thông điệp mới đến mô phổi xung quanh. Cuối cùng, ung thư vú đã di
căn đến phổi. Trong thời gian nhất định, khối u chiếm gần hết không gian cần thiết
của phổi và cuối cùng con người sẽ chết.
Do vậy, việc ung thư xâm nhập và gây tử vong thực sự không dễ vì phải qua
các bước, mỗi bước lại mất một thời gian dài tương đối.
1.2.3. Phân loại ung thư vú
1.2.3.1. Phân loại dựa vào cấu trúc
Mỗi vú có khoảng 15 đến 20 “ khu vực”, gọi là “ thuỳ” ; mỗi thuỳ được chia
thành nhiều vùng nhỏ, gọi là tiểu thuỳ. Thuỳ và tiểu thuỳ liên kết với nhau bằng
những ống dẫn nhỏ. Dựa vào cấu trúc này, ung thư vú được phân thành nhiều loại
khác nhau, chủ yếu là:
Ung thư ống dẫn sữa có giới hạn ( ductal carcinoma in situ hay còn gọi là DCIS).
Như tên gọi, loại ung thư này chỉ giới hạn trong các ống dẫn sữa và không lan sang
các mô chung quanh. Loại ung thư này rất khó phát hiện bằng mắt thường, mà chỉ
có thể phát hiện qua quang tuyến X. Khoảng 20% các trường hợp ung thư vú là
thuộc dạng “ ung thư hiền” này.
Ung thư ống dẫn sữa lan rộng ( invasive ductal cancer). Đây là loại ung thư vú
thường thấy nhất. Khoảng 70% các trường hợp ung thư vú là thuộc dạng này. Nó
thường được biểu hiện dưới hình thức một cục bướu cứng, và thường thấy trong tế
bào của các ống dẫn sữa.
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Ung thư miu – xin ( Mucinous carcinoma) cũng là một dạng bướu ác tính, nhưng
ung thư này có chứa các tế bào sản xuất chất nhầy, và chất nhầy làm cho cục bướu
có màu lóng lánh. Chỉ có khoảng 3% trường hợp ung thư vú thuộc dạng này.
Ung thư tiểu thuỳ lan rộng ( invasive lobular carcinoma). Đây là một dạng ung thư
hiện diện trong hai đầu ống dẫn sữa hay trong các tiểu thuỳ. Loại ung thư này chiếm

khoảng 5% trong các trường hợp ung thư vú.
1.2.3.2. Phân loại mô bệnh học.
Những cố gắng để có được một hệ thống phân loại mô bệnh học ung thư biểu
mô tuyến vú vừa đơn giản, dễ áp dụng trong chẩn đoán vừa phản ánh bản chất của
tổn thương, được thừa nhận rộng rãi luôn luôn là mục tiêu của các nhà giải phẫu
bệnh học. Chính vì vậy mà phân loại ung thư biểu mô tuyến vú đã được đề nghị.
Từ năm 1968 đến nay, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã đưa ra nhiều bảng
phân loại khác nhau có bổ sung và sửa chữa chi tiết hơn và dễ áp dụng trong lâm
sàng. Ở đây, tôi xin trích dẫn bảng phân loại ung thư biểu mô tuyến vú của Tổ chức
Y tế Thế giới vào năm 1981. Bảng phân loại như sau:
Phân loại mô học các ung thư biểu mô vú theo TCYTTG năm 1981.
1. Ung thư biểu mô không xâm nhập.
Ung thư biểu mô nội ống.
Ung thư biểu mô tiểu thuỳ tại chỗ.
2. Ung thư biểu mô ống xâm nhập
Ung thư biểu mô ống xâm nhập
Ung thư biểu mô ống xâm nhập với thành phần nội ống trội
Ung thư biểu mô tiểu thuỳ xâm nhập
Ung thư biểu mô nhầy xâm nhập
Ung thư biểu mô tuỷ xâm nhập
Ung thư biểu mô nhú xâm nhập
Ung thư biểu mô ống nhỏ
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Ung thư biểu mô tuyến nang
Ung thư biểu mô chế tiết ở thanh niên
2.10. Ung thư biểu mô chế tiết rụng đầu
2.11. Ung thư với thành phần dị sản
- Loại vảy (dạng biểu bì)
- Loại tế bào thoi

- Loại dạng sụn và dạng xương
- Loại hỗn hợp
2.12. Các loại khác
3. Bệnh Paget vú.
1.2.4. Điều trị bênh ung thư vú
Có rất nhiều tiến bộ trong việc xác định sớm và trị liệu ung thư vú thành công.
Khi tìm thấy khối u trong vú, người phụ nữ có cơ hội lựa chọn về cách trị bệnh cho
thích hợp với tình trạng của mình. Đối với mỗi người bệnh có những phương pháp
trị liệu thích hợp.
Các phương pháp điều trị chính cho bệnh ung thư vú là:
Giải phẫu: tuỳ từng giai đoạn của bệnh mà bác sĩ có thể giải phẫu cắt bỏ một
phần (lumpectomy , Partical Mastectomy, Segmental Mastectomy) hay phải giải
phẫu cắt bỏ toàn thể vú ( Total or Simple Mastectomy, Modified Radical
Mastetomy). Cũng có trường hợp phải giải phẫu hạch bạch huyết (lymph Node
Dissection) để cắt bỏ các hạch bạch huyết ở dưới nách.
Quang tuyến trị liệu ( radiation therapy): sử dụng năng lực quang tuyến X cao
độ để giết chết tế bào ung thư. Cách trị liệu này được dùng để ngăn chặn ung thư
tăng trưởng trước khi giải phẫu, hay tiêu diệt tế bào ung thư còn sót lại sau cuộc giải
phẫu. Quang tuyến trị liệu thường được sử dụng sau lumpectomy hay partical
mastectomy, nhưng đôi khi cũng được dùng sau khi làm total masectomy hay
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
modified radical mastectomy nếu ung thư quá lớn hay có nhiều hạch ở nách bị ung
thư. Quang tuyến trị liệu được chia làm nhiều ngày, bệnh nhân ung thư vú thường
được chiếu quang tuyến khoảng từ sáu đến bảy tuần.
Hoá chất trị liệu (chemotherapy): sử dụng các dược liệu đặc biệt để tiêu diệt
những tế bào ung thư. Hoá chất trị liệu thường được dùng thêm với với việc giải
phẫu, quang tuyến trị liệu hay dùng để chống ung thư khi nó tái phát hay lây lan.
Nhiều loại hoá chất được dùng trị ung thư vú, thông thường nhất là chất adriamycin,
epirubucin, cytoxan, 5-FU, taxol. Taxotere, xeloda, navelbine... có thể dùng riêng rẽ

hay tổng hợp.
Trị liệu qua kích thích tố (hormonal therapy): trị ung thư bằng cách ngăn chặn
hay thêm kích thích tố vào cơ thể. Rất nhiều ung thư vú tăng trưởng dưới sự kích
thích của các kích thích tố nữ. Nếu chế ngự được các kích thích này, các tế bào ung
thư có thể ngưng phát triển hay bị tiêu huỷ.
Một phương pháp điều trị mới đối với bệnh nhân ung thư nói chung và bệnh ung
thư vú nói riêng là sử dụng các kháng thể, đặc biệt là kháng thể đơn dòng và kháng
thể tái tổ hợp. Kháng thể không chỉ được sử dụng để chẩn đoán sớm bệnh ung thư
thông qua việc phát hiện kháng nguyên cuả tế bào ung thư mà còn được sử dụng để
tạo ra các phân tử tái tổ hợp có tác dụng làm tan các khối u giúp điều trị hiệu quả
bệnh ung thư.
1.3.KHÁNG NGUYÊN VÀ KHÁNG THỂ
1.3.1. Kháng nguyên
Thuật ngữ kháng nguyên (antigen – Ag) dùng để chỉ một chất có khả năng gây
ra đáp ứng miễn dịch khi được đưa vào cơ thể của một động vật thích hợp hoặc một
chất có khả năng phản ứng với một kháng thể hoặc một tế bào của hệ thống miễn
dịch. Như vậy, tất ca những chất tự nhiên hoặc tổng hợp được hệ thống miễn dịch
nhận biết đều được gọi là kháng nguyên.
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Sự liên kết giữa kháng nguyên và kháng thể hay giữa kháng nguyên và tế bào
lympho luôn mang tính đặc hiệu cao. Tuy nhiên, không phải toàn kháng nguyên
tham gia vào kích thích hệ thống miễn dịch mà chỉ có một phần nhất định của kháng
nguyên gọi là quyết định kháng nguyên hay epitop, mới liên kết với kháng thể hoặc
tế bào lympho. Mỗi epitop khoảng 6-8 acid amin với trọng lượng phân tử khoảng
750 dalton. Phần tương ứng với quyết định kháng nguyên nằm trên mỗi kháng thể
gọi là vị trí kết hợp kháng nguyên hay paratop, còn phần tương ứng trên tế bào
lympho là thụ thể.
Sự nhận biết giữa kháng nguyên và kháng thể hoặc giữa kháng nguyên và các
thụ thể của tế bào có thẩm quyền miễn dịch mang tính đặc hiệu cao. Điều đó có

nghĩa là một kháng nguyên A chỉ có thể được nhận biết bởi một kháng nguyên anti
– A hoặc chỉ có thể nhận biết bởi một loại tế bào lympho có thụ thể liên kết đặc
hiệu với kháng nguyên A.
Kháng nguyên trong tự nhiên rất đa dạng, chủ yếu dựa vào cấu trúc hoá học
( kháng nguyên protein, lipid, acid nucleic), dựa theo nguồn gốc (kháng nguyên
đồng loại, đa loài, tự kháng nguyên) và vi sinh vật (vi khuẩn, virus). Trong số các
loại kháng nguyên đó thì kháng nguyên protein và polysaccharid là hai nhóm kháng
nguyên lớn và quan trọng nhất.
1.3.2. Kháng thể
Định nghĩa: Kháng thể (antibody) là một loại protein có đặc tính chống lại các
thể vi khuẩn gây bệnh. Ngày nay, nó được gọi là kháng thể miễn dịch
(immunoglobulin, kí hiệu là Ig) hay kháng thể đặc hiệu.
Bản chất và tính chất của kháng thể: Như chúng ta đã biết thì bản chất của
kháng thể là protein, nên các tác nhân hoá, lý như nhiệt độ, acid, kiềm làm biến tính
protein thì cũng có thể phá huỷ kháng thể. Hoạt tính kháng thể phụ thuộc vào pH
môi trường và nhiều yếu tố khác ( Amon sulfat, natri sulfat...) vì thế người ta đã sử
dụng tính chất này để tinh khiết kháng thể.
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Hai đặc tính quan trọng của kháng thể là khả năng phản ứng đặc hiệu với kháng
nguyên và khả năng biểu hiện như một kháng nguyên, tức là kích thích kháng thể
chống lại chính nó- kháng kháng thể. Có thể tạo kháng thể kháng từng loại Ig (IgA,
IgG, IgM...) hoặc khán từng cấu trúc của phân tử Ig (mảnh Fab hoặc Fc).
Cấu trúc của kháng thể: Tất cả các kháng thể đều có cấu trúc giống nhau gồm
một hay nhiều đơn vị (monomer) hợp thành. Mỗi đơn vị là một phân tử protein
chứa 4 chuỗi polypeptid. Hai chuỗi nhẹ, ngắn, kí hiệu là L và hai chuỗi nặng, dài,
ký hiệu là H được gắn với nhau bởi cầu disulfua (S-S). Trình tự acid amin ở kháng
thể giống hệt nhau theo từng đôi chuỗi nặng và từng đôi chuỗi nhẹ. Cả phân tử có
cấu tạo đối xứng. Cấu trúc phân tử Ig điển hình được trình bầy tại hình 1.


Cấu tạo của kháng thể
Chuỗi nhẹ: Có trọng lượng phân tử 25.000, chứa khoảng 211-221 acid amin. Ở
tất cả các lớp globulin miễn dịch đều có hai loại chuỗi nhẹ, chuỗi nhẹ kappa và
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
chuỗi nhẹ lambda. Mỗi phân tử Ig chỉ chứa hoặc hai chuỗi nhẹ lambda hoặc hai
chuỗi nhẹ kappa mà không bao giờ chứa cả hai loại. Mỗi chuỗi nhẹ Ig chứa hai
vùng acid amin. Một vùng có trình tự acid amin có thể thay đổi gọi là vùng biến đổi,
ký hiệu là V
L
. Vùng còn lại có trình tự acid amin không thay đổi gọi là vùng cố
định, hiệu là C
L
, vùng này nằm ở phía đầu cacboxyl (-COOH) của phân tử. Trình tự
acid amin vùng cố định của chuỗi nhẹ luôn giống nhau ở tất cả các lớp kháng thể.
Ngược lại, trình tự acid amin của vùng biến đổi luôn khác nhau kể cả ở các Ig do
cùng một tế bào sinh ra.
Chuỗi nặng: có trọng lượng phân tử khoảng 50.000, chứa khoảng 450 acid
amin. Có 5 loại chuỗi nặng là: mu, gamma, alpha, delta, epsilon ứng với 5 lớp
kháng thể là IgG, IgM, IgA, IgD, IgE. Mỗi chuỗi nặng chứa 4 vùng acid amin, một
vùng biến đổi và 3 vùng cố định. Cũng như chuỗi nhẹ, vùng biến đổi của chuỗi
nặng nằm ở phần đầu amin, ký hiệu là V
H
. Vùng cố định nằm ở đầu cacboxyl và có
trình tự acid amin giống nhau ở tất cả globulin miễn dịch thuộc cùng một lớp, ký
hiệu là C
H1
, C
H2
, C

H3
.
Vùng nằm giữa C
H1
, C
H2
của chuỗi nặng gọi là khớp nối làm cho phân tử có cấu tạo
hình chữ Y, đây là nơi dễ bị tác động của enzyme phân giải protein (papain).
Nhìn chung, phân tử kháng thể được chia làm hai phần: Fab là phần dễ kết tinh
phản ứng với các tế bào của hệ thống miễn dịch qua các thụ thể của các tế bào. Do
đó, nếu kháng thể được cố định trên vi khuẩn bằng phần Fab thì nó sẽ liên kết với
các tế bào thực bào bằng phần Fc.
1.3.2.1. Kháng thể đơn dòng.
Phương pháp tạo kháng thể đơn dòng do Kohler hoặc Milstein đề xuất năm
1975 đã cho phép ta tạo ra các tế bào lai có khả năng sản xuất các kháng thể đơn
dòng có tính đặc hiệu loài cao, có khả năng chọn lọc các kháng nguyên đích đặc
hiệu. Tuy nhiên, kỹ thuật lai tế bào này rất tốn kém về thời gian, tiền bạc và thiết bị
chuyên dụng đắt tiền, phải sử dụng đến động vật thí nghiệm, đồng thời phải tạo ra
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
một lượng lớn các tế bào dung hợp mới có thể chọn được những tế bào tốt nhất có
khả năng sản xuất kháng thể đơn dòng. Lượng cơ chất có thể sử dụng để gây miễn
dịch trên động vật là có hạn và sự đa dạng tối đa có thể có đối với phản ứng miễn
dịch động vật là có hạn và sự đa dạng tối đa có thể có đối với phản ứng miễn dịch
của động vật là 6.10
6
các kháng thể khác nhau. Quan trọng hơn, không thể thay đổi
tính chất của kháng thể do các tế bào lai tạo ra. Mặt khác các kháng thể được tạo ra
bằng kĩ thuật này có thời gian tồn tại ngắn trong điều kiện in vitro, và thường gây ra
phản ứng dị ứng khi sử dụng cho người vì các kháng thể này đều có bản chất từ

động vật.
Sự quan tâm tới việc tách và biểu hiện các gene kháng thể đã được chú trọng
sau khi Kohler và Milstein tạo kháng thể đơn dòng bằng kĩ thuật dung hợp tế bào
năm 1975. Kỹ thuật tạo kháng thể tái tổ hợp dựa trên những hiểu biết về cấu trúc và
chức năng của kháng thể, đặc tính sinh học của quá trình nhân bản thực thể khuẩn,
những kĩ thuật mới về DNA và tạo ra đột biến. Sau khi xác định được trình tự vùng
hay biến đổi của chuỗi nặng và chuỗi nhẹ của nhiều kháng thể khác nhau, các mồi
là các đoạn oligonucleotid bảo thủ được tổng hợp để nhân các gene của các kháng
thể mới. Kỹ thuật PCR đã được sủ dụng để nhân bản các gene từ mARN.
Kháng thể đơn dòng được ứng dụng trong:
• Chuẩn đoán và điều trị bệnh ung thư
• Tạo chất ức chế miễn dịch trong điều trị các bệnh tự miễn dịch và đào thải
các mảnh ghép.
• Trong điều trị các bệnh nhiễm khuẩn và ức chế sự tích tụ neurotphil để giảm
sự huỷ hoại mô trong bệnh viêm màng não do vi khuẩn.
• Trong điều trị bệnh nhồi máu cơ tim cũng như việc ngộ độc thuốc...
Do những giá trị của việc sử dụng rộng rãi kháng thể đơn dòng mà sản xuất
kháng thể đơn dòng đang trở thành một lĩnh vực mới đầy hứa hẹn.
14

×