Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

Những yêu cầu của đề tài thiết kế Web Server

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (581.51 KB, 101 trang )

ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: Nguyễn Ngọc Bình
A. YÊU CẦU CỦA ĐỀ TÀI:
Bao gồm các phần sau:
Tìm hiểu về các Web server thông dụng hiện nay:
+ Microsoft Internet Information Server
+ Apache Web Server
Trình bày về đặc điểm về khả năng, cài đặt, vận hành, hỗ trợ các ứng
dụng Web và so sánh các điểm mạnh, yếu, các ưu nhược điểm giữa chúng.
Tìm hiểu về hệ thống mailing list: Tìm hiểu về các nghi thức truyền nhận
mail cơ bản như SMTP và POP3.
Tìm hiểu cách vận hành và cài đặt của các hệ thống mail trên các hệ điều
hành thông dụng:
+ Internet Mail.
+ Linux Mail.

B. CƠ SỞ LÝ THUYẾT:
CHƯƠNG I
TÌM HIỂU VỀ CÁC WEB SERVER THÔNG DỤNG
I. GIỚI THIỆU VỀ HỆ ĐIỀU HÀNH WINDOWS NT
1. Thếâ nào là một hệ điều hành mạng:
Mạng bao gồm các tài nguyên (máy trạm, máy in…) và các thiết bò truyền
thông (router, bridge). Với việc ghép nối các máy tính thành mạng thì cần thiết
phải có một hệ thống phần mềm có chức năng quản lý tài nguyên, tính toán và
xử lý truy cập một cách thống nhất trên mạng, hệ như vậy được gọi là hệ điều
hành mạng. Mỗi tài nguyên của mạng như file, đóa, thiết bò ngoại vi được quản
lý bởi một tiến trình nhất đònh và hệ điều hành mạng điều khiển sự tương tác
giữa các tiến trình và truy cập đến các tiến trình đó.
Quản lý các tài nguyên: tập tin ở xa, nạp và chạy các App dùng chung, I/O
với các thiết bò mạng dùng chung, chỉ cấp phát CPU trong tiến trình NOS.
Căn cứ vào việc truy cập tài nguyên trên mạng mà người ta chia thực thể
trong mạng thành hai loại chủ và khách, trong đó máy khách (Client) truy cập


được vào tài nguyên của mình nhưng không chia xẻ tài nguyên của nó với mạng,
còn máy chủ (Server) là máy tính nằm trên mạng và chia xẻ tài nguyên của nó
với người dùng mạng.
Hiện nay các hệ điều hành mạng thường được chia làm hai loại là hệ điều
hành mạng ngang hàng và hệ điều hành mạng phân biệt (clent/server).
trang 1
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: Nguyễn Ngọc Bình
Với hệ điều hành mạng ngang hàng, mỗi máy tính trên mạng vừa có thể
đóng vai trò chủ lẫn khách tức là chúng có thể sử dụng tài nguyên của mạng lẫn
chia xẻ tài nguyên của nó cho mạng. Ví dụ: Lantastic của Artisoft, Netware của
Novell, Windows (for Workgroup, 95, NT client) của Microsoft.
Với hệ điều hành mạng phân biệt các máy tính được phân biệt chủ và
khách, trong đó máy chủ mạng (Server) giữ vai trò chủ và các máy người dùng
giữ vai trò khách (các trạm). Khi có nhu cầu truy cập tài nguyên trên mạng các
trạm tạo ra yêu cầu và gửi chúng tới server và sau đó server thực hiện và gửi trả
lời.
2. Hệ điều hành mạng Windows NT
Windows NT là hệ điều hành mạng cao cấp của hãng Microsoft. Phiên
bản đầu tiên có tên là Windows NT 3.1 phát hành năm 1993 và phiên bản server
là Windows NT Advanced Server (trước đó là LAN manager for Windows NT).
Năm 1994 phiên bản Windows NT Server và Windows NT Workstation phiên
bản 3.5 được phát hành. Tiếp theo đó là sự ra đời các phiên bản 3.51. Các phiên
bản Workstation có thể sử dụng để thành lập mạng ngang hàng, còn các phiên
bản Server dàng cho quản lý file tập trung, in ấn và chia sẻ các ứng dụng.
Năm 1995, Windows NT Workstation phiên bản 4.0 và Windows NT
Server 4.0 ra đời đã kết hợp với cấu trúc khung của người anh em Windows 95
nổi tiếng phát hành trước đó không lâu (trước đây cấu trúc khung của Windows
NT giống Windows 3.1) đã được kết hợp giao diện quen thuộc, dễ sử dụng của
Windows 95 và sự mạnh mẽ, an toàn, bảo mật cao của Windows NT.
Windows NT có hai bản mà nó đi đôi với hai cách tiếp cận mạng khác

nhau. Hai bản này gọi là Windows NT Workstation và Windows NT server. Với
hệ điều hành chuẩn của NT ta có thể xây dựng mạng ngang hàng, server mạng
và mọi công cụ quản trò cần thiết cho server mạng, ngoài ra còn có thể có nhiều
giải pháp về xây dựng mạng diện rộng. Cả hai bản Windows NT Workstation và
Windows NT server cùng được xây dựng trên cơ sở nhân NT chung và các giao
diện và cả hai cùng có những đặc trưng an toàn theo tiêu chuẩn C2. Windows NT
Workstation được sử dụng để kết nối những nhóm người sử dụng nhỏ, thường
cùng làm việc trong một văn phòng. Tuy nhiên với Windows NT server ta có một
khả năng chống hỏng hóc cao, những khả năng cung cấp dòch vụ mạng lớn và
những lựa chọn kết nối khác nhau, Windows NT server không hạn chế số người
có thể thâm nhập vào mạng.
Với Windows NT server ta cũng có những công cụ quản trò từ xa vào mạng
mà có thể thực hiện việc quản trò những máy tính ở xa. Nó tích hợp với tất cả
những sơ đồ mạng BUS, STAR, RING và hỗn hợp.
Windows NT là hệ điều hành có sức mạnh công nghiệp đầu tiên cho số
lượng khổng lồ các máy tính IBM compatible, Windows NT là một hệ điều hành
thực sự dành cho người dùng, các cơ quan, các công ty xí nghiệp. Windows NT là
một hệ điều hành đa nhiệm, đa xử lý với đòa chỉ 32 bit bộ nhớ. Nó yểm trợ các
trang 2
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: Nguyễn Ngọc Bình
ứng dụng của DOS, Windows, Win 32 GUI và các ứng dụng dựa trên ký tự.
Windows NT server là hệ điều hành mạng, đáp ứng cho mạng cục bộ (LAN) vừa
đáp ứng cho mạng diện rộng (WAN) như Intranet, Internet.
Windows NT server hơn hẳn các hệ điều hành khác bởi tính mềm dẻo, đa
dạng trong quản lý. Nó vừa cho phép quản lý mạng theo mô hình mạng phân
biệt (Client/Server) vừa quản lý theo mô hình mạng ngang hàng (Peer to Peer).
Windows NT server đáp ứng tốt nhất các dòch vụ viễn thông, một dòch vụ
được sử dụng rộng rãi trong tương lai.
Windows NT server cài đặt đơn giản, nhẹ nhàng và điều quan trọng nhất là
nó tương thích với hầu như tất cả các hệ mạng, nó không đòi hỏi người ta thay

đổi những gì đã có.
Cho phép dùng các dòch vụ truy cập từ xa, có khả năng phục vụ đến 64
cổng truy nhập từ xa.
Đáp ứng cho các máy trạm Macintosh nối với Windows NT server.
Windows NT server yểm trợ mọi nghi thức mạng chuẩn như NETBUEI,
IPX/SPX, TCP/IP … và các nghi thức khác. Windows NT cũng tương thích với
những mạng thông dụng hiện nay như Novell netware, Banyan VINES và
Microsoft LAN Manager. Đối với mạng lớn và khả năng thâm nhập từ xa, sản
phẩm Windows NT server cũng cung cấp các chức năng bổ sung nhu cầu , khả
năng kết nối với máy tính lớn và máy Macintosh.
III. TỔNG QUAN VỀ WEB SERVER :
Web Server:
Web server là một phần mềm server đằng sau WWW. Nó lắng nghe
những yêu cầu từ phía client, chẳng hạn như một trình duyệt như Netscape hoặc
Microsoft Internet Explorer. Khi nhận được một yêu cầu từ phía client, nó sẽ xử
lý những yêu cầu đó và trả về một vài dữ liệu dưới dạng một fom chứa các trang
được đònh dạng dưới dạng văn bản hoặc hình ảnh. Trình duyệt Web trả lại dữ
liệu này với khả năng tốt nhất có thể và trình đến người sử dụng.
Khái niệm về Web server đơn giản chỉ là một chương trình mà chúng chờ
đợi những yêu cầu từ phía client và đáp ứng những yêu cầu đó khi nhận được.
Web server kết nối với các trình duyệt hoặc các client sử dụng giao thức HTTP,
đó là một giao thức đã được chuẩn hóa các phương thức của các yêu cầu gửi đi
và xử lý các yêu cầu đó. Nó cho phép rất nhiều các client khác nhau kết nối với
các server cung cấp mà không gặp bất kỳ một trở ngại nào trong vấn đề tương
thích.
Hầu hết các tài liệu yêu cầu hoặc đáp ứng đều phải được đònh dạng bằng
ngôn ngữ HTML. HTML là một phần của một ngôn ngữ đánh dấu khác gọi là
SGML, nó được sử dụng rộng rãi bởi nhiều tổ chức và trong các chính phủ liên
bang.
trang 3

ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: Nguyễn Ngọc Bình
HTML là nguồn sống của Web. Nó là một ngôn ngữ đánh dấu đơn giản
được sử dụng để đònh dạng văn bản. Trình duyệt thông dòch các thông tin đánh
dấu này và hiển thò các thông tin cần đáp ứng này với khả năng tốt nhất có thể.
Quan trọng hơn nữa, HTML cho phép liên kết với các tài liệu và tài nguyên
khác, đây là sự thể hiện tính siêu văn bản của Web.
Siêu văn bản cho phép người sử dụng xem một tài liệu khác lưu trữ ở trên
cùng một máy hoặc trong một máy khác đặt ở một nơi khác trên thế giới. Nó cho
phép thông tin tồn tại hầu như dưới dạng ba chiều. Người sử dụng không những
chỉ có thể đọc tài liệu mà còn có thể chuyển đến một chỗ khác.
Tiến trình tìm và mang thông tin về hoàn toàn trong suốt đối với người sử
dụng. Nó là một ngôn ngữ uyển chuyển và dễ sử dụng. Sự điều hướng thông tin
qua nhiều thông tin theo một cách đặc biệt. Nó cho phép ngwời sử dụng thu thập
thông tin một cách dễ dàng và hiển thò chúng theo cách mà người sử dụng dễ lựa
chọn nhất.
Nếu bất ngờ người sử dụng hỏi bằng cách nào để tạo ra một trang Web.
Thì họ sẽ giáp mặt với hàng loạt các vấn đề có liên quan mà họ cần phải tìm
hiểu trước khi bắt đầu viết mã một trang HTML đầu tiên. Vấn đề quan trọng
nhất và là lý do cơ bản nhất là phải lựa chọn phần mềm server nào để sử dụng,
với những thông tin cơ bản nhất mà cuốn báo cáo này cung cấp, sự lựa chọn có
lẽ là không khó.
Các vấn đề mà cần phải quan tâm khi lựa chọn một Web server để giao
phó công việc cho nó.
- Phần mềm trả tiền hay đươc miễn phí.
- Dễ cài đặt.
- Dễ cấu hình.
- Dễ mở rộng hoặc tuỳbiến một vài diện mạo của server.
- Các đặc trưng cơ bản.
- Sự phát triển liên tục.
- Hỗ trợ bảo mật.

- Mã nguồn sẵn có.
- Hỗ trợ công nghệ.
- Hỗ trợ nền tảng.
- Hỗ trợ đối với các phần mềm thứ ba.
IV. INTERNET INFORMATION SERVER (IIS):
IIS là một dòch vụ tuỳ chọn của Windows NT server cung cấp các tính
năng về Web site. Giải pháp phổ biến nhất của Microsoft cho một Web site là
chạy IIS trên nền Windows NT server.
IIS là một thành phần cơ bản để xây dựng một Internet hoặc Intranet
server trền nền Windows NT 4.0, Workstation và Win 95. IIS được tích hợp đầy
trang 4
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: Nguyễn Ngọc Bình
đủ trong Windows NT 4.0. Với một bộ đầy đủ IIS và Windows NT 4.0 người sử
dụng sẽ nhận được sự thuận tiện khi xây dựng một cơ chế bảo mật trên Windows
NT server và Windows NT File System (NTFS).
Người sử dụng có thể sử dụng các kỷ thuật Internet thêm vào được cung
cấp bởi IIS để nâng cao các tính năng Microsoft Back Office, bao gồm các thành
phần sau:
- Hệ thống quản trò cơ sở dữ liệu Microsoft SOL Server Client/Server.
- Hệ thống thông báo Microsoft Exchange Server Client/Server.
- Microsoft Proy Server.
- Microsoft SNA Server kết nối với mạng IBM enterprise.
- Hệ thống quản lý Server của Microsoft (tập trung quản lý các hệ thống
phân tán).
-Microsoft Commercial Internet Server (MCIS).
Với IIS người sử dụng có thể triển khai liên tục các ứng dụng mạng lên
các server ra đời muộn các nội dung Web mơi nhất. IIS đầy đủ hỗ trợ các hệ
thống ngôn ngữ lập trình VB, VB Script, J Script
TM
được phát triển bởi Microsoft

và Java Component Nó cũng hỗ trợ các ứng dụng CGI dành cho các ngôn ngữ
lập trình Web cơ sở và ISAPI mở rộng và các bộ lọc.
1. Cài đặt IIS trên Windows NT server:
Microsoft cung cấp các chương trình cài đặt khá thân thiện để cài đặt IIS
trên Windows NT server. Các bước cơ bản là lấy chương trình từ NT Option Pack
hoặc tải từ Internet và chạy Setup.exe.
Windows NT Option Pack: IIS là một thành phần của Windows NT Option
Pack. Một bộ Windows NT Option Pack sau khi cài đặt đầy đủ phải bao gồm các
thành phần sau:
Microsoft Transaction Server. (MTC)
Microsoft Management Console. (MMC)
Microsoft Index Server.
Microsoft Certificate Server.
Microsoft Site Server Express. (SSE)
- MTS là một thành phần cơ bản giải quyết các tiến trình hệ thống cho các
quá trình phát triển, phá huỷ và quản lý sự thi hành ở mức cao và các ứng dụng
server mạnh.
- MMC là một ứng dụng xuyên suốt phân chia các công cụ quản lý mà nó
có thể đưa ra các cách để quản trò các chương trình mạng, thêm vào đó MMC
được kết hợp với các sản phẩm của Microsoft như: Windows NT và tất cả các
sản Office.phẩm thuộc MS Back
Trong khi MMC tự nó không đưa cho người sử dụng bất kỳ một chức năng
nào được thêm vào cả mà chỉ cung cấp một môi trường chung cho snap-ins.
Snap-ins cung cấp môi trường quản trò ảo cho mỗi sản phẩm tương thích của nó.
trang 5
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: Nguyễn Ngọc Bình
Snap-ins được trình bày trong IIS như là một dòch vụ quản lý Internet (ISN). Khi
IIS khởi động, MMC cũng sẽ được khởi động và nạp vào snap-ins.
Trong tương lai tất cả các sản phẩm của MS Back Office bao gồm cả
Windows, Windows NT, các công cụ quản trò mạnh sẽ được chuyển sang MMC.

Một bộ IIS phải bao gồm đầy đủ các thành phần sau:
Content Index (Index Server).
FTP Publishing Service.
IIS Admin Service (Internet Service Manager snap-in).
Microsoft Network News Transfer Protocol (NNTP) Service.
Microsoft Simple Mail Transfer Protocol (SMTP) Service.
MSDTC (Microsoft Distributed Transaction Coordinator).
World Wide Web Publishing Service.
2. Quản lý IIS Web server:
+ HTTP server: Dòch vụ này tạo một WWW server công cộng. Server này
tạo nhiều trang HTML cho phép người sử dụng có thể chạy các ứng dụng CGI
để thi hành các công việc thêm vào ở server dựa trên các yêu cầu của client.
Văn bản, hình ảnh, âm thanh và các tài nguyên khác có thể được tải xuống
WWW client.
+ Gopher Server: Dòch vụ này cung cấp các tài nguyên cho các Gopher
client. Server gửi các file, các danh sách thư mục và các mục chọn trình đơn
khác đến Gopher client.
+ FTP server: Dòch vụ này là một cập nhật đến server được cài đặt sẵn
trên Windows NT (TM), nó chuyển các file có sẵn đến FTP client.
Mặc dù WWW đã thay thế hầu hết các chức năng của FTP, tuy nhiên chỉ
FTP mới có thể được sử dụng để sao chép các file từ một máy client đến một
máy server. Nếu những người truy cập từ xa cần làm việc đó, họ phải sử dụng
FTP.
+ Sự dễ dàng chia xẻ: Tất cả các dòch vụ trên là một phần của một tiến
trình như nhau với mục đích là làm hạn chế sử dụng bộ nhớ ngoài và tăng hiệu
quả. IIS cũng hỗ trợ thi hành sự giám sát các bộ đếm và kiểm tra SNMP với
FTP, Gopher, HTTP… Bộ đếm SNMP nằm dưới nút IIS của cây tên MIB.
+ Internet Server API:
Các API này cung cấp các ứng dụng cho giao diện với IIS. Có 2 cách để
các API này sử dụng:

+ Các phần mở rộng CGI: Các API này cho phép người sử dụng viết các
CGI DLL mà nó ở trong vùng bộ nhớ giống như IIS. Đây là sự khác biệt từ một
CGI bình thường có thể thi hành, mà nó là một tiến trình rời rạc. Sử dụng các
phần mở rộng này làm tăng khả năng thi hành của server và làm giảm bộ nhớ
yêu cầu.
trang 6
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: Nguyễn Ngọc Bình
+ Bộ lọc: Các API này có thể được sử dụng để viết các DLL mà nó ngăn
chặn tất cả khảng năng tải HTTP đang được nhận bởi server. Một ứng dụng có
thể được viết mà nó thực hiện nén, giải nén, mã hóa, giải mã hoặc thêm vào các
xác thực.
+ Internet Service Manager:
Công cụ này được sử dụng để cấu hình và theo dõi tất cả các IIS trên một
mạng. Nó sử dụng RPC để cấu hình IIS trên một máy khác.
+ Các ứng dụng client:
IIS hỗ trợ các giao thức HTTP, Gopher, FTP và các client những giao thức
này như là các trình duyệt : Internet Explorer, Netscape.
+ Internet Database Connector (IDC):
- Với IDC người sử dụng có thể:
- Truy cập ODBC tương thích với các cơ sở dữ liệu.
- Tạo trang Web quản lý cơ sở dữ liệu.
- Chèn, cập nhật và xóa thông tin cơ sở dữ liệu do người sử dụng muốn
nhập vào từ trang Web.
- Thực hiện các câu lệnh SQL khác.
3. IIS WWW Server:
WWW là một bộ tập hợp các thông tin của client và server. Dữ liệu siêu
văn bản (hyper text) được chia xẻ bởi các server đang chạy phần mềm Web và
được truy cập bởi các client đang chay một phần mềm ứng dụng Web gọi là trình
duyệt Web.
WWW server cung cấp các thông tin phân tán và phần mềm, nhưng theo

hướng site hơn là hướng thư mục. Tài liệu Web là một tài liệu siêu văn bản được
viết bằng ngôn ngữ đánh dấu siêu văn bản (HTML), và với các thẻ đặc biệt để
liên kêt đến nội dung các tài liệu khác, chúng được gọi là siêu liên kết
(hypelink). Với siêu liên kết, xuất phát từ một trang tài liệu người sử dụng có thể
đi đến mọi nơi trên thế giới để xem những trang tài liệu khác chỉ bằng bước kích
chuột vào liên kết mà trình duyệt thể hiện.
WWW đi kèm với mô hình mạng client/server và sử dụng giao thức HTTP
giữa client và server. Tài liệu được chứa trên nhiều các server tự trò trên Internet
và được truy cập bởi HTTP client gọi là trình duyệt Web.
Để truy cập vào tài nguyên WWW, client phải:
+ Chạy một trình duyệt WWW chẳng hạn như Internet Explorer
(TM)
Masaic
(TM)
hoặc Netscape
(TM)
… Có vài WWW client có sẵn và chúng có thể được
tải xuống trực tiếp từ Internet.
+ Kết nối đến một WWW server bằng cách cung cấp một đòa chỉ URL và
gửi yêu cầu HTTP. Điển hình như client yêu cầu một file (trang HTML, hình
ảnh…) hoặc thư mục đang hiển thò từ server, client cũng có thể gửi một ứng dụng
đến server.
trang 7
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: Nguyễn Ngọc Bình
Server sẽ đáp ứng với trạng thái hoạt động hoặc thành công hoặc bò lỗi và
dữ liệu trả về cho yêu cầu của client. Sau khi dữ liệu được gửi đi, kết nối sẽ
đóng lại và không có phần nào của tài liệu đã gửi được giữ lại trên server. Mỗi
đối tượng trong một tài liệu HTTP đòi hỏi một kết nối khác nhau.
WWW với giao thức HTTP đã trở thành một cánh thông dụng để truy cập
tài liệu trên Internet.

WWW cung cập một cách dễ dàng nhất để truy cập dữ liệu trên Internet
hoặc trên mạng Intranet của các công ty.
A) CÁC TIỆN LI CỦA VIỆC SỬ DỤNG DỊCH VỤ WWW:
- Trình duyệt WWW hỗ trợ nhiều kiểu dữ liệu. Một trình duyệt WWW có
thể tự động tải xuống và hiển thò các file văn bản, hình ảnh, chạy video, sound
clip và khởi chạy các ứng dụng trợ giúp cho tất cả các loại file phổ biến. Người
sử dụng không cần biết trình duyệt tải xuống hoặc sử dụng các file dữ liệu ở xa
như thế nào chỉ đơn giản là trình duyệt đã giúp ta trong việc tải xuống và hiển
thò các file.
Một ví dụ: Một WWW client đang mở một file ảnh BMP, người sử dụng
sẽ thấy nó hiển thò ngay lập tức nó trong cửa sổ ứng dụng của WWW client. Nếu
sử dụng một ứng dụng khác, chẳng hạn như FTP sẽ chỉ tải file xuống và lưu trên
đóa, người sử dụng sẽ phải chạy một ứng dụng khác chẳng hạn như Paint Bruh để
xem nó.
- Trình duyệt WWW hỗ trợ nhiều giao thức. Trình duyệt WWW không có
giới hạn để truy cập chỉ một kiểu server. Trình duyệt WWW hỗ trợ nhiều giao
thức để truy cập file trên một FTP server, các bảng chọn trên Gopher server,
Newgroups và tài nguyên WWW.
B) GIỚI THIỆU VỀ GIAO THỨC HTTP:
HTTP là một giao thức được sử dụng chủ yếu trên Internet ngày nay.
HTTP là một giao thức đi tiên phong trong sự phát triển Web. Nó có một đặc
điểm chung là tính không biên giới.
Giao thức hướng đối tượng này được sinh ra từ sự cần thiết cho một giao
thức toàn cầu để làm đơn giản việc truy cập vào Internet.
HTTP là một giao thức client/server nằm ở tầng ứng dụng của mô hình
phân tần Internet. Bằng việc mở rộng những phương thức hay dòng lệnh, người
sử dụng có thể sử dụng HTTP cho nhiều chức năng khác nhau, kể cả chức năng
quản lý hệ thống tên server và các đối tượng phân tán. HTTP không ngừng được
cải tiến, dẫn đến việc W3C được đưa ra vào năm 1994 đã phát triển thành một
tiêu chuẩn chung cho Web.

C) HOẠT ĐỘNG CỦA HTTP:
Các tiến trình xảy ra khi Client mở một tài liệu HTNL trên một WWW
server:
1/ Kết nối TCP: Mặc đònh HTTP server sẽ lắng nghe ở cổng 80. Trình
duyệt lựa chọn một cổng cục bộ (>1024) và thực hiện một kết nối TCP đến cổng
trang 8
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: Nguyễn Ngọc Bình
một server trước khi dữ liệu được gửi. Một HTTP server có thể lắng nghe ở một
cổng khác, tuy nhiên client cần phải cung cấp sô thứ tự cổng chính xác ở URL
để có thể kết nối.
2/ Yêu cầu phía Client:
Dòng yêu cầu: Chứa một câu lệnh yêu cầu gọi là phương thức và đòa chỉ
URL của đối tượng được giải quyết yêu cầu bởi phương thức.
+ Phương thức: Được sử dụng để chỉ thò cho server thi hành một công việc
đặc biệt. Hầu hết các server bao gồm cả IIS chỉ hỗ trợ 3 phương thức bởi vì các
phương thức không được thi hành bởi hầu hết các trình duyệt.
GET: Phương thức này chỉ thò cho HTTP server gửi đến một đối tượng (các
Web site, file, hình ảnh…) bằng đòa chỉ URL. Phương thức này chỉ dùng trên
HTTP client.
HEAD: Phương thức này cũng giống như GET, tuy nhiên nó chỉ trả về
thông tin header của đối tượng chứ không phải toàn bộ dữ liệu.
POST: Phương thức này được sử dụng bởi HTTP client để gửi một đối
tượng lên server.
Ví dụ: GET www.microsoft.com/HTTP
+ Trường tiêu đề của gói tin: Đây là một tập các trường mô tả client và
kiểu dữ liệu được gửi.
+ Dữ liệu: Nếu một client gửi một dữ liệu chẳng hạn một form đến một
server, nó sẽ nằm trong phiên này của yêu cầu.
3/ Server trả lời:
WWW server nhận một yêu cầu và quá trình này căn cứ trên phương thức

yêu cầu chứa trong dòng lệnh yêu cầu. Server sau đó sẽ trả lời.
Dòng Status : Chỉ ra yêu cầu thành công hoặc bò lỗi.
Message Header Field: Nó cung cấp các thông tin về server và kiểu dữ
liệu trả về.
Dữ liệu trả lời: Đây là dữ liệu yêu cầu ở dạng bit.
4/ Đóng kết nối.
D) GIỚI THIỆU VỀ SECURE SOCKETS LAYER (SSL)
SSL cung cấp một kết nối bảm đảm bằng cách mã hóa và giải mã dữ liệu.
Một SSL-enable server giống như IIS có thể kết nối với một SSL-enable client
chẳng hạn như trình duyệt Internet Explorer.
Giao thức SSL nằm ở tầng trình diễn OSI và di chuyển dữ liệu từ tầng ứng
dụng HTTP đến tầng chuyển vận TCP. Nó chòu trách nhiệm cho việc chứng
nhận, mã hóa và kiểm tra tính toàn vẹn của dữ liệu. Chức năng chứng nhận bảo
đảm rằng dự liệu được gửi đến đúng một server cần gửi và server thì bảo đảm.
Việc mã hóa dữ liệu bảo đảm dữ liệu không thể bò đọc bởi bất kỳ một người nào
khác ngoài server nhận. Giải mã dữ liệu bảm đảm dữ liệu không bò sửa đổi hoặc
thay thế trong quá trình truyền đi.
trang 9
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: Nguyễn Ngọc Bình
Khi một client kết nối đến một WWW server sử dụng SSL sẽ xảy ra các
tiến trình sau:
Client dành lấy chứng nhận server: Client và Server tự giới thiệu về chúng
lẫn nhau bằng thông điệp HELLO và trao đổi thông tin (chứa các phương thức
mã hóa) để sử dụng, tại phiên trao đổi thông tin, chứng nhận server (chứa một
khoá công khai ủa server) và dữ liệu ngẫu nhiên sẽ được truyền đi.
Client xác minh server: Client xác minh chứng nhận server từ một chứng
thực và sau đó sử dụng nó để gửi một thông điệp để xác thực server. Nếu server
không chuyển lại việc xác thực là đúng, client sẽ cảnh báo cho người sử dụng
“server is not who it claims to be “ hoặc có thể là một “trojan” server.
Client/server xác nhận khóa chứng thực để sử dụng cho phiên này:

Nếu server trả lời lại thành công, client và server sẽ tạo ra một khóa bí mật
ngẫu nhiên (chỉ ra như một Master Key trong đặc tả SSL) từ việc trao đổi dữ liệu
ngẫu nhiên và phương thức mã hóa điển hình (chẳng hạn như RSA)
Giải mã dữ liệu với một khóa: Tất cả các dữ liệu gửi ngoài kênh SSL thì
được mã hóa với một khóa bí mật.
4. Tổ chức Web site:
Các Web site phải tự nhập một mình có nghóa là nó tự hỗ trợ chính nó. Mỗi
Web site có thể di chuyển dến một máy khác để cân bằng việc tải xuống hoặc
chỉ là cho mục đích lưu thông trên mạng. Để làm được việc này, chúng phải tự
hỗ trợ mình, tự có các bảo mật riêng và các phạm vi ứng dụng riêng. Nếu người
sử dụng là một nhà cung cấp Internet, họ sẽ muốn thiết kế, di chuyển và có
người sử dụng cập nhật các Web site mà không quấy rầy đến các site khác trên
cùng một máy.
Giao thức HTTP sử dụng các URL để yêu cầu các file từ Web server. Từ
khi hầu hết các file đều chứa trong hệ thống file, IIS cần chuyển một URL sang
một tên đầy đủ của file, IIS làm công việc này cho mỗi yêu cầu. Tuy nhiên, nó
sẽ đưa lên người quản trò để cấu hình server mà URL ánh xạ đến thư mục đó.
Để thiết kế cấu trúc hệ thống file trên một máy mà nó host nhiều Web
site, người sử dụng cần biết sự khác nhau giữa thư mục gốc (Home Dir), thư mục
gốc ảo (Virtual Root) và thư mục con (Sub Dir). Người sử dụng cũng cần biết khi
nào thì phải sử dụng chúng.
Home Dir:
Một URL chứa một tên miền đang yêu cầu thư mục chủ. Ví dụ, URL dưới
đây yêu cầu một file mặc đònh trong thư mục chủ:

Công việc của người quản trò cần phải làm là giúp đỡ Web server ánh xạ
URL đến thư mục chủ. Trong ví dụ trên, thư mục chủ của Web site này sẽ được
ánh xạ đến:
trang 10
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: Nguyễn Ngọc Bình

C:\inetpub\wwwroot
Sub Dir:
Sub Dir là một thư mục kế thừa một ánh xạ URL từ một cấu trúc hệ thống
file. Ví dụ, nếu thư mục này đã tồn tại:
C:\intetpub\wwwroot\sale3
Sau đó, URL này cũng đã tồn tại:
/>Thư mục con không cần được đònh nghóa đến Web server bởi người quản trò
hệ thống. Bởi vì chỉ cần tạo ra một thư mục cha bằng Explorer là thư mục sẽ
được tạo, không cần phải điều chỉnh trong cấu hình IIS.
Virtual Root:
Virtual Root là một thư mục con của một URL mà nó được ánh xạ đến các
thư mục trong hệ thống file mà không thừa kế sự tồn tại của các hệ thống file
này.
Ví dụ: Nếu người sử dụng muốn site của họ chứa trong một URL đến:
C:\inetpub\maketing\website\extenal
Thư mục ảo sẽ tạo ra một Web site hiển thò như thể nó là một cấu trúc thư
mục khác hơn hiện tại nó có trong hệ thống file.
Khi nào thì cần sử dụng thư mục ảo:
Thư mục ảo được sử dụng khi thư mục con không được sử dụng. Bởi vì thư
mục con không giống như một Web server và chúng không có tất cả chức năng
của một thư mục ảo, chúng có thể được dùng ở mọi nơi. Thêm vào đó, thư mụ
con còn tổ chức tất cả các file chứa trong một nơi trung tâm cho các Web site.
Các thư mục ảo dược dùng khi tất cả các file trong thư mục ảo không thể
chứa được trên cùng một ổ đóa. Ví dụ: Nếu người sử dụng có một Web site mà
lớn hơn 2 Gb họ không thể chứa tất cả chúng trên cùng một ổ đóa. Trong trường
hợp này họ sẽ cần đến các Web site phân tán trong nhiều thư mục ảo trên các
thư mục ở mỗi ổ đóa. Để làm được người sử dụng phải chia Web site của họ lên
nhiều đóa. Về mặt lý thuyết, các truy cập ngẫu nhiên ngang qua nhiều ổ đóa sẽ
nhanh hơn các truy cập trên cùng một đóa.
Nếu người sử dụng có nhiều Web site và đang chia xẻ thông tin, các thư

mục ảo có thể sử dụng để hoàn thành công việc này. Ví dụ, nếu phải chia xẻ
hình ảnh, cả hai Web site cùng có một thư mục ảo gọi là Graphic mà nó ánh xạ
tới cùng một vò trí trên ổ đóa. Điều này sẽ không làm được với thư mục con. Sự
cập nhật các file trong thư mục Graphic sẽ ảnh hưởng đến cả hai site.
5. Các kiểu của bảng thuộc tính của dòch vụ WWW
Có 3 kiểu (hoặc còn gọi là lớp) khác nhau của bảng thuộc tính: Master,
Default và File. Người sử dụng có thể đònh cấu hình riêng cho từng site của mình
một trong 3 kiểu trên. Nhưng mọi sự thay đổi đều có ràng buộc với nhau, nó sẽ
ảnh hưởng đến các site con và các file.
trang 11
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: Nguyễn Ngọc Bình
Các loại bảng khác nhau của bảng thuộc tính sẽ có ích về khía cạnh phân
cấp. Với bảng thuộc tính Master nằm ở phân cấp cao nhất và bảng thuộc tính
File nằm ở cấp thấp nhất.
Master:
Các bảng thuộc tính Master quyết đònh các thuộc tính mặc đònh của các
Web site ảo đã tạo với sự thiết lập của IIS, mà các Web site này quyết đònh các
thuộc tính của các file đã được tạo ra trong mỗi Web site. Trong suốt quá trình cài
đặt, IIS sẽ nạp các thuộc tính mặc đònh cho các bảng thuộc tính Master. Mỗi site
ảo mà người sử dụng tạo ra sẽ kế thừa việc thiết lập này. Nếu họ thay đổi thiết
lập ban đầu của bảng thuộc tính Master, các Web site ảo con sẽ kế thừa các thiết
lập mới này nhưng các Web site ảo tạo trước đó sẽ giữ nguyên.
Default:
Quá trình cài đặt sẽ tạo ra các Web site với các thuộc tính mặc đònh của
nó. Những các file nào mà được tạo ra với Web site mặc đònh sẽ kế thừa các
thiết lập này.
File:
Các file tạo ra trong thư mục ảo sẽ kế thừa các thiết lập của thư mục ảo
đó, ứng với các file được tạo ra trong các trang Web mặc đònh sẽ kế thừa các
bảng thuộc tính của Web site đó. Sau khi một file được tạo ra thì các thuộc tính

được cấu hình ở mức file.
6. Bảng thuộc tính WWW:
Dòch vụ WWW trên IIS có thể cấu hình 9 bảng thuộc tính sau:
Web Site: Sử dụng bảng thuộc tính Web Site để thiết lập sự nhận biết Web
site, chỉ rõ số kết nối cho phép và cho phép hoặc cấm truy cập vào một Web
site.
Operators: Sử dụng bảng thuộc tính Operators để điều khiển các tài khoản
người dùng nào có quyền quản trò các Web site của người sử dụng.
Performance: Sử dụng bảng thuộc tính Performance để điều chỉnh cho thật
tốt sự thi hành của các Web site.
ISAPI filter: Sử dụng bảng thuộc tính ISAPI filter chứa các bộ lọc ISAPI.
Người sử dụng có thể sử dụng ISAPI để chạy các ứng dụng từ xa. Yêu cầu một
URL mà nó ánh xạ đến một bộ lọc đang hoạt động tại các ứng dụng đó. Có thể
sử dụng các thông sô cài đặt của nó để ánh xạ một tên file đến bộ lọc cho phép
trên một Web server.
Home Direcory: Sử dụng bảng thuộc tính Home Direcory để thay đổi thư
mục chứa các Web site và điều chỉnh các thuộc tính của nó.
Document: Sử dụng bảng thuộc tính Document để chỉ đònh một tài liệu mặc
đònh và gán các chức năng mặc đònh cho Web site.
Directory Security: Sử dụng bảng thuộc tính Directory Security để cấu
hình các tính năng bảo mật cho Web server.
trang 12
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: Nguyễn Ngọc Bình
HTTP Header: Sử dụng bảng thuộc tính HTTP Header để thiết lập các gia
trò trả về của trình duyệt trong phần header của một trang HTML.
Custom Error: Sử dụng bảng thuộc tính Custom Error để liệt kê các thông
báo trả về trình duyệt dành cho các lỗi HTTP.
7. Cấu hình WWW
- Chia xẻ thư mục, file:
Bảng thuộc tính của thư mục WWW trong Internet Service Manager (ISM)

cho phép người quản trò chia xẻ các thư mục và file cho WWW client. Những thư
mục này là những thư mục cụ bộ từ phân vùng FAT/NTFS hoặc là các thư mục từ
những server khác mà IIS có thể truy cập được.
WWW chia xẻ kết nối mặc đònh: Khi mà một client chỉ cung tên server
ngay tại đòa chỉ URL gọi là thư mục chủ. Ví dụ, nếu một client mở một đòa chỉ:
dòch vụ IIS trả về một tài liệu mặc đònh trong thư
mục chủ trên www.microsofts server. Các thư mục chia xẻ khác vơi thư mục chủ
được tham chiếu đến thư mục ảo.
- Sử dụng ISM để chia xẻ thư mục:
Có hai hộp thoại hiện ra cùng với ISM khi ta cấu hình việc chia xe thư mục
WWW. Thẻ Directory, WWW hiện thò danh sách tất cả các cấu hình thư mục ảo
WWW. Nó cũng cho phép người sử dụng thiết lập các thuộc tính kềm theo cho
tất cả các thư mục chia xẻ.
+ Tài liệu mặc đònh:
File này được trả về khi người sử dụng mở một thư mục và không chỉ đònh
tên file. Điển hình cho file này là các file tên default.htm hoặc index.htm.
+ Thư mục đang duyệt:
Nếu người sử dụng mở một thư mục mà không chứa một tài liệu mặc đònh,
server sẽ trả về một danh sách các file trong thư mục.
+ Bảo mật:
IIS có nhiều chức năng bảo mật để giữ gìn server và dữ liệu của người sử
dụng khỏi những cuộc xâm nhập bất hợp pháp và hacker. IIS dựa vào sự thiết
lập của Windows NT (TM) và một hệ thống chứng nhận C2. Giữ an toàn cho IIS
server là một sự kết hợp của việc thiết lập bảo mật cho Windows NT và các
chứng năng bảo mật của dòch vụ IIS. Thêm vào đó nếu server kết nối với
Internet, một bộ chọn kênh (rooter) hoặc bức tường lửa có thể được thiết lập để
cung cấp thêm độ an toàn.
8. Thư mục ảo:
Thư mục ảo là một thư mục phi vật lý chứa trong thư mục chủ của dòch vụ
IIS (WWW hoặc FTP) nhưng nó xuất hiện trong suốt đối với người sử dụng vào

các Web site này.
trang 13
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: Nguyễn Ngọc Bình
Thư mục ảo tăng khả năng linh hoạt cho việc người sử dụng quyết đònh
lưu trữ file ở đâu trên server của họ. Bằng cách sử dụng các thư mục ảo để có
thể cập nhật và truy cập dễ dàng nhất. Nó cũng cho phép tăng thêm dung lượng
lưu trữ cho Web site mà không cần phải tắt server.
Thư mục ảo có thế thiết lập cho cả dòch vụ WWW lẫn FTP chạy trên IIS.
Thư mục ảo có thể tạo ra các thư mục đònh vò ở:
- Trên cùng một đóa: Như là các thư mục chủ WWWroot hoặc FTProot.
- Một đóa ở một máy khác trong mạng cục bộ.
- Ở một đóa của máy khác trên mạng, mà máy này phải cùng tên miền với
máy có dòch vụ IIS.
a) Thư mục ảo cục bộ:
Người sử dụng có thể tạo ra các thư mục ảo cục bộ cho các thư mục được
lưu trữ trên bất kỳ đóa nào trên một máy tính được cài đặt IIS.
Khi cấu hình mộït thư mục ảo cục bộ, người sử dụng phải cài đặt một biệt
danh cho thư mục. Biệt danh này có thể là tên thư mục hoặc một tên bất kỳ nào
khác mà nó nhận diện một Web site đến người sử dụng. Họ cũng phải cung cấp
một đường dẫn đầy đủ cho thư mục ảo.
b) Thư mục ảo từ xa:
Sử dụng thư mục ảo từ xa cho các thư mục đã được cài đặt trên các máy
khác với tên miền của máy đã cài đặt IIS.
Cũng như đối với các thư mục ảo cục bộ, khi người sử dụng cấu hình một
thư mục ảo từ xa, họ được yêu cầu tạo một biệt danh cho thư mục và phải cung
cấp một một đia chỉ cho thư mục tuân theo quy ước UNC (quy ước đặt tên đòa chỉ
toàn cục). Để truy cập thư mục với một UNC, phải nhập vào một tên của người
sử dụng và password phù hợp. Tên người sử dụng và password sẽ được sử dụng
bởi người truy cập vào dữ liệu chứa trong thư mục ảo.
Chú ý:

Chắc chắn rằng tài khoản của người sử dụng mà đã thiết lập sẽ cho phép
truy cập Internet đến một thư mục ảo từ xa mà chỉ cung cấp một quyền tối thiểu
cho việc sử dụng site này. Đừng nên dùng tài khoản của nhà quản trò để truy cập
các thư mục ảo.
c) Thư mục ảo từ xa và FrontPage:
Công cụ quản lý và soạn thảo FrontPage tự động quản lý việc sử dụng các
thư mục ảo. Khi được cài đặt, FrontPage sẽ khởi tạo các thư mục ảo cho các thư
mục chứa các phần mở rộng có thể thực thi. Thêm vào đó, ban có thể cho phép
các phần mở rộng của file chuyển thành các đối tượng có thể thực thi được bằng
cách đánh dấu vào các thư mục chứa chúng, chẳng hạn như các đối tượng mở
rộng sau:
Active Server Pages (.ASP)
Các file Internet database connector (.idc)
CGI
trang 14
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: Nguyễn Ngọc Bình
Phần mở rộng ISAPI (.dll)
Perl Script (.pl)
Chú ý: bởi vì FrontPage không hỗ trợ đối với các vùng có nội dung không
liền nhau vì vậy không thể dùng thư mục ảo để trộn các vùng có nội dung không
liền nhau trong FrontPage.
9. Server ảo:
Nhiều tên miền có thể được host lên một máy đơn đang chạy IIS bằng
chách sử dụng server ảo.
Với nhiều server ảo người sử dụng có thể host nhiều site Web và site FTP
lên một máy đơn đang chạy IIS, điều này có nghóa là không cần cấp một máy và
một phần mềm trọn gói cho mỗi site này. Người sử dụng đơn giản chỉ cần một
đòa chỉ IP duy nhất cho mỗi tên miền được phân công đến server và bằng cách
sử dụng Host Header người sử dụng có thể sử dụng một đòa chỉ IP cho nhiều tên
miền. Tuy nhiên chỉ site WWW mới có thể sử dụng Host Header. Server ảo cũng

tập trung hóa việc áp dụng và đơn giản hóa việc nâng cấp các phần mềm server.
Việc host nhiều server ảo lên cùng một máy có thể giảm bớt sự thi hành
của phía server nói chung và server ảo sử dụng Host Header đòi hỏi một giao
thức HTTP phiên bản 1 tương hợp với trình duyệt Web.
Host Header:
Khả năng của các Host Header của HTTP phiên bản 1 cho phép người sử
dụng kết hợp nhiều tên của máy Host với chỉ một đòa chỉ IP. IIS sử dụng thông
tin Host Header để đổi đòa chỉ các tên khác nhau của server ảo. Để sử dụng Host
Header người sử dụng phải chuyển đổi từ Host name thành đòa chỉ IP sử dụng cả
hệ thống tên miền (DNS) server hoặc các file của các Host. Chức năng của file
host là hỗ trợ sự chuyển đổi từ các tên Host thành các đòa chỉ IP.
Chú ý:
IIS cung cấp các trình duyệt Web không tương thích với một danh sách các
server tương thích với đòa chỉ IP cho trước. Khi người sử dụng chọn một server,
một cookie mới sẽ được thay thế trên ổ đóa của người sử dụng và cookie này sẽ
được sử dụng cho những lần truy cập sau đến server ảo.
10. IIS FTP Server:
FTP là một giao thức được dùng để truyền nhận file giữa hai máy trên
mạng Internet.
FTP là một giao thức ra đời sớm nhất được sử dụng trên mạng TCP/IP và
mạng Internet. Mặc dù WWW đã thay thế hầu hết các chức năng của FTP, FTP
vẫn còn được sử dụng để chép một file từ một client đến một server trên
Internet. Không như HTTP, FTP sử dụng 2 cổng, một để truyền và một để nhận
trang 15
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: Nguyễn Ngọc Bình
file. Như vậy FTP vẫn còn có hiệu lực hơn HTTP cho những tác vụ đặc biệt của
việc truyền file.
Để sử dụng FTP truyền file giữa hai máy, cả hai máy đều phải có vai trò
riêng, một là FTP Client, một là FTP Server. FTP Client ra lệnh cho server tải
xuống hoặc đưa lên một file cũng như tạo và thay đổi các thư mục.

FTP sử dụng giao thức TCP như một phương tiện cho tất cả các kết nối và
dữ liệu trao đổi giữa client và server. TCP là một phương thức kết nối có đònh
hướng, có nghóa là có một phiên kết nối được thành lập giữa client và server
trước khi dữ liệu được truyền đi. Sự kết nối còn lại này hoạt động trong toàn bộ
phiên hoạt động của FTP. Giao thức có đònh hướng này rất nổi tiếng về độ tin
cậy và sự phục hồi lỗi ứng với các đặc điểm sau:
- Điều khiển luồng: Bởi vì các client và server đều tham gia trong việc
truyền các gói tin vì vậy các vấn đề về việc truyền tin như là các gói tin làm tràn
bộ nhớ và lạc mất các gói tin là không thể xảy ra.
- Sự chứng nhận: Máy tính gửi các gói dữ liệu và mong chờ một tín hiệu
chứng nhận từ các máy tính nhận. Sự chứng nhận này kiểm tra xem máy đó đã
nhận được gói tin hay chưa.
- Sự truyền lại: Nếu việc truyền đi của máy tính không nhận được một tín
hiệu ACK ứng với một khoảng thời gian đã đònh trước, nó sẽ giả đònh rằng gói tin
đó đã bò mất hoặc bò thất lạc thì sau đó nó sẽ truyền lại gói tin đó.
Tính tuần tự: Tất cả các gói tin sẽ được đánh số và gửi cùng lúc, vì thế
máy nhận sẽ biết cách tổ chức dữ liệu nhận được.
- Checksum: Tất cả các gói tin được chứa trong một checksum để đảm bảo
tính toàn vẹn của dữ liệu. Nếu dữ liệu bò thất lạc ở một nơi nào đó trong suốt
quá trình truyền, checksum sẽ chỉ ra rằng dữ liệu nhận được không giống với dữ
liệu gửi.
a) Các thuộc tính của FTP trên IIS:
Mỗi site FTP mà người sử dụng tạo ra đều có một bảng thuộc tính riêng
của nó. Những cài đặt chung hoặc các thuộc tính cho mỗi site được hiển thò trong
các bảng thuộc tính này.
Dòch vụ FTP sử dụng 5 bảng thuộc tính để cấu hình cho các dòch vụ FTP,
cụ thể như sau:
FTP Site. (Site FTP)
Security Account. (Bảo mật tài khoản)
Messages. (Thông báo)

Home Directory. (Thư mục gốc)
Directory Secuity. (Bảo mật thư mục)
Trong suốt quá trình cài đặt, IIS gán các giá trò mặc đònh cho việc thiết lập
trên các bảng thuộc tính khác nhau. Người sử dụng có thể dùng chung các tài
liệu trên site FTP của họ mà không phải thay đổi các thiết lập mặc đònh này
trang 16
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: Nguyễn Ngọc Bình
nhưng cũng dễ dàng trong việc thay đổi các thuộc tính được thiết lập theo ý
thích.
Mỗi site FTP được tạo ra và mỗi file ứng với mỗi site FTP đều có một
thuộc tính riêng mà người sử dụng có thể điều chỉnh để tuỳ biến những cấu hình
thiết lập tên từng site một hoặc từng file một. Họ cũng có thể điều chỉnh việc
thiết lập các thuộc tính mặc đònh các site và các file con đã thiết lập tuỳ biến
trước đó.
Có 3 kiểu (hoặc các lớp) của các bảng thuộc tính FTP với IIS và chúng
tương tự như 3 lớp của bảng thuộc dùng trên các site WWW. Các lớp thuộc tính
FTP gồm: Master, Dedault và File. Người sử dụng có thể tuỳ biến cấu hình của 3
kiểu thuộc tính này của bảng thuộc tính nhưng khi thay đổi cấu hình ở một nơi
nào đó thì nó cũng ảnh hưởng đến các site và các file con mà họ đã tạo.
b) Bảo mật FTP
Các đặc trưng bảo mật của dòch vụ FTP cũng giống như dòch vụ WWW.
Khác nhau cơ bản ở chỗ không có giao thức cho việc thiết lập bảo mật dữ liệu
của FTP giống như HTTP và SSL
- Truy cập phía server: Dòch vụ i có thể được cấu hình trên trang thuộc tính
Security Account cho các kết nối đến client và những đòa chỉ IP đặc biệt. Đây là
một cách tốt để ngăn chặn những người sử dụng không mong muốn truy cập vào
server.
- Truy cập phía người dùng: Dành cho các server với các file chung, các
client thường kết nối dưới một tên người dùng ẩn danh. Nếu dòch vụ FTP được
cấu hình cho phép điều này trong thuộc tính Security Account, nó sẽ ánh xạ tên

người dùng ẩn danh đến một cấu hình tài khoản của người sử dụng Windows NT.
Tài khoản mặc đònh tạo ra là IUSR_computername và được sử dụng bởi IIS.
Nếu cho phép sử dụng tên người dùng ẩn danh bò tắt. Người sử dụng sẽ
được cung cấp một tên người dùng chính xác. Tên người dùng này phải đúng là
môt tài khoản Windows NT ở FTP Server hoặc trong một miền mà FTP Server
cung cấp.
- Truy cập tài nguyên FTP: Dòch vụ FTP có thể cấu hình trên trang thuộc
tính Security Directory để cho phép Client chỉ có thể đọc hoặc ghi lên file trong
một thư mục được chia xẻ.
- Truy cập File: Nếu các yêu cầu đã qua các kiểm tra bảo mật trước đó,
dòch vụ FTP sẽ đưa các yêu cầu này đến hê thống file để đạt được tài nguyên.
Dòch vụ FTP đóng vai trò của người sử dụng FTP Client khi tạo ra các yêu cầu.
Nếu hệ thống file từ chối truy cập đến tài nguyên, FTP server sẽ trả về khoảng
550 tên file “Access Denied” (từ chối truy cập). Các truy cập file được cấu hình
bằng cách sử dụng File Manager hoặc các thuộc tính file trong Explorer.
trang 17
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: Nguyễn Ngọc Bình
V. APACHE WEB SERVER:
1. Giới thiệu về Apache Web Server:
Apache là một phần mềm Web server được cung cấp bởi tập đoàn Apache
Group. Đây là một Web server được hỗ trợ để chạy chủ yếu trên UNIX va
LINUX và rất được phổ biến bởi tính chặt chẽ, uyển chuyển và linh hoạt. Hiện
nay Apache là một Web server đang quản lý hơn 50% số Web site đang có trên
thế giới.
2. Tổ chức Web site:
Trước khi bắt đầu xây dựng một Web site, người sử dụng có thể muốn tìm
hiểu tổ chức của nó. Khi có nhiều hơn các khả năng suy nghó về các cách tổ
chức cấu trúc một Web site, người sử dụng có thể suy nghó về nó như một viễn
cảnh đi lại. Trong những suy nghó thêm của nó về khía cạnh này, sẽ nảy sinh ra
những câu hỏi: Người sử dụng có thể làm gì để dễ dàng giữ gìn Web site của

mình? Các quy ước nào sẽ làm đơn giản Web site của họ?
3. Cài đặt Apache trên Windows:
Chạy file Apache.msi đã tải Apache về, người sử dụng sẽ phải nhập các
thông tin sau:
- Có hay không việc chạy Apache cho tất cả mọi người sử dụng (như một
dòch vụ) hoặc cài đặt Apache để chạy trên một cửa sổ giao tiếp khi chọn shortcut
khởi động Apache.
- Tên Server, tên miền và tài khoản email của người quản trò.
- Tên thư mục để cài Apache vào (mặc đònh là C:\Program Files\Apache
Group\Apache mặc dù người sử dụng có thể thay đổi sang một thư mục bất kỳ
mà họ muốn)
- Kiểu cài đặt. Chức năng “Complete” sẽ cài đặt mọi thứ, bao gồm cả mã
nguồn nếu người sử dụng đã tải về gói –srm.msi. Chọn cài đặt “Custom” nếu
không muốn chọn cài đặt tài liệu hoặc mã nguồn từ gói cài đặt này.
Trong suốt quá trình cài đặt Apache sẽ cấu hình các file trong thư mục
conf cho thư mục lựa chọn cài đặt của người sử dụng, tuy nhiên nếu bất kỳ
những file nào trong thư mục này đã tồn tại chúng sẽ không bò chép chồng lên.
Sau khi cài đặt xong, người sử dụng sẽ phải sửa đổi các file cấu hình trong
thư mục conf. Những file này sẽ được cấu hình trong suốt quá trình cài đặt để
sẵn sàng cho Apache chạy từ thư mục mà họ đã cài đặt vào với các tài liệu phục
vụ từ thư mục con htdocs. Có rất nhiều chức năng trước khi bắt đầu thực sự sử
dụng Apache. Tuy nhiên, để việc khởi động nhanh chóng các file này nên làm
việc theo các cài đặt mặc đònh.
Nếu người sử dụng tháo cài đặt Apache khỏi hệ thống, các cấu hình và
các file log sẽ không được gỡ ra. Người sử dụng phải sẽ cần phải xóa các cây
trang 18
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: Nguyễn Ngọc Bình
thư mục đã cài đặt (mặc đònh là C:\Program File\Apache Group\Apache) nếu
người sử dụng không muốn giữ các cấu hình của họ và các file Web khác. Từ khi
fie httpd.conf đã được cấu hình để sử dụng Apache, người sử dụng cũng phải

phải gỡ bỏ nó và các file khác mà đã được tạo cũng như bất kỳ các file log nào
mà Apache đã tạo.
4. Chạy Apache trên Windows:
a) Chạy như một dòch vụ: Đây là các tốt nhất nếu muốn Apache tự động
khởi động khi khởi động máy và giữ Apache vẫn chạy khi đã log-off.
Để khởi động Apache như một dòch vụ, trước hết cần phải cài đặt Apache
như một dòch vụ. Nhiều dòch vụ Apache có thể được cài đặt với mỗi tên và cấu
hình khác nhau. Để cài đặt một dòch vụ Apache mặc đònh có tên “Apache”.
Chọn “Install a Sevice for All User” khi bắt đầu bung gói cài đặt Apache. Sau khi
cài xong có thể khởi động dòch vụ Apache bằng cách mở cửa sổ Service, chọn
Apache, nhắp chuột vào Start, Apache sẽ bắt đầu chạy, ẩn trên màn hình. Sau
đó có thể ngừng Apache bằng cách nhắp chuột vào Stop. Có một lựa chọn khác
để sử dụng dòch vụ Apache từ các dòng lệnh sau tại cửa sổ giao tiếp:
Net start Apache
Net Stop Apache
Sau khi khởi động Apache, người sử dụng có thể kiểm tra nó bằng cách sử
dụng thủ tục như sau để chạy trên cửa sổ giao tiếp:
Apache –n “service name”
Để chắc chắn việc đang sử dụng các dòch vụ được cấu hình mặc đònh của
Apache.
Có nhiều dòch vụ khác của Apache được cài đặt và chạy như một dòch vụ.
Các dòng lệnh sau sẽ khởi động, khởi động lại, Tắt và Ngừng các dòch vụ:
- Apache –n “service name” –k start.
- Apache –n “service name” –k restart.
- Apache –n “service name” –k shutdown.
- Apache –n “service name” –k stop.
Ký hiệu chuyển đảo –n để chỉ các dòch vụ Apache mặc đònh, còn khi
không có –n mà chỉ có –k dòng lệnh sẽ chỉ đònh rằng Apache đang chạy trên
một cửa sổ giao tiếp, trường hợp này chỉ yêu cầu đối với các tên dòch vụ của
Apache có chứa khoảng trắng.

Ngoài ra để Stop Apache trên cửa sổ giao tiếp còn có thể ấn tổ hợp phím
Ctrl + C hoặc Ctrl + Break.
b) Chạy Apache trên cửa sổ giao tiếp:
Một khi đóng cửa sổ giao tiếp sẽ kết thúc việc chạy Apache.
Tại biểu tượng Start menu và trình Windows NT Service Manager có thể
cung cấp một giao diện đơn giản để quản trò Apache. Nhưng dễ dàng nhất để
làm việc là từ dòng lệnh.
trang 19
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: Nguyễn Ngọc Bình
Khi làm việc với Apache điều quan trọng nhất là việc tìm các file cấu
hình. Người sử dụng có thể chỉ ra file cấu hình bằng hai cách (dùng các dòng
lệnh):
* -f chỉ đến đường dẫn một file cấu hình:
apache –f c:\myserver\conf\my.conf
apache –f test\test.conf
* -n đường dẫn đến một file cấu hình của một dòch vụ Apache đã được cài
đặt.
apache –n “service name”
Trong các trường hợp trên, Server Root phải được thiết lập trong file cấu
hình.
Nếu người sử dụng chỉ ra một tên file cấu hình với –n và –f. Apache sẽ sử
dụng tên file được biên dòch ở trong server, thường là “conf/httpd.conf”. Gọi đến
Apache với ký hiệu chuyển đảo –v sẽ hiển thò các giá trò đã đánh nhãn
SERVER-CONFIG-FILE. Apache sẽ quyết đònh ServerRoot của nó bằng các
cách sau:
- Một chỉ thò SeverRoot qua ký hiệu chuyển đảo –c.
- Ký hiệu chuyển đảo –d trên dòng lệnh.
- Thư mục đang làm việc hiện thời.
- Một khóa registry được tạo nếu người sử dụng cài đặt nhò phân.
- SeverRoot được biên dòch bên trong server.

SeverRoot được biên dòch bên trong server thường là “/apache”. Nếu gọi
đến Apache với ký hiệu chuyển đảo –v sẽ hiển thò các giá trò được đánh nhãn
giống như là của “HTTPD Root”.
Khi gọi đến Apache từ trình đơn Start. Apache thường bỏ qua các thông
số vì thế sử dụng khoá registry là một kỹ thuật vẫn được ưa thích hơn cho
Apache.
Trong quá trình cài đặt, một khóa registry sẽ được tạo, ví dụ:
HKEY_Local_machine\Sofware\ApacheGroup\Apache\1.3.13\ServerRoot
Khóa này được biên dòch vào trong server và có thể cho phép kiểm tra các
phiên bản mới mà không tác động đến phiên bản hiện thời. Dó nhiên, phải chắc
rằng không cài đè phiên bản mới lên phiên bản cũ trong hệ thống file.
Giá trò của khóa này là thư mục “ServerRoot” chứa trong thư mục Conf.
Khi Apache khởi động, nó sẽ đọc file httpd.conf từ thư mục này. Nếu thư mục
này chứa chỉ thò ServerRoot mà nó khác với thư mục đang tồn tại trong khóa
registry, Apache sẽ quên khóa registry và sử dụng thư mục được thiết lập trong
file cấu hình. Nếu người sử dụng chép một thư mục Apache hay các file cấu hình
đến một nơi khác, nó sẽ vẫn còn cho đến khi cập nhật lại thư mục ServerRoot
trong file httpd.conf đến một nơi khác.
Để chạy Apache từ dòng lệnh như một ứng dụng giao tiếp, sử dụng dòng
lệnh: apache
trang 20
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: Nguyễn Ngọc Bình
Apache sẽ được bắt đầu và sẽ vẫn chạy cho đến khi người sử dụng nhấn tổ
hợp phím Ctrl – C.
Để kiểm tra việc thiết lập các thông số cho file cấu hình dùng lệnh:
apache –t
Lệnh này được sử dụng để thay đổi các file cấu hình khi Apache vẫn còn
đang chạy. Người sử dụng có thể tạo ra các thay đổi, xác nhận việc thay đổi là
tốt bằng lệnh “apache –t”, sau đó khởi động lại Apache với “apache –k restart”.
Apache sẽ đọc lại các file cấu hình cho phép thực hiện bất kỳ một tiến trình nào

để hoàn thành mà không xảy ra gián đoạn. Bất kỳ một yêu cầu nào cũng sẽ
được phục vụ với việc sử dụng cấu hình mới.
5. Kiểm tra Apache trên Windows:
Chạy Command Prompt danh sách Program của trình đơn Start.
Chọn thư mục đã cài đặt Apache vào và gõ lệnh apache và đọc các thông
báo lỗi (nếu có). Sau đó xem lại file error.log cho các cấu hình bò thiết lập sai.
Nếu người sử dụng chấp nhận mặc đònh khi cài đặt Apache, các dòng lệnh sẽ là:
c:
cd "\program files\apache group\apache"
apache
Wait for Apache to exit, or press Ctrl+C
more <logs\error.log
Sau khi xem file error.log người sử dụng sẽ thấy một vài vấn đề bò lỗi và
họ có thể sửa chữa và khởi động lại một lần nữa.
Sau khi khởi động, Apache sẽ chạy (như ở cửa sổ giao tiếp hoặc như một
dòch vụ) và sẽ bắt đầu lắng nghe ở cổng 80, trừ phi người sử dụng thay đổi Port,
Listen hoặc BindAddress (trong file cấu hình). Hãy thực hiện kết nối đến server
và truy cập trang Web mặc đònh bằng cách mở trình duyệt và nhập vào URL sau:
http://localhost/
Trình duyệt sẽ trả lại một trang Welcome và một liên kết đến sổ hướng
dẫn Apache như sau:
trang 21
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: Nguyễn Ngọc Bình
Nếu không người sử dụng sẽ nhận được một thông báo lỗi, có thể xem lại
file error.log trong thư mục log. Nếu máy tính không nối mạng, họ có thể sử
dụng URL sau đây:
http://127.0.0.1/
Một khi các cài đặt cơ sở đang làm việc, người sử dụng phải cấu hình các
thuộc tính của nó bằng cách sửa đổi nội dung các file trong thư mục conf.
6. Virtual Host:

Vitual Host là một sức mạnh thật sự của Apache. Virtual Host cho phép
Apache Web Server chạy cùng lúc nhiều Web site. Apache là một HHTP server
đầu tiên cung cấp các hỗ trợ cho việc xây dựng một virtual site. Trong khi các
server của NCSA và các server khác cũng cung cấp sự hỗ trợ virtual site nhưng
Apache cung cấp một khả năng thi hành tốt hơn và có nhiều điểm đặc trưng hơn
các server khác.
Chỉ mới nhìn qua, dường như sự thuận lợi chính của virtual site là chỉ để tô
điểm, nó cho phép nhiều Web site được đánh đòa chỉ tên miền của nó trên các
máy đơn đã được chia xẻ. Tuy nhiên sự thuận lợi của nó nhiều kết quả rõ ràng
nằm trong cách quản trò Web site và cách những máy khác sử dụng nó. Một
Virtual host thường được tạo ra nhằm mục đích như sau:
- Khách hàng có thể dễ dàng truy cập các Web site của mình trên các
server cho thuê. Từ khi người thuê server có thể sử dụng tên miền của chính
mình, các đòa chỉ có khuynh hướng ngắn đi. Điều này đã giúp đỡ việc đưa ra tính
chuyên nghiệp đồng nhất trên thế giới. Những người sử dụng thích nhớ những
đòa chỉ ngắn hơn từ khi tên miền có một vài sự thích hợp với tên của các tập
đoàn công ty.
- Rút gọn tối đa các máy tính và phần cứng mạng, nhiều site tốc độ chậm
có thể nằm ở tại một máy đơn, điều này làm giảm bớt giá thành của việc đưa
một site lên mạng.
trang 22
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: Nguyễn Ngọc Bình
- Giảm bớt giá thành về con người kết hợp với các hệ thống quản trò. Thay
cho việc quản lý và cấu hình một server chuyên dụng cho các tên miền. Một
Web server chỉ cần duy trì vài file cấu hình và một số các box. Điều này sẽ dẫn
đến việc giảm một số hệ thống cần để duy tu nó, như vậy việc duy trì một mảng
sẽ đơn giản hơn và ít tốn kém hơn.
Bởi vì hầu hết các Web site khi tạo ra đều không đủ đường truyền lưu
thông để sử dụng hết các tài nguyên trên một máy đơn, điều đó là sự khát khao
từ một người quản trò cá nhân cho phép một server đơn giản trên mạng và chạy

như nhiều máy khác nhau thay vì dành cho phần cứng và tiền bạc để mỗi site
được đưa lên, một vài server cấu hình các lệnh để đưa ra các kết quả như nhau:
một virtual site. Bởi vì phí tổn để cài đặt một server có thể chia xẻ cho nhiều
site, thời gian để cấu hình và quản lý Web site được giảm đi rất nhiều.
Virtual host đã đem lại một khía cạnh chắc chắn của việc tạo ra một trang
Web di động. Khi một site là ảo, nó dễ dàng di chuyển đến một Web server khác
trong cùng một mạng hoặc ở một nơi nào khác. Đây chính là vấn đề của việc
chuyển chỗ các trang HTML của các site đến một máy mới và điều chỉnh các
thông tin DNS (Domain Name Server) của site đưa lên một server mới. Để việc
thích nghi với DNS được cập nhật, đơn giản chỉ cần tạo ra sự đổi hướng trên
server cũ . Điều này cho phép sự lưu thông được trôi chảy mà không có sự sai
sót, đó là một vấn đề quan trọng với các site đang lớn mạnh đang được lưu thông
để tạo ra kinh doanh.
Về mặt lòch sử, khi người sử dụng muốn một site đang host sử dụng tên
miền của họ, sự lựa chọn có thể được là mua hoặc thuê một máy tính và dùng nó
để cấu hình như một Web server. Phải chòu các phí tổn để tiêu tốn cho việc quản
lý server này. Các phí tổn này dễ thường là rất lớn, việc này đã thúc đẩy các nhà
cung cấp dòch vụ Internet (ISP) thêm vào các cách để hỗ trợ nhiều Web site trên
một host, điều này dẫn đến một vài giải pháp gần đây, chẳng hạn như Home
Page Approach.
Home Page Approach tạo ra một đòa chỉ giống như:
/>Home Page Approach là một cách thích hợp để phục vụ các trang người
dùng cục bộ. Nhưng khi dùng nó để phục vụ cung cấp thông tin lớn và đang được
truy cập thường xuyên bởi một số lớn người sử dụng thì việc này sẽ tạo ra một
đòa chỉ tồi mà rất khó nhớ, tên nhạp vào dài, dễ xảy ra sai sót phía người sử dụng
và trông không được chuyên nghiệp lắm.
Xây dựng một virtual host:
Các phạm vi liên quan của virtual host, virtual site và multihomed server
thông thường được sử dụng thay thế cho nhau. Để dễ hiễu hơn, chỉ cần suy nghó
chúng như sau:

trang 23
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: Nguyễn Ngọc Bình
Để tạo một virtual site, thì cần phải cấu hình một virtual host, để virtual
host làm việc cần phải tạo một mutihomed server, như vậy rõ ràng là có sự khác
nhau giữa chúng.
Một máy tính multihomed là môt máy tính có thể trả lời cùng một lúc đến
nhiều đòa chỉ IP. Một máy tính mày có thể được truy cập bởi nhiều tên (chẳng
hạn như www. mailhost.foo.com và www.foo.com) mà nó thi hành cho các đòa
chỉ IP như nhau không thể là một máy tính Multihomed.
Việc đặt bí danh, một khả năng cung cấp bởi DNS trong một bảng ghi tài
nguyên CNAME , hoặc liệt kê các tên máy tính trên etc/host/file đằng sau các đòa
chỉ IP thì chỉ tiện lợi cho người sử dụng đang truy cập vào một tài nguyên trên
mạng. Thông thường người ta mất nhiều thời gian để nhớ tên, và một vài tên
chẳng hạn như WWW hoặc FTP thì là tiêu chuẩn đặc trưng cho các máy tính mà
nó đưa lên mạng các dòch vụ với tên tương tự. Người sử dụng chỉ cần nhớ tên
miền nơi các tài nguyên nơi các tài nguyên đó sử dụng tên truyền thống (chẳng
hạn www.aple.com, www.mailhost.com hoặc ftp.aple.com ) Một máy
Multihomed cần nhiều hơn thế, nó phải trả lời cho cùng lúc hai hoặc nhiều đòa
chỉ IP chẳng hạn đòa chỉ IP 1.2.3.4 là đòa chỉ được ấn đònh bởi mạng làm việc
Internet của người sử dụng cung cấp khi họ sign up với chúng.
7 .Virtual site:
Virtual site là một Web site mà nó cùng nằm trên một server với các Web
site khác. Mỗi Web site thì được truy cập bằng tên của chúng và chia xẻ tất cả tài
nguyên phần cứng với các virtual site khác. Mặc dù tất các yêu cầu đều được trả
lời bằng các xử lý như nhau trên HTTP server, nhưng các trang chủ khác nhau
được trả về cho mỗi site phụ thuộc vào tên hoặc đòa chỉ IP sử dụng khi truy cập
các thông tin.
Một vấn đề về mạng khác là việc phải đánh đòa chỉ trước khi có thể
multihome là DNS. DNS cung cấp một tên máy đến dòch vụ chuyển sang IP. Khi
tên máy được đánh số, con người thích sử dụng tên máy hơn. DNS chuyển các

tên sang số và các số sang tên. Sự thay đổi này có ý nghóa là nếu người sử dụng
kết nối với Internet, và đang chạy với một tên server . Nếu không thì ngược lại
không một ai khác chạy nó. Nếu người sử dụng không phải đang chạy với DNS
của chính mình, họ sẽ cần phải ngang hàng với quyền quản trò mạng của chính
mình để thi hành bất kỳ sự thêm vào hoặc thay đổi DNS.
8. Cấu hình Apache trên Windows:
a) Các file cấu hình của Apache server:
Web server sẽ đọc 3 file chứa các chỉ thò cấu hình. Bất kỳ một chỉ nào nào
được hiển thò trong các file này đều sẽ được thực hiện.
Conf/httpd.conf: Chứa các chỉ thò mà nó điều khiển sự thi hành của
server. Tên file có thể được lướt qua với ký hiệu khả chuyển –f.
trang 24
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: Nguyễn Ngọc Bình
Conf/srm.conf: Chứa các chỉ thò mà nó điều khiển sự chỉ đònh các
tài liệu mà server cung cấp cho các client. Tên file có thể được lướt qua với chỉ
thò ResourceConfig.
Conf/access.conf: Chứa các chỉ thò mà nó điều khiển sự truy cập các
tài liệu. Tên file có thể được bỏ qua với chỉ thò AccessConfig.
b) Thiết lập cấu hình Apache trên Windows:
Apache được cấu hình bởi các file trong thư mục conf. Các file này cũng
giống như các file được sử dụng để cấu hình cho Unix nhưng có một vài chỉ thò
khác cho Apache trên Windows.
Quá trình cấu hình sẽ được bắt đầu bằng cách tham khảo httpd.conf và các
chỉ thò của nó. Mặc dù các file access.conf và srm.conf còn tồn tại song chúng là
những file cũ mà không được sử dụng nhiều bởi hầu hết các nhà quản trò và
người sử dụng sẽ không tìm thấy bất kỳ chỉ thò nào ở đó.
Httpd.conf chứa rất nhiều các tư liệu của chính nó, được sinh ra bởi các chỉ
thò cấu hình mặc đònh gửi gắm khi khởi động với Apache server. Bắt đầu bằng
cách đọc các lời chú thích để hiểu file cấu hình và làm một số thay đổi nhỏ, khởi
động lại Apache trong một cửa sổ giao tiếp với mỗi thay đổi. Nếu người sử dụng

tạo ra một lỗi, nó sẽ dễ dàng sao lưu để đònh dạng lần làm việc cuối cùng .
Các khác nhau của Apache trên Windows chính là:
+ Bởi vì Apache trên Windows thì đang luồng, nó không sử dụng các tiến
trình riêng biệt cho mỗi yêu cầu như là của Unix. Thay cho việc thường chỉ có 2
tiến trình đang chạy: Một tiến trình cha và một tiến trình con để xử lý các yêu
cầu. Với tiến trình con mỗi yêu cầu được xử lý bởi một luồng riêng.Vì thế tiến
trình quản lý các chỉ thò là khác nhau:
+ Các chỉ thò mà chấp nhận các tên file như các đối số phải sử dụng các
tên file kiểu Windows thay cho các tên file Unix. Tuy nhiên, bởi vì Apache server
sử dụng các tên file kiểu Unix bên trong, phải tiến hành cắt bớt, không cắt phần
sau. Các ký tự điều khiển có thể được sử dụng, nếu bỏ qua, ký tự điều khiển với
Apache khả thi sẽ đảm nhận.
+ Apache trên Windows có khả năng nạp các mô đun ngay khi chay mà
không biên dòch lại server. Nếu Apache biên dòch bình thường, nó sẽ cài đặt một
số mô đun tuỳ chọn trong thư mục /module, để kích hoạt chúng hoặc các mô đun
khác sử dụng lệnh sau đây:
LoadModule status_module modules/mod_status.so
+ Apache cũng có thể nạp các phần mở rộng ISAPI (các dòch vụ ứng dụng
Internet) chẳng hạn các ứng dụng được sử dụng bởi Microsoft IIS và các server
Windows khác. (Chú ý: Apache không nạp các bộ lọc ISAPI).
+ Khi đang chạy CGI script, các phương thức Apache tìm kiếm các giải
thích cho script được cấu hình đang sử dụng chỉ thò ScriptInterpreterSource.
9. Apache và các dòch vụ hỗ trợ:
a) HTTPD:
trang 25

×