Chuyên đề tốt nghiệp Nguyễn Thế Hưng
LỜI MỞ ĐẦU
Mọi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh đều có mục tiêu bao trùm,
lâu dài là tối đa hoá lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu này, các doanh nghiệp
phải tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra sản phẩm
cung cấp cho thị trường và phải sử dụng các nguồn lực xã hội nhất định.
Càng sử dụng tiết kiệm các nguồn lực này bao nhiêu thì cơ hội thu lợi nhuận
của doanh nghiệp càng tăng bấy nhiêu. Hiệu quả kinh doanh là phạm trù
phản ánh tính tương đối của việc sử dụng tiết kiệm nguyên vật liệu nên là
điều kiện để thực hiện mục tiêu bao trùm ấy, hiệu quả kinh doanh càng cao
chứng tỏ doanh nghiệp sử dụng tiết kiệm các nguồn lực, lợi nhuận của doanh
nghiệp càng lớn. Chính vì vậy, nâng cao hiệu quả là đòi hỏi khách quan để
doanh nghiệp có thể thực hiện mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận.
Mặt khác, trong xu thế mở cửa và hội nhập hiện nay cạnh tranh diễn
ra ngày càng mạnh mẽ, muốn tồn tại và phát triển thì doanh nghiệp phải
chiến thắng trong cạnh tranh, phải tạo được cho mình một vị thế vững chắc.
Muốn vậy, doanh nghiệp phải luôn tạo ra và duy trì được lợi thế nhất định so
với đối thủ về chất lượng, giá cả…. Trong khi đó, các nguồn lực xã hội ngày
càng trở nên khan hiếm do chúng được sử dụng vào các hoạt động sản xuất
khác nhau để phục vụ nhu cầu ngày càng tăng của con người. Chỉ trên cơ sở
sản xuất kinh doanh với hiệu quả kinh tế cao thì doanh nghiệp mới có thể
tồn tại và phát triển. Nói cách khác, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
là điều kiện tiên quyết để doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển.
Sau hơn 15 năm đổi mới, các doanh nghiệp Nhà nước nói chung đạt
được sự tăng trưởng một cách tương đối khó khăn. Với trình độ còn thấp,
tiềm lực còn yếu ở hầu hết các mặt thì việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh đã trở thành mối quan tâm hàng đầu của tất cả các doanh nghiệp Nhà
nước và các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Chính vì vậy,
1
Chuyên đề tốt nghiệp Nguyễn Thế Hưng
việc phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh đã và đang được các doanh
nghiệp quan tâm để tìm hướng đi đúng đắn cho mình.
Công ty Hàng hải Đông Đô - một doanh nghiệp Nhà nước hoạt động
trong lĩnh vực vận tải biển và khai thác cảng cũng không nằm ngoài quy luật
đó. Trải qua gần 20 năm hình thành và phát triển, Công ty đã và đang phải
đối mặt với nhiều khó khăn và thử thách như nhiều doanh nghiệp (kể cả
doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp tư nhân) cùng hoạt động trong lĩnh
vực này và sự thay đổi nhiều của chính sách quản lý kinh tế – xã hội vĩ mô.
Để khẳng định vị thế của mình trong các lĩnh vực kinh doanh và mở rộng
thêm các loại hình sản xuất kinh doanh khác, Công ty đã và đang trăn trở tìm
các giải pháp để nâng cao hơn nữa hiệu quả trong sản xuất kinh doanh. Nhận
thức rõ vấn đề này, sau hơn 19 năm gắn bó với Công ty, tôi đã lựa chọn đề
tài “Một số giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tại
Công ty Hàng hải Đông Đô” để viết chuyên đề tốt nghiệp lớp Chính trị cao
cấp Khoá II (Tổng công ty Cơ khí Giao thông vận tải). Bằng việc vận dụng
những kiến thức đã được học, áp dụng những lý thuyết vào thực tiễn, tôi
mong muốn được góp phần nhỏ bé của mình vào việc nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh của một doanh nghiệp.
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, kết cấu Chuyên đề gồm 03 chương
với các nội dung như sau:
Chương I: Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Chương II: Thực trạng hiệu quả sản xuất kinh doanh tại Công ty Hàng
hải Đông Đô.
Chương III: Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh tại Công ty Hàng hải Đông Đô.
2
Chuyên đề tốt nghiệp Nguyễn Thế Hưng
CHƯƠNG 1
SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
I)- LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH
1)- Khái niệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh
Trong doanh nghiệp, hiệu quả sản xuất kinh doanh là một tiêu chí rất
quan trọng, nó chính là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp. Chính vì vậy, phạm trù hiệu quả sản xuất kinh doanh đã thu hút sự
quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà kinh tế học như Peter Samuelson, Adam
Smith, Manfred Kuhn … Mặc dù có sự thống nhất cho rằng phạm trù hiệu
quả kinh doanh phản ánh mặt chất lượng của hoạt động sản xuất kinh doanh
song lại có nhiều các quan điểm khác nhau về hiệu quả kinh doanh.
Nhà kinh tế học người Mỹ, Peter Samuelson cho rằng: “Hiệu quả sản
xuất diễn ra khi xã hội không thể tăng sản lượng một loại hàng hoá mà không
cắt giảm sản lượng một loại hàng hoá khác. Một nền kinh tế có hiệu quả nằm
trên đường giới hạn khả năng sản xuất của nó”
(1)
. Theo quan điểm này thì
hiệu quả sản xuất kinh doanh chính là sự phân bố có hiệu quả các nguồn lực
của nền sản xuất xã hội, nó xem xét hiệu quả dưới góc độ nền kinh tế quốc
dân. Trên phương diện này, việc phân bổ các nguồn lực kinh tế để có thể tận
dụng triệt để mọi nguồn lực trên đường giới hạn khả năng sản xuất sẽ làm
cho nền kinh tế có hiệu quả. Tuy nhiên, đây chính là mức hiệu quả cao nhất
mà một nền kinh tế có thể đạt được (mức hiệu quả lý tưởng).
(1) P. Samuelson & G. Nordhau: Kinh tế học – Trích từ bản tiếng Việt 1991
3
Chuyên đề tốt nghiệp Nguyễn Thế Hưng
(2) Khoa Thương mại - ĐHKTQD: Kinh tế thương mại dịch vụ – NXB Thống kê
1998
Trong thực tế rất khó có thể đạt được mực hiệu quả này, nói cách
khác, quan điểm này mang tính chất thuần tuý lý tưởng.
Theo quan điểm chủa Nhà kinh tế học người Anh Adam Smith, thì :
“Hiệu quả là kết quả đạt được trong hoạt động kinh tế, là doanh thu tiêu thụ
hàng hoá”
(2)
. Với quan điểm này, Adam Smith đã đánh đồng hiệu quả và
kết quả mà thật ra giữa chúng có sự khác nhau. Theo đây thì nếu một kết quả
của các mức chi phí khác nhau thì có cùng một hiệu quả như nhau. Như vậy,
Ông
mới chỉ quan tâm đến đầu ra chứ chưa quan tâm đến việc sử dụng có hiệu
quả các yếu tố đầu vào.
Theo quan điểm của Nhà kinh tế học Manfred Kuhn: “ Tính hiệu quả
được xác định bằng cách lấy kết quả tính theo đơn vị giá trị chia cho chi phí
kinh doanh”
(3)
. Nếu như Adam Smith cho rằng hiệu quả được đo bằng kết
quả thì Manfred Kuhn cho rằng hiệu quả được xác định bởi tỷ số giữa kết
quả đạt được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả ấy. Nếu như Adam Smith
mới chỉ quan tâm đến kết quả tạo ra thì Manfred Kuhn coi hiệu quả sản xuất
kinh doanh là trình độ sử dụng các yếu tố đầu vào, gắn kết quả với chi phí
tạo ra kết quả đó. Tuy nhiên, quan điểm này chưa biểu hiện được tương quan
về lượng và chất giữa kết quả và chi phí, chưa phản ánh mức độ chặt chẽ của
mối liên hệ này.
Cũng quan niệm về hiệu quả, Whole cho rằng: “Hiệu quả là mối quan
hệ tỷ lệ giữa sản lượng tính theo đơn vị hiện vật (cái, chiếc, kilôgam…) và
lượng các nhân tố đầu vào (giờ lao động, ngày lao động, đơn vị thiết bị,
nguyên vật liệu,…), được gọi là hiệu quả có tính chất kỹ thuật”
(4)
.
4
Chuyên đề tốt nghiệp Nguyễn Thế Hưng
(3) Manfred Kuhn: Từ điển kinh tế, Hamburg 1990
(4), (5) Whole: Nhập môn kinh tế xí nghiệp đại cương, Muchen 1990
Theo quan điểm này thì hiệu quả mới chỉ phản ánh về mặt lượng (nêu
lên mức năng suất của các yếu tố đầu vào và đầu ra), mới chỉ nêu lên một
khía cạnh của hiệu quả là năng suất. Ưu điểm của quan điểm này là có thể so
sánh năng suất của năm này với năm khác với cùng một đơn vị đo.
Theo quan điểm của Doring thì: “Hiệu quả là mối quan hệ tỷ lệ giữa
chi phí kinh doanh khác chỉ ra trong điều kiện thuận lợi nhất và chi phí kinh
doanh thực tế phải chi ra, được gọi là hiệu quả xét về mặt giá trị”
(5)
. Giống
như quan điểm của Whole, quan điểm của Doring mới chỉ đề cập đến một
khía cạnh của hiệu quả nhưng khác ở chỗ khía cạnh được đề cập đến ở đây
là chi phí. Hiệu quả ở đây được xác định bằng cách xác định chi phí kinh
doanh thấp nhất trong điều kiện thuận lợi nhất rồi đem chi phí thức tế phát
sinh với chi phí kế hoạch.
Hạn chế của quan điểm này là chưa xét tới toàn bộ quá trình sản xuất
kinh doanh để có thể giảm thiểu chi phí.
Một quan điểm khác cho rằng: “Hiệu quả kinh tế của một quá trình
sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ lợi dụng các
nguồn lực để đạt được các mục tiêu xác định”
(6)
. So với các quan điểm trên
thì quan điểm này phản ánh tốt nhất trình độ lợi dụng ở mọi điều kiện động
của hoạt động sản xuất kinh doanh, theo quan điểm này ta có thể xác định
hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh trong điều kiện biến đổi.
5
Chuyên đề tốt nghiệp Nguyễn Thế Hưng
(6) Khoa Thương mại, ĐHKTQD: Kinh tế thương mại dịch vụ – NXB Thống kê
1998
Từ các quan điểm trên chúng ta có thể đưa ra một khái niệm bao quát
nhất về hiệu quả: “Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù phản ánh trình
độ lợi dụng các nguồn lực để đạt được các mục tiêu kinh doanh xác định
của doanh nghiệp, mối quan hệ giữa kết quả mà quá trình sản xuất kinh
doanh tạo ra và chi phí tạo ra kết quả đó”. Khái niệm đó đánh giá đối với
mỗi đơn vị hao phí nguồn lực sẽ tạo ra kết quả như thế nào.
Công thức chung dùng để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh là:
K
H =
C
Trong đó:
H: Là hiệu quả sản xuất kinh doanh
K: Là kết quả đầu ra
C: Là yếu tố đầu vào
Công thức này phản ánh mỗi đơn vị đầu vào có khả năng tạo ra bao
nhiêu đơn vị đầu ra và được dùng để xác định ảnh hưởng của hiệu qua sử
dụng nguồn lực hay chi phí thường xuyên đến kết quả kinh tế.
Bên cạnh đó, người ta cũng có thể xác định hiệu quả sản xuất kinh
doanh bằng công thức:
C
H’ =
K
6
Chuyên đề tốt nghiệp Nguyễn Thế Hưng
Trong đó:
H’: Là hiệu quả sản xuất kinh doanh
K : Là kết quả đầu ra
C : Là yếu tố đầu vào
Công thức này phản ánh một đơn vị đầu ra cần bao nhiêu đơn vị đầu
vào và được dùng để xác định qui mô tiết kiệm hay lãng phí nguồn lực và
chi phí thường xuyên.
2)- Bản chất của hiệu quả.
Bản chất của hiệu quả kinh doanh là phản ánh mặt chất lượng của các
hoạt động sản xuất kinh doanh, phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản
xuất (lao động, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, vốn, ….) trong quá trình
tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp để đạt
được mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận và tối đa hoá lợi nhuận.
Về hiệu quả kinh doanh, có quan điểm cho rằng hiệu quả và kết quả
sản xuất kinh doanh là như nhau nhưng thật ra giữa chúng có những điểm
khác biệt. Để hiểu rõ bản chất của phạm trù hiệu quả kinh doanh chúng ta
cần phân biệt rõ ranh giới giữa hai khái niệm hiệu quả và kết quả. Sự khác
nhau giữa chúng thể hiện ở ba điểm:
Thứ nhất, kết quả phản ánh những cái thu được hướng vào mục tiêu
đã xác định sau một quá trình hay một khoảng thời gian kinh doanh nào đó,
kết quả cũng có thể phản ánh mặt chất lượng của sản xuất kinh doanh hoàn
toàn định tính như uy tín, danh tiếng của doanh nghiệp, chất lượng sản phẩm
… còn hiệu quả phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất, phản ánh
chất lượng hoạt động, được phản ánh thông qua kết quả và chi phí.
7
Chuyên đề tốt nghiệp Nguyễn Thế Hưng
Thứ hai, đơn vị của kết quả thường là đơn vị hiện vật như cái, chiếc,
tấn, tạ, mét, lít … hoặc đơn vị giá trị như đồng, triệu đồng, đô la,… trong khi
hiệu quả không thể đo bằng hiện vật hay giá trị mà là một phạm trù tương
đối.
Thứ ba, kết quả được biểu hiện bằng giá trị tuyệt đối còn hiệu quả
được biểu hiện bằng những con số tương đối giữa kết quả đạt được và hao
phí nguồn lực.
Trong doanh nghiệp, kết quả là mục tiêu nhưng hiệu quả sản xuất kinh
doanh lại được đánh giá thông qua kết quả và chi phí. Vậy, vấn đề được đặt
ra: “Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mục tiêu hay là phương tiện của kinh
doanh?”. Thông qua hiệu quả sản xuất kinh doanh ta có thể đánh giá được
việc thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp đạt được đến đâu. Không chỉ có
thế, thông qua đó có thể phân tích tìm ra các nhân tố, các giải pháp nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh với kết quả lớn hơn và chi phí ít hơn. Trong
nhiều trường hợp, người ta sử dụng chỉ tiêu hiệu quả như mục tiêu cần đạt
và trong nhiều trường hợp khác, người ta lại sử dụng chúng như công cụ để
nhận biết khả năng tiến tới mục tiêu cần đạt (Hiệu quả được sử dụng như
một phương tiện).
Hiệu quả kinh doanh phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản
xuất trong một thời kỳ kinh doanh nào đó hoàn toàn khác so với sự tăng lên
của kết quả với sự tăng lên của sự tham gia các yếu tố đầu vào.
3)- Quan điểm đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một khái niệm phức tạp và khó đánh
giá chính xác. Qua khái niệm, ta có thể thấy rằng hiệu quả sản xuất kinh
doanh được xác định bởi mối tương quan giữa hai đại lượng là kết quả đạt
được từ sản xuất kinh doanh và chi phí bỏ ra để thực hiện các hoạt động
8
Chuyên đề tốt nghiệp Nguyễn Thế Hưng
nhằm thu được các kết quả đó mà cả hai đại lượng này đều khó xác định
được chính xác.
Kết quả định lượng của một thời kỳ kinh doanh thường khó xác định
bởi nhiều lý do như kết quả không chỉ là sản phẩm hoàn chỉnh mà còn là sản
phẩm dở dang, bán thành phẩm,… Hơn nữa, hầu như quá trình sản xuất lại
tách rời quá trình tiêu thụ nên ngay cả sản phẩm sản xuất xong ở một thời kỳ
nào đó cũng chưa thể khẳng định được liệu sản phẩm đó có tiêu thụ được
hay không và bao giờ thì tiêu thụ được ….
Việc xác định hao phí nguồn lực của một thời kỳ cũng là vấn đề
không đơn giản. Ngay ở nhận thức về vấn đề này: Hao phí nguồn lực được
đánh giá thông qua phạm trù chi phí là chi phí kế toán hay chi phí kinh
doanh? Trong các phạm trù trên thì chỉ có chi phí kinh doanh phản ánh
tương đối chính xác hao phí nguồn lực thực tế. Mặt khác, việc có tính được
chi phí kinh doanh trong từng thời kỳ kinh doanh ngắn hay không cũng như
có tính được chi phí kinh doanh đến từng bộ phận doanh nghiệp hay không
còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của khoa học quản trị chi phí kinh
doanh. Xét về phương diện giá trị, việc tính toán bằng tiền còn thiếu chính
xác hơn nhiều vì nó còn chứa yếu tố chủ quan của con người. Hơn nữa,
không chỉ những chi phí trực tiếp trong sản xuất kinh doanh mà còn các chi
phí cho các hoạt động xã hội như giáo dục đào tạo, bảo vệ môi trường ….
4)- Phân loại hiệu quả.
Hiệu quả có thể đánh giá ở các góc độ khác nhau, phạm vi khác nhau
và thời kỳ khác nhau.
4.1)- Hiệu quả xã hội, hiệu quả kinh tế xã hội và hiệu quả kinh doanh
4.1.1)- Hiệu quả xã hội:
9
Chuyên đề tốt nghiệp Nguyễn Thế Hưng
Hiệu quả xã hội là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực
sản xuất xã hội nhằm đạt được các mục tiêu xã hội nhất định. Các mục tiêu
xã hội thường là giải quyết việc làm, xây dựng cơ sở hạ tầng, nâng cao mức
sống vật chất và tinh thần… Hiệu quả xã hội thường được đánh giá và được
giải quyết ở góc độ vĩ mô, thường gắn với các mô hình kinh tế hỗn hợp
4.1.2)- Hiệu quả kinh tế:
Hiệu quả kinh tế phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt được
các mục tiêu kinh tế của một thời kỳ nào đó. Hiệu quả kinh tế thường được
nghiên cứu ở góc độ vĩ mô. Hiệu quả kinh tế và hiệu quả kinh doanh không
phải bao giờ cũng vận động cùng chiều. Có thể doanh nghiệp đạt hiệu quả
kinh doanh cao nhưng chưa chắc nền kinh tế đã đạt hiệu quả kinh tế cao bởi
kết quả của một nền kinh tế không chỉ đơn thuần là tổng các kết quả của
từng doanh nghiệp.
4.1.3)- Hiệu quả kinh tế xã hội:
Hiệu quả kinh tế xã hội phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản
xuất xã hội để đạt được các mục tiêu kinh tế – xã hội nhất định. Hiệu quả
kinh tế xã hội gắn với nền kinh tế hỗn hợp và được xem xét ở cấp độ quản lý
vĩ mô.
4.1.4)- Hiệu quả kinh doanh:
Hiệu quả kinh doanh phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt
được các mục tiêu kinh doanh xác định của doanh nghiệp, mối quan hệ giữa
kết quả mà quá trình sản xuất kinh doanh tạo ra và chi phí tạo ra kết quả đó.
Hiệu quả kinh tế và hiệu quả kinh doanh là hai phạm trù khác nhau, giải
quyết ở hai góc độ khác nhau song chúng có quan hệ biện chứng với nhau.
4.2)- Hiệu quả kinh doanh tổng hợp và bộ phận
10
Chuyên đề tốt nghiệp Nguyễn Thế Hưng
4.2.1)- Hiệu quả kinh doanh tổng hợp:
Hiệu quả kinh doanh tổng hợp phản ánh khái quát và cho phép kết
luận về hiệu quả kinh doanh của toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp (hay một đơn vị bộ phận của doanh nghiệp) trong một thời kỳ
xác định.
4.2.2)- Hiệu quả kinh doanh bộ phận:
Hiệu quả kinh doanh bộ phận là hiệu quả kinh doanh chỉ xét ở từng
lĩnh vực hoạt động cụ thể của doanh nghiệp. Hiệu quả kinh doanh bộ phận
chỉ phản ánh hiệu quả ở từng lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp.
Giữa hiệu quả kinh doanh tổng hợp và bộ phận có mối quan hệ biện
chứng với nhau. Hiệu quả kinh doanh cấp doanh nghiệp phản ánh hiệu quả
hoạt động của tất cả các lĩnh vực hoạt động cụ thể của doanh nghiệp và các
bộ phận trong doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp có thể xuất
hiện mâu thuẫn giữa hiệu quả kinh doanh tổng hợp và hiệu quả kinh doanh
bộ phận, khi đó chỉ có chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh tổng hợp phản ánh hiệu
quả kinh doanh của doanh nghiệp, các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh bộ phận
chỉ có thể phản ánh hiệu quả ở từng lĩnh vực hoạt động, từng bộ phận của
doanh nghiệp.
4.3)- Hiệu quả kinh doanh ngắn hạn và dài hạn.
4.3.1)- Hiệu quả kinh doanh ngắn hạn:
Hiệu quả kinh doanh ngắn hạn là hiệu quả kinh doanh được xem xét
đánh giá ở từng khoảng thời gian ngắn như tuần, tháng, quý, năm v.v…
4.3.2)- Hiệu quả kinh doanh dài hạn:
Hiệu quả kinh doanh dài hạn là hiệu quả kinh doanh được xem xét,
đánh giá trong khoảng thời gian dài, gắn với các chiến lược, các kế hoạch
11
Chuyên đề tốt nghiệp Nguyễn Thế Hưng
dài hạn thậm chí lâu dài, gắn với quãng đời tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp.
Giữa hiệu quả kinh doanh ngắn hạn và dài hạn có mối quan hệ biện
chứng với nhau và trong nhiều trường hợp có thể có mâu thuẫn nhau. Về
nguyên tắc, chỉ có thể xem xét và đánh giá hiệu quả kinh doanh ngắn hạn
trên cơ sở vẫn đảm bảo được hiệu quả kinh doanh dài hạn trong tương lai.
Trong thực tế, chỉ có lấy hiệu quả dài hạn làm thước đo chất lượng hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp vì nó phản ánh xuyên suốt quá trình lợi
dụng các nguồn lực sản xuất của doanh nghiệp.
5)- Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ở
doanh nghiệp.
Mỗi hoạt động sản xuất kinh doanh đều là sự kết hợp giữa các phương
tiện vật chất và sự lao động của con người. Hiệu quả sản xuất kinh doanh
của một cá nhân, một tập thể, một doanh nghiệp … chính là hiệu quả của
việc kết hợp hai yếu tố trên. Ngày nay, sự đòi hỏi phải nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh trở nên hết sức cần thiết bởi những lý do sau:
Thứ nhất, do nguồn lực sản xuất ngày càng trở nên khan hiếm. Như đã
nói ở trên, nguồn lực sản xuất chính là một yếu tố của sản xuất. Khi nền sản
xuất xã hội càng phát triển thì cũng có nghĩa là một lượng lớn nguồn lực đã
bị tiêu thụ trong khi nguồn lực này hoặc không thể khôi phục, hoặc khôi
phục rất chậm, hoặc không có chính sách hợp lý. Nền sản xuất càng mở rộng
thì đòi hỏi lượng yếu tố đầu vào càng lớn, chính vì vậy mà nguồn lực sản
xuất ngày càng trở nên khan hiếm.
Thứ hai, do nhu cầu của con người tăng lên không ngừng. Trong khi
nguồn lực sản xuất xã hội ngày càng giảm thì chính sự phát triển của xã hội
12
Chuyên đề tốt nghiệp Nguyễn Thế Hưng
lại làm cho nhu cầu của con người tăng lên không ngừng cả về khối lượng
và chất lượng. Điều này phản ánh quy luật khan hiếm, quy luật khan hiếm
bắt buộc các doanh nghiệp phải giải đáp đồng thời ba câu hỏi của kinh tế:
sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? và sản xuất cho ai? Những nhà cung
ứng nào không trả lời được ba câu hỏi này thì sản phẩm họ làm ra sẽ không
có khả năng tiêu thụ. Ngược lại, trả lời tốt ba câu hỏi này chính là cơ sở để
doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển.
Thứ ba, sự phát triển của nền kinh tế thị trường theo hướng mở cửa,
hội nhập và quy luật cạnh tranh đòi hỏi doanh nghiệp phải sử dụng hiệu quả
nguồn lực. Nền kinh tế hiện nay đang phát triển theo hướng mở cửa, hội
nhập, quốc tế hoá, toàn cầu hoá buộc mỗi doanh nghiệp phải đứng vững trên
thương trường, đánh bại đối thủ trong những cuộc cạnh tranh ngày càng gay
gắt. Muốn chiến thắng trong cạnh tranh, doanh nghiệp phải luôn tạo ra và
duy trì các lợi thế cạnh tranh: chất lượng, sự khác biệt hoá, giá cả hay tốc độ
cung ứng. Để có được lợi thế về giá cả, doanh nghiệp phải sử dụng tiết kiệm
nguồn lực sản xuất hơn so với đối thủ và chỉ trên cơ sở sản xuất kinh doanh
với hiệu quả cao, chi phí thấp, doanh nghiệp mới có được điều này.
Thứ tư, do đòi hỏi khách quan của doanh nghiệp để thực hiện mục tiêu
bao trùm là tối đa hoá lợi nhuận. Môi trường cạnh tranh không cho phép
doanh nghiệp tăng lợi nhuận bằng cách tăng giá bán mà chỉ có thể giảm
thiểu chi phí đầu vào bằng cách sử dụng hợp lý, tiết kiệm nguồn lực đầu vào.
Nếu doanh nghiệp sử dụng càng hợp lý và tiết kiệm nguồn lực này thì cơ hội
thu được nhiều lợi nhuận càng lớn. Hiệu quả kinh doanh là phạm trù phản
ánh tính tương đối của việc sử dụng tiết kiệm nguồn lực xã hội nên là điều
kiện thực hiện mục tiêu bao trùm, lâu dài của doanh nghiệp. Vì vậy, nâng
cao hiệu quả kinh doanh là đòi hỏi khách quan để thực hiện mục tiêu tối đa
hoá lợi nhuận của doanh nghiệp.
13
Chuyên đề tốt nghiệp Nguyễn Thế Hưng
Ở Việt nam hiện nay, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là hết
sức cần thiết bởi hầu hết các máy móc thiết bị đang sử dụng trong phần lớn
các doanh nghiệp là những máy móc thiết bị lạc hậu, thậm chí rất lạc hậu,
trình độ công nghệ kém so với thế giới làm cho mức hao phí nguyên vật liệu
không những là rất lớn mà chất lượng sản phảm cũng không cao, tỷ lệ sai
hỏng nhiều. Sản phẩm làm ra khó có thể cạnh tranh với các nước trong khu
vực cho nên việc xác định vị trí của sản phẩm do Việt nam sản xuất trên thế
giới còn đang là dấu hỏi lớn, chủ yếu là các loại hàng thủ công mỹ nghệ và
một số ít hãng may mặc cấp thấp. Theo tổ chức phát triển KTQD Việt nam,
trong thời gian qua chỉ có 70% sản phẩm đạt tiêu chuẩn nội địa và 15% đạt
tiêu chuẩn xuất khẩu.
Theo báo cáo của Ban Chỉ đạo soạn thảo Luật Doanh nghiệp:
- Tính đến cuối tháng 11 năm 2002, cả nước còn 5.216 doanh nghiệp
Nhà nước. Trong đó có 4.012 doanh nghiệp làm ăn có lãi – chiếm 78,5%(so
với con số của năm 2001 là 40%), hoà vốn là 448 doanh nghiệp (chiếm
8,7%) và 816 doanh nghiệp còn lại là thua lỗ (chiếm 15,8% tổng số doanh
nghiệp). Lỗ luỹ kế của các doanh nghiệp chưa được bù đắp tính đến cuối
năm 2001 lên tới 7.150 tỷ đồng (bằng 5% tổng số vốn Nhà nước tại doanh
nghiệp). Trong số các doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ, có 314 doanh
nghiệp thua lỗ hết toàn bộ vốn kinh doanh trên số sách kế toán (1.231 tỷ
đồng), ngoài ra còn mất cả vốn vay và vốn khác (3.465 tỷ đồng).
- Tính đến cuối năm 2002, doanh nghiệp dân doanh chiếm 87,23 tổng
số doanh nghiệp của cả nước. Trong đó: doanh nghiệp tư nhân chiếm
24.000, doanh nghiệp cá thể chiếm 2.625.744. Với các doanh nghiệp này thì
có 14,6% doanh nghiệp bị lỗ vốn; 10,4% có lãi không đáng kể và 75%
doanh nghiệp kinh doanh có lãi.
14
Chuyên đề tốt nghiệp Nguyễn Thế Hưng
Như vậy, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp là thực sự cần thiết.
II)- CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ SXKD CỦA DOANH
NGHIỆP
Trong quá trình tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, các
doanh nghiệp chịu sự tác động của rất nhiều các yếu tố bên trong và bên
ngoài. Chính vì thế, hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng
chịu ảnh hưởng của các nhân tố này.
1)- Những nhân tố bên trong doanh nghiệp
1.1)- Những nhân tố tác động đến chi phí đầu vào:
1.1.1)- Lực lượng lao động:
Từ xưa đến nay, lực lượng lao động luôn giữ vai trò then chốt trong
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi khoa học kỹ thuật còn
chưa phát triển, máy móc thiết bị còn thô sơ, lao động còn mang tính chất
giản đơn thì hầu như mọi bước công việc đều do con người thực hiện. Khoa
học ngày càng phát triển, máy móc thiết bị ngày càng hiện đại thì đòi hỏi tay
nghề của người lao động ngày càng cao, trình độ của người quản lý ngày
càng giỏi. Ngày nay, việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất
kinh doanh là yếu tố rất quan trọng để có thể nâng cao năng suất lao động,
tăng khả năng cạnh tranh. Điều này phụ thuộc vào lực lượng lao động. Vai
trò của lực lượng lao động ngày càng quan trọng đối với việc nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh.
Vai trò của người lao động trong doanh nghiệp thể hiện ở hai điểm:
- Thứ nhất, có thể chính người lao động sáng tạo ra các tác phẩm
mới, các máy móc thiết bị mới, các ý tưởng kinh doanh, vạch ra các
15
Chuyên đề tốt nghiệp Nguyễn Thế Hưng
kế hoạch, các chiến lược và thực hiện chúng để đạt được các mục
tiêu đặt ra.
- Thứ hai, người lao động cũng chính là những là những người trực
tiếp sử dụng máy móc thiết bị hay quản lý điều hành các khâu, các
bộ phận để có thể tạo ra sản phẩm cũng như tiêu thụ các sản phẩm
đó.
Qua đó, lực lượng lao động tác động đến hiệu quả kinh doanh.
1.1.2)- Nguyên vật liệu:
Để tiến hành bất cứ một hoạt động sản xuất vật chất nào cũng cần có
đủ ba yếu tố là lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động. Như vậy,
vật tư nguyên liệu là yếu tố không thể thiếu của quá trình sản xuất kinh
doanh. Số lượng, chủng loại, tính đồng bộ của nguyên vật liệu và việc cung
ứng nguyên vật liệu có ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh.
Đối với nhiều doanh nghiệp sản xuất, tỷ trọng chi phí kinh doanh nguyên vật
liệu là rất lớn trong cơ cấu chi phí kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm nên việc
sử dụng tiết kiệm, không gây lãng phí nguyên vật liệu có một ý nghĩa rất lớn
đối với việc nâng cao hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp. Tiết kiệm nguyên
vật liệu đồng nghĩa với việc tạo ra kết quả lớn hơn trong cùng một lượng
nguyên vật liệu không đổi.
Ngoài ra, chất lượng hoạt động của doanh nghiệp còn phụ thuộc rất
lớn vào việc thiết lập được một hệ thống cung ứng nguyên vật liệu thích hợp
trên cơ sở tạo dựng mối quan hệ lâu dài, đảm bảo khả năng tổ chức cung ứng
nguyên vật liệu, vật tư đầy đủ, kịp thời, chính xác, đúng nơi cần thiết, tránh
tình trạng ứ đọng.
16
Chuyên đề tốt nghiệp Nguyễn Thế Hưng
Cùng với sự phát triển của công nghệ kỹ thuật, việc nghiên cứu áp
dụng vật liệu mới trong sản xuất dịch vụ cũng là nhân tố tác động trực tiếp
đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.
1.1.3)- Kế toán quản trị:
Hiện nay, có hai hệ thống kế toán trong doanh nghiệp là kế toán tài
chính và kế toán quản trị. Trong đó, hệ thống kế toán tài chính được sử dụng
để cung cấp thông tin cho các đối tượng bên ngoài quá trình kinh doanh còn
kế toán quản trị được dùng để phục vụ cho bộ máy quản trị ra quyết định,
tiếp cận dần đến chi phí thực hơn. Chính vì vậy, hệ thống kế toán được dùng
để xác định hiệu quả sản xuất kinh doanh chính là kế toán quản trị.
Để có thể xác định, đánh giá hiệu quả một cách chính xác thì kế toán
quản trị phải đảm bảo được các yêu cầu phản ánh chi phí đúng đắn, toàn
diện và đảm bảo được tính bí mật.
1.1.4)- Bộ máy quản trị:
Bộ máy quản trị đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của doanh
nghiệp mà trước tiên là xác định cho doanh nghiệp một hướng đi đúng đắn.
Thông qua việc phân tích, đánh giá tình hình, những nhà quản trị có thể dự
đoán trước các khả năng có thể xảy ra hay xu hướng của thời đại để xây
dựng nên các kế hoạch, các chiến lược trong từng thời kỳ xác định, đánh bại
các đối thủ cạnh tranh đưa doanh nghiệp đạt được mục tiêu của mình.
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh mang tính quyết liệt, một
doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì phải chiến thắng trong cạnh
tranh. Muốn vậy, doanh nghiệp đó phải có được các lợi thế về chất lượng
hay sự khác biệt hoá sản phẩm, giá cả, tốc độ cung ứng v.v…. Điều đó phụ
17
Chuyên đề tốt nghiệp Nguyễn Thế Hưng
thuộc lớn vào khả năng quản trị của các nhà quản trị doanh nghiệp. Ngay cả
việc đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm của một doanh nghiệp cũng
chịu ảnh hưởng nhiều của nhân tố quản trị chứ không phải nhân tố kỹ thuật.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, quản trị doanh nghiệp khai thác
và thực hiện phân bổ các nguồn lực sản xuất. Phẩm chất và tài năng của các
nhà quản trị mà đặt biệt là các nhà quản trị cấp cao ảnh hưởng lớn và có tính
chất quyết định đến sự thành đạt của doanh nghiệp. Hiệu quả hoạt động của
bộ máy quản trị phụ thuộc rất lớn vào trình độ chuyên môn của đội ngũ các
nhà quản trị cũng như cơ cấu tổ chức bộ máy. Việc xác định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của từng bộ phận, cá nhân và mối liên hệ giữa các bộ
phận trong tổ chức đúng đắn là điều kiện đảm bảo cho cơ cấu tổ chức của bộ
máy hoạt động có hiệu quả.
Mặc dù hiệu quả sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp chịu tác
động của nhiều nhân tố nhưng quản trị doanh nghiệp là một trong những
nhân tố có tác động mạnh mẽ nhất. Do đó, để có thể nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh, mỗi doanh nghiệp phải chú trọng đến nhân tố này.
1.2)- Những nhân tố tác động đến kết quả đầu ra:
1.2.1)- Cơ sở vật chất kỹ thuật:
Cơ sở vật chất kỹ thuật là phương tiện mà con người sử dụng để tác
động vào đối tượng lao động. Quá trình phát triển sản xuất luôn gắn liền với
quá trình phát triển của cơ sở hạ tầng, với quá trình tăng năng suất lao động,
tăng sản lượng, tăng chất lượng sản phẩm và hạ giá thành sản phẩm. Chất
lượng hoạt động của các doanh nghiệp chịu sự tác động mạnh mẽ của trình
độ kỹ thuật, cơ cấu, tính đồng bộ của máy móc thiết bị, chất lượng công tác
bảo dưỡng, sửa chữa máy móc thiết bị v.v…. Cơ sở vật chất kỹ thuật là nhân
18
Chuyên đề tốt nghiệp Nguyễn Thế Hưng
tố hết sức quan trọng tạo ra tiềm năng tăng năng suất, chất lượng và tăng
hiệu quả kinh doanh.
Thực tế cho thấy, những doanh nghiệp nào có cơ sở vật chất kỹ thuật
yếu kém, máy móc thiết bị lạc hậu thì không thể tạo ra sản phẩm đáp ứng
được nhu cầu của thị trường cả về giá thành và chất lượng nên sản xuất kinh
doanh ở doanh nghiệp đó thường bị chững lại, có xu hướng đi xuống và kết
cục thường là phá sản do kinh doanh không hiệu quả. Trong những năm
chuyển đổi cơ chế kinh tế vừa qua, những doanh nghiệp nào được chuyển
giao công nghệ sản xuất, trang bị hệ thống thiết bị hiện đại, làm chủ được
yếu tố kỹ thuật thì có thể tăng năng suất lao động hoặc tạo ra được những
sản phẩm có tính năng ưu việt hơn, tạo được lợi thế cạnh tranh so với các
doanh nghiệp khác, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của chính mình.
Ngày nay, khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, công nghệ sản xuất
ngày càng hiện đại đóng vai trò to lớn, mang tính chất quyết định đối với
việc nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả. Tuy vậy, chu kỳ công nghệ
cũng ngắn hơn đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải tìm được giải pháp đầu tư
đúng đắn, chuyển giao công nghệ đúng lúc, phù hợp, đào tạo và bồi dưỡng
lực lượng lao động kịp thời … làm cơ sở cho việc nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.2)- Hệ thống thông tin:
Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật đã và đang
làm thay đổi nhiều lĩnh vực sản xuất trong đó có công nghệ thông tin. Thông
tin được coi là hàng hoá, là đối tượng kinh doanh và nền kinh tế thị trường là
nền kinh tế thông tin hoá. Để có thể đạt được thành công khi kinh doanh
trong điều kiện quốc tế hoá, toàn cầu hoá, các doanh nghiệp cần có nhiều
thông tin về hàng hoá, về nhu cầu thị trường, về đối thủ cạnh tranh, về công
19
Chuyên đề tốt nghiệp Nguyễn Thế Hưng
nghệ kỹ thuật, về tình hình kinh tế – chính trị - xã hội,… không những thế,
thông tin phải đáp ứng được các yêu cầu chính xác, kịp thời, bí mật,…. để
các nhà quản lý phân tích, xử lý thông tin và ra quyết định một cách chính
xác, hiệu quả.
Thực tế cho thấy, nhiều doanh nghiệp đạt được thành công nhờ nắm
được các thông tin cần thiết, biết xử lý và sử dụng chúng đúng nơi, đúng lúc.
Những thông tin chính xác được cung cấp kịp thời sẽ là cơ sở vững chắc để
doanh nghiệp xác định phương hướng kinh doanh, xây dựng các chiến lược
kinh doanh dài hạn cũng như hoạch định các chương trình sản xuất ngắn
hạn.
Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, sự ra đời và phát triển
của mạng lưới thông tin nội bộ vừa đáp ứng nhu cầu kinh doanh lại vừa đảm
bảo giảm thiểu chi phí kinh doanh cho quá trình thu thập, xử lý, lưu trữ và sử
dụng thông tin. Do nhu cầu thông tin ngày càng lớn nên đây cũng là nhiệm
vụ rất quan trọng của công tác quản trị doanh nghiệp hiện nay.
2)- Những nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
Đây là nhóm những nhân tố nằm ngoài sự kiểm soát của doanh nghiệp
nhưng có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới kết quả cũng như hiệu quả
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuỳ theo đặc điểm của sản phẩm, của
lĩnh vực kinh doanh mà các nhân tố này có tác dụng tốt hay xấu tới hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
2.1)- Những nhân tố thuộc môi trường kinh tế quốc dân:
2.1.1)- Môi trường pháp lý:
Môi trường pháp lý bao gồm luật, các văn bản dưới luật, các quy phạm
pháp luật v.v… mà đặc biệt là Luật Doanh nghiệp có tác động đến các hoạt
20
Chuyên đề tốt nghiệp Nguyễn Thế Hưng
động sản xuất kinh doanh và tác động đến hiệu quả của doanh nghiệp. Thông
qua các văn bản, các quy phạm pháp luật …. môi trường pháp lý tạo ra sân
chơi để các doanh nghiệp cùng tham gia hoạt động kinh doanh, vừa cạnh
tranh lại vừa hợp tác với nhau nên việc tạo ra môi trường một môi trường
pháp lý hoàn thiện, đồng bộ là cơ sở cho sự cạnh tranh lành mạnh. Một môi
trường pháp lý lành mạnh vừa tạo ra điều kiện thuận lợi cho các doanh
nghiệp tiến hành các hoạt động kinh doanh lại vừa điều chỉnh các hoạt động
kinh tế vi mô theo hướng cân đối giữa lợi ích các nhân và lợi ích xã hội, buộc
mỗi doanh nghiệp phải chú ý phát triển các nhân tố nội lực, ứng dụng các
thành tựu khoa học kỹ thuật và khoa học quản trị tiên tiến để tận dụng được
các cơ hội, đẩy lùi các nguy cơ, tránh những đổ vỡ không cần thiết.
Một môi trường pháp lý lành mạnh, hoàn thiện sẽ ngăn chặn được
những con đường làm ăn bất chính như: làm hàng giả, hàng nhái, buôn lậu,
trốn thuế, gian lận thương mại …. làm cho cạnh tranh mang tính chất lành
mạnh thúc đẩy nền sản xuất xã hội đi lên.
2.1.2)- Môi trường kinh tế:
Môi trường kinh tế bao gồm các chính sách kinh tế vĩ mô như chính
sách đầu tư, chính sách phát triển kinh tế, chính sách cơ cấu, …. có thể tạo ra
sự thuận lợi hoặc kìm hãm sự phát triển của từng ngành, từng lĩnh vực hay
từng vùng kinh tế cụ thể do đó tác động đến kết quả và hiệu quả kinh doanh
của các doanh nghiệp thuộc các ngành, các lĩnh vực, các vùng kinh tế nhất
định. Môi trường kinh tế tác động lớn và nhiều mặt đến môi trường hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp, nó có ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng,
chất lượng, chủng loại và cơ cấu nhu cầu thị trường. Các nhân tố này bao
gồm: thu nhập bình quân đầu người, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, lãi
suất ngân hàng ….
21
Chuyên đề tốt nghiệp Nguyễn Thế Hưng
Để có được môi trường kinh doanh thuận lợi, các cơ quan quản lý nhà
nước về kinh tế phải làm tốt công tác dự báo để điều tiết đúng đắn các hoạt
động đầu tư, hạn chế các khuynh hướng phát triển xấu, kiểm soát độc quyền
tạo ra một môi trường kinh doanh bình đẳng; Xử lý tốt các mối quan hệ kinh
tế đối ngoại, quan hệ tỷ giá hối đoái, đưa ra các chính sách thuế phù hợp với
trình độ phát triển kinh tế và đảm bảo tính công bằng ….
2.1.3)- Môi trường văn hoá - chính trị – xã hội:
Môi trường văn hoá - chính trị – xã hội là một trong những nhân tố
bên ngoài tác động đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nó
bao gồm các yếu tố như phong tục tập quán, phong cách sống, chế độ chính
trị của đất nước, tình hình chính trị – xã hội của đất nước, quy mô dân số,
trình độ dân trí …. tác động mạnh đến quy mô, cơ cấu của thị trường và thị
hiếu của người tiêu dùng. Nếu tình hình chính trị – xã hội ổn định thì sẽ tạo
điều kiện thuận lợi cho các hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngược lại, sự mất
ổn định hay biến động theo chiều hướng xấu sẽ gây cản trở, thậm chí thủ tiêu
các hoạt động sản xuất kinh doanh.
2.1.4)- Môi trường kỹ thuật – công nghệ:
Kỹ thuật – công nghệ là nhân tố thay đổi nhanh chóng và có ảnh
hưởng ngày càng lớn đến hoạt động của mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp.
Ngày nay, các đơn vị kinh tế, các doanh nghiệp đều sử dụng những dây
chuyền công nghệ nhất định cho các hoạt động sản xuất. Tiến bộ kỹ thuật và
công nghệ ảnh hưởng một cách trực tiếp và quyết định đến hai yếu tố tạo nên
khả năng cạnh tranh của các sản phẩm và dịch vụ là giá cả mà chất lượng.
Do đó nó có tác động đến thị trường, các nhà cung cấp, đến khách hàng, quá
22
Chuyên đề tốt nghiệp Nguyễn Thế Hưng
trình sản xuất và vị thế cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường. Tuy
nhiên, không phải tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế đều bị ảnh hưởng như
nhau bởi những phát triển của công nghệ mà thường thì các ngành truyền
thông, điện tử, hàng không … công nghệ thay đổi nhanh hơn và có ảnh
hưởng lớn hơn.
Các tác động của kỹ thuật – công nghệ thể hiện khá rõ trong lĩnh vực
thông tin – thu thập, xử lý, lưu trữ và truyền đạt thông tin về mọi lĩnh vực
phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh đồng thời tạo ra các điều kiện
phát triển kinh doanh với tốc độ cao, bền vững.
2.1.5)- Cơ sở hạ tầng:
Các yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng như hệ thông giao thông vận tải, thông
tin liên lạc, giáo dục đào tạo, …. đều là những nhân tố tác động mạnh mẽ
đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp kinh
doanh ở khu vực có hệ thống giao thông thuận lợi, dân cư đông đúc và có
trình độ dân trí cao sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi hơn để phát triển sản
xuất, tăng tốc độ tiêu thụ sản phẩm mà lại giảm chi phí kinh doanh từ đó tăng
hiệu quả kinh doanh. Ngược lại, cơ sở hạ tầng yếu kém, giao thông không
thuận lợi thì hiệu quả không cao, thậm chí sản phẩm làm ra rất có giá trị
nhưng không tiêu thụ được.
2.2)- Các nhân tố thuộc môi trường ngành
Các nhân tố thuộc môi trường ngành bao gồm năm nhân tố: khách
hàng, đối thủ cạnh tranh hiện tại, đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn, sản phẩm thay
thế và nhà cung ứng.
23
NGƯỜI
CUNG ỨNG
DOANH
NGHIỆP
(SỰ TRANH ĐUA
CỦA CÁC DOANH
NGHIỆP HIỆN CÓ)
KHÁCH
HÀNG
ĐỐI THỦ
TIỀM ẨN
Chuyên đề tốt nghiệp Nguyễn Thế Hưng
2.2.1)- Nhân tố tác động đến yếu tố đầu vào: Các nhà cung ứng.
Trong hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp phải quan hệ, tiếp xúc
với năm thị trường cơ bản, các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất thường
lấy từ thị trường nguyên vật liệu, thị trường lao động, thị trường vốn, thị
trường công nghệ và thị trường thông tin. Các nhà cung ứng có tác động lớn
đến yếu tố đầu vào, số lượng các nhà cung ứng có ảnh hưởng rất lớn đến khả
năng lựa chọn tối ưu đầu vào cho doanh nghiệp: càng có nhiều nhà cung ứng
thì khả năng lựa chọn càng lớn và ngược lại. Điều này nói lên rằng: số lượng
nhà cung ứng - một loại đầu vào, có quan hệ chặt chẽ với sự khan hiếm của
yếu tố đầu vào đó. Càng nhiều nhà cung ứng và mức độ tập trung của họ
không cao thì doanh nghiệp càng có khả năng lựa chọn tôí ưu đầu vào cho
mình, điều này có ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí kinh doanh cũng như chất
lượng sản phẩm của doanh nghiệp. Nếu một nhà cung ứng yếu tố đầu vào
nào đó là độc quyền thì mọi sự thay đổi từ phía nhà độc quyền đều có ảnh
hưởng lớn đến doanh nghiệp. Ngoài ra, sức ép từ phía nhà cung ứng còn thể
hiện qua tính đặc thù của yếu tố đầu vào, qua chi phí vận chuyển và sự sẵn
có của hàng hoá thay thế ….
2.2.2)- Các nhân tố tác động đến kết quả đầu ra:
24
SẢN PHẨM
THAY THẾ
Chuyên đề tốt nghiệp Nguyễn Thế Hưng
• Khách hàng:
Khách hàng và nhu cầu của khách hàng quyết định quy mô và cơ cấu
nhu cầu thị trường của doanh nghiệp. Đó là yếu tố quan trọng nhất khi tiến
hành lập kế hoạch, hoạch định sản xuất kinh doanh. Vì vậy, để nâng cao hiệu
quả hoạt động tiêu thụ sản phẩm thì doanh nghiệp phải duy trì và phát triển
các mối quan hệ với khách hàng cũ và lôi cuốn tạo niềm tin với khách hàng
mới. Nói cách khác, doanh nghiệp phải luôn giữ được chữ “tín” với khách
hàng của mình. Muốn vậy, doanh nghiệp phải nghiên cứu, dự đoán nhu cầu
của khách hàng của mình và tìm cách thoả mãn nhu cầu đó. Doanh nghiệp
phải luôn đặt khách hàng vào bộ ba chiến lược: doanh nghiệp, khách hàng và
đối thủ cạnh tranh.
• Các đối thủ cạnh tranh:
Các đối thủ cạnh tranh bao gồm các đối thủ hiện tại (các doanh nghiệp
đang hoạt động trong ngành) và các đối thủ tiềm (các đối thủ có khả năng
tham gia vào ngành trong tương lai). Đối thủ cạnh tranh là người chiếm giữ
một phần thị trường và luôn luôn có ý định mở rộng thị trường, thậm chí thu
hút khách hàng truyền thống của doanh nghiệp. Họ là mối quan tâm lớn của
doanh nghiệp, nhất là những đối thủ có tác động lớn đến thị trường. Chính vì
vậy, doanh nghiệp cần nắm bắt được những thông tin về đối thủ cạnh tranh
như điểm mạnh, điểm yếu, cơ cấu tổ chức, công nghệ sản xuất …. để có
phương án đối phó. Trong hai loại đối thủ cạnh tranh thì doanh nghiệp cần
quan tâm nhiều nhất đến đối thủ hiện tại nhưng đối thủ tiềm ẩn cũng nguy
hiểm không kém vì họ thường có khả năng về công nghệ, về vốn lớn, có khả
năng tạo ra những sản phẩm ưu việt hơn.
• Sản phẩm thay thế:
25