Phân tích nội dung học thuyết trọng tiền hiện đại ở Mỹ.
So sánh với chính sách tiền tệ, trong học thuyết Keynes
Nội dung chính
I. Học thuyết trọng tiền hiện đại ở Mỹ
1. Hoàn cảnh ra đời
2. Tiểu sử của M. Friedman
3. Các quan điểm kinh tế của trường phái trọng tiền hiện
đại ở Mỹ
4. Lý thuyết trọng tiền hiện đại ở Mỹ
a. Nội dung
b. Ưu điểm - Hạn chế
II. So sánh học thuyết trọng tiền hiện đại ở Mỹ với
chính sách tiền tệ của J.M.Keynes
III. Ứng dụng thực tiễn
IV. Kết luận chung
I. Học thuyết trọng tiền hiện đại ở Mỹ
1. Hoàn cảnh ra đời của học thuyết:
- Từ giữa những năm 70 của thế kỷ XX, hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa lại lâm vào cuộc
khủng hoảng lớn do đó bộc lộ sự bất lực của các chính sách kinh tế của Nhà nước tư sản
trên học thuyết của trường phái Keynes.
- Xuất hiện khuynh hướng phê phán học thuyết Keynes và do đó phục hồi tư tưởng tự do
kinh tế nhưng có sửa đổi để thích ứng với tình hình mới.
Nguồn gốc: tư tưởng tự do kinh tế của các nhà cổ điển ( cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ
XIX) được phát triển ở các nhà cổ điển mới ( cuối thế kỷ XIX đến thập kỷ 30 của thế kỷ
XX). Gọi là chủ nghĩa tự do cũ. Sau đó tư tưởng chủ nghĩa tư bản có điều tiết ( Keynes)
thống trị, đến những năm 70 của thế kỷ XX thì tư tưởng tự do kinh tế được phục hồi
dẫn đến sự xuất hiện của “ chủ nghĩa tự do mới “ hay “ chủ nghĩa bảo thủ mới “.
- Chủ nghĩa tự do mới được phát triển dưới nhiều tên gọi khác nhau như: chủ nghĩa bảo thủ
mới (ở Mỹ), chủ nghĩa tự do mới ( ở Đức ), chủ nghĩa cá nhân mới ( ở Anh ), chủ nghĩa
kinh tế mới ( ở Aó ), …
- Một trong những trường phái chính của chủ nghĩa này đó là trường phái Trọng tiền hay
Trường phái kinh tế tự do Chicago. Chủ nghĩa trọng tiền được hình thành từ những năm
50 của thế kỉ XX. Đại biểu nổi tiếng nhất và cũng là thủ lĩnh của trường phái này là Milton
Friedman, nhà kinh tế học người Mỹ. Ngoài ra còn nhiều nhà kinh tế học lớn khác như:
Allan Melizer, Jerry Jordan ( cố vấn kinh tế
của Reagan),…
2. Tiểu sử của M. Friedman
Milton Friedman (31/07/1912 – 16/11/2006)
- Là một nhà kinh tế học đoạt giải Nobel người
Mỹ.
- Là người ủng hộ chủ nghĩa tư bản tự do, ông đã có những đóng góp quan trọng trong các
lĩnh vực kinh tế học vĩ mô, kinh tế học vi mô, lịch sử kinh tế và thống kê.
- Năm 1976, Friedman nhận Giải Nobel Kinh tế vì những đóng góp vào lĩnh vực phân tích
tiêu dùng, lịch sử và lý thuyết tiền tệ cũng như vì công lao của ông trong việc chứng minh
tính phức tạp của chính sách ổn định kinh tế vĩ mô.
- Theo tờ The Economist, Friedman là nhà kinh tế có ảnh hưởng lớn nhất vào nửa sau thế
kỷ 20.
- Friedman chính là người đã lập nên trường phái kinh tế học vĩ mô rất có ảnh hưởng –
phái trọng tiền (monetarism). Tư tưởng chính trị của Friedman nhấn mạnh những ưu thế
của thị trường và những bất lợi khi Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế đã định hình quan
điểm của những người theo trường phái bảo thủ và tự do ở Mỹ. Quan điểm của ông về
chính sách tiền tệ, thuế khóa, tư nhân hóa và giảm bớt sự can thiệp của chính phủ đã có
tác động to lớn tới chính sách của nhiều nước trên thế giới, đặc biệt thời kỳ chính quyền
Ronald Reagan ở Mỹ và Margaret Thatcher ở Anh.
- Friedman là học trò của nhà kinh tế nổi tiếng Simon Kuznets và là thầy dạy của các nhà
kinh tế nổi tiếng khác như Gary Becker, Tom Campbell, Thomas Sowell.
- Các giải thưởng đạt được: Giải John Bates Clark (1951), Giải Nobel Kinh tế (1976), Huân
chương Tự do Tổng thống 1988, Huy chương quốc gia về khoa học 1988.
3. Các quan điểm kinh tế của trường phái trọng tiền hiện đại ở Mỹ
Lập trường cơ bản của phái Trọng tiền là phải thả lỏng nền kinh tế và chống lại sự can
thiệp của chính phủ vào sự vận động của nền kinh tế. Những người theo phái này chủ trương
vai trò của chính phủ là duy trì một tốc độ tăng tiền tệ ổn định hằng năm, và điều đó sẽ đảm
bảo một sự tăng trưởng kinh tế vững chắc với giá cả ổn định.
Trường phái trọng tiền hiện đại ở Mỹ chủ trương tự do hóa nền kinh tế, đồng thời nhấn
mạnh vai trò tự điều tiết của thị trường.
- Về tình trạng nền kinh tế: Cho rằng giá cả và tiền lương trong điều kiện mới là tương đối linh
hoạt, mềm dẻo.
- Thị trường vẫn có khả năng tự động điều tiết. Trường phái này cho rằng cơ chế thị trường
tự nó đã đảm bảo sự cân bằng cung cầu tổng quát ở gần sát với mức sản lượng cân
bằng.
- Do thị trường có khả năng tự điều chỉnh nên nền kinh tế có khả năng phát huy tiềm năng
của mình. GNP thực tế gần sát GNP tiềm năng. Do đó đường tổng mức cung không phải
là một khoảng nằm ngang mà là một đường dốc đứng gần với GNP (GNP: tổng thu nhập
quốc dân)
- Tổng cầu: Khi đường tổng cung là một đường dốc đứng, tổng cầu thay đổi thì nó không thay
đổi hình dáng kể GNP thực tế mà chỉ làm thay đổi giá cả.
- Các nhân tố ảnh hưởng đến tổng cầu: Trường phái này cho rằng chính sách tài chính không
làm ảnh hưởng nhiều đến tổng cầu mà nhân tố quan trọng quyết định chính là khối lượng
tiền tệ (ký hiệu: M) nói đúng hơn là tổng mức cung về tiền tệ.
Theo quan điểm trọng tiền hiện đại ở Mỹ: Tổng cung tiền tệ là một nhân tố chủ quan. Vì vậy,
nó thường không ổn định và nó thường đặc biệt dễ bị chi phối bởi nhân tố chính trị như là chu
kỳ kinh doanh chính trị (chu kỳ bầu cử tổng thống, nghị sĩ quốc hội...). Trong khi đó tổng mức
cầu về tiền tệ là một đại lượng khách quan, tương đối ổn định vì nó phụ thuộc vào GNP tiềm
năng.
Trường phái trọng tiền hiện đại Mỹ quan tâm đến căn bệnh chủ yếu của nền kinh tế: không
phải là suy thoái và thất nghiệp mà căn bệnh nguy hiểm nhất là lạm phát. Họ đề ra biện pháp
để chống lạm phát như sau: Thực hiện một chính sách tiền tệ, cụ thể, chủ động làm tăng tổng
mức cung tiền tệ từ 3-4%/ năm (phù hợp với tốc độ tăng của tổng mức cầu tiền tệ là xấp xỉ
mức phát triển của GNP tiềm năng. Một điểm cần chú ý ở đây là lạm phát giảm sẽ dẫn đến
tình trạng thất nghiệp tăng.
4. Lý thuyết trọng tiền hiện đại ở Mỹ
a. Nội dung:
Lý thuyết về thái độ ứng xử của người tiêu dùng và thu nhập
- Trước hết, về thái độ ứng xử của ngừơi tiêu dùng, theo M.Friedman trong điều kiện ổn
định sẽ có hai nguyên nhân làm cho tiêu dùng cao hơn thu nhập là : Sự ổn định chi và các
khoản thu nhập tăng lên. Sự tiêu dùng thông thường phụ thuộc vào thu nhập, lãi suất và
thu nhập từ tài sản vật chất.
- Thứ hai, về thu nhập, theo M.Friedman , thu nhập (Y) trong một thời kỳ nhất định bao
gồm: thu nhập thường xuyên Yp và thu nhập tức thời (Yt)
Y=Yp+Yt
Yp: của cải mà cá nhân nhận đuợc do nghề nghiệp mang lại
Yt: thu nhập do các nhân tố khác.
Tiêu dùng (C) là tổng số của tiêu dùng thường xuyên (Cp) và tiêu dùng nhất thời(Ct)
C= Cp+ Ct
Giữa tiêu dùng thường xuyên và thu nhập thường xuyên có mối quan hệ với nhau. Mối
quan hệ này được thể hiện bằng đẳng thức sau:
Cp = k(i,w,u)Yp
Trong đó:
k: Hệ số chỉ tương quan giữa tiêu dùng thường xuyên và thu nhập thường xuyên.
i: Lãi suất
w: Tương quan giữa tài sản vật chất với thu nhập thường xuyên
u: Sự phân chia thu nhập cho tiêu dùng và tiết kiệm.
Qua đẳng thức trên, M.Friedman cho rằng tiêu dùng thường xuyên phụ thuộc vào lãi suất,
tương quan giữa tài sản vật chất với thu nhập thường xuyên và sự phân chia thu nhập
cho tiêu dùng và tiết kiệm là chính chứ không phải là thu nhập thường xuyên.
Lý thuyết tiền tệ và thu nhập quốc dân
Đây là lý thuyết nổi tiếng của Friedman và của phái trọng tiền. Nội dung cơ bản của lý
thuyết này có thể khái quát thành những điểm dưới đây:
- Thứ nhất, nhân tố quyết định sự tăng trưởng của sản lượng quốc gia là mức cung tiền tệ.
Theo M.Friedman và những người theo phái trọng tiền hiện đại, các biến số vĩ mô như:
giá cả, sản lượng, công ăn việc làm phụ thuộc vào mức cung tiền tệ chứ không phải vào
chính sách tài chính (thuế và chi tiêu ngân sách) của trường phái Keynes.
Mức cung tiền tệ thường không ổn định và phụ thuộc vào quyết định chủ quan của chính
sách tiền tệ của ngân hàng trung ương. Nếu ngân hàng trung ương phát hành không đủ
tiền thì dễ dẫn đến khủng hoảng kinh tế, còn nếu phát hành thừa tiền thị lại bị lạm phát.
Mức cầu tiền tệ có tính ổn định cao, nó được quyết định bởi thu nhập. Mức cầu danh
nghĩa về tiền đuợc xác định bởi công thức:
Md = f(Yn,i)
Trong đó:
- Md: Mức cầu danh nghĩa về tiền tệ
- Yn: Thu nhập danh nghĩa
- i: Lãi suất danh nghĩa
Qua công thức trên, những người trọng tiền hiện đại cho rằng sự thay đổi cầu về tiền tệ
phụ thuộc vào sự thay đổi của thu nhập, còn lãi về tiền là nhân tố ngoại sinh của nền kinh
tế.
Từ đó có thể trình bày công thức cầu về tiền dưới dạng đơn giản sau:
Md=f(Yn)
Qua những phân tích trên, M.Friedman cho rằng cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933
diễn ra ở Mỹ là do Hệ thống dự trữ liên bang (FED) đã phát hành một số tiền ít hơn mức
cung tiền tệ. Tứ đó, ông đề nghị thực hiện chu kỳ tiền tệ và thu nhập quốc dân nhằm chủ
động điều tiết mức cung tiền tệ trong từng thời kỳ phát triển. Trong thời kỳ khủng hoàng
thì tăng mức cung tiền tệ để đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng, còn trong thời kỳ
phồn vinh thì giảm mức cung tiền để kìm hãm bớt mức phồn vinh. Theo ông, để giữ sự ổn
định trong nền kinh tế cần tăng khối lượng tiền hàng năm ổn định mức từ 3-4% .
- Thứ hai, giá cả hàng hóa phụ thuộc vào khối lượng tiền tệ.
Từ công thức M.V = P.Q => P = V/Q.M
Trong đó: M: là mức cung tiền tệ
V: tốc độ lưu thông của tiền tệ
Q: số lượng hàng hóa, dịch vụ trong năm
P: giá cả trung bình của hàng hóa và dịch vụ
Ta có: Nếu V,Q không đổi thì P phụ thuộc vào M. Khối lượng tiền tệ càng nhiều thì giá cả
hàng hóa càng tăng cao. Do đó, các nhà trọng tiền hiện đại quan tâm đến việc ổn định tiền tệ
và chống lạm phát. Theo họ, vấn đề cần quan tâm trong nền kinh tế là lạm phát, là căn bệnh
nan giải của xã hội cần phải giải quyết. M.Friedman đã đưa ra khái niệm thất nghiệp tự nhiên,
từ đó trở thành khái niệm cơ bản trong phân tích thị trường lao động theo lý thuyết tự do. "Ở
bất cứ thời điểm nào cũng luôn luôn có một mức thất nghiệp mang đặc tính là tương hợp với
thế cân đối trong cơ cấu tỷ lệ lương thực tế.....Tỷ lệ thất nghiệp nếu thấp hơn mức ấy tức là
cầu quá lớn về lao động do đó sẽ gấp sức ép vào sự giảm tiền lương thực tế" (Vai trò của
chính sách tiền tệ, American Economic Review, tháng 3-1968).
- Thứ ba, trường phái trọng tiền hiện đại ủng hộ và bảo vệ quan điểm tự do kinh tế, chế độ
tư hữu và quyền tự do hoạt động của các doang nghiệp, nhà nước không nên can thiệp sâu
vào kinh tế. Vì nên kinh tế tư bản chủ nghĩa đang phát triển cao, tương đôi ổn định, thường
xuyên ở tình trạng cân bằng động; hệ thống tự điều chỉnh nền kinh tế dựa vào các qui luật
kinh tế khách quan, mà không cần sự can thiệp sâu của nhà nước.
b. Ưu điểm và hạn chế của học thuyết trọng tiền:
Ưu điểm:
- Chính sách tiền tệ là một vũ khí vĩ mô rất mạnh mẽ và sắc bén: sẽ loại trừ được những
biến động cục bộ hay tác động của sức ỳ nhất định trong giá cả và tiền công, làm cho nền
kinh tế nhanh chóng trở lại thế cân bằng (do khối lượng tiền tệ tăng lên với một tỉ lệ không
đổi, từ 3% - 4% một năm).
- Học thuyết này đã đề ra một giải pháp hữu hiệu để tránh lạm phát.
Hạn chế:
- Không đề cao sự can thiệp của Chính phủ để điều tiết nền kinh tế. Theo họ thì cơ chế thị
trường tự do có thể điều tiết, giải quyết các vấn đề kinh tế cơ bản một cách có hiệu quả,
không cần đến sự can thiệp của Nhà nước. Sự can thiệp của Nhà nước chỉ làm phá vỡ
thế cân bằng thị trường và có hại cho nền kinh tế.
- Chỉ quan tâm đến việc chống lạm phát mà không lưu tâm đến suy thoái và thất nghiệp, là
căn bệnh trầm kha của chủ nghĩa tư bản.
- Vào những năm 1973-1974, chủ nghĩa trọng tiền đuợc vận dụng ở Mỹ và Anh. Ở Mỹ
chính quyền Nixon, nói chung là chính phủ của Đảng Cộng hòa đều coi trọng các ý kiến
của trường phái trọng tiền Chicago, ngay cả FED cũng họach định chính sách tiền tệ từ
năm 1978 đến năm 1982 trên cơ sở quan điểm của trường phái này. Nhưng việc vận
dụng nó mang lại kết quả hạn chế:
+ Sự giảm giá gây ra tình trạng trì trệ và thất nghiệp ở mức cao.
+ Việc giảm chi phí nhà nước và giảm thâm hụt ngân sách dẫn đến giảm cầu tín dụng
nhà nước. Điều đó hạn chế tăng giá, nhưng lại kéo theo giảm kích thích đầu tư làm
cho nền kinh tến xấu đi.
+ Nó làm tăng giảm mâu thuẫn trong xã hội tư bản: thất nghiệp tăng, cắt giảm chi phí
xã hội, mức sống người lao động giảm...
II. So sánh học thuyết trọng tiền hiện đại ở Mỹ với chính sách tiền tệ
của J.M. Keynes
Trường phái trọng tiền hiện đại ở Mỹ đối lập và phê phán gay gắt những quan điểm chủ yếu
của Keynes.
Có nhiều điểm khác biệt giữa lý thuyết của Friedman về cầu tiền và lý thuyết của Keynes:
- Đưa nhiều tài sản vào làm đối trọng cho tiền.
Friedman nhận thức rằng không phải chỉ có lãi suất có ý nghĩa quan trọng đối với sự vận
hành của nền kinh tế tổng hợp. Ngược lại, Keynes xếp tất cả các tài sản tài chính không phải
tiền vào một nhóm lớn – gọi là trái phiếu – bởi vì ông cảm thấy lợi tức của chúng nhìn chung
biến đổi cùng nhau. Nếu điều này đúng, lợi tức dự kiến thu được từ trái phiếu sẽ là chỉ báo
tốt về lợi tức dự kiến thu được từ các tài sản tài chính khác và không cần tách biệt chúng ra
trong hàm cầu tiền.
- Cũng ngược với Keynes, Friedman coi tiền và hàng hóa là hàng thay thế cho nhau.
Nghĩa là, mọi người lựa chọn giữa chúng khi quyết định nắm giữ bao nhiêu tiền. Đây là lí
do giải thích tại sao Friedman đưa cả lợi tức dự kiến thu được từ hàng hóa so với tiền vào
hàm cầu tiền của mình. Giả định tiền và hàng hóa là hàng thay thế chỉ ra rằng những thay đổi
trong khối lượng tiền tệ có thể có ảnh hưởng trực tiếp tới tổng chi tiêu.
- Ngoài ra, Friedman cũng nhấn mạnh hai vấn đề khi trình bày hàm cầu tiền của mình khác
với hàm cầu tiền rút ra từ lý thuyết ưa thích thanh khoản của Keynes:
+ Thứ nhất, Friedman không coi lợi tức dự kiến thu được từ tiền là không thay đổi như
Keynes.