Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

nhân tố chủ quan với việc thực hiện công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay (qua thực tế vĩnh phúc)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (440.94 KB, 97 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhân loại đã bước vào thế kỷ XXI. Thế kỷ mới với những xu hướng,
thuận lợi, khó khăn và thách thức mới. Thế kỷ bùng nổ thông tin, khoa học
hiện đại, kỹ thuật tiên tiến, kinh tế hội nhập đã làm cho cục diện thế giới có
nhiều biến động và phân hóa sâu sắc về các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội,
an ninh, quốc phòng. Một số quốc gia, dân tộc đã có những thay đổi lớn so
với những thập niên cuối thế kỷ XX.
Việt Nam, sau 20 năm thực hiện đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam
khởi xướng và lãnh đạo, chúng ta đã thu được những thành tựu to lớn đáng
trân trọng, kinh tế phát triển khá, chính trị tương đối ổn định, an ninh được
giữ vững, quốc phòng được tăng cường, đời sống nhân dân không ngừng
được cải thiện. Đại hội IX của Đảng (2001) tiếp tục khẳng định: Phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự
quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa, phấn đấu từ nay đến năm
2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp, tất cả vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đại hội X của
Đảng (2006) một lần nữa chỉ rõ: phải thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
(CBXH) ngay trong từng bước và trong từng chính sách phát triển.
Nền kinh tế thị trường (KTTT) đã đem lại những thành tựu to lớn về
kinh tế sau 20 năm thực hiện đổi mới. Đây là điều kiện quan trọng tạo tiền đề
kinh tế vững chắc cho việc thực hiện CBXH. Tuy nhiên, KTTT cũng bộc lộ
những nhược điểm làm ảnh hưởng không tốt đến việc thực hiện CBXH, sự
chênh lệch thu nhập, phân hóa giàu nghèo cũng như trình độ dân trí,… có
chiều hướng ngày càng gia tăng giữa các vùng miền, tỷ lệ đói nghèo phần lớn
tập trung chủ yếu ở nông thôn, vùng sâu vùng xa, biên giới và hải đảo, miền
1
núi, dân tộc thiểu số. Điều kiện tập trung đầu tư giáo dục và phát triển kinh tế
lại thuộc về những người có thu nhập cao, các tệ nạn xã hội như buôn lậu,
tham nhũng, trốn thuế, lợi dụng chức quyền, lợi dụng kẽ hở trong quản lý
kinh tế để làm giàu phi pháp đang trở thành điểm nóng được dư luận hết sức


quan tâm, bất công, bất bình đẳng trong xã hội ngày càng trở nên nghiêm
trọng đòi hỏi phải có câu trả lợi thỏa đáng.
Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương
chính sách nhằm phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tốt CBXH.
Kết hợp chặt chẽ, hợp lý các mục tiêu kinh tế với các mục
tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, từng địa phương;
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng
chính sách phát triển, thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở
phát triển kinh tế, gắn quyền lợi với nghĩa vụ, cống hiến với hưởng
thụ, tạo động lực mạnh mẽ hơn cho phát triển kinh tế - xã hội.
Song việc thực hiện ở các cấp các ngành vẫn còn những vấn đề bất
cập chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đặt ra, vấn đề bất công, bất bình
đẳng trong xã hội ngày càng có nguy cơ trở nên trầm trọng và là lực cản lớn có
tính thời sự trong quá trình thực hiện mục tiêu CBXH ở nước ta hiện nay.
Xuất phát từ thực tế đó, tác giả mạnh dạn chọn đề tài: "Nhân tố chủ
quan với việc thực hiện công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường
ở nước ta hiện nay (qua thực tế Vĩnh Phúc)" làm đề tài tốt nghiệp.
2.Tình hình nghiên cứu đề tài
Xung quanh vấn đề: Nhân tố chủ quan (NTCQ) với việc thực hiện
công bằng xã hội trong điều kiện KTTT ở nước ta hiện nay đã có rất nhiều đề
tài nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau như:
- "Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong
quá trình chuyển sang cơ chế thị trường ở nước ta", do TS Hoàng Thị Thành
làm chủ nhiệm đề tài, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1998;
2
- "Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở một số nước châu Á
và Việt Nam", do TS Lê Bộ Lĩnh làm chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1998;
- "Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội - Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn ở một số tỉnh miền Trung", do TS Phạm Hảo, TS Võ Xuân Tiến, TS

Mai Đức Lộc đồng chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000;
- "Vai trò của pháp luật trong việc đảm bảo công bằng xã hội ở Việt
Nam hiện nay", Luận án tiến sĩ của Vũ Anh Tuấn, Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh, 2001;
- "Nhà nước với việc thực hiện công bằng xã hội trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay", Luận văn thạc sĩ của
Võ Thị Hoa, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2002;
- "Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong giai
đoạn hiện nay ở nước ta (Qua thực tế tỉnh Quảng trị)", Luận văn thạc sĩ của
Nguyễn Xuân Phong, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2003;
- "Thực hiện công bằng xã hội giữa các dân tộc trong giáo dục - đào
tạo ở các tỉnh miền núi phía bắc nước ta hiện nay", Luận văn thạc sĩ của Phạm
Văn Dũng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2004;
- "Phát huy vai trò nhân tố chủ quan trong việc tổ chức thực hiện nghị
quyết Đảng ở nước ta hiện nay (Qua thực tế tỉnh Hải Dương)", Luận văn thạc
sĩ của Vũ Hữu Phê, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2004);
- "Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam
thời kỳ đổi mới - vấn đề và giải pháp", do TS Nguyễn Thị Nga làm chủ nhiệm
đề tài, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2006;
- "Vai trò của Nhà nước trong việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với
công bằng xã hội ở nước ta hiện nay", của PGS.TS Trần Thành, Tạp chí Triết
học, số 2(177), 2006;
3
- "Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở nước ta
hiện nay - những quan điểm cơ bản của Đảng", của TS Nguyễn Thị Nga, Tạp
chí Triết học, số 9(184), 2006

Ngoài ra, còn rất nhiều bài viết của các nhà khoa học đăng trên các báo và
tạp chí bàn về vấn đề CBXH ở Việt Nam và trên thế giới trong thời gian gần đây.
Tuy nhiên, vẫn chưa có tác giả nào đề cập vấn đề một cách trực tiếp dưới góc độ

triết học như tên đề tài đã nêu ra. Những tài liệu nêu trên chứa đựng những giá trị
khoa học rất quý giá, được tác giả tiếp thu, kế thừa và phát triển trong luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích của luận văn:
Trên cơ sở làm rõ vai trò và thực trạng của việc phát huy vai trò
NTCQ đối với việc thực hiện CBXH trong điều kiện KTTT định hướng xã
hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam, từ đó đề xuất một số phương hướng và
giải pháp nhằm phát huy vai trò NTCQ với việc thực hiện CBXH trong điều
kiện KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
* Nhiệm vụ của luận văn:
- Làm rõ nội dung quan niệm CBXH; vai trò NTCQ với việc thực hiện
CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
- Khảo sát thực trạng việc phát huy vai trò NTCQ đối với việc thực hiện
CBXH (qua thực tế Vĩnh Phúc), chỉ ra những bất cập của nó, từ đó đề xuất một
số phương hướng và giải pháp nhằm phát huy tốt vai trò NTCQ trong việc thực
hiện CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Vai trò NTCQ và việc phát huy vai trò NTCQ với việc thực hiện
CBXH trong điều kiện nước ta hiện nay.
4
* Phạm vi nghiên cứu:
Vai trò NTCQ và việc phát huy vai trò NTCQ với việc thực hiện
CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay (qua
thực tế ở Vĩnh Phúc), từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp chủ
yếu nhằm phát huy tốt vai trò NTCQ với việc thực hiện CBXH trong điều
kiện KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng

Hồ Chí Minh, các chủ trương đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, đồng thời kế thừa và phát huy những giá trị trong các công trình
khoa học đã nghiên cứu để phục vụ cho luận văn.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn đã dùng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử và lôgíc, phân tích và tổng
hợp, trừu tượng và cụ thể nhằm thực hiện mục đích và nhiệm vụ mà đề tài
đã đặt ra.
6. Đóng góp khoa học và ý nghĩa của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ vai trò của NTCQ đối với việc thực
hiện CBXH ở Việt Nam trong điều kiện KTTT hiện nay (qua thực tế Vĩnh
Phúc), từ đó đề xuất những phương hướng và giải pháp thích hợp nhằm thực
hiện tốt CBXH ở nước ta nói chung và Vĩnh Phúc nói riêng. Kết quả nghiên
cứu luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc tìm hiểu, nghiên
cứu và vận dụng vào thực tiễn sau này.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.
5
Chương 1
CÔNG BẰNG XÃ HỘI VÀ VAI TRÒ NHÂN TỐ CHỦ QUAN
ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.1. QUAN NIỆM VỀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI
1.1.1. Quan niệm ngoài mácxít về công bằng xã hội
Ở xã hội cộng sản nguyên thủy, con người sinh sống, hoạt hoạt động
và lao động đều mang tính cộng đồng, cùng làm cùng hưởng, mọi thành viên
trong thị tộc, bộ lạc đều bình đẳng, đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau,
cùng săn bắn, hái lượm và cùng được hưởng những phần của cải như nhau

trong số sản phẩm thu được, và tuy nhiên họ đều phải tuân thủ như nhau về
các quy ước chung trong cộng đồng, không có trường hợp ngoại lệ. Mọi hành
vi trái với quy ước chung của cộng đồng thì phải chịu sự trừng phạt theo quy
ước đã định. Ở xã hội này, Ph.Ăngghen đã nhận xét: "Với tất cả tính ngây thơ
và giản dị của nó, chế độ thị tộc đó quả là một tổ chức tốt đẹp biết bao Tất
cả đều bình đẳng và tự do" [47, tr. 147-148]. Tuy nhiên, trong xã hội cộng sản
nguyên thủy, lực lượng sản xuất còn thấp kém nên sản phẩm lao động còn ít
ỏi chỉ đủ để tồn tại, nên cách cùng làm cùng hưởng theo kiểu chia đều là
phương thức duy nhất để xã hội cùng tồn tại.
Khi lực lượng sản xuất phát triển, của cải làm ra đã có dư thừa tương
đối thì xuất hiện tư hữu, giai cấp, nhà nước, xã hội chiếm hữu nô lệ ra đời
cùng với sự bất bình đẳng, phân chia đẳng cấp giàu nghèo, sang hèn cũng như
địa vị của từng cá nhân trong xã hội. Như vậy CBXH bắt đầu bị vi phạm.
Nhà triết học Hy Lạp thời cổ đại Pla-tôn (427-347 tr.CN) khi bàn về
vấn đề Nhà nước đã cho rằng: một nhà nước lý tưởng là nhà nước có những
6
đạo luật công bằng được thiết lập trên cơ sở trí tuệ và lợi ích quốc gia chứ
không phải lợi ích của mỗi người cầm quyền. Ari-xtốt (384-322 tr.CN) cho
rằng: sự phân chia giai cấp và địa vị giai cấp là lẽ tự nhiên, công bằng và bình
đẳng chỉ áp dụng cho những người cùng giai cấp, các giai cấp khác nhau thì
công bằng và bình đẳng giai cấp khác nhau; sự bất bình giữa các giai cấp theo
ông đó chính là sự công bằng. Ở Trung Quốc cổ đại, Hàn Phi Tử đã phát triển
tư tưởng pháp trị của các nhà tư tưởng trước thành một học thuyết pháp trị
khá hoàn chỉnh nhằm thiết lập một xã hội công bằng.
Trong xã hội phong kiến, với sự phân chia giai cấp địa chủ và nông
dân, đất đai và tư liệu sản xuất thuộc về giai cấp địa chủ, quý tộc, nông dân
chỉ là người đi cày thuê cuốc mướn, con người hàng ngày vẫn phải đối mặt
với những bất công trong xã hội. Đây cũng chính là nguyên nhân của hàng
loạt các cuộc khởi nghĩa của nông dân chống lại bọn địa chủ phong kiến đòi
công bằng và bình đẳng trong xã hội. Ph. Ăngghen đã từng nhận xét: "Điều

đó lý giải vì sao chế độ phong kiến lại có nhiều cuộc khởi nghĩa chống lại địa
chủ, lãnh chúa để đòi công bằng xã hội" [42, tr. 243].
Chủ nghĩa tư bản ra đời, cùng với chiêu bài: "Tự do, bình đẳng, bác
ái", của giai cấp tư sản nhằm tập hợp lực lượng để thủ tiêu chế độ phong kiến,
đồng thời khẳng định các quyền tự do cá nhân, quyền được sống trong xã hội
dân chủ theo mô hình nhà nước "tam quyền phân lập" với một nền pháp luật
tiến bộ, công bằng. Đây là những nội dung cơ bản trong tư tưởng CBXH của
thời kỳ này.
Tômát Hốpxơ (1588-1679), nhà triết học nổi tiếng đại biểu cho chủ
nghĩa duy vật Anh thế kỷ XVII cho rằng: con người là giống nhau mà tạo hóa
đã ban cho nên con người phải được công bằng và bình đẳng, nhưng con
người thì lại có tính tham lam và ích kỷ nên không thể có sự bình đẳng và
công bằng, ông đã chỉ ra rằng: Để đi đến sự công bằng giữa con người với
con người thì phải có một lực lượng đứng trên để dàn xếp các lợi ích cá nhân,
7
đó chính là nhà nước. Tư tưởng này của Tômát Hốpxơ đã mang tính duy vật
về xã hội nhưng lại chưa thấy được trong xã hội có đối kháng giai cấp thì nhà
nước mang tính giai cấp của giai cấp thống trị, nên ông đã cho rằng không thể
thực hiện CBXH chung cho toàn xã hội.
Tiếp tục tư tưởng của Tômát Hốpxơ, Xpinôza (1632-1677) đã đưa ra
tư tưởng giải phóng con người và giải phóng mình đó là nhận thức, chính
nhận thức mà làm cho con người tránh khỏi tệ nạn xã hội, giải phóng mọi áp
bức và bất công. Ông cho rằng, dốt nát là nguyên nhân của áp bức, bất công,
không nhận thức được hiện thực thì không thể chế ngự được lòng ham muốn
của mình. Tuy nhiên, quan điểm của ông vẫn chưa duy vật triệt để về xã hội.
Đến Giăng Giắc Rútxô (1712-1778); nhà tư tưởng vĩ đại, nhà biện
chứng lỗi lạc của triết học Khai sáng Pháp, ông cho rằng: xã hội công dân đã
tạo ra một xiềng xích mới trói buộc kẻ yếu, thế lực thuộc về kẻ mạnh, luôn
kìm hãm, thủ tiêu bình đẳng cá nhân và duy trì quan hệ bất bình đẳng. Theo
ông, muốn xóa bỏ bất công, bất bình đẳng thì phải xây dựng một nhà nước

kiểu mới do nhân dân làm chủ, đồng thời ông cũng phê phán sở hữu tư nhân
vì sở hữu tư nhân là nguyên nhân làm phân hóa thành kẻ giàu người nghèo,
muốn xóa được sở hữu tư nhân thì phải thiết lập khế ước xã hội thì mới đạt
được công bằng và bình đẳng. Đây là những lý tưởng nhân đạo nhưng cũng
chưa thoát khỏi hạn chế lịch sự.
Imanuen Cantơ (1724-1804), đại biểu của nền triết học cổ điển Đức,
một trong những nhà triết học vĩ đại nhất của lịch sử tư tưởng phương Tây
trước C.Mác, khi bàn về vấn đề xã hội ông đã cho rằng: CBXH bao gồm công
bằng và bảo hộ, công bằng trong trao đổi và phân phối. Đây là tư tưởng tiến
bộ của ông mà sau này được nhiều người thừa kế.
Các nhà xã hội không tưởng cũng phê phán mạnh mẽ xã hội đương
thời được xây dựng trên nền móng của sự chiếm hữu, đồng thời các ông cũng
đề ra một mô hình xã hội mới mà ở xã hội đó mọi người đều phải lao động và
8
hưởng thụ như nhau, xóa bỏ mọi đặc quyền đặc lợi, xây dựng một xã hội công
bằng tạo điều kiện công bằng cho mọi thành viên trong xã hội, tuy nhiên đây
là một mô hình xã hội không tưởng cả về lý luận và thực tiễn, đây là một mơ
ước về xã hội lý tưởng mà công bằng là theo chủ nghĩa bình quân, cào bằng.
Tuy nhiên, trong giai đoạn này, tư tưởng về CBXH của nhân loại đã có những
bước tiến khá dài khác hẳn về chất so với các xã hội trước đó.
Chủ nghĩa tư bản trong thời đại ngày nay đã trải qua những thăng trầm
trong lịch sử nên có những bài học về việc điều chỉnh CBXH và cũng đạt
được một số thành tựu, đồng thời dưới danh nghĩa "phúc lợi chung", chủ
nghĩa tư bản đã làm dịu bớt được sức nóng trong xã hội tư bản, chủ nghĩa tư
bản đã nhận thức được rằng cuộc đấu tranh giữa công nhân và tư sản về công
bằng có thể sẽ là một mất một còn nếu không thực sự xoa dịu được tình hình,
chính vì vậy mà chủ nghĩa tư bản có những điều chỉnh tương đối hợp lý, làm
giảm bớt sức nóng về CBXH trong xã hội tư bản. Tuy nhiên, đây chỉ là những
biện pháp mang tính hình thức, còn về thực chất và lâu dài thì sự đòi hỏi công
bằng của giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động đang chịu bất

công với giai cấp tư sản tất yếu sẽ được thực hiện bằng một cuộc cách mạng
xã hội.
Như vậy, việc thực hiện CBXH trong chủ nghĩa tư bản chỉ là phương
tiện để đạt mục đích đó là lợi nhuận cho nhà tư bản chứ không phải là cái đích
CBXH mà nhân loại đang cần vươn tới. Olivier de Solages (nhà kinh tế học
người pháp) khẳng định: "Đông đảo quần chúng không thể hiện được rằng
một sự tăng trưởng kinh tế ngày càng gia tốc lại được thể hiện bằng một sự
phân phối bất công đến thế về thu nhập quốc dân và bằng những bất bình
đẳng ngày càng trầm trọng" [74, tr. 92].
Bên cạnh đó còn xuất hiện nhiều tư tưởng về CBXH theo trào lưu tân
cổ điển và cổ điển, họ đã nhấn mạnh tự do cá nhân theo một chiều trong mối
quan hệ với CBXH, họ cho rằng chính tự do cá nhân mới là động lực thúc đẩy
9
tăng trưởng kinh tế (TTKT) và tiến bộ xã hội. Vì vậy, muốn phát triển thì phải
giảm bớt CBXH, không thể cùng một lúc vừa có TTKT lại vừa có CBXH được,
mà chỉ khi nào kinh tế tăng trưởng đến một mức độ nhất định nào đó thì mới
có đủ điều kiện để thực hiện CBXH. Quan điểm này đã bị chính xã hội tư sản
bác bỏ vì phủ nhận vai trò CBXH trong việc thúc đẩy TTKT. Max - Weber (nhà
xã hội học và triết học người Đức) lại giải thích bất công trong chủ nghĩa tư bản
bằng khả năng không ngang nhau trong việc chiếm lĩnh thị trường của các doanh
nghiệp hoặc người lao động, ông còn cho rằng cơ may và vận hội trong cuộc đời
không thể chia đều cho mọi người. Đây cũng là lý do để tồn tại những vị thế
khác nhau trong xã hội, những điều như vậy là nguyên nhân dẫn đến bất công
trong xã hội tư sản. Học thuyết này có đóng góp lớn đối với sự phân tầng xã
hội song chưa lý giải trọn vẹn bản chất của sự bất công trong chủ nghĩa tư bản.
Những người theo quan điểm xã hội dân chủ trong khi bác bỏ tính
phiến diện của trào lưu cổ điển và tân cổ điển đã tìm kiếm sự hỗ trợ lẫn nhau
giữa tự do cá nhân, CBXH với TTKT, nhưng thực tế lại dẫn đến sai lầm.
Đường lối của Đảng xã hội dân chủ Thụy Điển một thời lầm tưởng rằng đã
thật sự có CNXH và CBXH, nhưng thực tế thì đó là CBXH mà ở đó đã làm

mất động lực TTKT, những kẻ lười lao động nghiễm nhiên lại được hưởng
một phần không nhỏ của hệ thống phúc lợi. Ngôi nhà CBXH của Đảng xã hội
dân chủ Thụy Điển đã hoàn toàn sụp đổ, đây là tiếng chuông cảnh tỉnh cho ảo
tưởng tìm kiếm CBXH đích thực trong chủ nghĩa tư bản. Thực tiễn đã chứng
minh rằng chủ nghĩa tư bản không phải là lời giải tốt cho nhân loại về CBXH.
Như vậy, trong tiến trình lịch sử nhân loại, toàn bộ những quan điểm
tư tưởng trước Mác và ngoài Mác cũng như thực tiễn lịch sử đã đề cập đến rất
nhiều về vấn đề CBXH, đã có những quan niệm khác nhau về nhưng chưa có
một quan niệm nào, đầy đủ, toàn diện, có tính hệ thống và khoa học về
CBXH. Tuy nhiên, đây là những tiền đề rất quan trọng cho các nhà tư tưởng
sau này khi nghiên cứu về vấn đề CBXH.
10
1.1.2. Quan điểm mácxít về công bằng xã hội
Chủ nghĩa Mác với phương pháp nhận thức duy vật biện chứng, đồng
thời kế thừa những yếu tố hợp lý của các nhà tư tưởng trước đó, trên cơ sở
thâm nhập trực tiếp vào thực tiễn, đã đưa ra những quan điểm rất cơ bản về
CBXH: CBXH là một phạm trù có tính lịch sử và tính giai cấp sâu sắc, nó thay
đổi theo các hình thái kinh tế - xã hội nhất định, thậm chí còn thay đổi theo từng
giai đoạn lịch sử khác nhau trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Theo quan điểm mácxít thì trong các nhà nước bóc lột không thể tồn
tại CBXH theo đúng nghĩa của nó, mà trái lại càng đẩy bất công xã hội lên tới
đỉnh điểm cho cuộc cách mạng xã hội. Khi phân tích chủ nghĩa tư bản, C.Mác
đã chỉ ra rằng: sự TTKT trong chủ nghĩa tư bản đồng nghĩa với quá trình tăng
cường bóc lột giai cấp công nhân, vì vậy sự tăng trưởng đó về bản chất không
thể tự dẫn tới CBXH được. Phương thức phân phối trong chủ nghĩa tư bản là
không hợp lý vì nó không dựa vào sức lao động mà lại dựa vào tài sản và vốn
nên dẫn đến nhà tư bản ngày càng giàu lên trên sự nghèo khổ của công nhân
và người lao động. Đây chính là sự phân phối không công bằng trong chủ
nghĩa tư bản, làm cho mâu thuẫn trong xã hội tư bản ngày càng gay gắt.
C.Mác chỉ ra rằng, phương thức phân phối tư bản chủ nghĩa chỉ mất đi khi

mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội hóa ngày càng cao
với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư
liệu sản xuất trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trở nên gay gắt đến
mức bùng nổ cách mạng XHCN để mở ra một thời đại mới, thời đại đó tư liệu
sản xuất sẽ được công hữu hóa và phương thức phân phối sản phẩm sẽ hợp lý
hơn, CBXH sẽ được bảo đảm.
Theo các nhà mácxít thì chỉ có chủ nghĩa cộng sản với tư cách là xã
hội phát triển nhất của nhân loại, ở xã hội này sự phát triển tự do của mỗi
người là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người. Xã hội có khả năng
thực hiện phân phối theo nhu cầu, và chỉ như vậy thì mới có thể thực hiện
11
CBXH một cách tuyệt đối. Tuy nhiên, quan điểm mácxít cũng cho thấy rằng:
CNXH với tư cách là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản thì chưa có
CBXH như người ta mong muốn (công bằng tuyệt đối), vì ở đó vẫn còn tồn
tại nhiều tiền đề kinh tế - xã hội cho bất bình đẳng như tư hữu và những yếu
tố của pháp quyền tư sản trong phân phối. Đây chính là phân phối theo lao
động - một nguyên tắc của việc phân phối chủ yếu trong CNXH và là nét đặc
trưng trong quan niệm về CBXH trong thời kỳ này và cũng chính là "thiếu sót
không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản".
Trong tác phẩm "Phê phán cương lĩnh Gôtha", C.Mác đã đề cập tới
phân phối trong CNXH, ông cho rằng, trong XHCN, sau khi đã khấu trừ đi
những khoản cần thiết để duy trì sản xuất, tái sản xuất cũng như để duy trì đời
sống của cộng đồng, toàn bộ sản phẩm xã hội còn lại sẽ được phân phối theo
nguyên tắc: Mỗi người sản xuất sẽ được nhận trở lại từ xã hội một số lượng
vật phẩm tiêu dùng trị giá ngang với số lượng lao động mà anh ta đã cung cấp
cho xã hội (sau khi đã khấu trừ số lao động của anh ta cho các quỹ xã hội).
Đây là một nguyên tắc phân phối công bằng vì ở đây tất cả những người sản
xuất đều có quyền ngang nhau tham dự vào quỹ tiêu dùng của xã hội khi làm
một công việc ngang nhau. Như vậy, theo C.Mác, trong chế độ XHCN thì lao
động theo năng lực cá nhân và được nhận lại một phần sản phẩm anh ta làm

ra vừa đúng với cái mà anh ta đóng góp cho xã hội sau khi đã khấu trừ đi số
lao động cần thiết để duy trì, phát triển sản xuất và các quỹ phúc lợi xã hội,
mọi người sản xuất đều có quyền ngang nhau trong việc tham gia vào quỹ tiêu
dùng của xã hội khi làm một công việc ngang nhau, nguyên tắc phân phối này
được coi là công bằng. Tuy nhiên, ông cũng chỉ ra rằng, trong điều kiện của
CNXH, sự phân phối công bằng đó chẳng những chưa loại trừ được mà vẫn còn
hàm chứa trong nó sự chấp nhận một tình trạng bất bình đẳng nhất định giữa các
thành viên trong xã hội vì: với một công việc ngang nhau và do đó, với một
phần tham dự như nhau vào quỹ tiêu dùng của xã hội thì trên thực tế người
12
này vẫn lĩnh hơn người kia, người này vẫn giàu hơn người kia [45, tr. 35]. Do
vậy, muốn tránh tất cả những thiếu sót ấy thì quyền phải lao động không bình
đẳng chứ không phải là bình đẳng [45, tr. 35]. Đây cũng là ưu việt những
cũng là thiết sót của nguyên tắc phân phối theo lao động - một thiếu sót không
thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của cộng sản chủ nghĩa.
C.Mác cũng phân biệt sự khác nhau giữa CBXH với bình đẳng xã hội
(BĐXH), theo ông thì CBXH không đồng nhất với BĐXH, có khi chúng ta
đang thực hiện CBXH nhưng vẫn chưa thực hiện được BĐXH, khi nói tới
BĐXH là nói tới sự ngang bằng nhau giữa người và người trong xã hội về
một phương diện nào đấy như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội , BĐXH
hoàn toàn là sự ngang bằng nhau giữa người và người trong xã hội về mọi
phương diện. Còn CBXH là sự ngang bằng nhau giữa người với người về một
phương diện xác định, về phương diện quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi,
cống hiến và hưởng thụ, theo nguyên tắc cống hiến ngang nhau thì hưởng thụ
ngang nhau, và vì vậy xét theo khía cạnh này thì CBXH là một dạng, một
biểu hiện cụ thể của BĐXH và thực hiện CBXH chính là thực hiện một phần
của BĐXH, là thực hiện CBXH về một phương diện nhất định, phương diện
quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ - và là một bước tiến trên con đường lâu
dài nhằm dần dần đạt tới BĐXH hoàn toàn.
V.I.Lênin cho rằng:

Như thế là trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa
(mà người ta vẫn thường gọi là chủ nghĩa xã hội), pháp quyền tư sản
chưa bị xóa bỏ hoàn toàn mà chỉ bị xóa bỏ một phần, chỉ bị xóa bỏ
với mức độ phù hợp với cuộc cách mạng kinh tế đã được hoàn
thành, nghĩa là chỉ trong phạm vi tư liệu sản xuất thôi. Pháp quyền
tư sản thừa nhận tư liệu sản xuất là sở hữu riêng của cá nhân. chủ
nghĩa xã hội biến tư liệu sản xuất thành tài sản chung [34, tr. 116].
13
Lênin cũng rất chú ý đến công bằng trong phân phối lao động, ông
cho rằng: "Người nào không làm thì không có ăn", nguyên tắc này được thực
hiện "số lượng lao động ngang nhau, thì hưởng số lượng sản phẩm ngang
nhau" [34, tr. 116].
Theo quan điểm mácxít thì phải thiết lập những tiền đề kinh tế ngày
càng cao cho việc thực hiện CBXH, không thể có CBXH đích thực trong một
xã hội nghèo khổ kém phát triển, đồng thời quan điểm mácxít cũng đề cập đến
một xã hội giàu có, của cải dư thừa nhưng lại thiếu công bằng trong phân phối,
TTKT là yếu tố quan trọng nhưng không phải là duy nhất để thực hiện CBXH.
Đây là quan điểm khác biệt cơ bản giữa quan điểm mácxít với quan điểm
ngoài mácxít, phải biết kết hợp hài hòa, biện chứng giữa TTKT và CBXH.
Bên cạnh đó quan điểm mácxít cũng chỉ ra điểm khác biệt giữa quan
niệm mácxít với các quan niệm khác về CBXH, đó là con đường đấu tranh
với những bất công xã hội mà trong đó bất công về địa vị kinh tế là lớn nhất,
"Những điều công bằng về mặt luân lý, thậm chí công bằng cả về mặt pháp
luật, có thể còn xa với công bằng về mặt xã hội" [45, tr. 365]. CBXH không
phải là sản phẩm của tạo hóa mà là sản phẩm của cuộc đấu tranh giữa con
người với những bất công trong xã hội.
Theo quan điểm mácxít, trong CNXH thì CBXH trong lĩnh vực kinh
tế đóng vai trò cơ sở và quyết định các lĩnh vực khác như văn hóa, xã hội
v.v , giữa cống hiến (thực hiện nghĩa vụ) và quyền lợi (quyền được hưởng
quyền lợi), công bằng theo nguyên tắc làm theo năng lực, hưởng theo lao

động làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít. Tuy nhiên, theo các ông thì
CBXH cũng chỉ mang tính tương đối, nó chỉ thích hợp với giai đoạn thấp
của xã hội CSCN, lúc đó vừa lọt lòng từ xã hội TBCN ra sau nhưng cơn đau
đẻ kéo dài. Quyền không bao giờ có thể cao hơn chế độ kinh tế và sự phát
triển văn hóa của xã hội do chế độ kinh tế đó quyết định [45, tr. 35-36].
Trong các giai đoạn khác nhau thì quan niệm về CBXH cũng khác nhau,
14
quan niệm về CBXH trong CNXH sẽ thay đổi khi CNXH thay đổi sang một
hình thức mới cao hơn.
Theo quan điểm mácxít thì một xã hội có công bằng thực sự chỉ khi
con người không lệ thuộc vào phân công lao động, khoảng cách giữa lao động trí
óc và lao động chân tay được thu hẹp, lúc đó lao động không còn nhằm mục
đích sinh sống mà là nhu cầu hoạt động và phát triển, cá nhân được phát triển
một cách toàn diện, sức sản xuất xã hội sẽ có sự tiến bộ vượt bậc chưa từng có
trong lịch sử, của cải dư thừa thì khi đó mới là làm theo năng lực, hưởng theo
nhu cầu. Mọi cá nhân có nhu cầu phát huy mọi tiềm năng để vươn tới ngang
nhau về năng lực, điều kiện, cơ hội thì khi đó mới đạt tới công bằng tuyệt đối.
Trên cơ sở nền tảng của quan điểm mácxít, Hồ Chí Minh đã vận dụng
sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, Người luôn coi CBXH gắn với độc
lập dân tộc và CNXH, theo Hồ chí Minh thì tiến lên CNXH, CNCS là phương
thức duy nhất đúng hợp lòng người để thực hiện CBXH "chỉ có CNCS mới
cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc
tự do, bình đẳng bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người
và vì mọi người, niềm vui, hòa bình và hạnh phúc" [49, tr. 115]. "Mục tiêu
của CNXH là gì? nói một cách giản đơn và dễ hiểu là: không ngừng nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động
"Chủ nghĩa xã hội là gì? là mọi người ăn no mặc ấm, tự do" [52, tr. 22],
Người nói: "có khi vật tư hàng hóa không thiếu, mà phân phối không đúng thì
gây ra căng thẳng không cần thiết. Trong công tác lưu thông phân phối có hai
điều quan trọng luôn phải nhớ:

"Không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng
Không sợ nghèo chỉ sợ lòng dân không yên" [51, tr. 185].
Như vậy, theo Hồ Chí Minh thì công bằng không có nghĩa là cào bằng,
bình quân chủ nghĩa. Không có tình trạng người giỏi, người kém, việc khó
việc dễ cũng cùng điểm như nhau" [51, tr. 143].
15
Từ sự thâm nhập, tổng kết và khái quát thực tiễn Người khẳng định rằng
trong chế độ xã hội thực dân không có CBXH mà " Nhân dân chỉ có nghĩa vụ,
như nộp sưu đóng thuế, đi lính đi phu mà không có quyền lợi" [53, tr. 219],
công nhân, nông dân là những người chủ yếu sản xuất ra của cải vật chất cho
xã hội, nhờ đó xã hội mới tồn tại và phát triển nhưng lại rất bất công vì họ
luôn là những người nghèo khổ, trong khi đó một số người lại "ngồi mát ăn
bát vàng", theo Người thì nguyên nhân của sự bất công đó là "vì một số người
đã chiếm làm tư hữu những tư liệu sản xuất của xã hội " [53, tr. 203]. Người
kết luận rằng CBXH chỉ có trong xã hội mới, dưới chế độ dân chủ cộng hòa "
Nhân dân có nghĩa vụ đồng thời có quyền lợi" [53, tr. 219]; "Nhà nước ta
ngày nay là của tất cả những người lao động Nhân dân lao động là những
người chủ tập thể của tất cả những của cải vật chất và văn hóa, đều bình đẳng
về quyền lợi và nghĩa vụ" [53, tr. 310].
Như vậy CBXH trong tư tưởng Hồ Chí Minh thường được gắn kết với
bình đẳng xã hội tức là mối quan hệ giữa quyền lợi với nghĩa vụ, bình đẳng
giữa nghĩa vụ với quyền lợi. Bình đẳng trước hết là bình đẳng về nghĩa vụ và
quyền lợi, bình đẳng giữa người với người trong việc thực hiện nghĩa vụ và
hưởng thụ quyền lợi ấy, đó chính là thực hiện CBXH. Phân phối công bằng
theo Người là: "Làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không
được hưởng". Đây là nguyên tắc phân phối công bằng trong điều kiện nước ta
hiện nay; Do đó, sự bình đẳng của những người lao động trong mối quan hệ
giữa nghĩa vụ và quyền lợi, mà cụ thể là sự ngang bằng nhau về địa vị làm
chủ nước nhà, làm chủ tư liệu sản xuất, bảo đảm cho mỗi người đều có thể
phát huy mọi khả năng của mình để vươn tới một cuộc sống ấm no hạnh phúc.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh thì CBXH không những chỉ là mục tiêu
của CNXH mà còn là một động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội của đất nước, là
một yêu cầu bức thiết của công cuộc xây dựng CNXH nhất là trong điều kiện
nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, Theo Người không nhất thiết là kinh tế
16
phải phát triển ở trình độ cao thì mới thực hiện được CBXH "không sợ thiếu,
chỉ sợ không công bằng".
Người nhấn mạnh: "CNXH là lấy nhà máy, xe lửa, ngân hàng v.v
làm của chung. Ai làm nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai không làm thì
không ăn, tất nhiên là trừ những người già cả, đau yếu và trẻ em. Thế ta đã
đến đấy chưa? chưa đến. CNXH không thể làm mau được mà phải làm dần
dần " [54, tr. 219]. Người kiên quyết chống lại chủ nghĩa bình quân, "đồng
cam cộng khổ là một tinh thần cần phải có, nhưng nếu bình quân chủ nghĩa
thì lại không đúng. Bình quân chủ nghĩa là gì? là ai cũng như ai, bằng hết.
Bình quân chủ nghĩa là trái với CNXH, thế là không đúng" [54, tr. 386].
Như vậy, trong quan điểm Hồ Chí Minh, công bằng và bình đẳng là
một mục tiêu của sự nghiệp xây dựng chế độ xã hội mới, nó không phải là
chủ nghĩa bình quân cào bằng trong sự nghèo khổ. Mục tiêu của nghĩa nghĩa
xã hội là không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân là phấn đấu:
Làm cho người nghèo thì đủ ăn
Người đủ ăn thì khá giàu
Người khá giàu thì giàu thêm [52, tr. 65].
Bên cạnh đó, Người rất chú trọng đến lợi ích cá nhân nhằm động viên
mỗi người không ngừng phấn đấu, cống hiến nhiều nhất cho xã hội, đồng thời
đấu tranh chống lại chủ nghĩa cá nhân, chính chủ nghĩa cá nhân là căn nguyên
gây ra trăm thứ bệnh như quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, tham ô, lãng phí, chủ
quan v.v mang tính cá nhân, không nghĩ tới lợi ích giai cấp, dân tộc. Tuy
nhiên cũng cần phân biệt rằng chủ nghĩa cá nhân khác lợi ích cá nhân, nếu chống
chủ nghĩa cá nhân mà lại vi phạm lợi ích chính đáng của cá nhân thì sẽ dẫn tới sai
lầm, Người khẳng định rằng " Lợi ích cá nhân là nằm trong lợi ích tập thể, là

một bộ phận của lợi ích tập thể. Lợi ích chung của tập thể được đảm bảo thì
17
lợi ích riêng của cá nhân mới có điều kiện để được thỏa mãn" [55, tr. 291].
Việc đảm bảo lợi ích chung tức là bảo vệ điều kiện để thực hiện lợi ích của
mỗi cá nhân, (tức là biện pháp nhằm đảm bảo CBXH). Tư tưởng "mình vì
mọi người, mọi người vì mình" là thể hiện sự công bằng giữa lợi ích cá nhân
với cá nhân, cá nhân với tập thể và cộng đồng.
Như vậy, Hồ Chí Minh đã có quan điểm về CBXH khá toàn diện và
sâu sắc.Thực chất của CBXH theo Người là không gì khác ngoài mối quan hệ
giữa giữa cống hiến và hưởng thụ, ai làm nhiều thì hưởng nhiều, ai làm ít thì
hưởng ít, không làm thì không hưởng (trừ những người già cả, bệnh tật và trẻ
em). Người cũng cho thấy rõ rằng không nhất thiết phải xã hội giàu có thì mới
thực hiện được CBXH, mà ngay khi xã hội còn chưa thật giàu có vẫn thực
hiện được CBXH, tùy điều kiện kinh tế xã hội khác nhau mà việc thực hiện
CBXH khác nhau. Người cũng chỉ rõ CBXH khác với cào bằng, bình quân
chủ nghĩa nếu đồng nhất chúng thì sẽ triệt tiêu động lực tăng trưởng và phát
triển kinh tế. Người chỉ ra rằng thực hiện CBXH là cả một quá trình, phải làm
từng bước một, tránh sự nôn nóng và tránh sự trì trệ, ỷ lại, trông chờ. Cuối
cùng người khẳng định CBXH là mục tiêu của CNXH mà chúng ta cần phải
vươn tới, chỉ có xã hội XHCN mới thực sự đem lại CBXH cho nhân dân lao
động, phương thức duy nhất để thực hiện CBXH là đi lên CNXH, CBXH là
việc tạo ra điều kiện cho mỗi người có cơ hội tham gia vào quá trình phát
triển của xã hội và hưởng thụ những thành quả của sự phát triển, là đảm bảo
quyền tự do của mỗi người trong quan hệ gắn bó với cộng đồng. CBXH phải
được thể hiện đầy đủ trong việc giải quyết quan hệ giữa phát triển kinh tế và
giải quyết những vấn đề xã hội, giải quyết hài hòa giữa quyền lợi và nghĩa vụ
của mỗi người. CBXH là trách nhiệm chung của nhà nước, của toàn xã hội
trong việc chăm lo, bảo vệ quyền lợi của nhân dân và tạo ra điều kiện thuận
lợi để nhân dân hoàn thành nghĩa vụ, quyền lợi của mình đối với nhà nước và
xã hội.

18
1.1.3. Quan điểm của Đảng ta về công bằng xã hội trong điều kiện
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
Hiện nay chúng ta đang xây dựng và phát triển nền kinh tế vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, định hướng XHCN, đây là mô
hình kinh tế phù hợp với Việt nam và là mô hình kinh tế lần đầu tiên xuất hiện
trong lịch sử - mô hình kinh tế của thời kì quá độ lên CNXH. Trong điều kiện đó,
CBXH phải được hiểu như thế nào cho đúng với điều kiện Việt nam hiện nay.
Từ điển bách khoa Việt Nam định nghĩa về công bằng như sau:
1…Khái niệm công bằng nêu ra sự tương quan giữa một số
hiện tượng theo quan điểm phân phối phúc và họa, lợi và hại giữa
người với người. CBXH đòi hỏi sự tương xứng giữa vai trò của
những cá nhân (những giai cấp) với địa vị của họ, giữa hành vi với
sự đền bù (lao động và thù lao, công và tội, thưởng và phạt), giữa
quyền với nghĩa vụ. Không có sự tương xứng trong những quan hệ
ấy là bất công.
2. Công bằng xã hội là phương thức đúng đắn nhất để thỏa
mãn một cách hợp lý những nhu cầu của các tầng lớp xã hội, các
nhóm xã hội, các cá nhân xuất phát từ khả năng hiện thực của
những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Về nguyên tắc, chưa có
sự công bằng nào được coi là tuyệt đối trong chừng mực mà mâu
thuẫn giữa nhu cầu con người và khả năng hiện thực của xã hội còn
chưa được giải quyết. Bởi vậy, mỗi xã hội có sự đòi hỏi riêng về
CBXH [28, tr. 580-581].
Trong từ điển Triết học giản yếu do Hữu Ngọc, Dương Phú Hiệp và Lê
Hữu Tầng biên soạn thì khái niệm công bằng, công lý được trình bày như sau:
Nội dung của công bằng không có tính chất chung chung,
bất di, bất dịch phi thời gian - nó thay đổi theo lịch sử, phán ánh
19
hoàn cảnh kinh tế - xã hội nhất định và sự đánh giá về mặt đạo đức

của từng giai cấp theo quyền lợi của mình. Trên cơ sở quan hệ kinh
tế, xã hội và chính trị của CNXH, khái niệm công bằng mang một
nội dung mới: Tất cả mọi người đều có thể trong thực tế, phát triển
như nhau nhân cách, tài năng, khả năng và đều có nhiệm vụ hoạt
động vì lợi ích xã hội. Nguyên tắc Mỗi người làm theo năng lực, và
hưởng theo lao động được thực hiện, chỉ khi nào tới CSCN thì mới
thực hiện được nguyên tắc Mỗi người làm theo khả năng và hưởng
theo nhu cầu [62, tr. 97-98].
Theo PGS,TS Dương Xuân Ngọc:
Công bằng xã hội là một phạm trù xã hội dùng để chỉ trình
độ phát triển về phương diện xã hội của con người (cá nhân và cộng
đồng), được thực hiện và thể hiện trên tất cả các lĩnh vực đời sống
xã hội: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, tinh thần, mà trước hết là
lĩnh vực xã hội. Nó phản ánh mối quan hệ về nghĩa vụ và quyền lợi
giữa xã hội và cá nhân, nhằm đảm bảo sự phát triển hài hòa của con
người, của xã hội phù hợp với xu thế và tiến bộ xã hội. CBXH vừa
là khát vọng của con người, vừa là động lực, là mục tiêu của sự phát
triển xã hội, của cách mạng xã hội chủ nghĩa, của sự nghiệp đổi mới
theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta [63, tr. 37-39].
Theo GS,PTS Lê Hữu Tầng: khái niệm CBXH và BĐXH tuy có nội
dung rất gần nhau nhưng dù sao chúng vẫn là những khái niệm khác nhau. Sự
khác nhau ấy là ở chỗ nói tới BĐXH là nói tới sự ngang bằng nhau giữa người
với người trong xã hội về một phương diện nào đấy (về kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội.v.v), và nói tới BĐXH hoàn toàn là nói tới sự ngang bằng nhau
giữa người với người trong xã hội về mọi phương diện. Trong khi đó, nói tới
CBXH là nói tới sự ngang bằng nhau giữa người với người không phải về một
phương diện nào đấy bất kỳ, mà chính là về một phương diện hoàn toàn xác
20
định: về phương diện quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa cống hiến và
hưởng thụ theo nguyên tắc: cống hiến (thực hiện nghĩa vụ) ngang nhau thì

hưởng thụ (được hưởng quyền lợi) ngang nhau. Theo nghĩa này mà xét thì
CBXH là một dạng, một biểu hiện cụ thể của BĐXH và thực hiện CBXH
chính là thực hiện một phần của BĐXH, là thực hiện BĐXH về một phương
diện nhất định, phương diện quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ - và là một
bước tiến trên con đường lâu dài nhằm dần dần đạt tới bình đẳng xã hội hoàn
toàn chứ chưa phải là đã đạt tới BĐXH hoàn toàn [78, tr. 27-28].
Theo TS Nguyễn Thị Nga:
Công bằng xã hội hiểu theo nghĩa chung nhất là sự ngang
bằng nhau trong mối quan hệ giữa mối quan hệ giữa người với người,
dựa trên nguyên tắc thống nhất giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa cống
hiến và hưởng thụ. Từng thành viên trong xã hội gắn bó với cộng
đồng xã hội trên mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội
thông qua sự cống hiến theo khả năng trí tuệ, sức lực của mình cho
sự phát triển xã hội và được xã hội bù đắp, chăm sóc trở lại một
cách tương xứng, không có sự tương xứng ấy là bất công [61, tr. 3].
Như vậy:
CBXH là khái niệm chỉ sự tương xứng giữa vai trò và vị thế
của các thành viên xã hội (cá nhân, giai cấp, nhóm xã hội), giữa cái
mà họ tạo ra được xã hội với cái được nhận lại có thể là điều tốt
lành hoặc ngược lại) như cống hiến và hưởng thủ, lao động và sự trả
công, quyền và nghĩa vụ, vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý.
không có sự tương xứng nói trên là bất công xã hội [91, tr. 25].
Từ những khái niệm trên có thể hiểu:
Thứ nhất, CBXH là một khái niệm mang tính lịch sử - xã hội, trong
mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, mỗi hình thái kinh tế - xã hội khác nhau thì
nội dung CBXH cũng khác nhau.
21
Thứ hai, CBXH là đối xử ngang nhau với những người có đóng góp
như nhau và là sự đối xử khác nhau với những người có đóng góp khác nhau,
những khác biệt bẩm sinh hoặc có những điều kiện xã hội khác nhau. CBXH

được thực hiện bằng cơ chế thị trường và sự điều tiết của nhà nước. Chỉ như
vậy thì mới thực hiện được CBXH một cách thực sự.
Thứ ba, CBXH không chỉ là ở sự phân phối kết quả sản xuất, tức là sự
tương xứng giữa lao động và thu nhập, cống hiến và hưởng thụ mà còn phải
xét đến việc có cơ hội ngang nhau trong việc tiếp cận các nguồn tư liệu sản
xuất như vốn, tài nguyên, thông tin, khoa học kỹ thuật.v.v. Phải có cơ hội
ngang nhau để phát huy năng lực cá nhân.
Thứ tư, CBXH không chỉ đơn thuần là cống hiến về mặt kết quả lao
động và hiệu quả kinh tế, mà phải tính đến việc cống hiến về tư liệu sản xuất
(vốn, tài năng trí tuệ…) và họ phải được hưởng một phần thành quả lao động
từ sự cống hiến ấy. Chỉ như vậy thì mới tạo được động lực phát triển kinh tế -
xã hội và mới là CBXH.
Thứ năm, CBXH phải tính đến sự cống hiến trong quá khứ và hiện tại
của các chiến sĩ cách mạng, lực lượng vũ trang, đó là những thương binh, những
liệt sĩ, người có công với cách mạng đã hy sinh xương máu sức lực của bản thân
mình trong các cuộc kháng chiến vì mục tiêu và lý tưởng cao cả cho toàn thể
dân tộc và họ phải được bù đắp lại một phần tương xứng. Đó mới là CBXH.
Thứ sáu, Kinh tế thị trường đã tạo động lực cho phát triển và TTKT,
đồng thời tạo nên sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội, về mặt tích cực nếu
giàu nghèo là do sự cống hiến về lao động, tài năng, trí tuệ. thì đó là CBXH,
nhưng giàu nghèo do làm ăn phi pháp, làm giàu không chính đáng thì đó lại là
bất công trong xã hội.
Đối lập với CBXH là bất công:
Bất công trong tự nhiên: như về thể chất, điều kiện, hoàn cảnh (ốm
yếu, tàn tật; đồng bằng với miền núi; nông thôn với thành thị; Dân tộc thiểu
22
số với dân tộc đa số; vùng sâu vùng xa, biên giới hải đảo với thành phố, các
trung tâm tỉnh lị v.v ).
Bất công phi lý phi pháp: là loại bất công mang tính tiêu cực không
chính đáng như tham ô, hối lộ, tham nhũng lợi dụng chức quyền, lợi dụng kẽ

hở trong quản lý để tìm kiếm lợi ích, làm giàu không chính đáng. Bất công
này cần phải nhanh chóng xóa bỏ thì mới có thể thực hiện được CBXH.
Nước ta trong điều kiện hiện nay, CBXH phải được xem xét một cách
toàn diện trong các lĩnh vực trong đó công bằng trong lĩnh vực kinh tế đóng
vai trò quyết định. Công bằng trong kinh tế trong điều kiện hiện nay trước hết
phải tạo điều kiện cho mọi thành viên trong xã hội phát triển khả năng, năng
lực của mình, đảm bảo môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các thành phần
kinh tế, các chủ thể kinh doanh, coi kinh tế của họ là một trong những bộ
phận cấu thành nền kinh tế quốc dân, chỉ như vậy thì mới phát huy được tính
năng động sáng tạo, phát huy được mọi nguồn lực và thúc đẩy LLSX phát triển.
LLSX kém phát triển thì việc thực hiện CBXH khó có thể thực hiện được.
CBXH phải cân đối giữa các vùng, các miền, giữa các dân tộc, các
tầng lớp trong quá trình phát triển. KTTT thường đi đôi với sự phân hóa giàu
nghèo vì vậy việc phát triển KTTT định hướng XHCN hiện nay, vấn đề thực
hiện CBXH là cả một quá trình lâu dài và phức tạp trong toàn bộ quá trình
phát triển, phải giải quyết dần dần, gắn CBXH ngay trong từng bước và trong
từng chính sách phát triển. Tuy nhiên, trong tình hình đó đòi hỏi phải có sự
lãnh đạo, quản lý và điều tiết của NTCQ, tránh tình trạng phân hóa quá mức,
làm cho mức độ giàu nghèo giảm xuống theo đà TTKT ngày càng cao, tạo
nên sự hợp lý giữa các vùng, các tầng lớp và các dân tộc.
CBXH phải đảm bảo tính thống nhất và hợp lý giữa quyền lợi và
nghĩa vụ, giữa cống hiến và hưởng thụ của các thành viên trong xã hội. Cống
hiến nhiều thì hưởng nhiều, cống hiến ít thì hưởng ít, cống hiến khác nhau thì
hưởng thụ khác nhau, tránh tình trạng cào bằng bình quân chủ nghĩa. CBXH
23
phải giải quyết hợp lý quan hệ giữa kinh tế và vấn đề xã hội, đảm bảo mọi tầng
lớp xã hội được hưởng các quyền lợi xã hội như giáo dục, chăm sóc sức khỏe,
đào tạo nghề nghiệp, trợ cấp lúc khó khăn hoạn nạn, đảm bảo các chính sách ưu
tiên, ưu đãi của xã hội đối với các gia đình chính sách như gia đình liệt sĩ, bà
mẹ Việt Nam anh hùng, thương bệnh binh, người có công với cách mạng,

đồng bào dân tộc thiểu số, người nghèo, vùng căn cứ cách mạng, người cơ nhỡ,
người ốm đau tàn tật không nơi nương tựa. CBXH đảm bảo cho mọi thành
viên trong xã hội không ngừng nâng cao mức sống và tự khẳng định mình.
CBXH đòi hỏi phải xóa bỏ những bất công trong xã hội, chống đặc
quyền, đặc lợi, đặc biệt là phải xóa bỏ những bất công phi phí, đi ngược với
lợi ích của sự phát triển của xã hội, vi phạm nguyên tắc CBXH.
CBXH là một trong những yêu cầu của sự phát triển xã hội vì CBXH
là cái đảm bảo cho mức hưởng thụ của người lao động tương xứng với cống
hiến của họ mà còn được nâng cao cùng với sự nâng cao chất lượng và hiệu
quả công việc của họ. Như vậy CBXH phù hợp với nhu cầu bên trong của
người lao động nên nó kích thích tính năng động, sáng tạo, thúc đẩy người lao
động đem hết khả năng, lòng nhiệt tình, sức lực, trí tuệ của mình để tạo ra
ngày càng nhiều của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. CBXH kích thích
các nhà kinh doanh bỏ vốn, chấp nhận rủi ro để đầu tư cho sản xuất, kích
thích các nhà quản lý phát huy hết năng lực và sáng kiến để hoàn thiện tổ
chức hợp lý hóa hoạt động sản xuất kinh doanh, đây là điều kiện quan trọng
để đảm bảo tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay, nhu cầu
đảm bảo CBXH càng cấp bách hơn trên các lĩnh vực: phân phối, chính sách
đối với các thành phần kinh tế, điều tiết thu nhập hợp lý, chống buôn lậu, độc
quyền, chống cạnh tranh không lành mạnh, khuyến khích làm giàu hợp pháp,
chống thu nhập không chính đáng, tạo điều kiện và cơ hội cho mọi người tiếp
cận được cơ hội và mọi người đều bình đẳng trong nền kinh tế. Giải quyết
24
được vấn đề này chính là thực hiện CBXH và là động lực mạnh mẽ để thúc
đẩy TTKT và ngược lại TTKT lại là động lực để thúc đẩy việc thực hiện
CBXH, TTKT phải gắn liền với CBXH ngay trong từng bước và ngay trong
từng chính sách phát triển.
CBXH có vai trò rất quan trọng, mất CBXH có thể kìm hãm tăng trưởng
và phát triển kinh tế. Một nền kinh tế - xã hội ổn định và lành mạnh thì phải loại

trừ được ngày càng nhiều những bất công trong xã hội. Chủ nghĩa mác-xít đã
vạch ra những bất công trong chủ nghĩa tư bản sẽ làm bùng nổ cuộc cách mạng
vô sản. Sự sụp đổ của các nước Đông Âu và Liên Xô cũ đã chứng minh hùng
hồn vai trò của CBXH trong việc đảm bảo ổn định chính trị - xã hội. Những đòi
hỏi về CBXH trong tương lai không chỉ đơn thuần là lợi ích kinh tế, mà còn là
CBXH về chính trị, xã hội trong các vấn đề về quyền con người và quyền
công dân, về vai trò vị trí của các giai cấp và các nhóm xã hội trong mỗi quốc
gia, quan hệ giữa công dân với Nhà nước về bình đẳng sắc tộc, chủng tộc.
CBXH còn là cơ sở, nguồn gốc của các chính sách xã hội,
chính sách xã hội là một bộ phận cấu thành nên chính sách chung
của toàn xã hội của một Đảng hay chính quyền nhà nước trong việc
giải quyết hay quản lý các vấn đề xã hội. Chính sách xã hội bao
trùm mọi mặt của đời sống con người, điều kiện lao động và sinh
hoạt, giáo dục và văn hóa, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp và
quan hệ xã hội [28, tr. 478].
Như vậy có nghĩa là các vấn đề chính sách xã hội cần được giải quyết
thỏa đáng theo hướng đảm bảo CBXH, nếu không lấy CBXH làm nguyên tắc,
mục tiêu cơ bản của mình thì chính sách xã hội sẽ trở thành lực cản của
TTKT, tạo ra những bất ổn định xã hội. Thành công của sự nghiệp 20 năm đổi
mới ở Việt Nam hiện nay phụ thuộc rất lớn vào tính năng động sáng tạo của
mỗi cá nhân, giai cấp, tầng lớp, nhưng điều đó chỉ có thể thực hiện được khi
có một chính sách xã hội hợp lý và công bằng.
25

×