Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Đánh giá hoạt động đầu tư của công ty cổ phần sữa Việt Nam Vinamilk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (296.7 KB, 50 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Có thể nói, xu thế toàn cầu hóa đang là xu thế phát triển chung và có
tác động rất lớn đối với hầu hết các quốc gia trên thế giới. Bên cạnh việc
mang lại những cơ hội và thách thức lớn nó còn góp phần thúc đẩy mạnh mẽ
cuộc chạy đua phát triển nguồn nhân lực tại các quốc gia. Nhất là ở các nước
đang phát triển, khi mà nền kinh tế thế giới đang dần chuyển sang nền kinh tế
tri thức thì phát triển nguồn nhân lực cần được các nước ưu tiên hàng đầu.Và
Việt Nam chúng ta cũng không nằm ngoài guồng quay chung đó. Đặc biệt kể
từ sau khi chúng ta gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới WTO thì các
tiến bộ khoa học công nghệ sẽ tràn vào nước ta ngày càng nhiều hơn với tốc
độ nhanh chóng hơn đòi hỏi nguồn nhân lực cần phải có trình độ chuyên môn
cao, đồng thời thị trường lao động của nước ta sẽ được mở rộng ra thế giới và
sẽ xâm nhập vào thị trường lao động ở các nước khác. Do đó để có thể phát
triển nền kinh tế trong nước và có khả năng cạnh tranh với thị trường lao
động trên thế giới chúng ta cần có sự đầu tư phát triển hợp lí nguồn nhân lực
trong nước.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những
thành tựu to lớn do quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đem lại.Việt
Nam từ một nước nông nghiệp lạc hậu đang có những bước chuyển mạnh mẽ
để theo kịp sự xu thế phát triển chung của toàn thế giới hiện nay. Điều đó
được thể hiện ở tỷ lệ tăng trưởng của Việt Nam trong những năm gần đây khá
cao và rất ổn định, đời sống nhân dân được cải thiên rõ rệt, tỷ lệ người nghèo
giảm xuống rõ rệt… Để đạt được những thành tựu to lớn này có sự đóng góp
không nhỏ của hệ thống doanh nghiệp Việt Nam, lực lượng chủ chốt của quá
trình CNH – HĐH đất nước.
Giai đoạn năm 2001 – 2005 đánh dấu sự thay đổi khá mạnh mẽ của các
doanh nghiệp Việt Nam. Với những quyết định đầu tư hợp lý cộng với sự hỗ
trợ rất tích cực của Nhà nước, doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn này đã
1
có sự thay đổi căn bản cả về chất và lượng. Bên cạnh đó vẫn còn những điểm
yếu cố hữu chưa thể khắc phục được do những hậu quả của quá khứ để lại, do


sự thiếu hiểu biết hay hiểu biết còn lờ mờ. Chính vì vậy việc nghiên cứu và hỗ
trợ các doanh nghiệp để giúp họ có sự định hướng đúng đắn trong hoạt động
đầu tư, đặc biệt là đầu tư phát triển giữ vai trò sống còn với bản thân các
doanh nghiệp nói riêng, nền kinh tế nước nhà nói chung. Do đó, đề tài nghiên
cứu của em là: “Đánh giá hoạt động đầu tư của công ty cổ phần sữa Việt
Nam Vinamilk”.
Em xin chân thành cảm ơn Thạc sỹ Nguyễn Thu Hà đã tận tình hướng
dẫn em hoàn thành đề án này. Trong quá trình thực hiện bài viết này, em
không tránh khỏi những thiếu suất, mong cô đóng góp và bổ sung.
2
CHƯƠNG I.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1. Khái niệm:
1.1. Khái niệm đầu tư phát triển
Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chi dùng vốn
trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm tăng thêm hoặc tạo ra tài sản
vật chất và trí tuệ, gia tăng năng lực sản xuất, tạo việc làm và vì môi trường
phát triển. Xét về bản chất chính là đầu tư tài sản vật chất và sức lao động
trong đó người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm tăng thêm
hoặc tạo ra tài sản mới cho mình đồng thời cho cả nền kinh tế, từ đó làm tăng
tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động sản xuất khác, là điều kiện chủ
yếu tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Đó chính
là việc bỏ tiền ra để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và kết cấu hạ tầng, mua sắm
trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực,
thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản
này nhằm duy trì hoặc tăng thêm tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn
tại, bổ sung tài sản và tăng thêm tiềm lực của mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế -
xã hội của đất nước.
1.2. Khái niệm doanh nghiệp
Căn cứ vào hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm

1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25
tháng 12 năm 2001 của quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10.
Luật doanh nghiệp quy định: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên
riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo
quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Hoạt động kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả
các công đoạn của quá trình đầu tư , từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc
cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
3
2. Đặc điểm, vai trò, nội dung của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp
2.1. Đặc điểm đầu tư phát triển trong doanh nghiệp
Hoạt động đầu tư phát triển có những đặc điểm chủ yếu sau :
+ Quy mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư
thường rất lớn. Vốn đầu tư nằm khê đọng lâu trong suốt quá trình thực hiện
đầu tư. Quy mô vốn đầu tư lớn đòi hỏi phải có giải pháp tạo vốn và huy động
vốn hợp lý, xây dựng các chính sách, quy hoạch, kế hoạch đầu tư đúng đắn,
quản lý chặt chẽ tổng vốn đầu tư, bố trí vốn theo tiến độ đầu tư, thực hiện đầu
tư trọng tâm trọng điểm.
Lao động cần sử dụng cho các dự án rất lớn, đặc biệt đối với các dự án
trọng điểm quốc gia. Do đó, công tác tuyển dụng, đào tạo, sử dụng và đãi ngộ
cần tuân thủ một kế hoạch định trước, sao cho đáp ứng tốt nhất nhu cầu từng
loại nhân lực theo tiến độ đầu tư, đồng thời, hạn chế đến mức thấp nhất những
ảnh hưởng tiêu cực do vấn đề “hậu dự án” tạo ra như việc bố trí lao động, giải
quyết lao động dôi dư…
+ Thời kỳ đầu tư kéo dài. Thời kỳ đầu tư tính từ khi khởi công thực
hiện dự án đến khi dự án hoàn thành và đưa vào hoạt động. Nhiều công trình
đầu tư phát triển có thời gian đầu tư kéo dài hàng chục năm. Do vốn nằm khê
đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư nên để nâng cao hiệu quả vốn đầu
tư, cần tiến hành phân kỳ đầu tư, bố trí vốn và các nguồn lực tập trung hoàn
thành dứt điểm từng hạng mục công trình, quản lý chặt chẽ tiến độ kế hoạch

đầu tư, khắc phục tình trạng thiếu vốn, nợ đọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
+ Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài. Thời gian này tính từ
khi dưa công trình vào hoạt động cho đến khi hết thời hạn hoạt động và đào
thải công trình. Nhiều thành quả đầu tư phát huy kết quả lâu dai, có thể tồn tại
vĩnh viễn như các Kim tự Tháp Ai Cập, Nhà thờ La Mã ở Rôm, Vạn Lý
Trường Thành ở Trung Quốc, ĂngCoVát ở Cam-pu-chia… Trong suốt quá
trình vận hành, các thành quả đầu tư chịu sự tác động hai mặt, cả tích cực và
tiêu cực của nhiều yếu tố tự nhiên, chính trị, kinh tế, xã hội…
4
+ Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển mà là các công trình
xây dựng thường phát huy tác dụng ở ngay tai nơi nó được tạo dựng nên, do
đó, quá trình thực hiện đầu tư cũng như thời kỳ vận hành các kết quả đầu tư
chịu ảnh hưởng lớn của các nhân tố về tự nhiên, kinh tế xã hội vùng.
+ Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao. Do quy mô vốn đầu tư lớn, thời kỳ
đầu tư kéo dài và thời gian vận hành các kết quả đầu tư cũng kéo dài… nên
mức độ rủi ro của hoạt động đầu tư phát triển thường cao. Rủi ro đầu tư do
nhiều nguyên nhân, trong đo, có nguyên nhân chủ quan từ phía các nhà đầu tư
như quản lý kém, chất lượng sản phẩm không đạt yêu câu… có nguyên nhân
khách quan như giá nguyên liệu tăng, giá bán sản phẩm giảm, công suất sản
xuất không đạt cộng suất thiết kế
2.2. Vai trò và mục tiêu đầu tư phát triển trong doanh nghiệp
2.2.1. Vai trò đầu tư phát triển trong doanh nghiệp
Qua phân tích nghiên cứu các nội dung của đầu tư trong doanh nghiệp
chúng ta thấy rằng đầu tư quyết định sự ra đời , tồn tại và phát triển của mỗi
doanh nghiệp. Để tạo dựng cơ sở vật chất cho sự ra đời của bất cứ doanh
nghiệp nào cũng phải xây dựng văn phòng , nhà xưởng , mua sắm lắp đặt máy
móc thiết bị ..trong quá trình hoạt động cơ sở vật chất này bị hư hỏng hao
mòn , doanh nghiệp phải bỏ chi phí để sửa chữa. Đáp ứng nhu cầu của thị
trường và thích ứng với quá trình đổi mới phát triển của khoa học kĩ thuật ,các
doanh nghiệp phải đổi mới cơ sở vật chất kĩ thuật , quy trình công nghệ.Tất

cả các hoạt động đó đều là hoạt động đầu tư.
Quá trình đầu tư trong doanh nghiệp có những vai trò quan trọng đến
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp qua cá mặt sau :
Thứ nhất: Tạo điều kiện nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp , xã hội liên tục phát triển, nền kinh tế toàn cầu nói chung, nền kinh tế
mỗi quốc gia nói riêng cũng vì thế mà không ngừng vận động phát triển.
5
Thị trường ngày càng trở nên sôi động, nhu cầu của con người phát
triển đòi hỏi tiêu dùng nhiều hơn, hàng hoá phải có chất lượng cao, mẫu mã
đẹp đa dạng và phong phú. Vì thế mà các nhà cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho
thị trường muốn tồn tại được thì phải đáp ứng nhu cầu đó của dân cư. Vì tất lẽ
đó mà đòi hỏi nhà sản xuất phải tiến hành đầu tư phát triển. Hoạt động đầu tư
của doanh nghiệp có thể được tiến hành theo những chiến lược khác nhau để
giành được thế cạnh tranh trên thị trường. Do đó đầu tư tạo điều kiện nâng
cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Thứ hai: Đầu tư tạo điều kiện nâng cao chất lượng sản phẩm
Như chúng ta đã biết, đầu tư trong doanh nghiệp bao gồm: đầu tư vào
lao động, đầu tư vào tài sản cố định, đầu tư vào hàng dự trữ… Tất cả việc đầu
tư này nhằm mục đích là tạo ra một sản phẩm với chất lượng cao, mẫu mã đẹp
để đáp ứng nhu cầu của con người trong xã hội hiện đại. Điều này đã được
chứng minh, trong nhưng năm qua các doanh nghiệp muốn tồn tại trong nền
kinh tế thị trường thì căn bản nhất là phải nâng cao chất lượng sản phẩm hạ
giá thành...
Thứ ba là: Đầu tư tạo điều kiện giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận
Không có doanh nghiệp nào tiến hành sản xuất kinh doanh lại không
đặt mục tiêu về lợi nhuận. Không chỉ là mong muốn có lợi nhuận mà họ còn
mong muốn tiền của họ không ngừng tăng lên tức là quy mô lợi nhuận ngày
càng được mở rộng.
Hoạt động đầu tư của mỗi doanh nghiệp chính là hoạt động nhằm thực
hiện chiến lược sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó với mục tiêu đạt

được lợi nhuận mà doanh nghiệp đề ra. Khi lợi nhuận càng cao thì lợi ích
càng lớn và ngược lại .Lợi nhuận được quy mô bởi doanh thu và chi phí theo
công thức:
Lợi nhuận = Doanh thu – Chi phí
6
Doanh thu có lớn hay không lại phụ thuộc vào quá trình đầu tư của
doanh nghiệp. Nếu đầu tư mang lại hiệu quả cao thì doanh thu sẽ nhiều .Như
vậy đầu tư đã tạo điều kiện giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận.
Thứ tư là: Đầu tư góp phần đổi mới công nghệ, trình độ khoa học kĩ
thuật trong sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp luôn luôn chú trọng đến
việc đổi mới nhằm nâng cao sức cạnh tranh của mình. Và một trong các công
việc đầu tư của doanh nghiệp là đầu tư vào tài sản cố định. Điều này có nghĩa
là doanh nghiệp tiến hành mua sắm máy móc thiết bị, đổi mới công nghệ
nhằm nâng cao năng suất, đổi mới sản phẩm cả về chủng loại mẫu mã và chất
lượng…
Như vậy có thể thấy dưới sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng
khoa học công nghệ, mỗi doanh nghiệp đều nhận thấy vai trò to lớn của đầu
tư cho công nghệ cũng như hiện đại hoá máy móc thiết bị trong quá trình sản
xuất. Hay nói cách khác đầu tư góp phần đổi mới công nghệ trình độ khoa học
kĩ thuật.
Thứ năm: Đầu tư góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Để hoạt động được và hoạt động hiệu quả, bất cứ một doanh nghiệp
nào cũng cần có đội ngũ lao động có trình độ, kĩ năng. Trình độ kĩ năng của
người lao động ảnh hưởng tới quá trình sản xuất kinh doanh và chất lượng sản
phẩm. Cùng với điều kiện sản xuất như nhau nhưng lao động có trình độ sẽ
tạo ra sản phẩm có chất lượng tốt hơn. Đầu tư vào lao động bao gồm những
hoạt động như đầu tư vào đào tạo cán bộ quản lí, tay nghề công nhân các chi
phí để tái sản xuất sức lao động.
Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của doanh nghiệp

Đầu tư trong các cơ sở sản xuất kinh doanh có thể hiểu đó là sự
hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để duy trì và tăng cường, mở rộng năng lực
sản xuất kinh doanh hiện có của cơ sở. Như vậy đầu tư có vai trò rất quan
trọng trong doanh nghiệp. Nó quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của
7
doanh nghiệp. Một doanh nghiệp muốn thành lập trước hết phải xây dựng cơ
sở vật chất - kỹ thuật như nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua săm các máy móc
thiết bị, thuê nhân công... Sau đó để duy trì hoạt động bình thường của mình,
các doanh nghiệp phải định kỳ tiến hành sửa chữa lớn hay thay mới các cơ sở
vật chất đã hư hỏng, hao mòn hoặc đổi mới để thích ứng với sự phát triển của
khoa học - kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Có như vậy, doanh
nghiệp mới tồn tại và phát triển được. Ngoài ra, đầu tư còn là cách thức cơ
bản giúp doanh nghiệp thực hiện được các mục tiêu của mình như tăng lợi
nhuận, nâng cao vị thế, uy tín...
Đối với các doanh nghiệp vô vị lợi (hoạt động không để thu lợi nhuận
cho bản thân mình) để tồn tại, duy trì sự hoạt động, ngoài việc tiến hành sửa
chữa lớn định kỳ các cơ sở vật chất – kỹ thuật còn phải thực hiện các chi phí
thường xuyên. Tất cả những hoạt động và chi phí này đều là những hoạt động
đầu tư.
Thực tế đã chỉ rõ, rất nhiều doanh nghiệp do không có phương án đầu
tư kinh doanh đúng đắn hoặc không có khả năng huy động vốn đầu tư đều
thất bại trong kinh doanh dẫn tới phá sản. Đó là quy luật không thể phủ nhận
của nền kinh tế thị trường.
2.2.2 Mục tiêu đầu tư phát triển trong doanh nghiệp
Harold Geneen một nhà quản lý doanh nghiệp hang đầu của nước Mỹ
có nói: “ Toàn bộ bài giảng quản trị kinh doanh tóm lại trong ba câu: Người ta
đọc một quyển sách từ đầu đến cuối. Người ta lãnh đạo doanh nghiệp theo
chiều ngược lại. Nghĩa là ta bắt đầu từ đoạn cuối và sau đố lam mọi việc có
thể làm được để đi đến kết quả”.
Đây là một phương pháp khoa học đã được Harold Geneen diễn đạt

cách điệu để nói với chúng ta rằng: Trước hết hãy xác định mục tiêu rồi sau
đó thực hiện mọi giải pháp có thể có để đạt được mục tiêu. Trong phân tích
dự án +đầu tư của doanh nghiệp, mục tiêu là cơ sở để thiết lập tiêu chuẩn hiệu
quả, cái “chuẩn” để ra quyết định lựa chọn phương án và dự án.
8
Nhìn chung theo giác độ quốc gia đầu tư phải nhằm hai mục tiêu là:
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thu nhập quốc dân (mục tiêu phát triển ); cải
thiện phân phối thu nhập quốc dân ( mục tiêu công bằng xã hội ).mục tiêu
đầu tư của doanh nghiệp xuất phát từ nhu cầu thị trường, từ khả năng chủ
quan và ý đồ chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, từ đường lối chung
phát triển đất nước và các cơ sở pháp luật. dự án đầu tư của các doanh nghiệp
có các mục tiêu sau đây:
* Mục tiêu cực tiểu chi phí và cực đại lợi nhuận
Có thể mục tiêu cực đại lợi nhuận thường được coi là mục tiêu quan
trọng và phổ biến nhất
Tuy nhiên khi sử dụng mục tiêu này phải bảo đảm tính chắc chắn của
chỉ tiêu lợi nhuận thu được của dự án đầu tư qua các năm. Yêu cầu này trong
thực tế gặp nhiều khó khăn khi thực hiện, vì tình hình của thị trường luôn
luôn biến động và việc dự báo chính xác về lợi nhuận cho hang chục năm sau
là rất khó khăn
* Mục tiêu cực đại khối lượng hang hoá bán ra trên thị trường
Mục tiêu này thường được áp dụng khi các yếu tố tính toán mục tiêu
theo lợi nhuận không được đảm bảo chắc chắn. Tuy nhiên mục tiêu này cũng
phải có mục đích cuối cùng là thu dược lợi nhuận tối đa theo con đường cực
đại khối lượng hang hoá bán ra trên thị trường, vì mức lợi nhuận tính cho một
sản phẩm có thể thấp nhưng do khối lượng sản phẩm bán ra trên thị trường
lớn, nên tổng lợi nhuận thu được cũng lớn. vấn đề còn lại ở đây là doanh
nghiệp đảm bảo mức yêu cầu tối thiểu.
* Cực đại giá trị tài sản của của cổ đông tính theo giá trên thị trường
Trong kinh doanh có hai vấn đề cơ bản được các nhà kinh doanh luôn

luôn quan tâm đó là lợi nhuận dài hạn và sự ổn định trong kinh doanh, ở đây
sự ổn định luôn luôn gắn liền với mức độ rủi ro. Hai mục tiêu này thường
mâu thuẫn nhau, vì muốn thu lợi nhuận lớn thì phải chấp nhận mức độ rủi ro
cao, tức là mức độ ổn định càng thấp.
9
Để giải quyết mâu thuẫn này, các nhà kinh doanh đã áp dụng mục tiêu
kinh doanh “Cực đại giá trị tài sản của các cổ đông tính theo giá trên thị
trường” hay là cực đại giá trị trên thị trường của các cổ phiếu hiện có, vì như
ta đã biết giá trị cổ phiếu của một công ty nào đó trên thị trường phản ánh
không những mức độ lợi nhuận mà còn cả mức độ rủi ro hay ổn định của các
hoạt động kinh doanh của công ty. Vì vậy, thông qua giá trị cổ phiếu trên thị
trường có thể phối hợp hai mục tiêu lợi nhuận và rủi ro thành một đại lượng
để phân tích phương án kinh doanh, trong đó có dự án đầu tư.
* Duy trì sự tồn tại và an toàn của doanh nghiệp
Bên cạnh mục tiêu lợi nhuận trong thực tế còn tồn tại một mục tiêu thứ
hai không kém phần quan trọng, đó là duy trì sự tồn tại lâu dài và an toàn
trong doanh nghiệp hay dự án đầu tư. Trong trường hợp này các nhà kinh
doanh chủ trương đạt dược mức độ thoả mãn nào đó của doanh nghiệp về lợi
nhuận, đảm bảo sự lâu dài và an toàn cho doanh nghiệp còn hơn là chạy theo
lợi nhuận cực đại nhưng có nhiều nguy cơ rủi ro và phá sản. quan điểm này có
thể vận dụng để phân tích và quyết định một dự án đầu tư.
* Đầu tư để nâng cao chất lượng sản phẩm:
Là nâng cao uy tín đối với khách hang, tăng khả năng cạnh tranh để
chiếm lĩnh thị trường nhiều hơn, nhất là trong xu thế hội hập kinh tế khu vực
và thế giới
* Đầu tư theo chiều sâu để đổi mới công nghệ: đón đầu nhu cầu mới sẽ
xuất hiện trên thị trường, tăng thêm độc quyền doanh nghiệp
* Đầu tư để liên doanh với nước ngoài, tranh thủ công nghệ mới, mở
rộng thị trường xuất khẩu
* Đầu tư để cải thiện điều kiện lao động của doanh nghiệp, bảo đảm

yêu cầu bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật…
Trong một giai đoạn nhất định, một doanh nghiệp có thể có một hay
nhiều mục tiêu đồng thời. các mục tiêu của doanh nghiệp lại có thể thay đổi
theo thời gian.
10
3. Nội dung của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp
3.1. Đầu tư vào tài sản cố định, đổi mới máy móc thiết bị công nghệ ở
doanh nghiệp
Để đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng đòi hỏi ngày càng cao cũng như
đối phó với các đối thủ cạnh tranh tạo chỗ đứng vững chắc trên thị trường thì
doanh nghiệp không còn con đường nào khác là phải nâng cao chất lượng sản
phẩm của mình hạ giá thành để nâng cao khả năng cạnh tranh đồng thời tăng
năng suất lao động , cải tiến công nghệ và phát triển các loại hàng hoá dịch vụ
mới để thoả mãn những đòi hỏi của thị trường, vấn đề này đòi hỏi các doanh
nghiệp phải đầu tư vào đổi mới máy móc thiết bị và công nghệ.
Việc đầu tư đổi mới máy móc thiết bị và công nghệ ở các doanh nghiệp
xem xét các vấn đề sau:
Thứ nhất là :vòng đời của máy móc thiết bị và công nghệ.
Chu kì phát triển của máy móc thiết bị và công nghệ như sau: xuất
hiện, tăng trưởng, trưởng thành, bão hoà, chu kì đó gọi là vòng đời của máy
móc thiết bị. Đổi mới máy móc thiết bị, công nghệ cũng phải căn cứ vào vòng
đời này để quyết định thời điểm đầu tư thích hợp nhằm đảm bảo hiệu quả của
đồng vốn.
Thứ hai là: phân tích môi trường kinh doanh.
- Phần lớn máy móc thiết bị công nghệ chủ yếu phải nhập từ nước
ngoài hoặc qua chuyển công nghệ nên cần phải phân tích môi trường quốc tế
như các vấn đề pháp luật, quyền sở hữu bằng phát minh sáng chế, chuyên gia
công nghệ … Bên cạnh đó cần phải xem xét phân tích môi trường văn hoá
như phong tục tập quán, định chế xã hội của nước có công nghệ xuất khẩu.
Các vấn đề hệ thống chính trị, các chính sách như chính sách thương mại,

quan hệ kinh tế đối ngoại cũng cần xem xét một cách kĩ lưỡng.
- Phân tích môi trường kinh tế quốc dân cần chủ động đối với các yếu
tố kinh tế, chính trị xã hội, điều kiện tự nhiên, nắm bắt được thực trạng nền
kinh tế đang ở giai đoạn nào, tỷ lệ lạm phát là bao nhiêu…
11
- Phân tích môi trường ngành và nội bộ ngành
Tập trung và tìm hiểu xem có bao nhiêu đối thủ cạnh tranh tiềm lực và
khả năng của họ như thế nào, sản phẩm của họ đóng vai trò như thế nào đối
với người tiêu dùng, họ đang sử dụng máy móc thiết bị công nghệ nào.
Thứ ba là: phân tích thực trạng nội bộ doanh nghiệp
- Phân tích nhóm nhân tố liên quan đến nguồn nhân lực bao gồm :
+ Trình độ nghề nghiệp của công nhân sản xuất trực tiếp .
+ Trình độ của cán bộ lãnh dạo , nhất là năng lực lãnh đạo kĩ thuật.
- Phân tích vị thế của doanh nghiệp trên thị trường:
+ Nguồn tài chính là vấn đề cần chú ý lựa chọn mục tiêu vừa phải và c ó
hướng đi phù hợp.
+ Cần xem xét quy mô vốn có thể huy động và đặc điểm kinh tế-kĩ thuật của
mỗi ngành .
- Xem xét các điều kiện về cơ sở hạ tầng hiện có hoặc có các biện pháp
bổ xung thích hợp với máy móc thiếp bị và công nghệ dự kiến sẽ lựa chọn.
Thứ tư là: phân tích các yếu tố liên quan đến máy móc thiết bị và công
nghệ
- Xem xét xu hướng lâu dài của máy móc thiết bị và công nghệ để đảm
bảo tránh sự lạc hậu hoặc khó khăn gây trở ngại cho việc sử dụng máy móc
thiết bị trong khi chưa thu hồi đủ vốn.
- Lựa chọn máy móc thiết bị mà các dụng cụ thay thế sẵn có trong nước
hoặc là được đảm bảo chắc chắn có phụ tàng thay thế.
- Máy móc công nghệ phải lựa chọn loại có nhiều nguồn vốn cung cấp
để tạo ra sự cạnh tranh giữa các nhà cung cấp để mua được công nghệ với giá
phải chăng, tạo thế chủ động cho hoạt động sau này.

- Xem xét toàn diện khía cạnh kinh tế kĩ thuật của máy móc thiết bị và
công nghệ để lựa chọn công nghệ thích hợp, tối ưu với điều kiện của doanh
nghiệp.
12
Thứ năm là : phân tích các chỉ tiêu thể hiện hiệu quả đầu tư đổi mới
máy móc thiết bị và công nghệ.
- Giảm bớt cường độ lao động, các công việc nặng nhọc, thay đổi cơ
cấu lao động trong doanh nghiệp theo hướng tăng tỷ trọng lao động có chuyên
môn kỹ thuật, giảm tỷ trọng lao động tay nghề thấp, không có trình độ nghiệp
vụ.
- Tác động đến cơ cấu tổ chức cũng như tổ chức sản xuất của doanh
nghiệp theo hướng tinh gọn, năng động và hiệu quả.
- Cải thiện môi trường lao động theo hướng giảm dần các yếu tố và khu
vực độc hại, phát triển công nghệ sạch.
3.2. Đầu tư bổ xung hàng dự trữ
Hàng dự trữ là hàng hoá mà doanh nghiệp giữ lại trong kho bao gồm cả
vật tư nguyên liệu , bán thanh phẩm và thanh phẩm.
* Đặc điểm của đầu tư hàng dự trữ
- Dự trữ chuyển hoá thành các dạng khác nhau trong quá trình sản xuất
- Quy mô đầu tư vào dự trữ phụ thuộc vào nhiều nhân tố như dự đoán
cầu trong tương lai, phụ thuộc vào quy luật tiêu dùng nhu cầu riêng biệt của
mỗi mặt hàng và quy luật tiêu dùng ở thời kì quá khứ sẽ được phản ánh tương
tự ở kì dự báo.
- Phụ thuộc vào khách hàng , sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp nếu
doanh nghiệp có tham vọng chiếm lĩnh thị trường .
- Phụ thuộc vào mức độ chậm trễ của khâu phân phối lưu thông thể
hiện ở một bộ phận dự trữ .
- Chi phí dự trữ
* Vai trò của dự trữ
Dụ trữ luôn là vấn đề sống còn là một đòi hỏi tất yếu khách quan , nó

đảm bảo tính liên tục và hiệu quả của sản xuất và tiêu dùng .
Trong mô hình dự trữ JIT ( Just in time ) chỉ ra: Nếu dự trữ thật nhiều
dẫn đến ứng đọng vốn, hàng hoá hỏng, tăng chi phí bảo quản không hiệu quả.
13
Nếu dự trữ ít quá không đủ nguyên vật liệu để sản xuất, không đủ hàng hoá để
bán và dẫn đến gián đoạn sản xuất kinh doanh.
Cần phải phân biệt giữa dự trữ và tinh trạng dư thừa ứng đọng sản
phẩm trong các doanh nghiệp.
14
3.3. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực
Bất cứ một loại hình doanh nghiệp nào đều phải quan tâm đến lao động
trong quá trình đầu tư của mình. Việc quan tâm đến lao động trong doanh
nghiệp không chỉ về mặt số lượng mà cần quan tâm cả mặt chất lượng. Số
lượng lao động ảnh hưởng đến quy mô sản xuất của doanh nghiệp, còn chất
lượng lao động ảnh hưởng đến cường độ lao động, năng suất lao động. Việc
tăng chất lượng lao động chỉ băng cách đầu tư cho y tế, giáo dục đào tạo,
dạy nghề... Từ đó nâng cao thể lực, trình độ, tay nghề của người lao động.
Trong điều kiện hiện nay nhiều doanh nghiệp coi việc đầu tư phát triển
nguồn nhân lực là chiến lược canh tranh. Nguồn nhân lực trong doanh nghiệp
bao gồm: Cán bộ quản lí, công nhân sản xuất và cán bộ nghiên cứu khoa học.
Đối với từng loại phải có chính sách đào tạo riêng nhưng đều phải liên tục
được tu dưỡng rèn luyện nghiên cứu học tập… để nâng cao kinh nghiệm,
trình độ tay nghề.
15
Đầu tư phát triển nguồn nhân lực trong doanh nghiệp bắt đầu từ khâu
tuyển người lao động. Đây là cơ sở để có được lực lượng lao động tốt, bởi vậy
khâu tuyển người đòi hỏi cần phải rất khắt khe cẩn thận nhất. Tuyển người
hiện nay đòi hỏi phải đạt được các yêu cầu như: Trình độ văn hoá, ngoại ngữ,
trình độ vi tính… Tiếp đến là quá trình nâng cao khả năng lao động của người
lao động thường xuyên. Trong điều kiện đổi mới hiện nay rất nhiều công nghệ

hiện đại đã và đang được ứng dụng trong các loại hình doanh nghiệp nước ta.
Vì vậy việc đào tạo lao động là yêu cầu vô cùng quan trọng. Cuối cùng là việc
khen thưởng tổ chức các hoạt động về tinh thần giúp người lao động hăng say
trong công việc từ đó nâng cao năng suất lao động. Các hình thức khen
thưởng đang được thực hiện ở các doanh nghiệp các cá nhân thành viên có
thanh tích tốt đều được thưởng xứng đáng góp phần nâng cao trong xí nghiệp,
công ty, các cuộc thi các cá nhân… Nhờ có chính sách đào tạo lao động nhiều
doanh nghiệp đã đạt được những thanh công to lớn, góp phần không nhỏ
trong chiến lược sản xuất kinh doanh cũng như chiến lược cạnh tranh của
mình.
3.4. Đầu tư vào nghiên cứu và triển khai
Đầu tư nghiên cứu khoa học công nghệ là lĩnh vực đầu tư không thể
thiếu được của các doanh nghiệp kinh doanh nói chung. Nghiên cứu khoa học
và công nghệ giúp nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong
sản xuất kinh doanh, đảm bảo sức mạnh và vị trí canh tranh của doanh nghiệp
trên thị trường hiện tại cũng như tương lai.
Mục đích của các chương trình và dự án R&D không chỉ dừng lại ở
dạng nghiên cứu ứng dụng, nghiên cứu nhằm tăng chất lượng sản phẩm, tạo
nên sản phẩm có đặc điểm nổi bật hơn mà còn tập trung nghiên cứu tìm kiếm,
phát triển kỹ thuật và công nghệ mới nhất cho doanh nghiệp. Có thể nói R&D
là phần không thể thiếu được trong các hoạt động của doanh nghiệp. Đầu tư
vào R&D là một trong những yếu tố giúp các công ty giảm được các chi phí
liên quan đến sản xuất kinh doanh.
16
* Các yếu tố ảnh hưởng đến nghiên cứu và triển khai của doanh nghiệp
- Khả năng tài chính của doanh nghiệp: khả năng tài chính của doanh
nghiệp sx cho phép xác định được khả năng và quy mô đầu tư nghiên cứu và
triển khai của doanh nghiệp.
- Quy mô sản xuất kinh doanh cua doanh nghiệp: quy mô sản xuất kinh
doanh càng lớn thì khả năng quy mô đầu tư nghiên cứu triển khai càng lớn.

- Cơ hội về đổi mới kĩ thuật và các cơ hội trong ngành: những ngành có
nhiều cơ hội đổi mới công nghệ và kĩ thuật đòi hỏi các doanh nghiệp trong
ngành đó phải tích cực đầu tư cho nghiên cứu nắm bắt kịp thời các cơ hội về
kĩ thuật và công nghệ của ngành.
Khi đánh giá hiệu quả đầu tư nghiên cứu triển khai các doanh nghiệp
thường dựa trên một số quan điểm sau:
Thứ nhất là, hiệu quả đầu tư nghiên cứu triển khai phải được xem xét
đánh giá toàn diện về các mặt tài chính kinh tế xã hội, môi trường.
Thứ hai là, hiệu quả đầu tư nghiên cứu và triển khai vừa có thể lượng
hoá được vừa có thể không lượng hoá được. Do đó kết quả của đầu tư cho
nghiên cứu và triển khai có thể được thể hiện dưới dạng hiện hoặc dưới dạng
ẩn tuỳ theo dự án, chương trình nghiên cứu.
Tóm lại có thể nói đầu tư cho nghiên cứu triển khai đóng vai trò quan
trọng trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Các chương trình và
dự án R&D gắn chặt với chiến lược kinh doanh giúp các doanh nghiệp đạt
được các mục tiêu ngắn hạn cũng như dài hạn về kinh tế cũng như các ảnh
hưởng khác.
3.5. Đầu tư vào hoạt động nghiên cứu thị trường
Thứ nhất là : đầu tư cho việc nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp
trước hết là nghiên cứu khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
17
Có thể nói cạnh tranh là một đặc tính cơ bản nhất của thị trường của
doanh nghiệp , sẽ không có thị trường nếu không có cạnh tranh , trong môi
trường cạnh tranh hoàn hảo mục tiêu của doanh nghiệp , người tiêu dùng là
tối đa hoá lợi nhuận và sự tiện ích của chính mình , khả năng cạnh tranh là
nguồn năng lượng thiết yếu để doanh nghiệp tiếp tục vững bước trên con
đường hội nhập kinh tế.
Thực tế cho thấy doanh nghiệp kinh doanh thành công thực hiện các kĩ
năng cạnh tranh rất thuần thục , nó tạo thành phương pháp cạnh tranh đặc
trưng doanh nghiệp

Các kĩ năng này tập trung vào :
- Tạo lập và phát triển uy tín doanh nghiệp
- Coi trọng chiến lược mở rông thị trương
- Xây dựng và thực hiện đổi mới sản phẩm , mẫu mã
- Luôn tìm cách giảm chi phí sản xuất
- Sách lược tiêu thụ sản phẩm khôn khéo
Thứ hai là: khi nghiên cứu thị trường trong đầu tư tài sản vô hình của
doanh nghiệp ta cần phải nghiên cứu hành vi của người tiêu dùng.
Hành vi của người tiêu dùng thực hiện trong việc tìm kiếm,mua ,sử
dụng đánh giá và vứt bỏ các sản phẩm và dịch vụ mà họ dự định sẽ thoả mãn
các nhu cầu của họ. Nghiên cứu hành vi của người tiêu dùng là nghiên cứu
các cá nhân đưa ra quyết định thế nào đối với việc chi tiêu các nguồn tài
nguyên có thẻ sử dụng của họ trong các hạng mục liên quan đến sự tiêu dùng.
Qua việc nghiên cứu hành vi người tiêu dùng sẽ cung cấp cho các nhà sản
xuất những thông tin quan trọng để họ lên kế hoạch sản xuất thiết kế cải tiến
và xây dựng được các chiến lược khuyến mại.
18
Mục đích của nghiên cứu người tiêu dùng là phục vụ cho công tác quản
lí kinh doanh sản xuất và dịch vụ. Các nhà quả lí muốn biết nguyên nhân hành
vi của người tiêu dùng, họ muốn biết con người đưa ra quyết định mua hàng
sử dụng, cất kho và vứt bỏ các sản phẩm như thế nào từ đó xây dựng chiến
lược Maketing lập ra những mảng thị trường mới cho một sản phẩm riêng hay
một loại sản phẩm. Nghiên cứu hành vi người tiêu dùng được tiến hành bởi
các tổ chức Maketing riêng biệt.
Thấy được tầm quan trọng và cần thiết của việc nghiên cứu hành vi
người tiêu dùng, các doanh nghiệp đang đầu tư một cách thích đáng cho việc
nghiên cứu. Việc nghiên cứu thành công giúp doanh nghiệp có chiến lược sản
xuất kinh doanh đúng hướng, tiêu thụ nhanh sản phẩm quay vòng vốn nhanh
thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
3.6. Đầu tư vào bí quyết công nghệ

Ngoài máy móc thiết bị thì bí quyết công nghệ là một phần quan trọng
của công nghệ. Thật sai lầm và không đầy đủ khi đầu tư đổi mới công nghệ
mà không chú ý đến bí quyết công nghệ. Các doanh nghiệp hiện nay thường
chỉ nghĩ đến mua máy móc thiết bị mà quên mất đi phần bí quyết công nghệ.
Bí quyết công nghệ chứa đựng trong tất cả các khâu, các công đoạn của
quá trình sản xuất như tổ chức hợp lí hoá, điều hành sản xuất, hệ thống tài
chính kế toán, khách hàng, thị trường tiêu thụ sản phẩm, đào tạo và thông tin,
lập kế hoạch cải tiến công nghệ, xử lí môi trường...
Chính vì thế bí quyết công nghệ đóng vai trò rất quan trọng nó là một
nhân tố mà các doanh nghiệp cần quan tâm xem xét và tiến hành đầu tư.
4. Các hình thức đầu tư và nguyên tắc quản lý đầu tư ở các doanh nghiệp
4.1. Các hình thức đầu tư
Việc sắp xếp các hình thức đầu tư không có tính chất ổn định, mặc dù
vạy có thể phân chia hình thức đầu tư như sau:
+ Đầu tư gián tiếp
19
Đây là hình thức bỏ vốn vào hoạt động kinh tế nhằm đưa lại hiệu quả
cho người có vốn cũng như cho xã hội, những người có vốn không tham gia
trực tiếp vào quản lý hoạt động đầu tư. Hoạt động đầu tư gián tiếp được thể
hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như mua cổ phiếu, tín phiếu.
Đầu tư gián tiếp là một loại hình khá phổ biến hiện nay, di chủ đầu tư
có tiềm lực kinh tế nhưng không có điều kiện và khả năng tham gia đầu tư
trực tiếp
+ Đầu tư trực tiếp
Đây là một hình thức đầu tư mà người có vốn tham gia trực tiếp vào
hoạt động và tham gia quản lý hoạt động đầu tư, họ biết dược mục đích của
đầu tư cũng như phương thức hoạt động của số vốn mà họ bỏ ra. Hoạt động
đầu tư trực tiếp cũng dược biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như hợp
đồng liên doanh, công ty cổ phần, mở rộng và tăng năng lực sản xuất.
+ Đầu tư trực tiếp chia thành 2 nhóm là đầu tư chuyển dịch và đầu tư

phát triển:
1. Đầu tư chuyển dịch có nghĩa là sự chuyển dịch vốn đầu tư từ tài sản
người này sang tài khoản người khác theo cơ chế thị trường của tài sản được
chuyển dịch. Hay chính là sự mua lại cổ phần trong doanh nghiệp nào đó.
việc chuyển dịch này không ảnh hưởng gì đến vốn của doanh nghiệp nhưng
có khả năng tạo ra một năng lực quản lý mới, năng lực sản xuất mới. tiến
hành cổ phần hoá các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay là một hình thức đầu
tư chuyển dịch.
2. Đầu tư phát triển là hình thức đầu tư quan trọng và chủ yếu. Người
có vốn đầu tư gắn liền với hoạt động kinh tế của đầu tư. Hoạt động đầu tư
trong trường hợp này nhằm nâng cao năng lực của các cơ sở sản xuất theo
hướng số lượng và chất lượng, tạo ra năng lực sản xuất mới. đây là hình thức
tái sản xuất mở rộng và cũng là hình thức đầu tư quan trọng tạo ra việc làm
mới, sản phẩm mới và thúc đẩy kinh tế phát triển.
20

×