Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.39 KB, 16 trang )

Sinh viên: Trịnh Văn Duy
Lớp: QTKD tổng hợp 46A
LỜI NÓI ĐẦU
Sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà
nước là một trong những yêu cầu bức thiết của Đảng và Nhà nước hiện nay.
Thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hàng chục năm
qua cho thấy mặc dù doanh nghiệp nhà nước được giao phó vai trò chủ đạo
song hoạt động của chúng có nhiều điểm bất cập. Chính vì vậy, từ trước đến
nay, vấn đề sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước để loại hình doanh
nghiệp này trở thành động lực chủ yếu của nền kinh tế luôn luôn được Đảng
và Nhà nước ta chú trọng sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước càng trở
nên cấp bách khi đất nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Một trong những giải
pháp đổi mới doanh nghiệp nhà nước được thực hiện có hiệu quả và mang lại
nhiều thay đổi triệt để trong cấu trúc tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp
nhà nước là cổ phần hoá. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một biện
pháp hữu hiệu được tiến hành phổ biến ở nhiều nền kinh tế trên thế giới. Ngay
cả những quốc gia có nên kinh tế phát triển phương thức quản lý doanh
nghiệp tiên tiến như: Anh, Pháp, Mỹ cũng áp dụng.
Ở nước ta.cổ phần hoá được bắt đầu triển khai cách đây 15 năm với
những bước đi thử nghiệm và sau đó là sự triển khai rộng khắp trên cả nước.
Cổ phần hoá là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, một giải pháp
quan trọng tạo chuyển biến cơ bản trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động sản
xuất - kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, do nhiều lý do khác
nhau, cổ phần hoá vẫn chưa mang lại những kết quả như mong muốn. Chính
vì vậy, việc nghiên cứu cổ phần hoá dianh nghiệp nhà nước, tìm được những
hạn chế của nó, đưa ra các giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nước là việc làm rất có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn.
1
THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
VIỆT NAM


I. TIẾN TRÌNH THỰC HIỆN CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ
NƯỚC TRONG NHỮNG NĂM QUA
Tiến trình cổ phần hoá 15 năm qua có thể chia làm 4 giai đoạn. Đó là
giai đoạn: thí điểm, giai đoạn mở rộng, giai đoạn chủ động và giai đoạn đẩy
mạnh.
1.1. Giai đoạn thí điểm (từ năm 1992 – 1996).
Cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước được bắt đầu từ tháng 11/ 1991
khi hội nghị TW2 khoá 7 của Đảng đưa vào chủ trương cổ phần hoá. Giai
đoạn này gắn với nghị định 28 của Chính phủ.
Giai đoạn thí điểm từ 1992-1996, nhà nước chỉ thí điểm thực hiện cổ
phần hoá những doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, mang tính chất tự
nguyện, việc bán cổ phần cũng chỉ giới hạn trong những đối tượng là nhà đầu
tư trong nước, trong đó ưu tiên bán cổ phần cho người lao động. Chính vì vậy,
mới chỉ có 5 doanh nghiệp hoàn thành cổ phần hoá trên tổng số khoảng 16
doanh nghiệp được thí điểm trong giai đoạn này.
1.2. Giai đoạn mở rộng (1996-2002).
Giai đoạn này gắn với nghị định 44 của Chính phủ.
Giai đoạn mở rộng từ năm 1996 đến năm 2002 với nhiều cơ chế chính
sách về cổ phần hoá được hoàn thiện và ban hành đã đẩy nhanh tiến trình này.
Đặc trưng của giai đoạn này là việc mở rộng nhiều hình thức cổ phần hoá mặc
dù các cơ quan quản lý nhà nước vẫn phải trực tiếp tham gia rất nhiều công
đoạn và tổ chức điều hành. Đó là việc mở rộng thêm diện bán cổ phẩn cho
người Việt Nam định cư tại nước ngoài và người nước ngoài định cư lâu dài
tại Việt Nam; mở rộng mức ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp; có
thể bán 100% vốn nhà nước tại doanh nghiệp… Kết quả là giai đoạn này với
một cơ chế cổ phần hoá ngày càng được hoàn thiện, sự hưởng ứng đối với
tiến trình sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp ngày càng tăng lên, chúng ta
2
đã tiến hành cổ phần hoá được 868 doanh nghiệp nhà nước, bộ phận doanh
nghiệp nhà nước.

1.3. Giai đoạn chủ động (bắt đầu từ tháng 6/2002 đến tháng 11/2004).
Giai đoạn này gắn với cơ sở pháp lý quan trọng là Nghị định số
64/2002/NĐ-CP của chính phủ về việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành
công ty cổ phần. Đây là giai đoạn Nhà nước chủ động giao cho các Bộ,
ngành, địa phương trách nhiệm lựa chọn và triển khai cổ phần hoá đối với các
doanh nghiệp thuộc phạm vi quản lý mà không trông chờ sự tự nguyện của
các doanh nghiệp cấp dưới như trước đây. Trong giai đoạn này, Nhà nước
cũng giao thêm quyền quyết định giá trị doanh nghiệp và phê duyệt phương
án cổ phần hoá cho Bộ trưởng các Bộ, chủ tịch UBND các tỉnh (trừ trường
hợp giảm trên 500 triệu đồng vốn nhà nước phải có ý kiến của Bộ tài chính).
bắt đầu áp dụng biện pháp nhằm công khai, minh bạch hoá quá trình cổ phần
hoá như cho phép thuê các tổ chức trung gian xác định giá trị doanh nghiệp;
dành tối thiểu 30% số cổ phần (sau khi trừ số lượng cổ phần nhà nước nắm
giữ, cổ phần bán ưu đãi cho người lao động) để bán cho các nhà đầu tư ngoài
doanh nghiệp…
Mặc dù, về số lượng, giai đoạn này chúng ta đã tiến hành cổ phần hoá
được 1435 doanh nghiệp nhà nước, bộ phận doanh nghiệp nhà nước nhưng
theo đaónh giá các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá thực sự quy mô
vẫn còn khá nhỏ bé chưa chiếm đến 5% tổng số vốn nhà nước trong các
doanh nghiệp, quá trình cổ phần hoá còn khép kín, chưa thực sự gắn với thị
trường nên vừa hạn chế công tác huy động vốn của doanh nghiệp vừa làm
giảm sự giám sát của xã hội đối với hoạt động của doanh nghiệp; việc giải
quyết lợi ích giữa các bên trong một doanh nghiệp được cổ phần hoá cũng
chưa được hài hoà…
1.4. Giai đoạn đẩy mạnh (từ tháng 12/2004 đến nay).
Giai đoạn này được đánh dấu bằng việc ban hành Nghị định số
187/2004/NĐ-CP của Chính phủ về việc chuyển công ty nhà nước thành công
ty cổ phần. Trong giai đoạn này đã xuất hiện các công ty nhà nước có quy mô
3
vốn lớn không thuộc diện nhà nước giữ 100% vốn được cổ phần hoá như:

Bảo Minh, Vinamilk, Vĩnh Sơn… và được niêm yết làm tăng đáng kể quy mô
của thị trường chứng khoán. Các giải pháp để nâng cao trách nhiệm của
doanh nghiệp cổ phần hoá và các cơ quan trong xử lý nợ, tài sản tồn đọng, lao
động dôi dư cũng được tiến hành song song với việc bổ sung các quy định để
nâng cao tính khách quan, minh bạch, tính chuyên nghiệp trong quá trình cổ
phần hoá như định giá qua các định chế trung gian, tính giá trị quyền sử dụng
đất vào giá trị doanh nghiệp, thực hiện bán cổ phần lần đầu thông qua đấu giá
công khai, theo nguyên tắc thị trường… Trong giai đoạn này, chúng ta đã tiến
hành cổ phần hoá được 1054 doanh nghiệp nhà nước, bộ phận doanh nghiệp
nhà nước.
II. NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC TỪ VIỆC CỔ PHẦN HOÁ
DOANH NGHIỆP NGHÀ NƯỚC
Sau 15 năm triển khai và tập trung thực hiện 5 năm vừa qua, công tác cổ
phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã đạt được kết quả trên nhiều mặt được thể
hiện như sau:
2.1.Những thành tựu mang tính chất định lượng.
Qua kết quả báo cáo của các địa phương, bộ, ngành, tổng công ty thì đến
30/6/2006 cả nước đã sắp xếp được 4760 doanh nghiệp và bộ phận doanh
nghiệp. Trong đó, cổ phần hoá 3365 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp;
giao bán, khoán kinh doanh và cho thuê 310 doanh nghiệp, sáp nhập hợp nhất
450 doanh nghiệp…Kết quả các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá qua từng
năm như sau:
4
Năm Số doanh nghiệp được cổ phần hoá
1990-1992 không có
1993 2 đơn vị
1994 1 đơn vị
1995 3 đơn vị
1996 5 đơn vị
1997 7 đơn vị

1998 100 đơn vị
1999 250 đơn vị
2000 212 đơn vị
2001 204 đơn vị
2002 164 đơn vị
2003 532 đơn vị
2004 753 đơn vị
2005 754 đơn vị
1/2006-6/2006 378 đơn vị
Tổng cộng 3365 đơn vị
Qua những con số trên đây ta thấy rõ tiến trình cổ phần hóa đã trải qua
những bước thăng trầm, nhưng nói chung là theo xu hướng mỗi ngày càng
được đẩy mạnh. Từ chỗ thực hiện chậm chạp trong những năm đầu tiên (mỗi
năm vài ba doanh nghiệp đến vài trăm doanh nghiệp) và cho đến 3 năm gần
đây tiến trình cổ phần hoá được đẩy mạnh hơn, do đó số doanh nghiệp và bộ
phận doanh nghiệp được cổ phần hoá tương đối nhiều.
Theo báo cáo của Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, hình
thức cổ phần hoá phổ biến nhất là bán một phần doanh nghiệp kết hợp phát
hành thêm cổ phiếu (chiếm 43.4%), tiếp đó là bán một phần vốn nhà nước
hiện có tại doanh nghiệp (26%), còn lại là bán toàn bộ vốn nhà nước tại doanh
nghiệp (15.5%) và giữ nguyên vốn nhà nước và phát hành thêm cổ phiếu
(15.1%). Trong số các doanh nghiệp đã cổ phần hoá, ngành công nghiệp giao
thông vận tải và xây dựng chiếm tỷ trọng 65.5%, thương mại dịch vụ chiếm
28.7% và ngành nông lâm ngư nghiệp chiếm 5.8%. Nếu phân chia theo địa
5
phương thì tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chiếm 65.7%, bộ ngành
trung ương chiếm 25.8%, tổng công ty 91 chiếm 8.5%.
Nhìn lại quá trình qua có thể nhận thấy chúng ta đã đạt được những kết
quả đáng ghi nhận:
-Số doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá chiếm khoảng 24% tổng số

doanh nghiệp khi chưa tiến hành sắp xếp lại và cổ phần hoá (khoảng 12000
doanh nghiệp vào thời điểm trước năm 1995)
- Có trên 10% vốn của nhà nước trong các doanh nghiệp nhà nước được
cổ phần hoá (khoảng 30000 tỷ đồng).
-Hầu hết các doanh nghiệp thuộc loại nhỏ, yếu, hiệu quả kinh doanh
thấp, sức cạnh tranh kém đã được đưa bớt ra khỏi hệ thống các doanh nghiệp
nhà nước. Như vậy có thêm điều kiện để củng cố các doanh nghiệp nhà nước
khác.
-Trong các doanh nghiệp đã cổ phần hoá, 30% số các doanh nghiệp
(trên 800 doanh nghiệp) được hoàn toàn độc lập tự chủ trong kinh doanh mà
không còn sự chi phối trực tiếp nào của nhà nước (nhà nước không nắm giữ
một cổ phần nào, toàn bộ thuộc về tập thể người lao động)
-Việc sắp xếp lại và cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước đã hoàn
thành trên 61 trong tổng số 64 tỉnh thành.
Đặc biệt, năm 2005 đã xuất hiện một điểm sáng mới cần được nhấn
mạnh là trong số doanh nghiệp cổ phần hoá đã có nhiều doanh nghiệp làm ăn
khấm khá, quy mô vốn lớn, hấp dẫn các nhà đầu tư. Có thể kể đến các công ty
như: Công ty khoan và dịch vụ dầu khí, các nhà máy thuỷ điện sông Hinh
(Vĩnh Sơn), Thác Bà, Phả Lại, Điện lực Khánh Hoà, Công ty giấy Tân Mai,
Công ty Kinh Đô, Công ty vận tải xăng dầu đường thuỷ I, Vinamilk. Giá trị
của Vinamilk lên tới 2500 tỷ đồng, trong đó vốn nhà nước là 1500 tỷ đồng.
Nhà máy thuỷ điện Sông Hinh có giá trị 2114 tỷ đồng, trong đó vốn nhà nước
là 1253 tỷ đồng. Một điểm khác biệt nữa, đó là việc xác định trị giá trị cổ
phần được thực hiện thông qua đấu giá công khai trên thị trường. ngay trong
ngày đầu tiên bán đáu giá Vinamilk, bán hết hơn 1.66 triệu cổ phiếu với giá
6

×